Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Tổ chức và hoạt động của ủy ban thường vụ quốc hội theo pháp luật hiện hànhthực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.11 KB, 9 trang )

MỤC LỤC


I.

ĐẶT VẤN ĐỀ

Ủy ban thường vụ Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân
dân, thể hiện ý chỉ và nguyện vọng của toàn thể nhân dân nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ủy ban thường vụ Quốc hội đóng một vai trò
vô cùng quan trọng trong công cuộc đổi mới và hội nhập trên con đường
hoàn thành Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa của đất nước. Nắm rõ vai trò
đó, việc đi sâu tìm hiểu về tổ chức và hoạt động của Ủy ban thường vụ
Quốc hội là cần thiết, để từ đó ta tìm ra những mặt tích cực cần phát huy,
những biện pháp khắc phục thỏa đáng cho những mặt còn hạn chế nhằm
ngày một hoàn thiện hơn cơ cấu tổ chức và hoạt động của Ủy ban thường
trực Quốc hội.

II.

GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

1. Vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Ủy ban thường vụ
Quốc hội.
1.1 Vị trí
Ủy ban thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội.
1.2 Chức năng
Ủy ban thường vụ Quốc hội có chức năng duy trì hoạt động của Quốc
hội một cách thường xuyên.
1.3 Nhiệm vụ và quyền hạn của Ủy ban thường vụ Quốc hội
Điều 91 Hiếnpháp 1992 quy định:


"Ủy ban Thuờng vụ Quốc hội có những nhiệm vụ và quyền hạn cơ
bản sau:
- Công bố và chủ trì việc bầu cử đại biểu Quốc hội;Tổ chức việc
chuẩn bị, triệu tập và chủ trì các kỳ họp Quốc hội;Giải thích Hiến pháp,
luật và pháp lệnh;Ra pháp lệnh về những vấn đề được Quốc hội
giao;Giám sát việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội,
pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; giám sát hoạt
động của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối
cao; đình chỉ việc thi hành các văn bản của Chính phủ, Toà án nhân dân
tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị
quyết của Quốc hội và trình Quốc hội quyết định việc huỷ bỏ các văn bản
đó huỷ bỏ các văn bản của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao trái với pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban
thường vụ Quốc hội.
- Giám sát và hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân; bãi bỏ các
nghị quyết sai trái của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương; giải tán Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung


ương trong trường hợp Hội đồng nhân dân đó làm thiệt hại nghiêm trọng
đến lợi ích của nhân dân;
- Chỉ đạo, điều hoà, phối hợp hoạt động của Hội đồng Dân tộc và các
Uỷ ban của Quốc hội; hướng dẫn và bảo đảm điều kiện hoạt động cho
các đại biểu Quốc hội;
- Trong thời gian Quốc hội không họp, quyết định việc tuyên bố tình
trạng chiến tranh khi nước nhà bị xâm lược và trình Quốc hội phê chuẩn
quyết định đó tại kỳ họp gần nhất của Quốc hội;Quyết định tổng động
viên hoặc động viên cục, bộ ban bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước
hoặc ở từng địa phương;
- Thực hiện quan hệ đối ngoại của Quốc hội;Tổ chức trưng cầu ý dân

theo quyết định của Quốc hội.Trong thời gian Quốc hội không họp, phê
chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm,
cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, các thành viên khác của Chính phủ
và báo cáo với Quốc hội tại kỳ họp gần nhất của Quốc hội."
Về thực chất, trong thời gian Quốc hội không họp, Ủy ban Thường vụ
Quốc hội chính là cơ cấu có sức mạnh và quyền điều hành cũng như
quyết định các vấn đề, chính sách của cả Quốc hội-một quyền hành rất
lớn, có thể gọi là một quyền năng thực thụ. Một số người cho là, so với
toàn thể Quốc hội thì sức mạnh của Thường vụ bị khuyết mất một điểm:
cơ cấu này không có quyền hạn ban hành Luật, mà một năm Quốc hội chỉ
họp hai lần.
Để thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của mình, Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội giao cho Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội và Văn
phòng Quốc hội chuẩn bị các vấn đề trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội
xem xét và quyết định.
2. Thực trạng tổ chức và hoạt động của Ủy ban thường trực Quốc
hội
2.1 Tổ chức
Ủy ban thường vụ Quốc hội có 17 thành viên, gồm:
Chủ tịch Quốc hội:
1. Nguyễn Phú Trọng.
Phó chủ tịch Quốc hội:
2. Tòng Thị Phóng.
3. Nguyễn Đức Kiên.
4. Uông Chu Lưu.
5. Huỳnh Ngọc Sơn.
Các Ủy viên Ủy ban thường vụ Quốc hội:
6. Lê Thị Thu Ba- Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp.



7. Lê Quang Bình- Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh
8. Trần Đình Đàn- Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội.
9. Hà Văn Hiền- Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế.
10. Phùng Quốc Hiển - Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách
11. Trương Thị Mai- Chủ nhiệm Ủy ban Các vấn đề xã hội
12.
Nguyễn Văn Son-Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại
13. Ksor Phước- Chủ tịch Hội đồng Dân tộc.
14. Đặng Vũ Minh - Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi
trường.
15. Đào Trọng Thi - Chủ nhiệm Ủy ban Văn hoá, Giáo dục, Thanh niên,
Thiếu niên và Nhi đồng.
16. Nguyễn Văn Thuận- Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật.
17. Phạm Minh Tuyên- Trưởng Ban Công tác Đại biểu
18. Trần Thế Vượng- Trưởng Ban Dân nguyện
Nhiệm kỳ của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội theo nhiệm kỳ của Quốc
hội. Khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội tiếp tục
làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khoá mới bầu ra Uỷ ban Thường vụ
mới.
Để đảm bảo thực hiện tốt quyền hạn và nhiệm vụ được giao của mình,
Ủy ban thường trực Quốc hội đã tiến hành phân công công việc đến từng
cá nhân, trực tiếp chuẩn bị những nội dung mà mình phụ trách tại các
phiên họp, kì họp. Trong đó, Chủ tịch Quốc hội chịu trách nhiệm chung
về mọi hoạt động của Ủy ban thường vụ Quốc hội; các Phó Chủ tịch
Quốc hội được phân công cụ thể các lĩnh vực; các Ủy viên Ủy ban
thường vụ Quốc hội ngoài việc thực hiện các hoạt động của cơ quan đã
dành thời gian thỏa đáng cho các hoạt động chung của Ủy ban thường vụ
Quốc hội và của từng cá nhân.
Nhờ tổ chức tương đối chặt chẽ cùng với sự phân công nhiệm vụ rõ ràng,
thực hiện nhiệm vụ một cách hợp lí, khoa học... Ủy ban thường vụ Quốc

hội đã đạt được những thành quả nhất định, hoàn thành khối lượng công
việc khá lớn, đáp ứng được nhu cầu đổi mới của Quốc hội, của xã hội...
Tuy nhiên, về tổ chức và phân công nhiệm vụ vẫn còn một số hạn chế, do
số lượng thành viên ít, phần lớn là kiêm nhiệm, một số đồng chí phải
dành nhiều thời gian cho công việc của Ủy ban thường vụ Quốc hội nên
hạn chế tham gia vào hoạt động chung của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Phạm vi chỉ đạo của Phó Chủ tịch Quốc hội khá rộng dẫn đến việc giám
sát, chỉ đạo một số công việc chưa được sát sao, kịp thời.
2.2 Hoạt động
2.2.1 Trong việc chỉ đạo và tổ chức, chuẩn bị, triệu tập các lỳ họp Quốc
hội


Trong nhiệm kì này, tính đến tháng 12/2012, Quốc hội đã tiến hành 4
kì họp với khối lượng công việc rất lớn và nhiều nội dung quan trọng. Kỳ
họp thứ 4, Quốc hội thứ XIII vừa diễn ra thành công tốt đẹp. Đó là nhờ
công tác chuẩn bị của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Trong việc dự kiến chương trình,triệu tập các kì họp Quốc hội: tiếp tục
kế thừa những kết quả đạt được từ nhiệm kì Quốc hội các khóa trước, đặc
biệt là nhiệm kì Quốc hội khóa XII, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã chỉ
đạo bộ máy tham mưu, giúp việc và các cơ quan hữu quan coi trọng, tập
trung nghiên cứu, cải tiến cách thức tổ chức và tiến hành để vừa đảm bảo
nâng cao chất lượng,vừa rút ngắn thời gian các kì họp Quốc hội;đã đề
nghị Quốc hội cải tiến một số khâu tại kì họp,như:cách thức trình bày báo
cáo,kết hợp thảo luận ở tổ và thảo luận ở Hội trường,thông qua luật nghị
quyết…Xác định rõ yêu cầu,tiến độ, Ủy ban thường vụ Quốc hội;tổ chức
triển khai thực hiện các nội dung thuộc chương trình xây dựng luật ,pháp
lệnh;phân định cụ thể,xác định rõ ơ chế phối hợp giữa các cơ quan trong
Quốc hội,yêu cầu rõ các tiêu chí về nội dung, trình tự các bước triển khai
và điều kiện trình Quốc hội.

Trong việc chỉ đạo chuẩn bị và cho ý kiến về các dự án luật, báo cáo
và các dự án khác trình Quốc hội: Trên cơ sở thẩm quyền được Quốc hội
giao,Ủy ban thường vụ Quốc hội đã xem xét, cho ý kiến chỉ đạo về việc
chuẩn bị và thảo luận những vấn đề quan trọng trong từng dự án luật,
từng báo cáo tại các kì họp trước khi trình Quốc hội. Trong kì họp thứ 3
Ủy ban thường vụ Quốc hội đã đánh giá những nội dung được lựa chọn
để trình Quốc hội, tại kì họp này là thiết thực, đáp ứng yêu cầu bức thiết
của thức tiễn. Với nhiều ý kiến phát biểu có chất lượng, nhiều ý tưởng
mới được phân tích thấu đáo, sát thực tế, các vị Đại biểu Quốc hội đã ghi
nhận những kết quả đạt được trong năm 2011 và những tháng đầu năm
2012.
Mặt khác trong mỗi kì họp này, hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn
được đánh giá cao, tiếp tục đề cập đến nhiều vấn đề thực tiễn bức xúc,
được cử tri cả nước và đại biểu Quốc hội quan tâm. Đối với việc tổ chức
thực hiện quyền chất vấn của Đại biểu Quốc hội, trước mỗi kì họp, Ủy
ban thường vụ Quốc hội đều xem xét kĩ báo cáo về việc tiếp nhận, tổng
hợp, phân loại chất vấn của Đại biểu Quốc hội. Trên cơ sở số lượng và
nội dung chất vấn của Đại biểu, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã phối hợp
chặt chẽ với Chính phủ trong việc dự kiến các vấn đề và danh sách những
người có trách nhiệm trả lời chất vấn tại kì họp để trình Quốc hội quyết
định, đồng thời yêu cầu người được chất vấn chuẩn bị kĩ các nội dung mà
Đại biểu đề cập trong các chất vấn để việc trả lời bảo đảm đúng trọng
tâm. Ủy ban thường vụ Quốc hội đã tiếp tục nghiên cứu, đề xuất với


Quốc hội những cải tiến cách thức tiến hành hoạt động chất vấn làm cho
hiệu quả và hiệu lực của hoạt động chất vấn tại kì họp đã có bước tiến rõ
rệt, được nhân dân đánh giá cao.
Nhìn chung, việc chủ trì, điều hành các phiên họp của Quốc hội bảo
đảm linh hoạt, hướng Đại biểu thảo luận có trọng tâm, tăng tính trao đổi,

tranh luận, đảo bảo sự đồng đều giữa các vùng miền, địa phương, ngành,
lĩnh vực khi phát biểu, các nội dung đều được Chủ tọa kết luận ngắn gọn,
rõ ràng, khách quan, có sức thuyết phục. Tuy nhiên, trong một số trường
hợp còn nể nang, chưa kịp thời nhắc nhở…
2.2.2 Xem xét, thông qua pháp lệnh, nghị quyết, công tác thông tin tuyên
truyền pháp luật
Trong kì họp gần đây nhất,Quốc hội khóa XIII,Quốc hội đã thông qua
9 dự án luật quan trọng và cho ý kiến về 6 dự án luật khác.Ủy ban thường
vụ Quốc hội đã hoàn thành chương trình đề ra. Tại phiên họp lần thứ 11
Ủy ban thường vụ Quốc hội đã thảo luận và cho ý kiến về một số vấn đề
quan trọng,còn có ý kiến khác nhau của các dự án Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật Luật sư; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Thuế thu nhập cá nhân; Luật Hộ tịch; sửa đổi Luật sửa đổi và công nghệ,
Luật Đất đai, Luật xuất bản…Ủy ban thường vụ Quốc hội cũng đã nghe
các báo cáo giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về đất ở, về giải
quyết khiếu nại, tố cáo của công dân với các quyết định hành chính về
đất đai; cho ý kiến về các báo cáo vủa chính phủ về việc thi hành Luật
Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và về công tác phòng chống tham
nhũng năm 2012 và một số công việc quan trọng khác.
II.2.3. Công tác giám sát.
Hoạt động giám sát đã có nhiều đổi mới về nội dung và hình thức,có
trọng tâm,đi sâu vào các chuyên đề.Trong công tác giám sát, có thể nói
Ủy ban thường vụ Quốc hội đã chủ động, chỉ đạo sát sao từ việc dự kiến
chương trình…cho đến việc điều hòa, phối hợp.Nội dung giám sát phù
hợp với tình hình thực tế, tập trung vào những vấn đề bức xúc của cuộc
sống. Kết quả đạt được của hoạt động giám sát đã góp phần tích cực vào
việc phát triển kinh tế-xã hội,tạo được sự quan tâm sâu rộng trong xã
hội,được dư luận, cử tri và nhân dân cả nước hoan nghênh, đánh giá cao;
hỗ trợ tích cực cho việc lập pháp, xem xét, quyết định các vấn đề quan
trọng; giúp chính phủ nâng cao trách nhiệm trong công tác chỉ đạo, điều

hành.
Hoạt động của Ủy ban thường vụ Quốc hội tuy có nhiều đổi mới
nhưng vẫn còn những hạn chế nhất định: Việc chỉ đạo, đôn đốc thực hiện
chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh chưa thật ráo riết, kiên quyết, dẫn
đến không hoàn thành kế hoạch đề ra. Chất lượng một số dự án Luật,


Pháp lệnh chưa cao, có những quy định của một số lệnh thực hiện trong
thời gian ngắn đã phải sửa đổi bổ sung. Hiệu lực phải hiệu quả ,hoạt động
giám sát còn hạn chế, chưa có cơ chế kiểm tra thực hiện các kiến nghị
sau giám sát. Việc thực hiện giám sát hoạt động của Chính phủ chưa
được tiến hành thường xuyên. Một số hoạt động thuộc thẩm quyền của
Ủy ban thường vụ Quốc hội còn chưa đủ chiều sâu, giải quyết chưa triệt
để. Công tác lãnh đạo bảo đảm nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ
quan chuyên môn chưa được quan tâm thỏa đáng.
3. Giải pháp
Để đảm bảo các điều kiện cho việc triển khai có hiệu quả các hoạt
động của Ủy ban thường vụ Quốc hội, cần có những giải pháp khắc phục
những hạn chế còn tồn tại như:
3.1Về sự lãnh đạo của Đảng
Cần tăng cường, đổi mới sự lãnh đạo và xác định rõ hơn quan hệ giữa
Đảng đoàn Quốc hội với Ủy ban thường vụ Quốc hội để tạo sự thống
nhất trong việc triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng.
Đảng đoàn Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội cần mang tính chủ
động trong việc quyết định và tụ chịu trách nhiệm trước Bộ Chính trị,
Ban Chấp hành Trung ương. Theo hướng đó, cần tiếp tục làm cụ thể hóa,
làm rõ hơn các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Đảng đoàn và Ủy
ban thường vụ Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội trên từng đơn vị công
tác; xác lập rõ chế độ làm việc của Đảng đoàn đối với Ủy ban thường vụ
Quốc hội theo hàng tháng, hàng quý, hàng năm và trong những trường

hợp đột xuất; quy định rõ trách nhiệm của từng thành viên Đảng đoàn
Quốc hội đối với từng hoạt động của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
3.2 Về cơ cấu tổ chức.
Để đáp ứng số lượng công việc ngày càng nhiều, và có điều kiện đi
vào chiều sâu, Quốc hội cần tăng số lượng cơ quan của Quốc hội trên cơ
sở tách một số cơ quan đang phụ trách nhiều lĩnh vực hoạt động; nâng
cấp các cơ quan thuộc Ủy ban thường vụ Quốc hội (Ban công tác Đại
biểu, Ban dân nguyện, Viện nghiên cứu lập pháp) thành các cơ quan của
Quốc và do Quốc hội thành lập. Đồng thời, tăng số lượng thành viễn của
Ủy ban thường vụ Quốc hội để phụ trách chuyên sâu các cơ quan mới
của Quốc hội và một số lĩnh vực cụ thể; tăng nhanh số thành viên thường
trực, thành viên chuyên trách các cơ quan Quốc hội. Đối với người đứng
đầu căn cứ vào tiêu chuẩn là chính, không cứng nhắc độ tuổi, quan trọng
là người có năng lực trí tuệ, kinh nghiệm, bản lĩnh, uy tín và sức khỏe.


3.3 Về thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban thường vụ Quốc hội
Cần sửa đổi, bổ sung quy chế hoạt động của Ủy ban thường vụ Quốc
hội theo hướng quy định cụ thể hơn nhiệm vụ, quyền hạn của từng thàng
viên Ủy ban thường vụ Quốc hội trong mọi lĩnh vực cụ thể; quy định rõ
quy trình, thủ tục thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn; phân định rõ nhiệm
vụ, quyền hạn của Ủy ban thường vụ Quốc hội với nhiệm vụ, quyền hạn
của Hội đồng dân tộc, các ủy ban của Quốc hội; tăng thẩm quyền cho các
cơ quan của Quốc hội để đề cao trách nhiệm đi sâu vào từng vấn đề cụ
thể thuộc chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan này.
3.4 Về thẩm quyền của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Xem xét tăng thẩm quyền của Ủy ban thường vụ Quốc hội theo hướng
được quyền bổ nhiệm, luân chuyển chức danh Ủy viên thường trực, Ủy
viên chuyên trách ở các cơ quan của Quốc hội để đảm bảo tính linh hoạt
trong điều chuyển, bố trí công tác của Đại biểu Quốc hội khi cần thiết.

3.5Về chế độ làm việc.
Cần tiếp tục cải tiến cách thức tiến hành, quy trình và thẩm quyền của
Ủy ban thường vụ Quốc hội tại các phiên họp thường kì xem xét, quyết
định những nội dung cụ thể, như: cho ý kiến về các dự án luật, báo cáo,
thông qua pháp lệnh, nghị quyết... Làm rõ thẩm quyền và trách nhiệm
của Ủy ban thường vụ Quốc hội trong việc điều hòa, phối hợp hoạt động
của Hội đồng dân tộc, các ủy ban của Quốc hội, đảm bảo việc nắm tình
hình hoạt động và kịp thời giải quyết các vấn đề đặt ra; làm rõ thẩm
quyền của Ủy ban thường vụ Quốc hội đối với Hội đồng nhân dân và
Đoàn Đại biểu Quốc hội.
3.6 Về công tác đối ngoại
Trong việc thực hiện quan hệ đối ngoại, Ủy ban thường vụ Quốc hội
cần quan tâm hơn đến việc chỉ đạo xây dựng dự kiến chương trình hoạt
động đối ngoại và hợp tác quốc tế hàng năm của Quốc hội, các cơ quan
của Quốc hội; mở rộng quan hệ đối ngoại với các nước châu Phi, Mĩ la
tinh...
3.7Về công tác thi đua, khen thưởng
Sớm nghiên cứu tính đặc thù để ban hành các văn bản liên quan đến
công tác thi đua, khen thưởng với các cơ quan của Ủy ban thường vụ
Quốc hội.
3.8Về mối quan hệ phối hợp công tác
Cần rà soát, bổ sung hoàn thiện quy chế phối hợp, xxay dựng mới một
số quy chế phối hợp (nếu cần) với các cơ quan hữu quan như Chính phủ,


Chủ tịch nước, Toàn án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối
cao, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các cơ quan hữu
quan khác; đôn đốc, giám sát lẫn nhau để đảm bảo việc thực hiện nghiêm
túc nội dung các quy chế.
3.9 Về quy trình thông qua luật

Cần nghiên cứu việc thông qua luật tại một, hai hoặc nhiều kì họp, phụ
thuộc vào chất lượng chuẩn bị các dự án luật.
3.10 Về bộ máy giúp việc
Quan tâm chỉ đạo công tác bồi dưỡng, đào tạo, tuyển dụng công chức,
coi trọng chất lượng và nâng cao tính chuyên nghiệp của công chức các
cơ quan tham mưu, phục vụ Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội...
III.

KẾT LUẬN

Trên đây là những khái quát sơ bộ về thực trạng tổ chức và hoạt động
của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Bên cạnh việc nhìn nhận những thành
tích đã đạt được của Ủy ban thường vụ Quốc hội, mong rằng những hạn
chế sẽ được trú trọng thông qua việc xem xét, thực hiện những giải pháp
được đề xuất trên, góp phần giúp Ủy ban thường vụ Quốc hội hoàn thiện
hơn cơ cấu tổ chức để đi vào hoạt động có hiệu quả hơn.



×