Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

cách mạng khoa học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.42 KB, 26 trang )

1

CHƯƠNG I

CƠ SỞ LÝ LUẬN
I)khoa học và công nghệ
1)khái niệm về khoa học:
khoa học(kh) là một hiện tượng của đời sống xã hội. nó vừa là những
hệ thống những tri thức vừa là sự sản suất tinh thần, sản suất ra những tri thức
cũng như hoạt động thực tiễn dựa vào tri thức đó với tính cách là một hình thái ý
thức xã hội, khoa học là hệ thống những tri thức chân thật về thế giới đã kiểm
nghiệm qua thực tiễn.(1.tr5
tri thức khoa học biểu hiện chủ yếu dưới hình thức các phạm trù, định luật, quy
luật.
đối tượng nhân thức của khoa học rộng lớn: nó bao gồm mọi lĩnh vực của tự
nhiên kỹ thuật, xã hội và tư duy.người ta phân loại khoa học thành:
-

khoa học tự nhiên-kỹ thuật; nghiên cứu các quy luật tự nhiên và các
phương thức chinh phục và cải tạo tự nhiên.

-

Khoa học xã hội: nghiên cứu những hiện tượng xã hội khác nhau. Các quy
luật vận dụng phát triển của chúng và cả bản thân con người
học là một hệ thống các tri thức của nhân loại vì vậy khi tri thức của con

người về thế giới tự nhiên, xã hội và bản thân có sự biến đổi sâu sắc và mới so
với tri thức trước đó trong phạm vi hẹp hoặc rộng được gọi là cách mạng khoa
học (1.tr6)
nếu các nhà bác học thời trung cổ mới đi vào nghiêncứu sự vận động của vật


chất, thì các nhà bác học hiện nay chuyển sang nghiên cứu thế giới vi mô của
vật chất, nhằm giải quyết vấn đề cấu trúc,cơ chế vận động,hệ tác động hai chiều
và nhiều chiều của vật chất.


2

cách mạng kỹ thuật là sự nhảy vọt về chất từ trạng thái kỹ thuật mới cao hơn
trong đó biểu hiện tập trung ở sự nhảy vọt về chất của công cụ sản suất
bởi vì sự khác nhau giữa thời đại kinh tế này so với thời đại kinh tế khác là
phương pháp chế tạo những tư liệu lao động dùng để chế tạo hơn là cái ma
người ta chế tạo va nói cách khác người ta phân biệt thời đại này với thời đại
khác không phải là ở chổ xã hội đó sản xuất ra cái gì mà ở chổ họ dùng công cụ
gì để sản suất ra cái đó.(1_tr6)
2)khái niệm về công nghệ:
công nghệ là phương tiện thiết bị do con người sáng tạo ra và các bí quyết để
biến các nguồn lực sẵn có thành sản phẩm
ngày nay người ta thường sử dụng thuật ngữ công nghệ theo nghĩa rộng gồm
bốn thành phần sau hơp thành (1_tr7)
-

trang thiết bị coi là xương sống, là cốt lõi của các hoạt đông chuyển hóa
của đối tượng lao động

-

kỹ năng và tay nghề, thành phần này có liên quan đến kinh nghiệm nghề
nghiệp của từng người hoặc nhóm người, nó được coi là chìa khóa của
sản suất


-

thông tin có liên quan đến các bí quyết các quy trình, phương pháp các dữ
liệu

tổ chức, thể hiện trong việc bố trí, sắp xếp, điều phối, quản lý tiếp thị…có
liên quan đến nhiệm vụ liên kết các thành phần nói trên và kích thích người
lao động làm việc để nâng cao hiêu quả hoạt động sản suất kinh doanh.
Các thành phần nói trên có mối liên hệ tương tác với nhau hợp thành nội
dung của công nghệ.


3

Công nghệ không phải là “lực lượng độc lập và tự trị” hay là khái niệm tự do,
mà nó tùy thuộc vào môi trường xã hội, kinh tế, chính trị của mỗi quốc gia trong
từng thời kỳ nhất định
VD: ở nước ta trong thời kỳ chưa đổi mới nền kinh tế tự cung tự cấp thì
sản suất chủ yếu bằng thủ công, ngày nay với chính sachq mở cửa nền kinh
tế thị trường định hướng XHCN thì việc áp dụng công nghệ máy móc hiện
đại rất phong phú
-

do vậy tính hiện thực của việc áp công nghệ phụ thuộc vào môi trường
công nghệ(1tr7)

3) nhiệm vụ và chức năng của khoa học và công nghệ:
- chức năng và nhiệm vụ của khoa học là tìm ra các quy luật của tự nhiên
kinh tế xã hội tư duy, không gắn với khả năng áp dụng thật tế.
- còn chức năng của công nghệ là áp dụng các nguyên lý,các quy luật khoa

học vào sản suất và đời sồng.
nếu tri thức khoa học có thể là tài sản chung được phổ biến rộng rãi thì công
nghệ là một thứ hàng hóa được dùng để mua bán( qua chuyển giao công
nghệ)
các hoạt động khoa học được đánh giá bằng thước đo trực cảm thì công nghệ
lại được đánh giá bằng thước đo qua phần đóng góp của nó đối với việc giải
quyết mục tiêu kinh tế, chính tri xã hội .
trong lịch sử mỗi bước phát triển của khoa học công nghệ đều tạo ra những bước
phát triển mới của lực lượng sản xuất, với tư cách là lực lượng sản suất , nó biểu
hiện mối liên hệ giữa người với giới tự nhiên,trình độ của lực lượng sản xuất thể
hiện ở trình độ khống chế tự nhiên của con người. đó là kết quả của năng lực


4

thực tiễn của con người tác động vào tự nhiên tạo ra của cải vật chất bảo đảm
cho sự tồn tại và phát triển của loài người .
như chúng ta đã nói tri thức khoa học là tài sản chung được sử dụng phổ biến
thì thì công nghệ là một loại hàng hóa dùng để mua bán vì vậy sản phẩm
khoa học công nghệ ra đời thì nó lập tức mang tính chất là một loại hàng
hóa, là sản phẩm hàng hóa thì ta cần có 1 thị trường để các sản phẫm ra đời
được lưu thông mạnh mẽ và đưa chúng đến với người tiêu dùng, thị trường
đó chúng ta gọi là thị trưòng khoa học và công nghệ.
II) thị trường khoa học và công nghệ:(TTKH&CN)
1)khái niệm:
Do có nhiều cách tiếp cận thì trường khoa học công nghệ từ nhiều góc
độ khác nhau nên có nhiều ý kiến khác nhau về thị trường khoa học và công
nghệ. để có một khái niệm khái quát về TTKH&CN cần đi từ nhận thức sau:
hầu hết các sản phẩm khoa học và công nghệ đem ra trao đổi trên thị trường
dù biểu hiện cuối cùng dưới dạng 1 công nghệ hoàn chỉnh cũng đều phải trải

qua 1 chuỗi hoạt động liên tiếp và gắn kết sau đây.
FR

AR

D
STS

TT

FR: nghiên cứu cơ bản
AR: nghiên cứu ứng dụng tạo ra nguyên lý chung
D: triển khai tạo ra mẫu
TT: chuyển giao tri thức bao gồm cả chuyển giao công nghệ
T: phát triển công nghệ

T


5

STS: dịch vụ khoa học và công nghệ, cung ứng các dịch vụ khoa học và công
nghệ
-

ngày nay khoa học đang ngày càng mang dáng dấp của 1 nghành kinh tế,
đã hình thành nền kinh tế tri thức mang tính toàn cầu. khoa học đã trở
thành lực lượng sản xuất trực tioếp thì không có lý do gì một nguồn lực
quan trọng như khoa học trong nền kinh tế thị trường lại không phải là
hàng hóa


-

với những nhận thức chung về mặt lý luận và vận dụng vào thực tiễn Việt
Nam,có thể đua ra khái niệm sau:

“ thị trường khoa học công nghệ là một thuật ngữ dùng để chỉ 1 loại thị
trường mà trong đó có diễn ra sự mua bán, trao đổi hàng hóa là sản phẩm
khoa học và công nghệ”(2Tr8,9)
2) cấu thành thị trường khoa học công nghệ :
thị trường khoa học và công nghệ đươc hợp thành bởi các nhân tố sau:
-

hàng hóa và giá cả của hàng hóa khoa học và công nghệ

-

các chủ thể tham gia thị trường bao gồm người mua và người bán hàng
hóa

-

thể chế hổ trợ thị trường khoa học và công nghệ

a) hàng hóa và căn cứ xác định giá cả hàng hóa khoa học và công nghệ:
i)

khái niệm hàng hóa khoa học và công nghệ:hàng hóa KHCN bao gồm
sản phẩm khoa học công nghệ và dịch vụ khoa học công nghệ.


sản phẩm khoa học và công nghệ là kết quả hoạt động của bộ óc của con
người thu được qua quá trình nghiên cứu, sáng tao khoa học và công nghệ có
một giá trị sử dụng nhất định. sản phẩm khoa học công nghệ được thể hiện
dưới dạng các đối tượng sở hửu trí tuệ như: quyền tác giả, sáng chế , kiểu


6

dáng công nghiệp, giải pháp hữu ích, nhãn hiệu hàng hóa, tên gọi xuất xứ, bí
mật kinh doanh, giống cây trồng mới...vv
các sản phẩm khoa học và công nghệ khác như tài liệu thiết kế sơ bộ và thiết
kế kỹ thuật, thông số kỹ thuật, bản vẽ..
ngoài ra, trong điều kiện của Việt Nam, theo luật khoa học và công nghệ,
máy móc thiết bị cũng thuôc phạm trù công nghệ nên nó cũng là hàng hóa
của thị trường khoa học và công nghệ.
dịch vụ khoa học công nghệ là hoạt động liên quan đến quá trình tạo ra và
lưu thông sản phẩm khoa học công nghệ trên thị trường.
theo luật khoa học và công nghệ Việt Nam năm 2000,dịch vụ khoa học và
công nghệ là hoạt động phục vụ nghiên cứu khoa học và phát triển công
nghệ, các loại hoạt đông liên quan đến sở hữư trí tệu, chuyển giao công
nghệ, các dịch vụ về thông tin, tư vấn đào tạo phổ biến, ứng dụng trị thức
khoa học công nghệ và kinh doanh thữc tiển. như vậy dịch vụ khoa học và
công nghệ bao gồm các loại dịch vụ cơ bản sau đây:
thứ nhất: các dịch vụ kiểm tra chất lượng sản phẩm và giám định kỷ thuật.
để đưa sản phẩm khoa học và công nghệ ra thị trường các kết quả nghiên
cứu phải đi qua rất nhiều khâu từ phòng thực nghiệm đến sản xuất thử đơn
chiếc, sau đó mới sản xuất và đem ra bán. Trong từng giai đoạn đó đều cần
kiểm tra các thông số, tính năng kỹ thuật và giá trị sử dụng của sản phậm,
mặt khác để cấp bằng sở hữu trí tệu cần phải kiểm định.do vậy, trước khi trở
thành hàng hóa các sản phẩm khoa học và công nghệ cần được kiểm tra chất

lượng giám định kỹ thuật. hoạt động này cũng rất thiết thực đối với chuyển
giao công nghệ từ nước ngoài vào trong nước khi nhập khẩu muốn kiểm tra
trình độ công nghệ của đối tác.


7

thứ hai: dịch vụ môi giới và cung cấp thông tin về thị trường khoa học và
công nghệ cho cả người mua và người bán, khắc phục tính bất cân xứng về
mặt thông tin của loại thị trường này.
thứ ba: dịch vụ kỹ thuật và tư vấn kỹ thuật là hình thức vận dụng kiến thức
kỹ thuật và kỹ năng khoa học kỹ thuật, áp dụng hình thức đối thoại hoặc văn
bản giấy tờ để trả lời các vấn đề có liên quan đến kỹ thuật mà người sử dụng
nêu ra , cung cấp các phương án và giải quyết các vấn đề cho người sử dụng,
giúp người sử dụng lặp đặt, điều chỉnh và chỉ đạo kỹ thuật.
thứ tư: dịch vụ về sở hữu trí tệu và tư vấn pháp luật về mua bán sản phẩm
trên thị trường
iii)đặc điểm của hàng hóa khoa học và công nghệ:
trên thị trường khoa học và công nghệ, nhiều loại sản phẩm-dịch vụ KHCN
là loại hàng hóa đặc biệt, khác với nhiều loại hàng hoa thông thường khác
bởi những đặc trưng sau:
-

nhiều hàng hóa khoa học và công nghệ là sản phẩm vô hình, chúng chỉ
được vật chất hó khi con người sử dụng.

-

nhiều hàng hóa khoa học và công nghệ mang tính chất chủa 1 loaị hàng
hoa công cộng. đó là tính phi cạnh tranh và tinh1 phi loại trừ trong tiêu

dùng .một sản phẩm khoa học và công nghệ khi đã được sáng tạo ra có thể
cùng một kúc có nhiều người sử dụng mà không làm tăng thêm chi phí.
thậm trí có những sản phậm thuộc công nghệ thông tin như internet càng
có nhiều người sử dụng thì giá trị sử dụng càng tăng lên. Vì vậy xét trên
quan điểm hiệu quả, giá bán của các sản phẩm phải ở mức thấp ngoại trừ
các thiết bị máy móc kèm theo.mặt khác sản phẩm khoa học công nghệ có
thể bị bắt chước vì khi nó đã bọc lộ ra ngoài xã hội thì người tạo ra sản


8

phẩm khoa học công nghệ rất khó ngăn cản người khác tiêu dùng. Khi đó
chủ sáng tạo ra nó bị “đánh cấp” những chi phí vật chất và chất sám rất
lớn đã bỏ ra. những đặc điểm trên làm kìm hãm động lực sáng tạo và
không bảo đảm công bằng xã hội.
-

xét về mặt giá trị, rất có thể xác định mức giá cụ thể nào đó phù hợp với
sản phẩm khoa học và công nghệ vì:

+ một là: chi phí để tạo ra sản phẩm đầu tiên là chi phí cá biệt rất lớn và để
tạo ra sản phẩm loại này đoài hỏi loại lao đông sáng tạo, lao động trí óc là
loại lao động có đặc thù riêng với công cụ lao động là bộ não con ngườiu mà
giá trị đích thực của nó đến nay vẫn là điều bí ẩn.
+ hai là, để sản xuất ra các sản phẩm khoa học và công nghệ, chủ thể sáng tạo
phải dựa trên một nền tảng vật chất xã hội đã được xây dựng trước đó cùng
với việc kế thừa hệ thống tri thức mà nhân loại tích lũy
để giả quyết các vấn đề phát sinh trên và nhằm khuyến khích hoạt động sáng
tạo các sản phẩm khoa học và công nghệ trên thị trường trong phạm vi quốc
gia và trên thế giới đã thiết lập quyền sở hữu trí tuệ cho sản phẩm khoa học

và công nghệ trong khoảng thời gian nhất định (chẳng hạn đối với các giải
pháp hữu ích thường được bảo hộ trong mười năm,sáng chế 20 năm….).
trong thời gian được bảo hộ, người sáng tạo ra nó có thể thu được phần chi
phí đã bỏ ra và lợi nhuận xứng đáng nhờ khai thác quyền chủ sở hữu của
mình do có địa vị độc quyền sản phẫm trên thị trường.
-

giá cả của sản phẩm khoa học công nghệ phụ thuộc rất lớn vào gai đoạn
cụ thể trong vòng đời sản phẩm, điều kiện khai thác thương mại và giá
của nó hết sức khác nhau.(2_tr14)


9

-

khác với các loại hàng hóa thông thường khác, các sản phẩm-dịch vụ khoa
học cộng nghệ có thể mang lại lợi nhuận rất lớn cho người mua. Vì khi
khai thác các doanh nghiệp có thể tạo ra cac` sản phẩm có chất lượng cao
hơn và giá thành thấp.

-

khai thác các sản phẩm khoa học và công nghệ, nhất là các sản phẩm công
nghệ mới thâm nhập thị trường có độ rủi ro rất cao.(2_tr14)

-

Hàng hóa KHCN mang đặc trưng của loại hàng hóa bất cân xứng về mặt
thông tin, điều này rất bất lợi cho người tiêu dùng.(2_tr14)


-

Hàng hóa khcn mang tính chất độc quyền cao khi nó được bảo hộ quyền
sở hựu trí tuệ

iiii) cơ sở định giá của hàng hóa khoa học và công nghệ:
cũng như các loại hàng hóa khác trên thị trường, việc xác định giá cả
của hàng hóa kh&cndựa vào quan hệ cung- cầu về loại hàng hóa đó. Tuy
nhiên với những đặc điểm riêng biệt của hàng hóa kh&cn như đã phân tích ở
trên, khi xác định giá cả của loại hàng hóa này cần phải tính các nhân tố tác
động đến cung- cầu về hàng hóa khoa học và công nghệ.
-chi phí tọa ra sản phẩm là chi phí cá biệt của người sáng tạo ra sản phẩm
khoa học và công nghệ.
- giá cả của sản phẩm kh&cn cao nhất ở giai đoạn quyền sở hữu trí tệu còn
được bảo hộ.
cung hàng hóa khoa học và công nghệ sẽ tăng lên khi các sản phẩm kh&cn
được bảo hộ bằng quyền sở hữu trí tệu. bởi vì khi đó người chủ sở hữu không
sợ bị ăn cắp công nghệ khi nó được sử dụng rộng rãi.
-

cầu về hàng hóa khoa học và công nghệ phụ thuộc vào năng lực khai thác
của người mua và chính yếu tố đó quyết định phương thức thanh toán và


10

phương pháp tính giá trong hợp đồng mua bán hàng hóa khoa học và công
nghệ.
b) các chủ thể tham gia thị trường khao học và công nghệ:

trên thị trường khoa học và công nghệ có các chủ thể chính tham gia là người
cung,người cầu sản phẩm khoa học và người làm dịch vụ khoa học và công
nghệ. Tuy nhiên, với đặc điểm đặc thù của hàng hóa khoa học và công nghệ
bao gồm sản phẩm khcn và dịch vụ khcn chúng ta có thể chia các chủ thể thị
trường khcn thành 3 loại: người cung sản phẩm khoa học công nghệ, người
cung cấp dịch vụ khcn và người cầu về hai loại hàng hoa đó.(2tr18,19)
+ người cung sản phẩm khoa học và công nghệ gồm: các tổ chúc cá nhân
hoạt động trong lĩnh vực khcn, theo luật khcn việt nam năm 2000,tổ chức
khoa học và công nghệ bao gồm: tổ chức nghiên cứu khoa học, tổ chức
nghiên cứu và phát triển khoa học và công nghệ, trường đại học, học viện,
trường cao đẳng, tổ chức dịch vụ khoa học và công nghệ.
+người có nhu cầu về sản phẩm khcn gồm: doanh nghiệp, chính phủ, hộ
nông dân, các tổ chức xã hội và cá nhân.
+người cung cắp dịch vụ khoa học và công nghệ: có thể là các chuyên gia kỹ
thuật chuyên nghành, các luật sư, các nhà môi giới hoạt động chuyên nghiệp
và bán chuyên nghiệp. các dịch vụ kỹ thụât thường do các nhà cung cắp hàng
hóa khoa học và công nghệ cung cấp. các dịch vụ tư vấn pháp luật do các tổ
chức luật sư chuyên nghiệp cung cấp.
c) thể chế hổ trợ thị trường khoa học và công nghệ.
thể chế hổ trợ thị trường khoa học và công nghệ là tập hợp các quy tắc, các
cơ chế thi hành và các tổ chức giao dịch của thị trường khoa học và công


11

nghệ.(2_tr21) như vậy các bộ phân của thể chế hổ trợ thị trường khoa học và
công nghệ bao gồm:
-

tập hợp các quy tắc hỗ trợ thị trường khoa học và công nghệ: luật pháp về

bảo hộ quyên sở hữu trí tệu, luật pháp về cạnh tranh, luật pháp về chuyển
giao công nghệ.

-

Các cơ chế thi hành trên thị trường khoa hoc và công nghệ: đó là việc thi
hành các quy tắc diễn ra trong nội bộ, do bên mua và bên bán thực hiên,
ngoài ra cơ chế thi hành cũng có thể thực hiên từ bên ngoài do 1 bên thứ 3
như. hệ thống pháp luật, trọng tài của các tổ chức có thẩm quyền được
quy định

-

tổ chức giao dịch thị trường; đó là những người cung cấp dịch vụ môi giới
trên thị trường khoa học và công nghệ.(2_tr21-28)

III) vai trò của thị trường khoa khọc công nghệ đối với kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa:
Như chúng ta đã biết khoa học công nghệ đống một vai trò rất quan trọng trong
nên kinh tế thị trường , khoa học- công nghệ ngày càng phát triển,cơ cấu lực
luơng lao động sẽ thay đổi theo xu hướng có tính quy luật là tỷ trọng của lao
động trí tệu-lao động phức tạp, ngày càng tăng, chiếm ưu thế và trở thành đặc
trưng so với tỷ trọng lao động giản đơn trong tổng lao động xã hội. các yếu tố
của lực lượng sản xuất( tư liệu sản xuất và người lao động) có sự tác động biện
chứng với nhau, phản ánh tính chất và trình độ khống chế tự nhiêu của con
người . trình độ độ khống chế tự nhiên càng cao phản ánh trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất ngày càng phát triển. song loài người không thể nâng cao
trình độ tự nhiên, không thể nâng cao tính chất và trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất( nhất là các quốc gia có nền kinh tế với xuất phát thấp về lực



12

lượng sản xuất) nếu thiếu sự phát triển của khoa học và công nghệ. tất nhiên, tất
nhiên khoa học công nghệ do con người sáng tạo ra và con người vận dụng để
phát triển lực lượng sản xuất. góp phần đưa nền kinh tế phát triển cao hơn với
trình độ của lực lượng sản xuất hiên đại. trong lịch sử mỗi bước phát triển của
khoa học công nghệ là mỗi bước phát triển của lực lượng sản xuất xã hội. sự
phát triển của kỹ thuật và công nghệ mới, về nguyên tắc sẽ tạo ra bước nhảy vọt
về lực lượng sản xuất và nâng loài người lên trình độ văn minh mới. với tầm
quan trọng của khoa học công nghệ thì thị trướng khoa học và công nghệ đóng
vai trò như một mạch máu nối kết và đưa khoa học công nghệ vào ựng dụng và
phát triễn nền kinh tế.vai trò của khoa học công nghệ ở việt nam:
ở việt nam đảng và nhà nước rất coi trọng vai trò của khoa học và công nghệ,
một số chính sách về khoa học công nghệ đươc ban bố như:
+ nghị quyết của bộ chính trị ban hành 1981 về chính sách khoa học kỹ thuật
đã coi “ khoa học côngnghệ là then chốt”.
+ đại hội lần thứ 6 của đảng (1986) khẳng định “ khoa học kỹ thuật thật sự
trở thành động lực to lớn để đẩy mạnh quá trình phát triển kinh tế xã hội “
+ đại hội lần thứ 7 của đảng năm 1991 coi “ khoa học công nghệ là một
động lực của quá trình đổi mới”
+ đại hội lần thứ 8 của đảng 1996 khẳng định “khoa học công nghệ phải trở
thành nền tảng cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”
+ đại hội lần thứ 9 của đảng năm 2001 nhấn mạnh thêm “phát triển khoa học
công nghệ cùng với phát triển giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu là nền
tảng và động lực đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiên đại hóa”


13


nhận thức và quan điểm của đảng về cơ chế quản lý và hoạt đông khoa học công
nghệ đã có sự thay đổi theo từng giai đoan, tương ứng với những đổi mới về
quan điểm và tư duy của đảng dối với quản lý kinh tế.
VD: trong những năm 1980 hoạt động khoa học công nghệ được xem là hành vi
do nhà nước đảm nhiệm, nhà nước đầu tư đến năm 1990 thì được coi là nhiệm
vu chung của toàn xã hội bao gồm các thành phần kinh tế ngoài nhà nứơc, đặc
biệt khi nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa thì đảng dặt ra nhiệm vụ phải phát triển và hoàn thành khoa học công nghệ
phù hợp với nền kinh tế nước ta.(5_tr46,47)

Chương II
thực tiễn của thị trường khoa học
công nghệ ở Việt Nam
I)thực trạng thị về sự phát triển của thị trường khoa học công nghệ.
hội nghị trung ương 6 khóa IX năm 2002 đã đánh giá tổng quát thực trạng thị
trường khoa học và công nghệ nước ta như sau: “thị trường khoa học và công
nghệ mới hình thành rất sơ khai và còn thiếu nhiều điều kiện để phát triển: sản
phẩm khoa học và công nghệ còn nghèo nàn. sự phát triển của khoa học và công
nghệ vẫn chủ yếu dựa vào sự hổ trợ từ phía nhà nước. vai trò của doanh nghiệp
đối với phát triển khoa học và công nghệ còn mờ nhạt. quản lý khoa học và công
nghệ chậm được đổi mới, lúng túng trong chuyển sang cơ chế thị trường…”phân
tích các yếu tố cấu thành thị trường chúng ta có thể thấy rằng hiện nay chưa có
thị trường khoa học và công nghệ đúng nghĩa.(4_tr239)
1)thực trang của các yếu tố tạo nên thị trường khoa học công nghệ ở nức ta:


14

a) hàng hoa khoa học và công nghệ: hàng hóa khao học công nghệ là lixăng
(lieences), patăng(patent), bí quyết(know- how) về khoa học và công nghệ. đặc

thù của hàng hóa này trên thị trường là chúng xuất hiện trên thị trường với hình
thức là các văn bằng và bí quyết khoa học và công nghệ được chuyển giao có trả
tiền cho việc khai thác, sử dụng các tri thức “ẩn minh đằng sau các văn bằng
ấy(phát minh, sáng chế…). Các văn bằng là hình thức công nhân, chứng nhận về
quyền sở hữu trí tệu, hay trực tiếp hơn là sở hữu công nghiệp. ở Việt Nam hiên
nay, các văn bằng sở hữu công nghiệp tham gia vào việc chuyển giao, mua-bán
tri thức khoa học và công nghệ chủ yếu là từ nước ngoài.
Trong điều kiên hiên nay và trong 1 số năm trước mắt, thực tế hàng hóa
tham gia mua bán, trao đổi trên thị trường này còn phải được tính đến cả những
kết quả khoa học và công nghệ có mục đích thương mại nhưng vì lý do khác
nhau mà tác giả không đăng ký quyền bảo hộ trí tệu. những lý do đó có thể là;
-

dễ bị đánh cắp bắt chước, sao chụp, vv.. thực tế này đang diễn ra và hiện
nay đang có chiều hướng phát triển gây tâm lý e ngại, lo lắng của người
có kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ.

-

Khó xác định người dược hưởng quyền tác gỉa. đây là một thực tế ở Việt
Nam xuất phát từ những bất cập. những “lỗ hổng” trong các hợp đồng về
hoạt động khoa học và công nghệ gây nen những khiếu kiên khiếu nại
trong quá trình xác định và công nhận quyền tác giả.

-

Lý do khác( như thiếu thông tin, thủ tục rắc rối, không nhân thấy lợi ích
thiết thực của việc đăng ký..vv). vì vậy sản phẩm khoa học công nghệ ở
nước ta còn rất nhỏ bé về số lượng, nghèo nàn về chủng loại, chất lượng
thấp và trùng lập nhiều. tốc độ đổi mới sản phẩm thấp, ít phát minh sáng

chế, những sản phẩm tiên tiến chất lượng thế giới hầu như không có.


15

Trong thời kỳ 1996-2002, tỷ lệ đơn đăng ký sáng chế và giải pháp hữu ích
chỉ giao động trong khoảng 2.5 – 7.2% trong tổng số đăng ký: cả nước chỉ
có 32 văn bằng độc quyền sáng chế và 32 văn bằng độc quyền về giải
pháp hữu ích được cấp bằng.(4_tr210,211)
Nguyên nhân cơ bản của tình trạng này là do tư duy quản lý khoa học
và công nghệ vẫn còn mang nặng tính tập trung quan liêu, bap cấp. trong thời
gian dài chúng ta vẫn coi hoạt động khoa học công nghệ là trách nhiệm của nhà
nước, chưa sản phẩm khoa học là hàng hóa, các sản phẩm khoa học công nghệ
hoặc là chỉ được chuyển dao cho các doanh nghiệp nhà nước ( số lượng ít) hoặc
không được các doanh nghiệp tiếp nhận do không đáp ứng được yêu cầu của
doanh nghiệp. mặt dù đầu tư của nhà nước cho nghiên cứu khoa học công nghệ
tăng đáng kể nhưng hiệu quả lại không cao 1 phần la do các công trình nghiên
cứu không xuất phát từ nhu cầu thị trường mà do yếu tố chủ quan của nhà nứơc.
một số các tổ chức, cá nhân lợi dụng kết quả nghiên cứu giữ đọc quyền cho lợi
ích riêng.
b)cung và người cung cấp hàng hóa khoa học và công nghệ:
đó là các tổ chức, cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ. Theo luật
khoa học và công nghệ của Việt Nam (2000) thì đó là các hoạt động nghiên cứu
khoa học, nghiên cứu và phát triền công nghệ, dịch vụ khoa học và công nghệ,
hoạt động phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất và các hoạt
động khác nhằm phát triển khoa học và công nghệ(điều 2).
c) cầu và người mua hàng hóa khoa học và công nghệ.
Trong bối cảnh cạnh tranh theo cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế thì
số lượng các doanh nghiệp và cá nhân có nhu cầu về các hàng hóa và dịch vụ
khoa và công nghệ ngày càng tăng lên và cầu về chất lượng khoa học công nghệ



16

với dịch vụ khcn ngày càng cao. Các tổ chức và cá nhân hoạt động khcn nói trên
cũng có nhu cầu tham gia thị trường với tư cách là người mua hàng hóa, dịch vụ
khoa học và công nghệ của những tổ chức, cá nhân hoạt đông khoa học và công
nghệ khác để phục vụ cho hoạt động khcn cua minh.
d) giá cả hàng hóa khoa học và công nghệ: trong bối cảnh hoạt động khoa học
và công nghệ ở Việt Nam hiện nay, việc xác định giá cả hàng hóa và dịch vụ
khọc công nghệ đang còn nhiều bất cập vì nhiều lý do:
một là: việc hành chính hóa tổ chức hoạt động khoa học và công nghệ làm meo
mó các quan hệ thị trường đối với các sản phẩm khoa học và công nghệ
hai là: quyền sở hữu sản phẩm khoa học và công nghệ không rõ ràng , tạo nên
những rào cản cho việc mua bán sản phẩm.
ba là: tính độc quyền trong cung cấp các sản phẩm khoa học và công nghệ làm
méo mó các quan hệ giá cả đối với các sản phẩm này.
bốn là: thiếu thông tin về khoa học và công nghệ nhiều khi làm mất định hướng
cho không chỉ bản thân hoạt động khoa học và công nghệ mà còn cho cả việc so
sánh kết quả khoa học côngnghệ với loại hàng hóa khoa học và công nghệ tương
tự khác.
e) cơ chế quản lý thị trường khoa học và công nghệ:
các quy định pháp lý tạo thành một yếu tố quan trọng cho sự hình thành và phát
triển thị trường khoa học và công nghệ. Cá quy định này điều chỉnh hành vi của
các bên tham gia vào các hoạt động mua- bán trên thị trường. trong nhiều năm
qua, trongnhiều năm qua các quy định pháp lý này ở Việt Nam đã và đang được
tiếp tục đổi mới và hoản thiên nhằm tạo một sân chơi thuân lợi cho các hoạt
động khoa học và công nghệ theo cơ chế thị trương.



17

chẳng hạn, việc nhập thiết bị đã qua sử dụng, hiện có hai văn bản quy định yêu
cầu chung về kỹ thuật do bộ khoa học- công nghệ và môi trường ban
hành( quyết định số 2019/1997/QD-BKHCNMT và quyết định số
491/1998/QĐ-BKHCNMT). Theo đó về cơ bản, các thiết bị đã qua sử dụng như
các máy móc dể sản xuất tư liệu sản xuất, hàng hóa, các phương tiện vận tải bóc
xếp,xe, máy phục vụ thi công xây dựng các công trình và các thiết bị chuyên
dùng .muốn nhập khẩu phải đảm bảo chất lượng còn lại hơn 80% cho với mới,
phải đảm bảo các chỉ tiêu về an toàn, vệ sinh lao động ….
Quy định cấm nhập thiết bị đã qua sử dụng mang tính hình thức.các doanh
nghiệp thì bằng mọi cách nhập được thiết bị họ cần. vì vậy hiên tượng thị trường
ngầm trong mua bán công nghệ tồn tại khá phổ biến ở nước ta. Có thể thấy các
quy định về vấn đề này mang nặng tính hình thức, thậm chí gây trở ngại cho
hoạt đông của doanh nghiệp, tạo cơ chế “ xin cho”.
Cơ chế về thuế. thuế là một loại thiết chế đặc biệt, là công cụ hữu hiệu để thúc
đẩy phát triển khoa học và công nghệ,song hiên nay các quy phạm về thuế đối
với hoạt động khoa học và công nghệ chưa thực sự đáp ứng yêu cầu nghiên cứu
và chuyển giao khoa học và công nghệ.
Vd: thuế suất cao đối với sản phẩm sản xuất trong nước sẽ làm cho nền công
nghiệp trong nước được bảo hộ, nghĩa là khuyết khích duy trì một nền công
nghệ lạc hậu vì không có sức ép cạnh tranh. Đây lại chính là yếu tố kiềm hãm sự
đổi mới khoa học và công nghệ, thuế suất đối với dịch vụ, quy định thuế` suất
chung cho các loại dịch vụ từ 2-5% doanh số, trong đó loại dịch vụ đơn giản là
2% và phức tạp là 5% . kết quả là dịch vụ đơn giản lại được khuyến khích còn
dịch phức tạp như dịch khoa học và công nghệ thì không được khuyến khích


18


hoặc thấp hơn dịch vụ đơn giãn. Chưa hình thành quan điểm về thuế thu nhập
trong mối quan hệ với sự kiềm hãm hay thúc đẩy lao động sáng tao.
f)hệ thống tổ chức thị trường khoa học và công nghệ:
ở nước ta hiên nay hệ thống tổ chức thị trường khoa học và công nghệ
hoạt động theo đúngnghĩa của nó là có quản lý có trật tự giựa trê cơ sở luật
pháp. Trên thực tế hiện nay, ở nước ta đã suất hiện các tổ chức hoạt động lien
quan đến môi giới , chuyển giao công nghệ ở một số thành phố lớn . chẳng hạn ở
Thành Phố Hồ Chí Minh sau khi có nghị định 35/cp đã ra đời nhiều trung tâm
chuyển giao công nghệ, chiếm tới 50% tổng số trung tâm loại này của cả nước,
cáctrung tâm này hoạt động một cách riêng rẽ, tự phát hiệu quả thấp và chưa
hình thành một mạng lưới thống nhất. chua hình thành một hệ thống cơ quan chỉ
đạo, quản lý nghiệp vụ hoạt động theo pháp quy từ trung ương đến các địa
phương ngành.
Trong những năm gần đây ở nước ta đã xuất hiện các hình thức hội trợ
triển lãm giới thiệu và mua bán các sản phẩm khoa học và công nghệ. một số hội
trợ thương mại quốc tế expo đã được tổ chức tại Việt Nam hoặc Việt Nam đã
tham gia một số hội trợ thương mại ở các nước như Thái Lan, Trung Quốc tuy
nhiên các hội chợ này chưa thật sự là hội chợ gia dịch mua bán khoa học và
công nghệ mới giữa bên bán và bên mua, các hội chợ này hầu như chưa có sự
tham gia của các cơ quan nghiên cứu triễn khai, các hội chợ này chủ yếu là trung
bày các kết quả hoạt động khoa học công nghệ để động viên , khen thưởng ,
chua chuẩn hoá thành sản phẩm khoa học công nghệ để mua và bán.
2) thực trạng về hình thức và quy mô thị trường khoa học và công nghệ:
thực tế, tính hai mặt của thương mại hoá hoạt động khoa học và côngnghệ
đang diễn ra ở nước ta. mặc dù kinh phí thu được qua hợp khcn của các sở


19

nghiên cứu đang có xu hướng tăng lên, nhưng nhìn chung là còn thấp và tỷ lệ so

với tổng kinh phí hoạt đông của các cơ sở này la rất nhỏ bé: 19% năm 1996,
17% năm 1997, 14% năm 1998 và khoảng 20% năm2003. nếu chỉ tính riêng các
hoạt động nghiên cứu khoa học(tức là chương trình khoa học, kinh phí xây dựng
cơ bản từ ngân sách…) thì hợp đồng kinh tế mới chiềm khoảng 16% số lượng đề
tài nghiên cứu và khoảng 30% về giá trị, mặc dù số đề tài, đề án,dự án, và giá trị
các kết quả nghiên cứu được thực hiện bởi kinh phí nhà nước được chuyển giao
cho côngnghệ nhưng hiệu quả còn thấp. ở Việt Nam đã bắt đầu có hình thức
mua quyền sử dụng nhãn hiệu, một số sang chế và kiểu dáng công nghiệp. thực
ra đây mới chỉ là gia đoạn đầu của thời kỳ phát triển thị trường khoa học và
công nghệ, số lượng còn ít, tuy nhiên do nhiều nguyên nhân nên nhiều thiết bị
được chuyển dao vận hành không đạt công suất, chất lượng sản phẩm không bảo
đảm làm giảm uy tín của nguời tiêu dung đối với sản phẩm đó , cuối cùng cả
nguời giao và người nhận đều bị thiệt thoài mất tính cạnh tranh của hang sản
xuất ra.
3) thực trạng về thong tin cơ chế chính sách, sở hữu trí tệu trong các hoạt
động khoa học và công nghệ.
- hệ thống thông tin phục vụ thị trường khoa học và công nghệ các tổ chức hoạt
động chuyên trách trong lĩnh vực khoa học và công nghệ.
- các thiết chế tài chính chưa được hình thành một cách đầy đủ để thúc đẩy phát
triển thị trường khoa học và công nghệ, hệ thống các dự án sản xuất thử nghiệm,
quỹ mạo hiểm của nước ngoài dầu tư vào Việt Nam, cho vay vốn tín dụng khoa
học và công nghệ. Cơ chế tài chính khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào
hoạt động khoa học công nghệ còn rất yếu.


20

- về sở hữu trí tệu cho đến nay ở nước ta đã có rất nhiều quy phạm về vấn đề
này, bởi lẽ đây là vấn đề rất quan trọng trong phát triển khoa học và công nghệ,
đã có 1 số chế tài quan trọng để kiễm soát xã hội đối với hành vi vi phạm các

chuẩn mực, song chua đủ để ngăn chặn có hiệu quả các hành vi này, cụ thể là
các chế tài bảo vệ bản quyên tác giã, quyền sở hữu công nghiệp v..v chưa đủ
chặt trẻ dẫn đến việc xâm hại các quyền này trong thực tế mà không kiểm soát
được.
Như vậy về phía nhà nước vấn đề đặt ra là phải xây dựng 1 cơ chế thực thi pháp
luật chông hang giả xâm phạm quyền sở hữu trí tệu thống nhất, phù hợp
hơn,linh hoạt hơn. phỉa đảm bảo chặt trẻ về mặt pháp lý cũng như về mặt phối
hợp giữa các cơ quan chức năng với nhà nứơc và giữa các cơ quan chức năng
với doanh nghiệp. có được cơ chế trên thì mới tạo được uy tín, niềm tin cho các
doanh nghịêp tạo môi trường kinh doanh bình đẳng cho các doanh nghiệp cũng
nhụ ngưòi tiêu dung. (4_tr248-255)
II) M ỘT số thành quả đạt được.
thị trường internet Việt Nam: sau mười kể từ khi kể từ khi lễ kết nói internet
toàn câu ngày 19/11/1997, internet Việt Nam đã lien tục phát triển và trở thành
thị trường đầy sôi động với khoảng 18 triệu người thamgia sử dụng với khoảng
21% dân số.
khai mạc chợ công nghệ và thiết bị đông nam bộ: hơn 1000 công nghệ và thiết
bị nổi bật của 135 doanh nghiệp Việt Nam và nước ngoài tại chợ công nghệ và
thiết bị vùng đông nam bộ(techmart Bình Dương).
Phát minh mới về cây trồng “chịu” được khô hạn. các nhà khoa học đã tạo ra
được các loại cây trồng biến đổi gen có thể chịu được điều kiên thời tiết cực kỳ
khô hạng và chỉ cần rất ít nước để sinh trưởng.( www.vnanet.vn )


21

Như vậy hiên nay ở nước ta cũng đạt được nhũng thành quả đáng kể từ hoạt
động của thị trường khoa học và công nghệ đây là một điều kiên tốt để phát trine
loai thị trường này trong tương lai góp phần đưa nền kinh tế Việt Nam lên tầm
cao mới, mang đậm màu sắc của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa với côngnghệ tiên tiên.

Chương III
Phương hướng và giả pháp phát triển thị trường khoa học công
nghệ ở nước ta
I) phương hướng phát triển thị trường khoa học công nghệ ở nước ta:
1) phương hướng chung:
thứ nhất: từng bước chuyển sản phẩm khoa học và công nghệ từ sản phẩm
công cộng sang hang hoá tự nhân.
thứ hai: hích cầu cho thị trường khoa học và công nghệ, để tăng cầu sản
phẩm khoa học và công nghệ, một mặt phải kích thích tăng nhu cầu mặt khác
phải có những quy định tăng chi tiêu khoa học và công nghệ trong ngân sách
nhà nước, khuyến khích các cơ sở sử dụng sản phẩm khoa học và công nghệ.
thứ ba: tổ chức lại việc cung hang hoá và công nghệ phù hợp với cơ chế thị
trường.
để phát triển thị trường khoa học và công nghệ, đòi hỏi phải tổ chức lại
cung sản phẩm khoa học và công nghệ. Xác định rõ loại cung ứng sản phẩm
khoa học công nghệ nào được nhà nước bao cấp, loại nào phải hoạt động
theo cơ chế thị trường. chính vì thế, cần thiết phải nghiên cứu đưa các tổ
chức hoạt động khoa học và công nghệ hoạt động khoa học và công nghệ
hoạt đồng hợp với cơ chế thị trường.


22

thứ tư: từng buờc tự do hoá giá cả sản phẩm khoa học và công nghệ
trong điều kiện kinh tế thị trưòng, giá cả sản phẩm khoa học cộng nghệ do
quan hệ cung cầu hay chi phí nghiên cứu và tính ích lợi của nó do người
mua quyết định, điều này cũng có nghĩa là giá cả được hình thánh tự do trên
thị trường. tuy nhiên đối với nước ta vì thị trường này còn rất mới, việc thực

hiện nguyên tắc tự gio giá cả đòi hỏi phai trải qua 1 quá trình.
2) đổi mới chính sách luật pháp và tổ chức quản lý thị trường khoa học
và công nghệ.
thứ nhất, trong những năm trước mắt, cân hỗ trợ và khuyến khích
đặc biễt để thúc đẩy hình thành và phát triển thị trường khoa học và công nghệ.
thứ hai, tạo lập môi trường kinh tế và pháp lý theo nguyên tắc cơ chế
thị trường cho sản phẩm khoa học ứng dụng và triển khai phát triển.
thứ ba, đổi mới công tác tổ chức quản lý nhà nước đối thị trường
khoa học và công nghệ thích hợp vời cơ chế thị trường(6_tr311-314)
II) giải pháp phát triển thị trường khoa học và công nghệ ở Việt Nam:
- hoàn thiện môi trường pháp lý về thị trường khoa học và công nghệ
nếu như nghị định 115/2005/NĐ-CP quy định tự chủ tự chịu trách nhiệm trong
các tổ chức khoa học và công nghệ công lập như một bước đột phá tạo cơ chế
mở được ví von như “ khoán 10”, thì mới đây nghị định 80/2007/NĐ-CP về
doanh nghiệp khoa học công nghệ khẳng định: khoa học và công nghệ đang hội
nhập thị trường, đó không phải là chủ trương của chính phủ mà còn là mục tiêu
của bộ khoa học công nghệ nhằm thúc tiến một thị trường sôi động hiệu quả.
(www.vista.gov.vn)

- đổi mới mạnh mẽ công tác quản lý và tổ chức hoạt động khoa học và công
nghệ theo hướng thương mại hoá.


23

Trong thời gian qua, những kết quả nghiên cứu trong lĩnh vực công nghệ sinh
học đã được áp dụng vào sản xuất như: các chủng loại vắc-xin, các nghiên cứu
về gen di truyền ở người, động-thực vật đã góp phần cho việc bảo vệ sức khỏe
của người dân, tăng năng suất cây trồng vật nuôi, tạo nhiều việc làm, góp phần
xóa đói giảm nghèo...Đặc biệt, việc ứng dụng chẩn đoán và điều trị bệnh từ xa

đã tạo cơ hội cho người nghèo được các bác sĩ giỏi ở tuyến trung ương chẩn
đoán, điều trị mà không phải chuyển lên tuyến trên.
Tuy nhiên, để thị trường khoa học và công nghệ ngày một phát triển, Bộ
Khoa học và Công nghệ đang chú trọng đầu tư đào tạo đội ngũ cán bộ nghiên
cứu ứng dụng để phối hợp với các doanh nghiệp nghiên cứu công nghệ phù hợp
với điều kiện của Việt Nam, trên cơ sở ứng dụng những công nghệ khoa học tiên
tiến của thế giới.
Bộ cũng đang tập trung đầu tư cho nhóm các dự án nghiên cứu sản xuất
thực nghiệm. Các dự án này được cấp toàn bộ kinh phí cho mọi hoạt động
nghiên cứu và khi thành công, nếu được ứng dụng rộng rãi vào đời sống sản
xuất nhà nước chỉ thu hồi lại 20% vốn và không phải trả lãi. Các chế độ hỗ trợ
về kinh phí cho đơn vị, địa phương phối hợp với các nhà khoa học nghiên cứu,
giải quyết những vấn đề về khoa học công nghệ ứng dụng trong thực tiễn đời
sống, sản xuất cũng đã được quan tâm thích đáng.
Đồng thời, Bộ cũng sẽ xây dựng những chính sách ưu đãi đối với các cá
nhân và đơn vị có ý thức ứng dụng khoa học và công nghệ, nhóm kỹ sư, công
nhân kỹ thuật, nhóm cán bộ quản lý, hoạch định chính sách và nhóm các nhà
khoa học trong và ngoài nước nhằm đẩy mạnh các dịch vụ nghiên cứu ứng dụng
khoa học công nghệ và chuyển giao công nghệ. Trong thời gian tới, Việt Nam sẽ
tập trung phát triển có chọn lọc những công nghệ trọng điểm có tác động to lớn


24

đến hiện đại hoá các ngành kinh tế-kỹ thuật (ví dụ như công nghệ nền của ngành
chế tạo máy), tiếp tục phát triển công nghệ thông tin, công nghệ sinh học. Đồng
thời, Bộ Khoa học và Công nghệ tiếp tục tạo điều kiện để hình thành và phát
triển một số ngành nghề mới, nâng cao sức cạnh tranh, phát huy được lợi thế về
tài nguyên nông nghiệp, tạo sản phẩm xuất khẩu, tạo nhiều việc làm ...
Để phát triển có chọn lọc những công nghệ trọng điểm cho các ngành,

trong những năm qua, Bộ Khoa học và Công nghệ đã cố gắng đầu tư xây dựng
một loạt phòng thí nghiệm trọng điểm phục vụ nghiên cứu công nghệ sinh học,
nghiên cứu công nghệ nano..., hỗ trợ đầu tư tiềm lực nghiên cứu khoa học cho
một số công nghệ như công nghệ đóng tàu, công nghệ thông tin,
v.v(www.techmartvietnam.com.vn)
- lựa chọn bước đi xây dựng thị trường khoa học và công nghệ
thường xuyên tổ chức hội chợ sản phẩm công nghệ cao của các tổ chức nghiên
cứu khoa học. đồng thời tổ chức các hội chợ thương mại thành quả khoa học
công nghệ riêng để lien kết khoa học trường đại học với các doanh nghiệp.
theo tôi thì ở việt Nam chúng ta hiên nay chưa co thị trường khoa
học thật sự những hoạt khoa học và công nghệ chỉ là nhỏ lẽ chụa có sự kết hợp
chặc chẽ giữa người mua -người bán và cơ quan chức năng,các hội chợ diễn ra
chỉ dơn thuần là để giới thiệu sản phẩm, mà người mua hoàn toàn thiếu thong tin
về hang được bán. Trong điều kiện của Việt Nam hiên nay, để phát triển thị
trường khoa học công nghệ phai từng bước khôi phục các trung tâm nghiên cứu
và triển khai công nghệ, ban hành các chính sách ưu đãi thu hút tư nhân vào lĩnh
vưc này, ban hành các văn bản pháp chế quy định rỏ rang về quyền sở hữu trí
tệu. lien kết chặc chẽ các trung tâm nghiên cứu để hộ trở nhau làm cho thị
trường khoa học công nghệ Việt Nam ngày càng đa dạng về sản phẩm và tổ


25

chức ngày càng rộng rãi, sản phẩm khoa học công nghệ được tao ra sẽ nhanh
chống đên tay của người tiêu dung.


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×