Tải bản đầy đủ (.pdf) (35 trang)

Tiểu luận: Cơ sở lý luận và thực tiễn của cách mạng khoa học và công nghệ ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (456.98 KB, 35 trang )




Tiểu luận

Cơ sở lý luận và thực tiễn của
cách mạng khoa học và công
nghệ ở Việt Nam hiện nay
A. PHẦN MỞ ĐẦU

Ta đã biết đất nước ta bước vào thời kì quá độ lên CNXH khi mà nền
sản xuất chưa vận động theo con đường bình thường của nó. Lịch sử đã
để lại cho chúng ta một nền sản xuất nghèo nàn và lạc hậu, lại bị chiến
tranh tàn phá nặng nề, lực lượng sản xuất rất thấp kém. Nhưng ngày nay khi
độc lập dân tộc gắn kiền với CNXH là một xu thế tất yếu của lịch sử, khi giai
cấp công nhân đã nắm quyền lãnh đạo cách mạng thì kết thúc cuộc cách mạng
dân tộc dân chủ cũng là lúc bắt đầu cuộc cách mạng XHCN. Cách mạnh
XHCN ở nước ta là một quá trình biến đổi cách mạng toàn điện, sâu sắc và
triệt để.Đó là một quá trình vừa xoá bỏ cái cũ, vừa xây dựng cái mới từ gốc
đến ngọn. Phải tạo ra cả cơ sở kinh tế lẫn kiến trúc thượng tầng mới, tạo ra
của cải đời sồng vật chất mới lẫn đời sống tinh thần và văn hoá mới. Do đó,
trong quá trình đi lên CNXH chúng ta phải tiến hành công nghiệp hoá , hiện
đại hoá đất nước. Theo quan điểm của ban chấp hành trung ương Đảng khoá
VII đã khẳng định“Công nghiệp hoá-hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn
bản toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, quản lý kinh tế –xã
hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến
sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện
đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ tạo
ra năng suất lao động xã hội cao”. Quan điểm này đã gắn công nghiệp hoá với
hiện đại hoá đồng thời đã xác định vai trò khoa học-công nghệ là then chốt
đẩy mạnh công nghiệp hoá. Trong điều kiện giao lưu kinh tế giữa các nước


chưa được mở rộng, quá trình chuyển giao công nghệ giữa các nước chưa
phát triển mạnh mẽ phải”tự lực cánh sinh” thì đó chính là một trình tự hợp lí
để tiến hành công nghiệp hoá. Song hiên nay cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ đang tác động một cách sâu rộng trên phạm vi toàn thế giới khoảng
thời gian để phát minh mới ra đời thay thế phát minh cũ ngày càng được rút

1
ngắn lại, xu hướng chuyển giao công nghệ giữa các nước ngày càng trở thành
đòi hỏi cấp bách, không chỉ đối với các nước lạc hậu, mà ngay cả đối với các
nước phát triển. Thực tế cho thấy có thể chuyển giao một cách có hiệu quả
cho các nước đi sau khi mà các nước đi sau đã có sự chuẩn bị kĩ càng để đón
nhận. Vấn đề đặt ra là các nước đi sau trong đó có nước ta cần phải làm
ngững gì đẻ iếp nhận một cách có hiệu quả nhất những thành tựu mà các nước
đi trước đã đạt được. Bài học thành công trong quá trình công nghiệp hoá của
các nước NIC đã chỉ ra rằng: việc xây dựng một cơ cấu kinh tế theo hướng
mở cửa với bên ngoài ngằm tiếp nhận một cách có chọn lọc những thành tựu
của các nước đi trước kết hợp với việc đẩy mạnh cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ hiện đại, đó chính là con đường ngắn nhất, có hiệu quả nhất quyết
định sự thành công của quá trình công nghiệp hoá-hiện đại hoá.



















2




B. NỘI DUNG CHÍNH

I.CỞ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA CÁCH MẠNG KH- CN Ở
NƯỚC TA HIỆN NAY
1
.Sự cần thiết phải phát triển KH- CN
Cách mạng KH- CN đã và đang diễn ra mạnh mẽ ở các nước phát triển,
tức là ở những nước đã trải qua thời kì cách mạng công nghệ, đã xác lập được
nền sản xuất cơ khí hoá đã có nền KH và CN tiên tiến. Tuy nhiên, nó không
chỉ hạn chế trong ranh giới của các nước phát triển mà ảnh hưởng của nó đang
lan ra tất cả các nước trên thế giới . Có thể nói cách mạng KH- CN là một
hiện tượng toàn cầu, hiện tượng quốc tế sớm hay muộn nó sẽ đến với tất cả
dân tộc và các quốc gia trên trái đất
Là một hiện tượng toàn cầu, cuộc mạng KH- CN mang trong bản
thân nó những qui luật chung, phổ biến, chúng tác động vào tất cả các loại
hình cách mạng KH- KT. Nhưng mặt khác, mỗi nước tiến hành cuộc cách
mạng này trong những điều kiện riêng của đất nước mình cho nên cách mạng
KH- KT ở những nước khác nhau cũng mang những màu sắc, những đặc

điểm khác nhau. Do đó, khi xem xét cuộc cách mạng KH- KT ở nước ta cần
phải đặt nó trong bối cảnh chung của cách mạng KH- KT trên thê giới.
Sau khi giành được độc lập về chính trị, nước ta có nguyện vọng sử
dụng những thành tựu của cuộc cách mạng KT- CN hiện đại, muốn tiến hành
cuộc cách mạng đó để phát triển kinh tế, văn hoá, khoa học và kỹ thuật để đưa
đất nước ta khỏi tình trạng nghèo nàn và lạc hậu. Nguyện vọng đó là hoàn
toàn chính đáng. Tuy nhiên, việc tiến hành cách mạng KH- CN ở nước ta gặp
phải những khó khăn lớn, do nhiều nguyên nhân

3
Trước hết, nước ta còn ở tình trạng lạc hậu về mặt kinh tế, khoa học
và công nghệ. Nông nghiệp và công nghiệp chưa hết hợp thành một cơ cấu
thống nhất, sự mất cân đối trong các ngành kinh tế quốc dân trở nên trầm
trọng
Về mặt văn hoá, khoa học và công nghệ thì số đông dân cư nước ta
vẫn ở tình trạng mù chữ, thiếu lực lượng lao động có trình độ chuyên môn
cao, thiếu cán bộ văn hoá và kỹ thuật. Thêm vào đó, sự tăng dân số quá nhanh
đã gây ra những khó khăn cho việc bảo đảm lương thực, giải quyết công ăn
việc làm cho những người lao động
Ngoài những khó khăn trong nước, nước ta còn phải chịu những di
sản nặng nề do sự nô dịch của chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa thực dân để
kại, đồng thời các cường đế quốc lại đang thực hiện chính sách kìm hãm sự
phát triển khoa học và kỹ thuật nhằm duy trì tình trạng bất bình đẳng của họ
trong sự phân công lao động quốc tế
Do đó, điều kiện kiên quyết để tiến hành cách mạng KH- CN ở nước ta
là phải tiến hành cải tạo xã hội sâu sắc, chống chủ nghĩa đế quốc, chống chủ
nghĩa thực dân mới và các thế lực phản động để đi lên CNXH.
Sau 15 năm tiến hành công cuộc đổi mới, khoa học và công nghệ
nước ta bước đầu có sự chuyển biến tích cực. Tuy nhiên cho đến nay, nền
khoa học và kỹ thuật nước ta vẫn đang trong tình trạng lạc hậu, chậm phát

triển chưa đáp ứng được yêu cầu của đất nước
Về trình độ kỹ thuật- công nghệ, so với các nước tiên tiến nhất trên
thế giới, chúng ta lạc hậu từ 50 đến 100 năm, so với các nước tiên tiến ở mức
trung bình ta lạc hậu từ 1 đến 2 thế hệ
Với thực trạng đó, việc tiến hành cuộc cách mạng khoa học – công
nghệ ở nước ta không chỉ được coi là tất yếu khách quan, mà còn là một đòi
hỏi bức xúc để đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước.

4
Mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là đến năm 2020 về cơ
bản nước ta trở thành nước công nghiệp. Khác với các nước đi đàu, công
nghiệp hoá nước ta đòi hỏi phải thực hiện rút ngắn. chỉ có như thế, chúng ta
mới có thể sớm rút ngắn được khoảng cách và tiến tới đuổi kịp các nước phát
triển. Công nghiệp hoá phải gắn liền với hiện đại hoá
Cùng với đó, yêu cầu đẩy mạnh phát triển kinh tế thị trường cũng đòi
hỏi chúng ta phải phát triển khoa học và công nghệ. Để chuyển sang nền kinh
tế thị trường hiện đại từ điểm xuất phát thấp, nước ta không thể đi theo các
bước tuần tự như các nước đi trước đã làm, mà phải phát triển theo kiểu “nhảy
vọt”,”rút ngắn”. Đây vừa là cơ hội để tận dụng lợi thế của nước phát triển sau,
vừa là thách thức đòi hỏi phải vượt qua. Muốn phát triển nhanh kinh tế thị
trường theo cách thức như vậy, nhất thiết phải đẩy mạnh phát triển khoa học-
công nghệ.
Đẩy mạnh phát triển khoa học và công nghệ đối với nước ta không chỉ
bắt nguồn từ đòi hỏi bức xúc của quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá và quá trình phát triển kinh tế thị trường, mà còn bắt nguồn từ yêu
cầu phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát triển theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, về bản chất, là một kiểu định hướng tổ chức
nền kinh tế- xã hội vừa dựa trên nguyên tắc và quy luật của kinh tế thị
trường, vừa dựa trên nguyên tắc và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Định

hướng này không chỉ đòi hỏi nền kinh tế tăng trưởng ở mức cao mà còn đòi
hỏi phải xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.Ở đó, phát
triển con người và phát triển xã hội bền vững được coi là trung tâm. Đây là
con đường phát triển chưacó tiền lệ. Muốn đạt tới đó, chúng ta phải có nỗ lực
và sáng tạo rất cao, phải biết vận dụng những thành tựu mới nhất của nhân
loại, tránh những sai lầm mà các nước khác đã vấp phải. Nếu không đủ trình
độ trí tuệ, không đủ năng lực nội sinh thì khó có thể thành công. Do vậy, đẩy
mạnh phát triển khoa học và kỹ thuật càng trở nên rất quan trọng và bức thiết.



5
2.Nội dung KH-CN và hướng tác động của KH- CN ở Việt Nam
a.Nội dung KH-CN
Hiện nay cuộc cách mạng khoa học- công nghệ có nhiều nội dung
phong phú, trong đó có thể chỉ ra những nội dung nổi bật sau:
Một là, cách mạng về phương pháp sản xuất: đó là tự động hoá.
Ngoài phạm vi tự động như trước đây, hiện nay tự động hoá còn bao gồm cả
việc sử dụng rộng rãi người máy thay thế con người trong quá trình vận hành
sản xuất.
Hai là, cách mạng về năng lượng: bên cạnh những năng lượng
truyền thống mà con người sử dụng trước kia như nhiệt điện, thuỷ điện thì
ngày nay con người càng tạo ra nhiều năng lượng mới và sử dụng chúng rộng
rãi trong sản xuất như năng lượng nguyên tử, năng lượng mặt trời.
Ba là, cách mạng về vật liệu mới : ngày nay ngoài việc sử dụng các
vật liệu tự nhiên, con người ngày càng tạo ra nhiều vật liệu tự nhiên, con
người ngày càng tạo ra nhiều vật liệu nhân tạo mới thay thế có hiệu quả cho
các vật tự nhiên khi mà các vật liệu tự nhiên đang có xu hướng ngày càng cạn
dần .
Bốn là, cách mạng về công nghệ sinh học, các thành tựu của cuộc

cách mạng này đang được áp dụng rông rãi trong lĩnh vực công nghiệp, nông
nghiệp, y tế, hoá chất, bảo vệ môi trường sinh thái.
Năm là, cách mạng về điện tử và tin học : đây là lĩnh vực hiện nay
loài người đang đặc biệt quan tâm trong đó phải kể đến lĩnh vực máy tính
điện tử.
Như vậy, khoa học công nghệ ngày nay bao gồm một phạm vi rộng, nó
không chỉ là các phương tiện, thiết bị do con người sáng tạo ra mà còn là các
bí quyết biến các nguồn lực có sẵn thành sản phẩm. Với ý nghĩ đó khi nói tới
công nghệ thì sẽ cũng bao hàm cả kỹ thuật. Đặc biệt là trong giai đoạn hiện
nay khoa học, kĩ thuật luôn gắn bó chặt chẽ với nhau : khoa học là tiền đề trực
tiếp của công nghệ và công nghệ lại là kết quả của khoa học.

6
b.Về hướng tác động của KH- CN
Tập trung nỗ lực tiến hành cải tạo, đồng bộ, hoá và hiện đại hoá có chọn
lọc các cơ sở sản xuất hiện có
Tuy cơ sở vật chất- kỹ thuật có của nước ta còn nhỏ bé, trình độ công
nghệ, kỹ thuật vào loại lạc hậu, hệ số sử dụng thiết bị và công suất còn thấp.
Bởi vậy, nguồn dự trữ còn khá lớn và dưới nhiều góc độ, đây thật sự đang là
nguồn vốn quý của đất nước và phải bắt đầu từ đây để đi lên
Chủ động sử dụng có chọn lọc một số hướng công nghệ tiên tiến phù hợp
với thế mạnh của đất nước nhằm chuẩn bị điều kiện phát triển các ngành có
hàm lượng công nghệ cao
Ở nước ta, cùng với việc tập trung nỗ lực KH- CN khai thác có hiệu
quả cơ sở vật chất- kỹ thuật hiện có, cũng cần phải chăm lo, dành một số phần
tiềm lực dư lớn cho việc thử nghiệm, lựa chọn một sồ hướng công nghệ cao
phù hợp để một mặt, hỗ trợ cho việc giải quyết có hiệu quả hơn, mặt khác
thúc đẩy việc hình thành một số lĩnh vực sản xuất công nghệ cao với quy mô
phù hợp để tạo ta các sản phẩm thay thế nhập và tạo chỗ đứng trên thị trường
quốc tế.

Trong số những hướng công nghệ cao, cần quan tâm đầy đủ tới khâu
tin học hoá một số lĩnh vực hoạt động kinh tế xã hội. Cần có quyết tâm trong
việc đầu tư phát triển một số lĩnh vực sản xuất gắn với các hương ưu tiên của
chương trình tổng hợp tiến bộ KH- CN. Đó là dịp tốt để VN tham gia vào
phân công lao động quốc tế về một số sản phẩm có hàm lượng khoa học cao
Thúc đẩy việc nâng cao trình độ kỹ thuật và công nghệ của các xí nghiệp
nhỏ, của khu vực tiểu thủ công nghệp cả ở thành thị và nông thôn.
Kinh nghiệm thực tiễn chỉ ra rằng để có thể thực hiện có hiệu quả
chiếm lược này, việc nhanh chóng khắc phục sự lạc hậu về công nghệ, sự yêú
kém về năng lực quản lý, sự thiếu hụt về lực lượng lao động có kỹ thuật là
yêu cầu bức bách phải giải quyết .Bởi vậy việc giành một phần nỗ lực đủ

7
mạnh hướng vào việc giải quyết các nhu cầu khoa học và công nghệ phục vụ
phát triển công nghiệp nông thôn có tầm quan trọng đặc biệt
Những phân tích nêu trên đã tới gợi ý quan trọng là chiến lược phát
triển khoa học và kỹ thuật không thể không quan tâm đến việc nâng cao trình
độ kỹ thuật và công nghệ ,cải tiến .. và nên coi đây là một hướng có ý nghĩa
chiến lược cả trước mắt và lâu dài .
Kết hợp hữu cơ việc tập trung nỗ lực giải quyết các vấn đề trước mắt
và tiếp tục tăng cường tiềm lực khoa học và kỹ thuật nhằm đáp ứng những
yêu cầu mới của giai đoạn phát triển tiếp theo
3.Vai trò của khoa học công nghệ

Trong thời đại ngày nay, có lẽ không còn ai không nhận thức được
rằng khoa học và công nghệ có vai trò rất quan trọng về nhiều mặt đối với sự
phát triển. Khoa học và công nghệ là cái không thể thiếu được trong đời sống
kinh tế – văn hoá của một quốc gia. Vai trò này của khoa học và công nghệ
càng trở lên đặc biệt quan trọng đối với nước ta đang trên con đường rút ngắn
giai đoạn phát triển để sớm trở thành một xã hội hiện đại. Ngay từ khi bắt đầu

tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta đã xác định khoa học và công
nghệ là cái giữ vai trò quan trọng trong sự phát triển lực lượng sản xuất và
nâng cao trình độ quản lý, bản đảm chất lượng và tốc độ phát triển của nền
kinh tế. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu nước
mạnh xã hội công bằng, văn minh, khoa học và công nghệ phải trở thành
“quốc sánh hàng đầu”.
Nước ta đang bước vào một thời kỳ phát triển mới- thời kỳ đẩy
mạnh CNH- HĐH. Nghị quyết Trung ương hai của Ban chấp hành Trung
ương Đảng khoá VIII đã xác định rõ :”CNH- HĐH đất nước phải bằng và dựa
vào khoa học và công nghệ” “khoa học và công nghệ phải trở thành nền tảng
và động lực cho CNH- HĐH”. Chỉ bằng con đường CNH- HĐH, phát triển
khoa học và công nghệ mới có thể đưa nước ta từ nghèo nàn lạc hậu trở thành
một nước giàu mạnh văn minh. Việc đưa khoa học và công nghệ, trước hết là

8
phổ cập những tri thức khoa học và công nghê cần thiết vào sản xuất và đời
sống xã hội là một nhu cầu cấp thiết của xã hội ta hiện nay.
Vai trò của KH- CN đối với một số lĩnh vựcnhư sau:
a.Với sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông thôn và phát triển
nông thôn

Gần 15 năm qua sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn đã đạt
được những thành tựu to lớn góp phần quan trọng ổn định và phát triển kinh
tế xã hội đưa nước ta bước sang giai đoạn mới đẩy mạnh công nghiệp hoá
hiện đại hoá đất nước.Tuy nhiên cho đến nay với gần 80% dân số của cả nước
sống ở nông thôn, trong đó tỷ lệ đói nghèo vẫn còn trên 17%, có nơi như ở
một số huyện miền núi còn trên 35%. Mặt khác cũng do nền kinh tế nước ta
mới bước đầu chuyển từ nền sản xuất theo cơ chế tập trung, quan liêu, bao
cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN nên năng suất, chất lượng
và sức cạnh tranh của nông sản, hàng hoá còn rất thấp so với nhiều nước trong

giới khu vực và thế. Điều đó làm cho thu nhập và tích luỹ của đại bộ phận dân
cư nông thôn còn bấp bênh, sức mua có khả năng thanh toán về tư liệu sản
xuất và tư liệu tiêu dùng đều rất hạn chế, gây ảnh hưởng lớn đến sự chuyển
dịch cơ cấu của toàn bộ nền kinh tế, đồng thời gây cản trở việc, phát triển
công nghiệp và dịch vụ trên địa bàn nông thôn
So với các giải pháp khác, thì giải pháp về khoa học và công nghệ
yêu cầu vốn đầu tư không quá lớn mà đem lại hiệu quả cao. Theo đánh giá
chung, trong nông nghiệp ước tính 1/3 giá trị tăng của sản xuất lương thực
thời gian vừa qua là do người dân tiếp thu, ứng dụng các tiến bộ khoa học và
kỹ thuật mới vào sản xuất
Tuy nhiên, tiềm lực về KH- CN của nước ta chưa được phát huy đầy
đủ cho sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn nhiều vấn đề bức xúc
của sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn đặt ra đối với các lực lượng
KH- CN đến nay chưa giải quyết được, trong đó đáng lưu ý hơn cả là :

9
- Việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn là nội dung
quan trọng trong quá trình thực hiên CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, mà
sự chuyển đổi đó phụ thuộc vào việc tổ chức áp dụng thành tựu KH- CN vào
sản xuất và các chính sách thúc đẩy phát triển sản xuất. Chỉ trên cơ sở có đủ
giống tốt và các tiến bộ kỹ thuật khác, kết hợp với việc phát triển các quan hệ
thị trường đúng hướng mới có thể chuyển cơ cấu sản xuất nông nghiệp từ
thuần nông, độc canh sang đa dạng hoá cây trồng. Hiện nay việc chuyển đổi
kinh tế nông thôn từ nông nghiệp sang công nghiệp, dịch vụ mới chỉ xuất hiện
ở một số ven vùng có cơ sở hạ tầng kỹ thuật, có trình độ dân trí cao, có khả
năng tiếp thu các tiến bộ kỹ thuật
-Giá trị kim ngạch xuất khẩu hàng nông, lâm, thuỷ sản hàng năm tuy
chiếm gần 40% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của cả nước, nhưng nhìn
chung, năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của nông sản hàng hoá còn
thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới, khiến cho các sản phẩm

làm ra tiêu thụ khó khăn, ảnh hưởng bất lợi đến thu nhập của người sản xuất.
KH-CN chưa có sự tác động cần thiết và hiệu quả bản đảm tính ổn định, bền
vững của nông sản hàng hoá khi gặp phải rủi ro của thiên tai và thị trường
- Phát triển công nghệ chế biến là nhiệm vụ hàng đầu trong quá trình
thực hiện CNH- HĐH nông nghiệp, nông thôn, nhưng phát triển công nghiệp,
chế biến như thế nào lại là vấn đề bức xúc đang đòi hỏi nghiên cứu và làm rõ
- Gần đây, Nhà nước tiếp tục tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở vật
chất kỹ thuật cho nông nghiệp, nông thôn. Hiện có rất nhiều vấn đề về kỹ
thuật để bảo đảm hiệu quả vốn đầu tư của nhà nước chưa được giải quyết tốt.
Do đó, nông nghiệp, nông thôn đang rất cần có sự tác động của lực lượng
KH- CN
Tình hình trên khẳng định vai trò của KH- CN trong quá trình thực
hiện CNH- HĐH nông nghiệp, nông thôn ở nước ta hiện nay và đó cũng chính
là những yêu cầu bức xúc đặt ra đối với các nhà khoa học vì sự phát triển của
nông nghiệp, nông thôn. Tuy nhiên, để huy động được các lực lượng KH- CN

10
phục vụ nông nghiệp, nông thôn, chú ý các vấn đề về tổ chức bộ máy, cơ chế
vận hành và các chính sách tác động, trong đó cốt lõi là giải quyết hợp lý lợi
ích cho người làm nghiên cứu, triển khai các thành tựu của KH-CN
b.Mối quan hệ giữa KH- CN với sản xuất vật chất

Khoa học có nguồn gốc, bản chất, chức năng sứ mạng từ đời sống
thực tiễn của xã hội, con người. Nó không phải là bản thân công cụ lao động
và sức lao động, nhưng cũng không nằm ngoài thành tố quan trọng nhất là lực
lượng sản xuất. Nó không thay thế, nhưng nó có thể làm thay đổi mạnh mẽ,
nhanh chóng tính năng hiệu lực của công cụ lao động, sức lao động và do đó,
phương thức con người tác động đến giới tự nhiên theo chiều hướng ngày
càng tăng cường sức mạnh, vai trò và tự do của con người trước thiên nhiên.
Tuy nhiên, với tính cách là sản phẩm, giá trị đã được sáng tạo ra, đã có sẵn,

thì khoa học không còn là kết quả, mà lại đóng vai trò như một trong những
nguyên nhân, động lực bên trong, trực tiếp thúc đẩy mạnh nhất sự phát triển
lực lượng sản xuất
Trong điều kiện “ thông tin hoá “, “toàn cầu hoá” của đời sống xã hội
và kinh tế thế giới ngày nay, nhiều thành tựu của cuộc cách mạng KH- CN có
thể được chuyển giao tiếp nhận tương đối nhanh chóng, dễ dàng, tạo ra cơ hội
khách quan thuận lợi cho sự phát triển đột biến, nhảy vọt và bứt phá về kinh
tế ở những dân tộc, quốc gia, hay khu vực nhất định trong những thời điểm,
thời kỳ hay giai đoạn nhất định. Nhưng để tranh thủ tân dụng và phát huy
được hết tiềm năng của cơ hội bên ngoài này thì điều kiện tất yếu và tối thiểu
là ở bên trong phải chuẩn bị xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và bồi dưỡng
nhân tố con người lao động ở một nức độ tương ứng, thích đáng. Kinh
nghiệm thế giới về việc giải quyết mối quan hệ “ con người- tư kiệu sản xuất-
khoa học” một cách cân đối, hài hoà để tạo ra hiệu quả tổng hợp tối đa và tối
ưu về kỹ thuật là khá toàn diện và phong phú
Việc xây dựng rõ vị trí tương quan vai trò và ảnh hưởng của KH- CN
trong hệ thống các thành tố lực lượng sản xuất như trên đã đồng thời làm sáng

11
tỏ giới hạn tác động của nó về mặt xã hội. Sự phát triển của khoa học không
trực tiếp dẫn tới sự thay đổi quan hệ sản xuất và chế độ sở hữu. Trái lại, vai
trò “ cách mạng hoá “ của khoa học đối với việc thúc đẩy sự tăng trưởng của
lực lượng sản xuất lại bị chế ước bởi một quan hệ sản xuất và kiến trúc
thượng tầng xã hội nhất định. Nói cách khác, tiềm năng thúc đẩy lực lượng
sản xuất phát triển của khoa học là vô tận, nhưng mức độ, giới hạn hiện thực
hoá tiềm năng này lại phụ thuộc “ khuôn khổ “ của quan hệ sản xuất thống trị
Tuy nhiên, sự phát triển như vũ bão của cách mạng KH- CN hiện đại
đang diễn ra từng ngày, từng giờ ở khắp mọi nơi trên thế giới đã có tác dụng
cụ thể. Sức tiến công vũ bão của phong trào giải phong dân tộc, giai cấp tư
sản đã chủ động ra sức đẩy mạnh cuộc cách mạng KH- KT, sử dụng các thành

quả của nó để phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế một cách thành
công
Tuy không lạc quan đến mức vội vã và ngộ nhận mà cho rằng, cuộc
cách mạng KH- CN hiện đại sẽ tự động và trực tiếp đưa ngay đến một xã hội
thực sự là “ hậu TBCN “, nhưng chúng ta vẫn có thể ghi nhận những thành
tựu lớn lao của cuộc cách mạng này và có đủ cơ sở để tin tưởng rằng, những
thành tựu ấy trong hôm qua, hôm nay và ngày mai đều góp phần thiết thực
thúc đẩy CNTB đi nhanh hơn tới điểm kết thúc không thể tránh khỏi.
c.Khoa học – công nghệ đã nhanh chóng trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp ở nước ta
Việc khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp là dự đoán thiên
tài của C.Mác. Dựa trên cơ sở phân tích rõ vai trò của khoa học trong sự phát
triển của công nghiêp, ông đã kết luận : Việc biến khoa học thành lực lượng
sản xuất trực tiếp là một quy luật khách quan của sự phát triển xã hội. Ngày
nay dự đoán ấy đang trở thành hiện thực trong nhiều nước công nghiệp phát
triển
Khoa học là một hệ thống tri thức được tích luỹ trong quá trình lịch
sử và được thực tiễn kiểm nghiệm, phản ánh những quy kuật khách quan của

12
thế giới bên ngoài cũng như hoạt động tinh thần của con người, giúp con
người có năng lực cải tạo thế giới
Như vậy, khoa học là” văn hoá biết”, còn sản xuất, kỹ thuật, công
nghệ là “ văn hóa làm “. Từ “biết” đến “ làm “ có một khoảng nhất định
nhưng không hề có bức tường nào ngăn cản tuyệt đối cả. Khoảng cách ấy có
thể bị rút ngắn và được rút ngắn đến đâu là tuỳ thuộc ở trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất, của kỹ thuật, công nghệ và khoa học
Khoa học là kết quả nghiên cứu của quá trình hoạt động thực tiễn,
nhưng đến lượt mình nó lại có vai trò to lớn tác động mạnh mẽ trở lại hoạt
động sản xuất. Do đó con người hoàn toàn có khả năng biến khoa học thành

lực lượng sản xuất trực tiếp.
Trong thực tế, sự phát triển của khoa học đã giúp con người tăng
cường sức mạnh trong quá trình chinh phục tự nhiên, sử dụng có hiệu quả
những sức mạnh của nó. Nếu không có sự phát triển mạnh mẽ của khoa học,
làm sao con người có thể tạo ta năng lượng hạt nhân, phóng tàu vũ trụ lên
thám hiểm các hành tinh, hay sản xuất ra máy tính điện tử và người máy công
nghiệp thay thế nhiều hoạt động phức tạp của mình.
Khi còn ở trình độ thấp, khoa học tác động tới kỹ thuật và sản xuất
còn rất yếu, nhưng đã phát triển đến trình độ cao như ngày nay thì nó tác động
mạnh mẽ và trực tiếp tới sản xuất. Kỹ thuật và công nghệ là kết quả sự vận
dụng những hiểu biết, tri thức khoa học của con người để sáng tạo, cải biến
các công cụ, phương tiện phục vụ cho hoạt động sản xuất và các hoạt động
khác của xã hội. Khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp thì dứt khoát
phải gắn liền với kỹ thuật và công nghệ. Song như thế chưa đủ. Khoa học còn
phải được người lai động tiếp thu vận dụng để nâng cao kỹ năng, kỹ xảo lao
động, phát triển tư duy kinh tế nhanh nhạy, trau dồi đạo đức, lối sống, v..v,
mới có thể trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và mạnh mẽ. Người lao động
là chủ thể sử dụng các phương tiện kỹ thuật. Do đó họ không thể sử dụng

13

×