Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

Phân tích vấn đề ngoại giao của việt nam từ 1945 1946

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (107.36 KB, 6 trang )

I_ Trình bày vấn đề ngoại giao của Việt Nam từ 1945-1946:
Ngoại giao là vấn đề vô cùng quan trọng với mỗi quốc gia, “nền ngoại giao của bất kỳ
nước nào cũng nhằm phục vụ ba mục tiêu cơ bản là góp phần bảo vệ độc lập, chủ quyền
và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia; tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi nhất để
phát triển đất nước; nâng cao vị thế, mở rộng ảnh hưởng trên trường quốc tế… Ngoại
giao Việt Nam cũng không phải là trường hợp ngoại lệ”. (1)
Đặc biệt trong giai đoạn 1945-1946 – giai đoạn cực kỳ khó khăn của đất nước nói chung
và ngoại giao Việt Nam nói riêng. Tình hình trong nước và thế giới diễn biến phức tạp, ảnh
hưởng không nhỏ đến đất nước ta. Trước hết, điểm qua về tình hình quốc tế khi đó đối với
nước ta có một vài điểm đáng chú ý:
Một là, trật tự thế giới hai cực Y-an-ta đang dần dần định hình trên thực tế (1945-1947)
Hai là, trong khi Chiến tranh thế giới thứ II chưa hoàn toàn chấm dứt, thì cuộc chiến
tranh lạnh do chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là Mỹ phát động đã ngày càng trở nên căng
thẳng.
Ba là, sau chiến tranh, Liên Xô trở thành cường quốc hàng đầu Châu Âu. Tuy còn thua
kém Mỹ về tiềm lực kinh tế và vũ khí hạt nhân nhưng Liên Xô vẫn đóng 1 vai trò quyết
định cùng Mỹ giải quyết những vấn đề lớn về hoà bình, an ninh trong khu vực và trên thế
giới.Cũng tại thời điểm này, các nước lớn trong phe Đồng Minh cũng ra sức củng cố lại hệ
thống thuộc địa, đặc biệt là Anh, Pháp.
Thứ hai, xét về tình hình trong nước:Nhà nước độc lập non trẻ phải đối mặt với vô vàn
thử thách và khó khăn (chính quyền vừa ra đời, kinh tế đình đốn, ngân sách trống rỗng,
chưa được nước nào công nhận, thiên tai liên miên, đặc biệt là hơn 30 vạn thù trong giặc
ngoài). Có thể nói nước ta lâm vào hoàn cảnh ngàn cân treo sợi tóc
Trước tình hình trong nước và quốc tế diễn biến rất phức tạp, nhà nước ta đã sớm ban
hành chính sách ngoại giao của chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà. Một tháng sau khi
tuyên bố nước Việt Nam giành độc lập, ngày 3-10-1945, chính sách ngoại giao của nước ta
được công bố dưới dạng một văn kiện nhà nước:” Thông cáo về chính sách ngoại giao của
nước Cộng hoà Dân chủ Việt Nam”, được đăng trên báo Cứu quốc, ngày 3-10-1945. Với
mục tiêu của chính sách là: Bảo vệ thành quả của cuộc Cách Mạng tháng 8, đưa dất nước
ta đến độc lập hoàn toàn và vĩnh viễn; “Nước Việt Nam còn đang ở giai đoạn đấu tranh
kịch liệt, tất chính sách ngoại giao phải có mục đích cốt yếu là giúp cho sự đấu tranh


thắng lợi bằng mọi phương pháp êm dịu hay cương quyết”.

1


II- Phân tích vấn đề ngoại giao của Việt Nam từ 1945-1946:
1. Lựa chọn chính sách đối ngoại:
Bản “Thông cáo về chính sách ngoại giao của nước Cộng hoà Dân chủ Việt Nam” (3-101945) đã đề ra chính sách đối ngoại rất cụ thể, đúng đắn, phù hợp với từng đối tượng:
Với các nước Đồng Minh, Việt Nam mong muốn duy trì hữu nghị và thành thật hợp tác
trên cơ sở bình đẳng và tương trợ, để xây dựng nền hoà bình thế giới lâu dài.
Với Pháp, ta mong muốn xây dựng quan hệ hữu nghị dựa trên cơ sở tôn trọng quyền bình
đẳng và các quyền của nhau đối với nước Pháp. Còn đối với bọn thực dân Pháp có mưu đồ
chống phá, xâm lược nước ta thì ta kiên quyết đấu tranh.
Với các nước láng giềng, đặc biệt đối với nhân dân Khơme, Lào, Việt Nam chủ trương
liên kết giúp đỡ lẫn nhau cả về mặt chính trị và kinh tế.
Với các tiểu dân tộc trên toàn cầu, Việt Nam sẵn sàng thân thiện, hợp tác chặt chẽ trên
nguyên tắc bình đẳng để ủng hộ lẫn nhau trong sự nghiệp xây đắp và giữ vững nền độc lập.
Trong bối cảnh thế giới và trong nước diễn biến phức tạp; cùng một lúc, ta còn phải giải
quyết mối quan hệ với nhiều lực lượng khác nữa. Do đó, ta cần có chính sách linh hoạt,
mềm dẻo, đề ra những nhiệm vụ ưu tiên. Kẻ thù chính lúc này của ta là thực dân Pháp xâm
lược. Ta cần tập trung lực lượng chống kẻ thù chính, hoà hoãn các lực lượng chống đối
khác để rảnh tay đánh Pháp. Đảng ta chủ chương: “ Phải đặt riêng bọn thực dân Pháp xâm
lược ra mà đánh, đừng bỏ cả Pháp, Anh, Ấn (lính Ấn Độ trong hàng ngũ quân Anh) vào
một bị mà đánh và đừng coi họ là kẻ thù ngang nhau, đừng công kích nước Pháp, chỉ công
kích bọn thực dân Pháp”.Trên cơ sở này, Thường Vụ Trung Ương Đảng, Chính phủ và chủ
tịch Hồ Chí Minh đã đi đến quyết định chiến lược “Hoà để tiến, lợi dụng mâu thuẫn trong
hàng ngũ đối phương, khéo léo, linh hoạt biến các Hiệp định giữa Anh- Pháp, Hoa- Pháp
liên quan đến quyền lợi của nước ta thành thoả thuận tay ba với sự tham gia của ta, đồng
thời tạo thế hoà hoãn với một bên để tranh thủ thời gian củng cố nội lực, tăng cường sức
mạnh để đối phó với những kẻ thù khác”.

Như vậy, Ngoại giao của ta thời kì này là Ngoại giao đa phương, mềm dẻo, linh hoạt, khi
nhượng bộ, khi cương quyết và luôn khẳng định đường lối độc lập tự chủ của nước nhà.
2. Triển khai chính sách đối ngoại:
a) Chính sách đối ngoại với quân Tưởng Giới Thạch:
Chính quyền Tưởng từ lâu đã có những toan tính riêng của mình về Đông Dương- đặc
biệt là với Việt Nam, chúng âm mưu lật đổ Đảng Cộng Sản, phá tan Việt Minh, đô hộ nước
ta lần nữa.
Tuy nhiên, Chính quyền Cách Mạng của ta nêu cao khẩu hiệu “Hoa- Việt thân thiện” và
thực hiện hoà hoãn với các sách lược mềm mỏng và bình tĩnh mà Hồ Chí Minh gọi là: “
Chính sách Câu Tiễn”. Mục đích của những chính sách này là lợi dụng lực lượng của
Tưởng có mặt ở Việt Nam như một lực lượng đối trọng với lực lượng của thực dân Pháp,
2


kiềm chế chủ trương của Chính phủ Paris sớm khôi phục kiểm soát ở Đông Dương; có thời
gian ổn định tình hình trong nước và rảnh tay đối phó với Pháp.
Trong các tuyên bố công khai của Chính phủ Việt Nam về quan hệ Việt- Hoa, cũng như
các thư từ và điện của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi cho Tưởng Giới Thạch, ta luôn khẳng
định tình hữu nghị, quan hệ gắn bó lâu năm giữa hai nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng
thường có những cuộc thăm hỏi các tướng lĩnh của Tưởng ở Việt Nam như Lư Hán, Tiêu
Văn...một mặt là để đặt quan hệ ngoại giao thân thiết, mặt khác là để tìm hiểu các tướng
lĩnh, lợi dụng mặt hám lời vật chất để hạn chế sự chống phá; tìm hiểu những mâu thuẫn nội
bộ của chúng và các mâu thuẫn với bên ngoài. Từ đó, lợi dụng những mâu thuẫn để thực
hiện những việc có ích cho ta.
Ví dụ như việc lãnh tụ Hồ Chí Minh tranh thủ tướng Lư Hán của Tưởng- người thường có
thái độ thành kiến với Pháp ở Đông Dương. Hồ Chủ Tịch thường trao đổi với Lư Hán về
tình hình Việt Nam, giới thiệu chủ trương “ Hoa- Việt thân thiện”; phê phán những hành
động xâm lược của Pháp. Qua những lần trao đổi như vậy, Lư Hán rất ngạc nhiên và khâm
phục sự hiểu biết sâu rộng của chủ tịch Hồ Chí Minh. Lư Hán có những hành động độc lập
với chính phủ Trung Quốc như: không công nhận A-lếch-xăng-đri là đại diện cho Đờ Gôn

ở miền Bắc Việt Nam, không cho phép Pháp lập cơ quan hành chính dân sự, không ủng hộ
quá mức bọn Việt quốc, Việt cách...
Thêm vào đó, Hồ chủ tịch còn lợi dụng sự khác biệt về quyền lợi, biện pháp chống đối
Cách Mạng nước ta của các tướng lĩnh Tưởng, từ đó gây ảnh hưởng đến cách thức hành
động của chúng. Ví dụ như mâu thuẫn nội bộ của Tưởng được thể hiện quan 14 nguyên tắc
chỉ đạo hoạt động của quân đội Trung Hoa tại Đông Dương, trong đó chủ trương giữ liên
hệ chặt chẽ với Mỹ và Pháp, giữ thái độ trung lập trong quan hệ Pháp- Việt. Tiêu Văn- 1
tướng của Tưởng nhận xét rằng với 14 nguyên tắc này, nhiều người Pháp cho là đã làm
sống lại những điều mà họ đã tuyệt vọng. Còn tướng Lư Hán thì cho rằng các nguyên tắc
của Chính phủ không hợp với tình hình Việt Nam lúc bấy giờ. Như vậy là không thống
nhất được phương án hành động. Điều này rất có lợi cho ta.
Để hạn chế các hoạt động phá hoại của các nhóm thân Tưởng, chủ tịch Hồ Chí Minh đại
diện cho Việt Minh thực hiện nhiều cuộc tiếp xúc, họp liên tịch với những kẻ đại diện cho
Việt Quốc, Việt Cách.. để thống nhất những nguyên tắc chung và ký kết những thoả thuận
buộc bọn Việt Quốc, Việt Cách phải tỏ sự nhất trí đối với các nguyên tắc đoàn kết, hợp
tác, vì lợi ích quốc gia, ủng hộ kháng chiến ở Nam Bộ, chống thực dân Pháp xâm lược,
ủng hộ các chủ trương của chính phủ... Ta dành cho bọn Việt Cách, Việt Quốc các chức vụ
Phó chủ tịch nước, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, Bộ trưởng Bộ Kinh tế và 70 ghế trong Quốc
Hội không qua tổng tuyển cử. Sách lược khéo léo và đúng đắn này đã xoa dịu sự chống đối
của các tướng lĩnh Tưởng và các nhóm thân Tưởng, góp phần ngăn chặn âm mưu phá hoại
và lật đổ của chúng. Tuy là nhân nhượng nhưng ta vẫn có những nguyên tắc hoạt động rõ
ràng, luôn khẳng định đường lối độc lập, tự chủ.
Đảng ta cũng đồng thời thực hiện biểu dương lực lượng chính trị lớn mạnh của quần
chúng nhân dân ủng hộ cách mạng để hậu thuẫn cho hoạt động ngoại giao. Điển hình là
cuộc diễu hành của 30 vạn nhân dân thủ đô Hà Nội. Cuộc diễu hành về danh nghĩa để hoan
nghênh phải bộ Đồng Minh nhưng thực chất là để biểu dương lực lượng của nhân dân ủng
hộ chính quyền Cách Mạng và Hồ chủ tịch.
3



Như vậy, nhờ những biện pháp, chính sách của chính phủ Việt Nam hoà hoãn, kiềm chế
lực lượng chống phá của Tưởng, miền Bắc nước ta có một thời kỳ tương đối ổn định để
thực hiện chủ chương kháng chiến kiến quốc, xây dựng củng cố chính quyền nhân dân;
làm chậm chễ việc quân đội viễn chinh Pháp ra Bắc và tạo điều kiện để chi viện cho kháng
chiến ở đồng bào miền Nam.
b-Chính sách đối ngoại với Pháp:
Sau chiến tranh thế giới thứ II kết thúc, Pháp lại mưu đồ xâm lược Việt Nam một lần nữa.
Chúng đưa quân đánh chiếm miền Nam Việt Nam trước, sau đó ý định mở rộng chiến
tranh ra Bắc. Tuy nhiên, quân đội Pháp thất bại trong kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh ở
miền Nam, nên mặc dù đã thảo kế hoạch quân sự mở rộng chiến tranh ra Bắc, song Bộ chỉ
huy quân Pháp thấy lo ngại. Kế hoạch của chúng khó có thể thực hiện. Vì thực dân Pháp
lúc này không những phải đối mặt với khối đại đoàn kết toàn dân tộc của ta mà còn phải
đối mặt với hơn 20 vạn quân Tưởng. Pháp lo sợ sự "xích gần với chính quyền Hà Nội" của
lực lượng Tưởng Giới Thạch ở Đông Dương sau một số thoả thuận giữa ta với Tưởng.
Trước tình hình đó, Pháp đưa ra giải pháp: một mặt thương lượng với chính phủ Trùng
Khánh để đạt được sự công nhận của Tưởng về quyền của Pháp ở Đông Dương và cho
quân Pháp thay thế quân Tưởng ở miền Bắc Việt Nam. Mặt khác, đàm phán với chính phủ
Việt Nam dân chủ cộng hoà để tránh chiến tranh lâu dài.
Về phía Tưởng, quân Tưởng đang gặp khá nhiều khó khăn trong việc chống phá phong
trào Cách Mạng do Đảng cộng sản lãnh đạo. Tưởng Giới Thạch muốn rút quân về để
chiếm Mãn Châu nhưng vẫn muốn giữ được nhiều quyền lợi ở Đông Dương. Do đó,
Tưởng cũng muốn thương lượng với Pháp về vấn đề đưa quân ra Bắc của Pháp. Hơn nữa,
Mỹ cũng đồng tình với Tưởng trong việc thương lượng với Pháp vì Mỹ đang ra sức tập
hợp lực lượng, trong đó có Pháp, để chống Liên Xô.
Ngày 28-2-1946, Pháp và Tưởng đã ký hiệp ước Hoa- Pháp tại Trùng Khánh gây nên
một bất lợi cho ta. Trước đó ta lợi dụng mâu thuẫn giữa Pháp và Tưởng để tránh đối đầu
với 2 thế lực lớn này, còn nay chúng lại bắt tay thoả hiệp với nhau. Tình thế này buộc ta
phải đưa ra được những chính sách đối ngoại mới, linh hoạt, phù hợp để đối phó với
Tưởng và Pháp.
Trước tiên, ta vẫn chủ trương tiếp tục hoà hoãn với thế lực Tưởng ở Đông Dương nhằm

dùng Tưởng để cản trở việc thực hiện ý đồ của Pháp và trong cả việc thực thi thoả thuận
Hoa- Pháp về Đông Dương, duy trì được thế hoà hoãn với cả hai phía, tạo thế vững chắc
trong cuộc thương lượng với Pháp.
Chính sách của ta dần chuyển thành nhân nhượng, hoà hoãn với Pháp tuy nhiên vẫn giữ
nền độc lập chính trị. Mục tiêu của hoà hoãn với Pháp để đẩy Tưởng về nước, biến hiệp
định tay đôi thành thoả thuận tay ba. Thoả hiệp Việt- Pháp được hoàn chỉnh từng bước qua
các cuộc đấu tranh trong đàm phán giữa hai bên. Cuối cùng, ngày 6-3-1946, hiệp định sơ
bộ Việt- Pháp được ký kết với sự chứng kiến của phái bộ Mỹ, lãnh sự Anh và lực lượng
của Tưởng Giới Thạch ở Đông Dương.
Việc ký hiệp định Sơ bộ là một biện pháp ngoại giao sáng suốt, phản ánh việc ta vận
dụng sách lược phân hoá kẻ thù, sử dụng điều khoản thay quân của Hiệp định Hoa- Pháp
tạo thời cơ đẩy quân Tưởng và bọn tay sai của chúng ra khỏi đất nước, tránh được nguy cơ
4


phải đối phó với hai thế lực thù địch cùng một lúc. Đồng thời, Hiệp định tạo một không
gian hoà hoãn trong cả nước để có thể biến thời gian thành lực lượng vật chất và cùng với
kết quả đem lại trên thực tế (quân Tưởng rút quân về nước, Pháp phải dãn quân ra) đã góp
phần làm thay đổi, so sánh lực lượng toàn cục có lợi hơn cho cuộc đấu tranh của nhân dân
ta trong cả nước.
Ngay sau khi Hiệp định Sơ bộ ngày 6-3-1946 được ký kết, nội bộ quân Pháp có sự thay
đổi. Mâu thuẫn giữa phải chủ chiến mà đứng đầu là Đắc- giăng- li- ơ và phe chủ hoà đứng
đầu là Lơ- Cléc và Xanh- tơ- ni trong quân đội Pháp lên cao. Đắc- giăng- li- ơ chỉ trích LơCléc "chỉ thích điều đình, không muốn đánh nhau. Trong khi đó, cố vẫn chính trị Cao uỷ
Pháp lại nhận xét: Về phía Pháp, Hiệp định được thảo ra một cách vội vã. Phái chủ chiến
dần thắng thế. Các lực lượng thực dân hiếu chiến phản động ở Đông Dương tìm cách hạ
thấp ý nghĩa của Hiệp định Sơ bộ, trì hoãn việc thi hành Hiệp định, tiếp tục tiến hành chiến
tranh Nam Bộ, Nam Trung Kỳ, lập ra "chính phủ Nam Kỳ" và " Nước cộng hoà Nam Kỳ".
Theo yêu cầu của phía Pháp, ngày 24-3-1946, chủ tịch Hồ Chí Minh đã gặp Đắc- giăngli- ơ ở Vịnh Bắc Bộ. Tại cuộc gặp, hai bên đã thoả thuận những bước tiếp của cuộc đàm
phán Việt- Pháp để giải quyết những vấn đề còn lại của Hiệp định Sơ bộ. Hai bên đồng ý
triệu tập cuộc họp trù bị ở Đà Lạt như Pháp đề nghị nhưng ta đòi phải có sự tham gia của

đại biểu Chính phủ từ Pháp sang; đồng ý triệu tập sớm cuộc đàm phán chính thức giữa hai
bên ở Paris ngay sau khi kết thúc cuộc họp trù bị; phía Pháp mời đoàn đại biểu Quốc hội
Việt Nam và chủ tịch Hồ Chí Minh sang thăm nước Pháp vào tháng 5-1946.
Tại cuộc họp trù bị ở Đà Lạt, do lập trường ngoan cố của Pháp, cuộc họp trù bị ViệtPháp sau 22 ngày đấu tranh gay gắt không đem lại kết quả cụ thể nào. Tuy nhiên hai bên
đã hiểu lập trường của nhau; giúp ta chuẩn bị tốt hơn cho cuộc họp chính thức ở Paris.
Cuộc đàm phán chính thức Việt- Pháp ở Phông- ten- nơ- blô tiến hành từ ngày 6-7-1946
đến 1-8-1946, ta rất có thiện chí nhưng bọn thực dân phản động Pháp luôn thực hiện âm
mưu phá vỡ hoàn toàn cuộc đàm phán chính thức, đi đến làm vô hiệu hoá Hiệp định Sơ bộ
6-3-1946. Chúng gần như đã thực hiện được âm mưu của mình. Ngày 13-9-1946, đoàn
đàm phán của ta lên đường về nước. Tuy nhiên, chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định ở lại
thêm vài ngày nữa để tiếp tục thảo luận với Chính phủ Pháp nhằm cứu vãn tình thế căng
thẳng của quan hệ Pháp- Việt, kéo dài thêm thời gian hoà hoãn ở Đông Dương rất cần cho
ta lúc này. Kết quả là tạm ước 14-9-1946 được ký kết giữa Hồ Chí Minh và Bộ trưởng Mutê đại diện của Chính phủ Pháp. Tạm ước đã ghi nhận tạm thời những cam kết của Việt
Nam và Pháp trên cơ sở Hiệp định Sơ bộ, nhằm giải quyết những vấn đề bức thiết trong
mối quan hệ hai nước, khẳng định cần phải ngừng ngay mọi xung đột. Phía Pháp sẽ đảm
bảo thực hiện các quyền tự do, dân chủ ở Nam Bộ, thả những người Việt Nam bị Pháp bắt
và phía Việt Nam nhân nhượng cho Pháp một số quyền lợi về kinh tế và văn hoá ở Việt
Nam. Bọn thực dân Pháp phản động cùng đòi chủ tịch Hồ Chí MInh thoả thuận rút lực
lượng vũ trang ở Nam Bộ ra miền Bắc nhưng Người kiên quyết không chấp nhận.
Như vậy, bằng việc nhân nhượng thêm cho Pháp một số quyền lợi về kinh tế, văn hoá và
kiên trì quan điểm độc lập trong Liên hiệp Pháp, ta đạt được tiếp tục ngừng bắn, cam kết
quyền tự do, dân chủ cho nhân dân Nam Bộ. Do đó, giúp ta có thêm thời gian để chuẩn bị
lực lượng quân sự, kinh tế,... đối phó với quân địch.
5


Hiệp định Sơ bộ 6-3-1946 và tạm ước 14-9-1946 đã thể hiện được chính sách đối ngoại
đa phương, mềm dẻo và linh hoạt của Đảng, chủ tịch Hồ Chí Minh. Nhờ những chính sách
này, ta không những loại bỏ được bớt kẻ thù( Tưởng Giới Thạch) mà còn có thêm thời gian
để chuẩn bị cho toàn quốc kháng chiến.

c-Chính sách đối ngoại với các quốc gia khác:
Như đã khẳng định trong Thông cáo 3-10-1945, với các nước lớn, các nước trong Đồng
Minh chống phát xít thì Việt Nam hết sức thân thiện và thành thực hợp tác trên lập trường
bình đẳng và tương ái. Mỹ là một nước lớn trong phe Đồng Minh chống phát xít. Thái độ
của Chính phủ Mỹ sẽ ảnh hưởng đến việc Pháp thiết lập chế độ thuộc địa ở Đông Dương,
ảnh hưởng tới sự bành trướng của quân đội Tưởng. Từ tháng 9 năm 1945 đến tháng 2 năm
1946, chủ tịch Hồ Chí Minh đã 8 lần gửi thông điệp, thư, điện và công hàm cho Tổng
thống và Ngoại trưởng Mỹ, giới thiệu các phát triển mới trong tình hình của Việt Nam; tố
cáo Pháp trở lại xâm lược Việt Nam và vi phạm các nguyên tắc nêu trong Hiến chương Đại
Tây Dương và Hiến chương Liên Hiệp Quốc; đề nghị Mỹ công nhận nền độc lập của Việt
Nam.
Chính phủ Việt Nam cũng thường xuyên giữ quan hệ với các đại diện Mỹ có mặt ở Việt
Nam, như Phái bộ Mỹ tại Đông Dương; văn phòng của cơ quan Tình báo chiến lược. Mục
đích của ta là nhằm tranh thủ những người Mỹ có mặt ở Hà Nội để hỗ trợ cho việc kiềm
chế tướng lĩnh Tưởng và thế lực của Pháp. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng có những cuộc tiếp
xúc với quan chức ngoại giao của Mỹ. Tháng 9 năm 1946, khi ở Pháp, chủ tịch đến thăm
Đại sứ quán Mỹ ở Paris, gặp Đại sứ Mỹ và sau đó tiếp cán bộ Đại sứ quán Mỹ đến chào
Người. Các giao dịch của những người đứng Việt Nam đã có những tác động ít nhiều tới
thái độ cuả Mỹ trong vấn đề Đông Dương. Tài liệu của Nhà Năm Góc đã nhận xét về vấn
đề này:" Trong khi không có hành động gì đáp ứng yêu cầu mà Hồ Chí Minh nêu lên, Mỹ
cũng không sẵn sàng giúp đỡ Pháp".Như vậy chính sách ngoại giao của ta lúc này là ngoại
giao nhân dân, chủ động lập hội Việt- Mỹ thân hữu nhằm tranh thủ Mỹ trung lập, tạo điều
kiện để hoà hoãn, kiềm chế lực lượng của Tưởng cũng như Pháp ở Việt Nam.
Đối với các nước khác trên thế giới, Việt Nam chủ trương quan hệ hữu nghị, hợp tác,
bình đẳng, tranh thủ sự giúp đỡ, ủng hộ từ bên ngoài. Đối với nhân dân Pháp, Việt Nam
không thù hằn gì, vẫn luôn tỏ thái độ thân thiện, tỏ ý muốn hợp tác. Ta chỉ chống lại bọn
thực dân Pháp phản động, có ý đồ muốn xâm lược nước ta.
CHÚ THÍCH
(1) Thứ trưởng ngoại giao VŨ KHOAN. Ngoại giao phục vụ sự nghiệp phát triển kinh
tế của đất nước. Tạp Chí Quan hệ quốc tế số đặc biệt. Số 7, tháng 9-1995, trang 3


6



×