Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Chính sách tài khóa và vấn đề nợ công của Việt Nam từ năm 2009 đến nay.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (327.3 KB, 11 trang )

Chính sách tài khóa và vấn đề nợ công của Việt Nam
Lời mở đầu:
Cuộc khủng hoảng kt thế giới đã tác động đến việt Nam đặc biệt từ cuối năm
2008. Để đối phó với tình hình đó, chính phủ đã đưa ra nhiều chính sách vĩ mô
đặc biệt là các chính sách kích cầu để giúp nước ta thoát khỏi cuộc suy thoái.
Tuy nhiên, bên cạnh đó những chính sách của chính phủ cũng làm thâm hụt
ngân sách và nợ công tăng lên. Để làm rõ hơn về những vấn đề trên, nhóm mình
chọn đề tài: “chính sách tài khóa và tình hình nợ công của VN từ 2009 đến nay”
để trình bày
Cơ sở lý thuyết cho việc thực hiện chính sách tài khóa:
Chính sách tài khóa sử dụng chi tiêu chính phủ và các chương trình thuế để
kích thích nền kinh tế quốc gia trong thời gian thất nghiệp cao và lạm phát thấp
( nền kinh tế suy thoái), hoặc để xoa dịu nền kinh tế trong thời kỳ lạm phát cao
và thất nghiệp thấp.
Khi nền kinh tế suy thoái: biểu hiện tình trạng sản lượng quốc gia ở mức
thấp hơn mức sản lượng tiềm năng, tỷ lệ thất nghiệp tăng cao. Chính phủ áp
dụng chính sách tài khóa mở rộng bằng cách tăng chi ngân sách hoặc giảm thuế
hoặc cả hai. Kết quả là làm tổng cầu tăng lên, sản lượng tăng, tạo thêm nhiều
việc làm và giảm thất nghiệp.
Khi nền kinh tế có lạm phát cao: biểu hiện sản lượng quốc gia vượt quá mức
sản lượng tiểm năng, đồng thời chỉ số giá cũng tăng cao tác động xấu đến nền
kinh tế. Chính phủ cần áp dụng chính sách tài khóa thu hẹp, cụ thể giảm chi
ngân sách, tăng thuế. Kết quả là làm giảm tổng cầu, sản lượng giảm, lạm phát
giảm và việc làm có xu hướng giảm
Một số nghiên cứu về tác động của chi tiêu chính phủ đối với tăng trưởng
kinh tế:
Đã có nhiều nghiên cứu về mối quan hệ giữa chi tiêu của chính phủ và tăng
trưởng kinh tế. Tuy nhiên vẫn còn nhiều tranh cãi xung quanh các kết quả
nghiên cứu này.
Chẳng hạn như: kết quả nghiên cứu của Kormendi và Meguire (1985) chỉ ra
rằng chi tiêu chính phủ không hề có tác động đến tăng trưởng kinh tế, trong khi


đó kết quả nghiên cứu của Barro (1991) cho thấy tiêu dùng chính phủ có tác
động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế.
Một số nghiên cứu cho rằng tăng trưởng kinh tế, chi tiêu công và thuế khoá có
mối tương quan thống kê âm, như nghiên cứu của Grier và Tullock (1989),
Barro (1989, 1991), Hansson và Henrekson (1994)... Một số nghiên cứu khác
thì lại cho rằng chúng không có mối liên hệ nào cả, như nghiên cứu của Levine
và Renelt (1992), Levine và Zervos (1993), Easterly và Rebelo (1993), và Lin
(1994).
(Nguồn:T.S Phạm Thế Anh, Chi tiêu chính phủ và tăng trưởng Kinh tế -Khảo
sát lý luận tổng quan, Trung tâm nghiên cứu Kinh Tế và Chính Sách, Đại Học
Kinh Tế- Đại Học Quốc Gia Hà Nội)
I. Chính sách tài khóa từ năm 2009 đến nay:
Kinh tế Việt Nam cũng hứng chịu những tác động mạnh từ cuộc khủng
hoảng kinh tế thế giới, đặc biệt tại thời điểm đầu 2009. Tăng trưởng sụt giảm
thể hiện ở hầu hết tất cả các ngành kinh tế chủ lực, như nông nghiệp, công
nghiệp chế biến, công nghiệp điện, nước, ga.
Nguồn: Tổng cục thống kê
Trước bối cảnh đó, Chính phủ Việt Nam đã nhanh chóng ban hành những
chính sách kích thích kinh tế qui mô lớn. Chính phủ đã ban hành Nghị quyết
30/2008/NQ-CP, đề ra các giải pháp hỗ trợ phát triển kinh tế, trong đó thực hiện
Chính sách tài khóa mở rộng
Sang đến quí I/2009, Chính phủ đã ban hành hai gói kích thích kinh tế qui
mô lớn: Gói kích cầu đầu tiên trị giá khoảng 1 tỷ USD hỗ trợ lãi suất; Gói kích
cầu thứ hai trị giá 8 tỷ USD, gồm các nội dung: tăng chi đầu tư; tăng chi an sinh
xã hội, giảm thuế.
Chương trình cắt giảm thuế:Bộ Tài chính đã nhanh chóng hướng dẫn thi
hành các ưu đãi trong lĩnh vực thuế, phí và thủ tục: Giảm thuế VAT cho một
loạt các mặt hàng; Giảm 30% thuế thu nhập doanh nghiệp cho doanh nghiệp
vừa và nhỏ trong quí IV/2008 và cả năm 2009; Miễn trừ thuế thu nhập cá nhân
trong nửa đầu năm 2009. Trên thực tổng số tiền thuế được miễn, giảm, giãn

khoảng 20.000 tỷ đồng (Bộ Tài chính 2009).
Sang đến năm 2010, khi nền kinh tế đã có những bước hồi phục tương đối rõ
nét, chính sách của Bộ Tài chính tập trung vào việc tiếp tục thực hiện các chính
sách kích thích kinh tế trong năm 2009 và kéo dài sang năm 2010.
Chính sách kích thích kinh tế trong năm 2009 nửa đầu năm 2010 đã thu được
những thành công nhất định. Sau quí I/2009, nền kinh tế đã trải qua 4 quí liên
tiếp tăng trưởng quí sau cao hơn quí trước nền kinh tế đã bước ra khỏi giai đoạn
thu hẹp của một chu kỳ kinh tế.
Năm 2011* : Tăng trưởng kinh tế dự kiến năm 2011
Nguồn: Tổng hợp từ số liệu của vnexpress.net và economy.vn
Việc thực hiện các chính sách kích thích kinh tế của Bộ Tài chính còn thể
hiện rất rõ trong cán cân ngân sách năm 2009 và 2010. Dưới tác động của gói
kích thích kinh tế, thâm hụt ngân sách năm 2009 lên tới 6,9%/GDP. Mức bội
chi ngân sách năm 2010 là 6.2%
Bộ Tài chính xác định nhiệm vụ năm 2011 là tăng cường phối hợp đồng bộ,
chặt chẽ chính sách tài khóa với chính sách tiền tệ và các chính sách khác nhằm
tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, thực hiện có hiệu quả các mục tiêu kinh tế -
xã hội.
Kiến nghị chính sách
Như những vấn đề đã được trình bày và đánh giá ở trên nhóm đưa ra những
kiến nghị để xây dựng và thực hiện chính sách tài khóa đối với Việt Nam như
sau:
a. Trong các kế hoạch chi tiêu công để đầu tư phát triển kinh tế cần phải
được kiểm soát chặt chẽ, tăng tính minh bạch trong việc chi tiêu công,
nếu thấy cần thiết có thể thiết lập 1 cơ quan độc lập để giám sát các chính
sách tài khóa. Cơ quan này chịu trách nhiệm xác định những thay đổi
trạng thái chu kỳ của nền kinh tế, đánh giá mức độ phù hợp và giám sát
hiệu quả của các chính sách tài khóa.
b. Trong việc thực hiện các chính sách vĩ mô phải có sự phối hợp chặt chẽ
và đồng bộ giữa các bộ, ban ngành đặc biệt giữa Bộ Tài Chính với Ngân

hàng Trung Ương giúp cho các chính sách vĩ mô có thể hỗ trợ lẫn nhau.
Khi đó chính sách tài khóa sẽ phát huy được tác dụng của mình.
c. Việc dựa vào các khoản thu từ dầu thô và các hoạt động xuất nhập khẩu
là thiếu ổn định và không bền vững. Do đó Chính phủ cần xây dựng kế
hoạch dài hạn để giảm chi tiêu, giảm mạnh chi phí hành chính trong các
cơ quan nhà nước nhằm giảm bớt sức ép về cầu nhất là các loại cầu
không tạo ra hiệu quả chuyển các khoản đầu tư công sang khu vực tư
nhân
II. Vấn đề nợ công:
1. Các quan điểm về nợ công:
Theo quan điểm truyền thống về nợ công, đại diện là Keynes, cho rằng, việc
vay nợ của chính phủ làm giảm tiết kiệm của quốc gia và mức tích luỹ vốn, vì

×