Tải bản đầy đủ (.doc) (104 trang)

Một số giải pháp quản lý chất lượng đào tạo hệ vừa làm vừa học ở cơ sở II trường đại học lao động xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (552.54 KB, 104 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

BÙI ANH SƠN

MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ
CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO HỆ VỪA LÀM VỪA HỌC
Ở CƠ SỞ II TRƯỜNG ĐẠI HỌC LAO ĐỘNG - XÃ HỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC


NGHỆ AN - 2015

2


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

BÙI ANH SƠN

MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ
CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO HỆ VỪA LÀM VỪA HỌC
Ở CƠ SỞ II TRƯỜNG ĐẠI HỌC LAO ĐỘNG - XÃ HỘI

Chuyên ngành: Quản lý giáo dục
Mã số: 60.14.01.14

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC


Người hướng dẫn khoa học:

PGS. TS. NGUYỄN NGỌC HỢI


NGHỆ AN - 2015

4


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập và nghiên cứu hoàn thành luận văn tốt nghiệp,
tôi đã nhận được sự động viên, giúp đỡ quý báu của nhiều đơn vị cá nhân.
Trước tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS. TS. Nguyễn
Ngọc Hợi, người thầy đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi hoàn thành luận
văn này.
Xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn đến Quý Thầy cô tham gia giảng dạy
lớp Cao học Quản lý giáo dục khóa 21, quý Thầy cô công tác tại Khoa Sau
Đại học – Trường Đại học Vinh.
Tôi cũng xin trân trọng cảm ơn Ban giám đốc, quý Thầy cô giảng dạy tại
Cơ sở II trường Đại học Lao động - Xã hội đã tạo mọi điều kiện cho tôi được
tham gia học tập và nghiên cứu.
Cuối cùng xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến những người thân yêu
trong gia đình về sự động viên và giúp đỡ to lớn nhất đã dành cho tôi trong
suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.
Dù đã có nhiều cố gắng trong quá trình thực hiện, song chắc chắn rằng luận văn này sẽ
không tránh khỏi một vài thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự góp ý của Quý Thầy cô và các bạn.

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 04 năm 2015
Bùi Anh Sơn



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt:

Được sử dụng là:

CBCNV

: Cán bộ công nhân viên

CB-NV

: Cán bộ - Nhân viên

CBQL

: Cán bộ quản lý

CNH

: Công nghiệp hóa

CSVC

: Cơ sở vật chất

GDĐH


: Giáo dục đại học

QLGD

: Quản lý giáo dục

HĐH

: Hiện đại hóa

HV

: Học viên

KT-XH

: Kinh tế - Xã hội

LKĐT

: Liên kết đào tạo

PPDH

: Phương pháp dạy học

QLĐT

: Quản lý đào tạo


VLVH

: Vừa làm vừa học

XHHT

: Xã hội học tập


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN...............................................................................................1
PHỤ LỤC NGHIÊN CỨU.........................................................................78


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng

Tên bảng

Trang

2.1

Quy mô đào tạo của Cơ sở II Trường Đại học Lao động - Xã hội

28

2.2


Số lớp hệ vừa làm vừa học đang đào tạo

29

2.3

Về cơ cấu trình độ chuyên môn nghiệp vụ cán bộ của Cơ sở II
Trường Đại học Lao động - Xã hội

31

2.4

Cơ cấu cán bộ giảng viên chia theo độ tuổi

31

2.5

Cơ cấu độ tuổi của cán bộ quản lý cấp phó trưởng phòng trở lên

31

2.6

Cơ sở vật chất của Cơ sở II Trường Đại học Lao động - Xã hội

32

2.7


Danh mục các ngành đào tạo theo hình thức VLVH

33

2.8

Bảng thống kê số lượng tuyển sinh hệ VLVH

34

2.9

Các cơ sở liên kết đào tạo

2.10

Quy mô đào tạo hệ vừa làm vừa học

2.11

Quản lý công tác tuyển sinh hệ VLVH

2.12

Quản lý kế hoạch thực hiện chương trình đào tạo hệ VLVH

2.13

Quản lý kế hoạch đào tạo năm học


43-44

2.14

Theo dõi, đôn đốc, kiểm tra thực hiện kế hoạch đào tạo

44-45

2.15

Quản lý hoạt động giảng dạy hệ vừa làm vừa học

45-46

3.1

Kết quả khảo sát sự cần thiết của các giải pháp

67

3.2

Kết quả khảo sát tính khả thi của các giải pháp

67

35-36
38
40-41

43


DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ

Sơ đồ

Tên bảng

Trang

1.1

Mối liên hệ giữa các chức năng của quản lý

16

2.1

Bộ máy quản lý Cơ sở II Trường Đại học Lao động - Xã hội

30

2.2

Sơ đồ quản lý đào tạo hệ VLVH

39



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đất nước ta đang bước vào thời kỳ công nghiệp hóa (CNH), hiện đại hóa
(HĐH) trong một bối cảnh khi mà điểm xuất phát chỉ là một nền kinh tế nông
nghiệp lạc hậu, nguồn nhân lực chất lượng thấp, chưa được đào tạo cơ bản.
Sau hơn bảy năm gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới WTO, kinh tế Việt
Nam đang hội nhập ngày càng sâu sắc vào nền kinh tế thế giới và khu vực với
tất cả cơ hội và thách thức. Trong bối cảnh ấy, Việt Nam được biết đến với
lực lượng lao động trẻ đông đảo, thông minh, học hỏi nhanh, khéo tay nhưng
lại đang thiếu gay gắt nhân lực được đào tạo có chuyên môn cao. Một trong
những điểm mấu chốt ảnh hưởng tới tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế
của nước ta hiện nay và trong tương lai chính là số lượng và chất lượng nguồn
nhân lực được đào tạo. Câu trả lời là phải phát triển giáo dục Việt Nam đáp
ứng nhu cầu phát triển kinh tế.
Ngày nay, khi tri thức và sáng tạo đã trở thành yếu tố quan trọng nhất để
tăng trưởng và phát triển thì sự thành bại của công cuộc hội nhập trong một
thế giới đang cạnh tranh quyết liệt phụ thuộc rất nhiều vào giáo dục đào tạo.
Nhận thức được vấn đề này, trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta
đã có những chủ trương chính sách đổi mới giáo dục, đặc biệt là công tác giáo
dục bậc đại học. Ngành giáo dục và đào tạo cần sự nghiên cứu, tìm tòi, thiết
kế nội dung chương trình, đổi mới phương pháp, có quan điểm cụ thể trong
quá trình dạy học. Trong quá trình đổi mới, có hai vấn đề mà xã hội đặc biệt
quan tâm: thứ nhất là chất lượng đào tạo và thứ hai là mức độ đáp ứng nhu
cầu học tập. Quản lý giáo dục, đào tạo nói chung, trong đó công tác quản lý
đào tạo bậc đại học hệ vừa làm vừa học (VLVH) nói riêng giữ vai trò quyết
định trong việc đáp ứng nhu cầu học tập, học thường xuyên, học suốt đời
ngày càng cao của mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội. Con đường tất yếu
phải thực hiện là phát triển nhanh quy mô; đồng thời phải bảo đảm về chất
1



lượng. Sự bùng nổ giáo dục đại học có thể dẫn đến những bất cập về chất
lượng, đặc biệt là chất lượng đào tạo đại học theo hình thức VLVH. Cùng với
giáo dục đào tạo đại học chính quy, giáo dục đào tạo đại học hệ VLVH (ngoài
chính quy) đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện thắng lợi mục tiêu của
chiến lược phát triển giáo dục đào tạo của đất nước. Việc xác định thực trạng
công tác quản lý đào tạo hệ VLVH, suy nghĩ thấu đáo về nội dung, biện pháp
quản lý loại hình đào tạo này để thực hiện khâu đột phá đổi mới quản lý giáo
dục ở trường đại học, cao đẳng là việc làm cần thiết, góp phần nâng cao chất
lượng đào tạo hiện nay.
Cơ sở II Trường Đại học Lao động - Xã hội những năm qua đã có nhiều
cố gắng trong đổi mới công tác đào tạo, góp phần nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực cho sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước. Tuy nhiên, do tiền
thân là một Trường Đại học được nâng cấp từ Trường Trung cấp chuyên
nghiệp, trong giai đoạn đầu triển khai hoạt động đào tạo, cần phải nghiên cứu,
khảo sát nhiều hơn nữa nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý đào tạo để
đáp ứng nhu cầu chất lượng trước xu thế hội nhập toàn cầu và theo kịp bước
đà phát triển kinh tế của Việt Nam hiện nay.
Công tác quản lý đào tạo hình thức VLVH của Cơ sở II Trường Đại học
Lao động - Xã hội trong những năm qua cho thấy số lượng học viên đại học
hệ VLVH ngày một tăng trong khi những yếu tố đảm bảo chất lượng đào tạo
còn nhiều hạn chế. Việc nâng cao chất lượng đào tạo đại học hệ VLVH phụ
thuộc nhiều yếu tố nhưng việc đổi mới quản lý đào tạo là nhiệm vụ quan
trọng và cấp bách của Nhà trường nhằm nâng cao chất lượng đào tạo đại học
VLVH.
Quản lý đào tạo hệ VLVH của Cơ sở II Trường Đại học Lao động - Xã
hội hiện nay vẫn còn có những bất cập nhất định trước yêu cầu đổi mới quản
lý đào tạo. Bên cạnh những đề tài nghiên cứu đi sâu vào bản chất khoa học

2



của công tác quản lý đào tạo đại học nói chung, việc quản lý đào tạo đại học
hệ VLVH đang rất cần được quan tâm nghiên cứu.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu “Một số
giải pháp quản lý chất lượng đào tạo hệ vừa làm vừa học ở Cơ sở II Trường
Đại học Lao động - Xã hội”.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất một số giải pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng đào tạo theo
hình thức VLVH của Cơ sở II Trường Đại học Lao động - Xã hội.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu: Vấn đề quản lý chất lượng đào tạo theo hình thức
VLVH của Trường Đại học.
- Đối tượng nghiên cứu: Giải pháp quản lý chất lượng đào tạo theo hình
thức VLVH của Cơ sở II Trường Đại học Lao động - Xã hội.
4. Giả thuyết khoa học
Nếu đề xuất được một số giải pháp quản lý chất lượng đào tạo hệ VLVH
mang tính khoa học, phù hợp với thực tiễn và áp dụng đồng bộ, thì công tác
đào tạo hệ VLVH của Cơ sở II Trường Đại học Lao động - Xã hội sẽ đạt chất
lượng cao hơn.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của vấn đề quản lý chất lượng đào tạo hệ
VLVH ở các trường đại học;
- Nghiên cứu cơ sở thực tiễn của vấn đề quản lý chất lượng đào tạo hệ
VLVH ở Cơ sở II Trường Đại học Lao động - Xã hội;
- Đề xuất một số giải pháp quản lý chất lượng đào tạo hệ VLVH ở Cơ sở
II Trường Đại học Lao động - Xã hội.
6. Phương pháp nghiên cứu
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
3



Nhóm phương pháp này giúp thu thập các thông tin lý luận để xây dựng
cơ sở lý luận của đề tài. Thuộc nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận có các
phương pháp nghiên cứu cụ thể sau đây:
• Phương pháp phân tích - tổng hợp tài liệu;
• Phương pháp khái quát hóa các nhận định độc lập;
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Nhóm phương pháp này nhằm thu thập các thông tin thực tiễn để xây
dựng cơ sở thực tiễn của đề tài. Thuộc nhóm phương pháp nghiên cứu thực
tiễn có các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau đây:
• Phương pháp điều tra;
• Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục;
• Phương pháp nghiên cứu các sản phẩm hoạt động;
• Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia;
- Phương pháp thống kê toán học
7. Đóng góp của luận văn
- Về mặt lý luận: Góp phần hoàn thiện cơ sở lí luận của vấn đề quản lý
chất lượng đào tạo hệ VLVH của trường Đại học.
- Về mặt thực tiễn: Khảo sát thực trạng quản lý chất lượng đào tạo hệ
VLVH của Cơ sở II Trường Đại học Lao động - Xã hội.
- Từ đó đề xuất một số giải pháp quản lý chất lượng đào tạo hệ VLVH ở
Cơ sở II Trường Đại học Lao động - Xã hội.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, tài liệu tham khảo, phụ lục
nghiên cứu luận văn gồm có ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của vấn đề quản lý chất lượng đào tạo hệ VLVH
ở trường Đại học.
4



Chương 2: Thực trạng quản lý chất lượng đào tạo hệ VLVH ở Cơ sở II
Trường Đại học Lao động - Xã hội.
Chương 3: Một số giải pháp quản lý chất lượng đào tạo hệ VLVH của Cơ
sở II Trường Đại học Lao động - Xã hội.

5


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG
ĐÀO TẠO HỆ VỪA LÀM VỪA HỌC Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC

1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Các nghiên cứu ở nước ngoài
Trên thế giới hiện nay toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế vừa là quá trình
hợp tác để phát triển, vừa là quá trình đấu tranh của các nước đang phát triển
để bảo vệ quyền lợi quốc gia. Cạnh tranh kinh tế giữa các quốc gia ngày càng
trở nên gay gắt, đòi hỏi các nước phải đổi mới công nghệ để tăng năng suất
lao động. Khoa học công nghệ ngày nay đã trở thành động lực cơ bản của sự
phát triển kinh tế xã hội. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ tiếp tục phát
triển mạnh mẽ, làm nền tảng cho sự phát triển kinh tế tri thức. Các nước đều
xem phát triển giáo dục là nhiệm vụ trọng tâm của chiến lược phát triển kinh
tế xã hội, dành cho giáo dục những đầu tư ưu tiên, đẩy mạnh cải cách giáo
dục nhằm giành ưu thế cạnh tranh trên trường quốc tế. Bên cạnh đó, sự phát
triển của khoa học công nghệ đã làm thay đổi mạnh mẽ nội dung, phương
pháp giáo dục. Hệ thống, chương trình giáo dục của các quốc gia không
ngừng được đổi mới nhằm xóa bỏ mọi ngăn cách trong các nhà trường, cung
cấp các tri thức hiện đại nhằm đáp ứng kịp thời yêu cầu mới phát sinh của nền
kinh tế.

Ngay từ những năm đầu của thế kỷ XX, vấn đề giáo dục thường xuyên
cho người lớn tuổi đã được quan tâm ở nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên,
có thể nói rằng cho đến tận cuối thập niên 50 của thế kỷ trước thì đào tạo
chính quy cơ bản vẫn là hình thức duy nhất trong hệ thống giáo dục và đào
tạo toàn cầu.
Năm 1972, Edgar Faure - Chủ tịch Ủy ban Quốc tế về phát triển giáo dục
(thuộc UNESCO) trong tác phẩm nổi tiếng của ông “Học để làm người: Thế
6


giới giáo dục ngày nay và ngày mai” gửi UNESCO (Paris, UNESCO, 1972)
đã nêu các khái niệm quan trọng là “Học suốt đời” và “Tính phù hợp”, làm
xoay chuyển nhận thức về giáo dục. Với việc đặt giáo dục cho đối tượng
người lớn tuổi trong khuôn khổ của giáo dục suốt đời, khái niệm “Xã hội học
tập” được nhiều nhà giáo dục lớn trên thế giới đưa ra bàn luận và kết quả tất
yếu là quan niệm về giáo dục đã được mở rộng hơn: Giáo dục người lớn, giáo
dục thường xuyên, giáo dục không chính quy phải được coi là bộ phận chủ
yếu quan trọng cùng với nhà trường chính quy cung cấp cơ hội học tập suốt
đời cho mọi người. Đây là định hướng cho cải cách giáo dục giai đoạn này
[7].
Nhiều nghiên cứu cũng đề cập tới xu thế học tập suốt đời trong thời đại
mới. Chẳng hạn, Các nhà tương lai học như Alvin Toffer [33, 34, 35], Warren
Bennis, Stêphen Covey, Gary Hamel, Kevin Kelly, Philip Kotler, Michael
Porter, Perer Senge [3], Thomas L.Friedman [31, 32], Raja. RoySingh [29]…
đã lưu ý, phân tích các đặc trưng của xã hội hiện đại, được xây dựng trên nền
tảng của hệ thống tri thức khoa học phát triển nhanh, biến đổi mạnh và sự
thông tin toàn cầu. Nền giáo dục trong thế kỷ XXI sẽ hoàn toàn khác với nền
giáo dục truyền thống. Nền giáo dục phải hướng đến sự giáo dục suốt đời,
trên cơ sở thường xuyên đào tạo lại. Từ đó, đối với phần lớn cư dân, vừa làm
vừa học sẽ là con đường hiệu quả nhất để có thể thích ứng với nền kinh tế tri

thức.
Các nhà khoa học Trung Quốc, trong tác phẩm “Dự báo thế kỷ XXI” đã
cho rằng xu thế học tập suốt đời phát triển mạnh. Về mặt thời gian, giáo dục
sẽ mở rộng đến toàn xã hội [5].
Năm 1996 UNESCO công bố Báo cáo của Ủy ban quốc tế về giáo dục
thế kỷ XXI với nhan đề “Học tập, một kho báu tiềm ẩn” đã tạo nên bước
ngoặt của triết lý giáo dục hiện đại và xu thế học tập suốt đời cho mọi người.
Quan điểm này thực ra có từ rất sớm, nó xuất phát từ quan điểm “Giáo dục
7


bình đẳng” trong tư tưởng của Mác – Ăng ghen cho đến tư tưởng Hồ Chí
Minh đó là “Mọi người ai cũng được học hành”. Vấn đề được chú trọng lúc
bấy giờ là tạo điều kiện để phát huy cao nhất tiềm năng con người, bởi thực
tế, năng lực con người là vô hạn và việc đầu tư cho học tập tỉ lệ thuận với
những khả năng của con người được khai phá. Có thể nói, việc học tập để
phát huy tiềm năng con người chỉ nên được chia thành hai giai đoạn là học tập
ban đầu và học tập tiếp tục, thậm chí năng lực học tập và làm việc sẽ cộng
hưởng và đạt kết quả rất cao khi kết hợp song song hai quá trình với nhau.
Như vậy, giáo dục không thể tách rời xã hội mà giáo dục và xã hội là
một khối thống nhất. Xã hội học tập bao gồm các hình thức: giáo dục chính
quy và giáo dục không chính quy. Với sự phát triển bùng nổ của công nghệ
thông tin, nhu cầu học tập để chiếm lĩnh tri thức được các nhà khoa học giáo
dục đi sâu nghiên cứu và chia sẻ trên các diễn đàn, các tạp chí khoa học
chuyên ngành đã dần hiện thực hóa mục đích xây dựng xã hội học tập trên
toàn cầu với tiêu chí học tập suốt đời.
1.1.2. Các nghiên cứu ở trong nước
Khi bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, giáo dục
đại học đều trở thành trụ cột cho sự phát triển kinh tế – xã hội nói chung và
khoa học giáo dục nói riêng. Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật này:

Giáo dục luôn được xem là quốc sách hàng đầu và là động lực phát triển đất
nước. Cùng với xu thế toàn cầu hóa, Việt Nam từng bước hội nhập và phát
triển thì nhu cầu về nguồn nhân lực qua đào tạo trở nên cấp bách, giáo dục đại
học (GDĐH) là đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao, có chất lượng để đáp ứng
những đòi hỏi của sự nghiệp CNH - HĐH đất nước; GDĐH là hạt nhân cơ bản
để xây dựng nền kinh tế tri thức. Các công trình nghiên cứu nhằm nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực, hiệu quả học tập và làm việc của toàn xã hội được
các nhà nghiên cứu Phạm Minh Hạc, Nguyễn Minh Đường, Phạm Tất Dong,
Thái Xuân Đào, Hoàng Tụy… lần lượt được công bố.
8


Thực hiện quan điểm của Đảng về giáo dục và đào tạo: “Giáo dục cho
mọi người”; “Cả nước trở thành một xã hội học tập”, GDĐH Việt Nam còn
phải thực hiện bước chuyển từ “Đại học tinh hoa” sang “Đại học đại chúng”
nhằm đáp ứng nhu cầu học tập, học thường xuyên, học suốt đời ngày càng cao
của mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội. Con đường tất yếu phải thực hiện là
“phát triển nhanh quy mô; đồng thời phải bảo đảm về chất lượng”. Do vậy,
một số tác giả đã nghiên cứu về đổi mới giáo dục đại học Việt Nam, Chất
lượng giáo dục, các thành tố của chất lượng giáo dục (Nguyễn Văn Dân, Lê
Vân Anh, Nguyễn Hữu Chí) [1].
Tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám (Hà Nội) vào ngày 02/10/2011, lần đầu
tiên Bộ Giáo dục & Đào tạo phối hợp với UNESCO tại Việt Nam tổ chức
Tuần lễ hưởng ứng học tập suốt đời với chủ đề “ Học tập suốt đời – Chìa khóa
của mọi thành công”. Sự kiện thu hút các nhà lãnh đạo đất nước, các nhà khoa
học đóng góp các giải pháp để xây dựng Xã hội học tập (XHHT) ở Việt Nam.
Nhiều tác giả đã viết về đào tạo và quản lý đào tạo. Trong đó, tác giả
Nguyễn Như Ất viết về: Giáo dục không chính quy, giáo dục phi chính quy và
tự học trong hoạt động giáo dục và xã hội học [2].
Trần Đức Minh đã viết về một số yếu tố nâng cao chất lượng đào tạo ở

trường Cao đẳng Sư phạm [23].
Vấn đề “Xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục” cũng đã được tác
giả Nguyễn Thị Bình bàn đến trong tạp chí khoa học giáo dục (8/1981) [4].
Lê Đức Ngọc với bài viết: Mở rộng quy mô giáo dục đại học - quan
điểm và giải pháp” [25].
Tác giả Lê Duy Vỵ cũng có bài viết về: Một số biện pháp nâng cao chất
lượng giáo dục – đào tạo [37].
Tác giả Phạm Thành Nghị bàn về Quản lý chiến lược, kế hoạch trong
các trường đại học và cao đẳng [24].

9


Những công trình nghiên cứu để xây dựng XHHT và mục tiêu học tập
suốt đời ngày càng nhiều và đóng góp quan trọng trong việc định hướng phát
triển giáo dục quốc dân. Tuy nhiên, so với xu thế phát triển hiện nay thì số
lượng các công trình này chưa đầy đủ và vẫn còn thiếu điểm nhấn thực sự.
Hiện nay các hình thức đào tạo hệ VLVH đã đóng góp một phần quan
trọng trong việc nâng cao dân trí và đáp ứng được phần nào nhu cầu học tập
của người lao động và của toàn xã hội. Tuy nhiên cũng còn nhiều ý kiến tranh
luận về chất lượng của loại hình đào tạo này. Xã hội vẫn đặt nặng phân biệt
giữa hình thức giáo dục chính quy và không chính quy. Chất lượng đào tạo
VLVH vẫn khiến xã hội chấp nhận một cách dè dặt. Hơn nữa, điều kiện học
tập, công tác của đội ngũ lao động tại các vùng miền, khu vực trên cả nước
không thống nhất, lại càng không thống nhất với đòi hỏi của xã hội từng khu
vực, vùng miền. Chính vì vậy có thể nói vấn đề nghiên cứu quản lý đào tạo
VLVH là vô cùng cấp thiết, cần quan tâm trong nghiên cứu khoa học và luôn
chờ đợi các nghiên cứu khả thi của đội ngũ khoa học QLGD.
Riêng đối với đào tạo theo hình thức VLVH ở Cơ sở II trường Đại học
Lao động – Xã hội vấn đề này từ trước đến nay vẫn chưa được nghiên cứu.

Trên cơ sở kế thừa các công trình nghiên cứu của những tác giả đi trước,
luận văn sẽ tập trung khảo sát những tồn tại trong quá trình quản lý chất
lượng đào tạo của hệ VLVH, từ đó làm căn cứ đề xuất các giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng đào tạo của hệ VLVH nói riêng và chất lượng đào tạo
của nhà trường nói chung.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Chất lượng và chất lượng đào tạo hệ VLVH
1.2.1.1. Chất lượng
Chất lượng là đặc tính khách quan của sự vật, là một khái niệm rất trừu
tượng, được biểu hiện ra bên ngoài qua các thuộc tính. Chất lượng của sự vật
bao giờ cũng gắn liền với tính quy định về số lượng của nó và không thể tồn
10


tại ngoài tính quy định ấy. Mỗi sự vật bao giờ cũng là sự thống nhất của chất
lượng và số lượng.
Một định nghĩa khác về chất lượng tỏ ra có ý nghĩa đối với xác định chất
lượng giáo dục và cả việc đánh giá nó. Đó là “chất lượng là sự phù hợp với
mục tiêu”. Mục tiêu ở đây được hiểu một cách rộng rãi, bao gồm các sứ
mạng, các mục đích... Còn sự phù hợp với mục tiêu có thể là đáp ứng mong
muốn của những người quan tâm, là đạt được hay vượt qua các tiêu chuẩn đặt
ra. Tuy nhiên ý nghĩa thực tiễn của định nghĩa trên là ở chỗ đánh giá chất
lượng chính là xem xét sự phù hợp với mục tiêu đến mức độ nào.
Cũng có quan niệm về chất lượng được định nghĩa: “Chất lượng là cái
tạo nên phẩm chất, giá trị của một người, một sự vật, sự việc” [27].
Tóm lại: Chất lượng là khái niệm trừu tượng, phức tạp và là khái niệm
đa chiều, nhưng chung nhất đó là khái niệm phản ánh bản chất của sự vật và
dùng để so sánh sự vật này với sự vật khác.
1.2.1.2. Hệ vừa làm vừa học
Từ sau những năm 1980, sự xuất hiện của nền kinh tế tri thức cùng với

sự hình thành xã hội thông tin và xu thế toàn cầu hoá đã tác động mạnh mẽ
đến giáo dục, làm cho nền giáo dục được đổi mới một cách vượt bậc. Sự tiến
bộ của khoa học kỹ thuật, công nghệ và sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng
sản xuất là nguyên nhân thúc đẩy quá trình cải cách giáo dục trên phạm vi
toàn cầu. Tuy nhiên, trong thực tế nhân loại lại phải đang đối mặt với những
vấn đề khó khăn mà hầu như không thể khắc phục dễ dàng đó là sự cách biệt
giữa các tầng lớp trong xã hội, sự nghèo đói, áp bức, bóc lột, chiến tranh,
khủng bố, suy thoái tài nguyên thiên nhiên…
Để giải quyết được những vấn đề nêu trên thì điều quan trọng nhất là
chất lượng giáo dục. Giáo dục là phương thức chính yếu để mang lại sự phát
triển nhân cách tốt đẹp, thiết lập những quan hệ cần có giữa các cá nhân, các
cộng đồng, các dân tộc và các quốc gia. Do đó phải xây dựng một nền giáo
11


dục đại chúng, cho tất cả mọi người trong mọi xã hội. Không những thế, nền
giáo dục này lại phải là giáo dục suốt đời, để mọi người ở mọi nơi, mọi lúc
đều được hưởng phúc lợi giáo dục, cụ thể là về nhân cách, về việc làm, mà xã
hội có thể mang lại cho họ. Xã hội như vậy chính là XHHT và đó cũng chính
là triết lý giáo dục phù hợp với thời đại hiện nay, là chiến lược cần thiết để
làm cơ sở thúc đẩy cho nền kinh tế phát triển. Chúng ta cần phải hiểu sâu sắc
và vận dụng một cách tốt nhất, có hiệu quả nhất triết lý giáo dục XHHT này
song song với hình thức đào tạo chính quy hàn lâm trong những thập niên đầu
của thế kỷ XXI.
Xuất phát từ quan điểm, nền giáo dục thời đại mới phải dựa trên 4 yêu
cầu: học để biết, học để làm, học để xây dựng nhân cách và học để chung
sống với đồng loại. Ủy ban quốc tế về giáo dục thế kỷ XXI đã vạch ra nguyên
tắc xây dựng nền giáo dục trước mắt và cho những năm sắp tới đó là học suốt
đời hay nói khác đi là giáo dục suốt đời. Hệ thống giáo dục này trước hết phải
có các đặc điểm của hệ thống giáo dục đại chúng, trong đó phải có bộ phận

giáo dục ngoài nhà trường rộng lớn và vững mạnh. Hệ thống này còn phải gắn
chặt với hệ đào tạo và đào tạo lại căn cứ vào yêu cầu sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ và các dự báo diễn biến của các hoạt động này.
Có thể nói triết lý xã hội học tập là triết lý của một nền giáo dục cần
thiết cho thế kỷ XXI dựa trên 4 trụ cột giáo dục và nền tảng của nó là học tập
suốt đời và xây dựng một xã hội học tập.
Song song với triết lý trên là cơ cấu phát triển giáo dục ngoài nhà
trường, nhằm thực hiện việc nâng cao dân trí với các loại hình giáo dục như
VLVH, đào tạo từ xa, tự học có hướng dẫn. . . Đây là loại hình giáo dục ở
Việt Nam cần phải được chấn chỉnh và phát huy để đạt được chất lượng tốt
nhất. Tăng cường các loại hình học tập mới theo chủ đề hoặc không theo chủ
đề thông qua các phương tiện truyền bá thông tin, văn hoá như phát thanh,
truyền hình, thư viện, sách báo . . . Chúng ta cũng cần phải phát triển hơn nữa
12


các hình thức giáo dục cộng đồng, các cơ sở học tập gắn liền với các tổ chức
Kinh tế - Xã hội (KT-XH), các hiệp hội khoa học, các lớp học chuyên đề,
thực hiện chủ trương người biết dạy người chưa biết. Nhu cầu học tập suốt
đời rất đa dạng để đáp ứng được nhiều mặt của cuộc sống.
Một số khái niệm mới như: giáo dục thường xuyên/ giáo dục tiếp tục,
giáo dục người lớn/ giáo dục VLVH, giáo dục phi chính quy. . . đã ra đời để
mở một lối thoát cho cuộc khủng hoảng về nguồn nhân lực ở các nước. Do đó
các loại hình giáo dục này được coi như một bộ phận quan trọng, cùng với
nhà trường chính quy cung ứng cơ hội học tập suốt đời cho mọi người.
Bản tuyên ngôn của Hội nghị thế giới lần thứ V về giáo dục người lớn/
giáo dục VLVH tổ chức tại thành phố Hamburg Cộng hòa liên bang Đức
tháng 7/1997 đã khẳng định giáo dục người lớn (hệ vừa làm vừa học) tuy
khác nhau về tổ chức tùy theo sự phát triển KT-XH, văn hóa, giáo dục ở mỗi
nước, song giáo dục người lớn đều là những bộ phận quan trọng, cần thiết của

quan niệm mới về giáo dục và học tập suốt đời.
Hội nghị lần thứ III khu vực Châu Á- Thái Bình Dương về giáo dục
thường xuyên do UNESCO tổ chức tại KualaLumpur Malaysia từ ngày 19 28/8/1996 đã thể hiện sự quan tâm của các nước về giáo dục hệ VLVH. Hội
nghị đã thừa nhận sự đóng góp to lớn của giáo dục hệ VLVH đối với việc
nâng cao dân trí và đào tạo nguồn nhân lực cho phát triển KT-XH, phát triển
cá nhân, xóa đói giảm nghèo và bảo vệ môi trường và khẳng định vai trò của
giáo dục VLVH là chìa khóa bước vào thế kỷ XXI.
Ở Việt Nam hệ vừa làm vừa học là tên gọi được Bộ Giáo dục Đào tạo
chính thức sử dụng thay cho hệ Tại chức (thuộc phương thức giáo dục không
chính quy) trong quyết định số 01/2001/QĐ -BGD&ĐT do Bộ trưởng Bộ
Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Minh Hiển ký ngày 29/01/2001. Đây là loại
hình đào tạo tồn tại song song với đào tạo chính quy trong các trường đại học
ở Việt Nam. Quan điểm của Đảng đã chỉ rõ CNH phải gắn liền với HĐH ngay
13


từ đầu và trong suốt quá trình phát triển, muốn vậy phải nâng cao lượng tri
thức trong các nhân tố phát triển KT-XH và từng bước phát triển nền kinh tế
tri thức, như vậy chúng ta mới có thể có những bước nhảy vọt và rút ngắn thời
gian tiến hành quá trình CNH. Muốn đạt được điều này thì phát triển giáo dục
và đào tạo được coi là nền tảng và động lực của con người, thực hiện phương
châm: mọi người đi học, học thường xuyên, học suốt đời, cả nước trở thành
một xã hội học tập.
Về tổng thể cơ cấu hệ thống giáo dục cần tiếp nhận triết lý xã hội học
tập, do đó những vấn đề về cơ cấu hệ thống giáo dục cần được xem xét xuất
phát từ yêu cầu hiện nay về xu thế giáo dục và đào tạo trong các thập kỷ tới
đó là quan hệ giữa hệ thống giáo dục và hệ thống đào tạo trong xã hội học tập
ở nước ta.
Hệ VLVH ở một trường đại học là sự thực hiện của trường đại học đó
đối với chủ trương xây dựng một xã hội học tập. Giáo dục hệ VLVH là

phương thức giáo dục giúp mọi người vừa làm, vừa học; học liên tục; học
suốt đời nhằm mở rộng hiểu biết, nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn,
nghiệp vụ để cải thiện chất lượng cuộc sống, có điều kiện tìm việc làm và
thích nghi với đời sống xã hội. Giáo dục không chỉ là một giai đoạn tức thời,
chỉ diễn ra một lần, chỉ giới hạn trong độ tuổi học sinh, sinh viên mà là một
quá trình học tập thường xuyên, là môi trường thử thách để mỗi con người tự
học, tự phấn đấu nâng cao trình độ hiểu biết và trình độ chuyên môn nghiệp
vụ. Học suốt đời là học tập có mục đích, có định hướng, không phải tùy hứng
hay ngẫu nhiên. Để duy trì và phát triển việc học tập suốt đời của mọi thành
viên trong cộng đồng, cần phải tạo ra một XHHT. Trong đó, không chỉ nhà
nước mới có trách nhiệm chăm lo cho giáo dục mà toàn xã hội cũng phải
tham gia đóng góp cho sự nghiệp phát triển giáo dục. Cơ hội học tập suốt đời
chính là quyền lợi và trách nhiệm của mỗi công dân. Như vậy giáo dục không
chính quy hay giáo dục VLVH là thực hiện triết lý XHHT.
14


1.2.1.3. Chất lượng đào tạo hệ VLVH
Chúng ta đều biết, giáo dục đại học, đặc biệt là đại học hệ VLVH đóng
vai trò cực kỳ quan trọng trong việc cung ứng nguồn lao động chất lượng cho
xã hội. Thực tiễn cho thấy chất lượng nguồn nhân lực còn nhiều vấn đề cần
bàn. Nắm bắt được vấn đề này, mục tiêu của các trường đại học trong giai
đoạn mới đã được cụ thể hóa thành việc nâng cao hiệu quả công tác quản lý
đào tạo. Nhận thức là vậy, nhưng thực tế tổ chức thực hiện thì vô cùng khó
khăn.
Quản lý đào tạo sao cho đạt hiệu quả là một bài toán khó, cho đến nay
chưa có lời giải thích hợp. Kết quả công tác quản lý đào tạo đại học hệ VLVH
phản ánh ở chất lượng đầu ra của học viên khi kết thúc khóa học. Kết quả đó
hiện nay chưa thực sự khả quan do nhiều nguyên nhân hạn chế trong quản lý
đào tạo. Hiệu quả chỉ thực sự đạt được khi kết quả đầu ra là nhân lực có chất

lượng tốt, đáp ứng yêu cầu của nhà tuyển dụng nói riêng và tiến bộ xã hội nói
chung.
1.2.2. Quản lý và quản lý chất lượng đào tạo hệ VLVH
1.2.2.1. Quản lý
Quản lý thường được hiểu là chủ trì hay phụ trách một công việc nào đó.
Khái niệm quản lý có tính đa nghĩa nên có sự khác biệt giữa nghĩa rộng và
nghĩa hẹp. Hơn nữa, do sự khác biệt về thời đại, xã hội, chế độ, lĩnh vực nghề
nghiệp nên quản lý cũng có nhiều giải thích, lý giải khác nhau.
Nhiều khái niệm về quản lý đã có từ những năm 5000 trước công nguyên.
Từ năm 605 – 562 trước công nguyên ở một số nước đã biết sử dụng luật và
các quy định để quản lý, biết sử dụng kiểm kê, đánh giá và áp dụng khoán
trong quản lý [9].
Theo các nhà nghiên cứu về khoa học quản lý, quá trình quản lý có 4
chức năng cơ bản. Các chức năng này quan hệ mật thiết với nhau để đưa tổ
chức đạt đến mục tiêu đề ra với kết quả tốt nhất và chi phí nhỏ nhất. Bốn chức
15


năng gồm: kế hoạch (planing), tổ chức (organizing), lãnh đạo (leading), kiểm
tra (controlling) tạo thành chu trình quản lý.
KẾ HOẠCH

LÃNH ĐẠO

QUẢN


TỔ CHỨC

KIỂM TRA


Sơ đồ 1.1: Mối liên hệ giữa các chức năng của quản lý
Quản lý (tiếng Anh là Management, tiếng la-tinh manum agere - điều
khiển bằng tay) đặc trưng cho quá trình điều khiển và dẫn hướng tất cả các bộ
phận của một tổ chức, thường là tổ chức kinh tế, thông qua việc thành lập và
thay đổi các nguồn tài nguyên (nhân lực, tài chính, vật tư, trí thực và giá trị vô
hình).
Theo Từ điển tiếng Việt thì “Quản lý” là “trông nom, xếp đặt công việc
trong một cơ quan, xí nghiệp” [26].
Theo Nguyễn Ngọc Quang: “QLGD là hệ thống những tác động có mục
đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý giáo dục nhằm làm cho hệ
thống giáo dục vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thể
hiện được các tính chất của nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mà tiêu
điểm hội tụ là quá trình dạy học, giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ được giáo dục tới
mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất” [28].
Theo Phạm Minh Hạc: “QLGD là tổ chức các hoạt động dạy học. Có tổ
chức được các hoạt động dạy học, thực hiện các tính chất của nhà trường phổ
thông Việt Nam xã hội chủ nghĩa, mới quản lý được giáo dục, tức là cụ thể
16


×