Tải bản đầy đủ (.doc) (106 trang)

Vai trò của công ghệ thông tin trong quản lí nhà nước ở huyện kỳ anh, tỉnh hà tĩnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.88 MB, 106 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
_______________

ĐOÀN THỊ MỸ

VAI TRÒ CỦA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC Ở HUYỆN KỲ ANH,
TỈNH HÀ TĨNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

NGHỆ AN - 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
________________

ĐOÀN THỊ MỸ

VAI TRÒ CỦA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC Ở HUYỆN KỲ ANH,
TỈNH HÀ TĨNH
Chuyên ngành: CHÍNH TRỊ HỌC

Mã số: 60 31 02 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS.TRẦN VIẾT QUANG


NGHỆ AN - 2015


2

LỜI CẢM ƠN

Với tình cảm chân thành nhất, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các
thầy giáo, cô giáo khoa Giáo dục Chính trị, Trường Đại học Vinh đã tận tình
truyền đạt những tri thức quý báu, đã dìu dắt giúp đỡ chúng tôi trong suốt khóa học.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới PGS. TS. Trần Viết Quang
đã tận tình giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu và hướng dẫn, đóng
góp ý kiến quý báu cho tôi hoàn thành luận văn thạc sĩ này.
Tôi xin chân thành cảm ơn UBND huyện Kỳ Anh, các phòng, ban, đơn
vị, các xã, thị trấn đã tạo mọi điều kiện tốt nhất để tôi có thể thực nghiệm đề
tài này.
Tôi xin cảm ơn gia đình và người thân đã động viên, giúp đỡ và tạo điều
kiện thuận lợi nhất trong suốt quá trình tôi theo học chương trình sau đại
học.

Nghệ An, tháng 10 năm 2015
Tác giả

Đoàn Thị Mỹ


3
MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA.............................................................................................
CÁC CHỮ VIẾT TẮT DÙNG TRONG LUẬN VĂN....................................3


CÁC CHỮ VIẾT TẮT DÙNG TRONG LUẬN VĂN

BCVT
CNH,HĐH

Bưu chính viễn thông
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNTT

Công nghệ thông tin

CPĐT

Chính phủ điện tử


4
CQNN

Cơ quan nhà nước

CSDL

Cơ sở dữ liệu

HTTT

Hệ thống thông tin


KHCN

Khoa học và công nghệ

KT-XH

Kinh tế - xã hội

QLNN

Quản lý nhà nước

TTTT

Thông tin và truyền thông

UBND

Ủy ban nhân dân

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


5
DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1: Chất lượng cán bộ công chức huyện Kỳ Anh

tại thời điểm tháng 4/2015...................................................................................
52
Bảng 2.2: So sánh số lượng, chất lượng công chức, viên chức huyện Kỳ
Anh qua các năm 2011, 2012, 2013, 2014 , đến tháng 4/2015............................
53
Bảng 2.3: Chất lượng cán bộ công chức cấp xã huyện Kỳ Anh
năm 2014 và đến tháng 4/2015............................................................................
54
Bảng 2.4. Bảng thống kê máy tính, hạ tầng mạng Huyện Kỳ Anh......................
64


6
DANH MỤC HÌNH VẼ
Hình 1.1: Sơ đồ về sự phân tầng của CNTT........................................................
20
Hình 1.2: “Bốn thành phần, ba chủ thể”..............................................................
35
Hình 2.1.Mô hình thành phần chi tiết của CPĐTcấp huyện................................
58
Hình 3.1. Mô hình Chính phủ điện tử cấp tỉnh....................................................
75
Hình 3.2.Mô hình chi tiết kiến trúc Chính phủ điện tử bậc cao của tỉnh.............
76
Hình 3.3. Mô hình thành phần chi tiết của Chính quyền điện tử cấp huyện........
77
Hình 3.4. Mô hình CPĐT của phòng, ban...........................................................
78



7
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Một trong những thách thức lớn mà ngày nay Chính phủ các nước đang
phát triển phải đối mặt là việc cải cách hành chính, đổi mới phương thức lãnh
đạo và quản lý như thế nào để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy
nhà nước, phù hợp với yêu cầu của toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế thế giới và
sự bùng nổ của cách mạng thông tin. Theo kinh nghiệm của các nước đi
trước, ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) vào trong hoạt động của cơ
quan nhà nước (CQNN), xây dựng chính phủ điện tử (CPĐT) chính là giải
pháp chiến lược cho Chính phủ các nước đang phát triển.
Kể từ khi CNTT bắt đầu chiếm lĩnh thị trường trên thế giới, các sản
phẩm phần cứng, phần mềm từng bước thâm nhập và cho đến nay đã thâm
nhập vào hầu hết mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội, cụm từ “ứng dụng công
nghệ thông tin” bắt đầu xuất hiện và dần dần trở nên quen thuộc với mọi
người trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Đặc biệt cụm từ này
không thể thiếu trong các chủ trương, định hướng, văn bản, chính sách của
Đảng và nhà nước ta.
Chỉ thị số 58/CT-TW, ngày 17/10/2000 của bộ chính trị về đẩy mạnh
ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin phục vụ sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đã chỉ ra rằng: “Ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin
ở nước ta nhằm góp phần giải phóng sức mạnh vật chất, trí tuệ và tinh thần
của toàn dân tộc, thúc đẩy công cuộc đổi mới, phát triển nhanh và hiện đại
hóa các ngành kinh tế, tăng cường năng lực canh tranh của các doanh
nghiệp, hỗ trợ có hiệu quả cho quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế,
nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, đảm bảo an ninh, quốc phòng
và tạo khả năng đi tắt đón đầu để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa”.



8
Tuy nhiên, con đường xây dựng CPĐT không phải là đơn giản. Theo
James Yong, Giám đốc các chương trình khu vực công (Đông Nam Á) của
Cisco System, đã có đến 35% CPĐT trên toàn thế giới bị thất bại hoàn toàn,
50% thất bại một phần. Nguyên nhân chủ yếu là do sự trì trệ của người dân,
công chức và áp dụng rập khuôn mô hình các nước khác. Con đường xây
dựng CPĐT không thể nóng vội, phải có phương pháp, mô hình và các bước
triển khai thích hợp.
Ở Việt Nam, Đề án tin học hóa quản lý hành chính nhà nước giai đoạn
2001-2005 (gọi tắt là Đề án 112) đã được triển khai theo Quyết định
112/2001/QĐ-TTg ngày 25/7/2001 của Thủ tướng Chính phủ. Đề án 112 đã
được coi là nền tảng cho tiến trình xây dựng CPĐT ở Việt Nam. Nhưng “Đề án
112 đã không thực hiện được mục tiêu, nhiệm vụ tin học hóa quản lý hành
chính nhà nước được Thủ tướng Chính phủ giao” (theo kết luận của Thủ tướng,
ngày 20/4/2007). Hàng tỉ đồng đã được đầu tư cho thiết bị và công nghệ ở 27
tỉnh, thành và 12 bộ ngành nhưng vẫn chưa được khai thác hiệu quả.
Thực tế đã cho thấy, ứng dụng công nghệ vào hoạt động của CQNN như
thế nào cho hiệu quả vẫn là một bài toán khó. Bởi lẽ, việc ứng dụng công
nghệ thông tin không chỉ dừng lại ở việc mua sắm trang thiết bị, xây dựng hạ
tầng kỹ thuật mà còn đòi hỏi nhiều ở những định hướng mang tính chiến lược,
có tầm vóc quốc tế; các yêu cầu về trình độ của nguồn nhân lực và cả hoạt
động quản lý hành chính của CQNN cùng với các chính sách và thể chế thích
hợp. Nếu định hướng không đúng, triển khai không tốt thì việc đầu tư cho
ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của CQNN sẽ không hiệu quả
và gây lãng phí rất lớn. Những thất bại của Đề án 112 là một minh chứng cho
việc triển khai ứng dụng công nghệ thông tin không đồng bộ, nặng về trang
thiết bị, kế hoạch triển khai không rõ ràng, ít tham khảo ý kiến người dùng và
tính định hướng chưa cao….



9
Nhằm thúc đẩy ứng dụng CNTT, cải cách hành chính, xây dựng một
Chính phủ hiệu lực, hiệu quả hơn, phục vụ người dân và doanh nghiệp tốt
hơn, hướng tới phát triển Chính phủ điện tử trong giai đoạn mới, ngày
27/8/2010, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 1605/QĐ-TTg về
phê duyệt chương trình quốc gia về ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt
động của cơ quan Nhà nước giai đoạn 2011-2015 và đã đi vào giai đoạn cuối.
Mặc dù việc ứng dụng CNTT trong hoạt động của CQNN đã đưa lại một số
hiệu quả nhất định. Nhưng để đạt được như mong muốn và hướng tới định
hướng năm 2020 theo quyết định đưa ra “ 1, Tích hợp các hệ thống thông tin,
tạo lập được môi trường mạng rộng khắp phục vụ đa số các hoạt động của các
cơ quan nhà nước. Hầu hết các giao dịch của các cơ quan nhà nước được thực
hiện trên môi trường điện tử, mọi lúc, mọi nơi, dựa trên nhiều phương tiện
khác nhau. 2, Hầu hết các dịch vụ công được cung cấp trực tuyến mức độ 3 và
4, đáp ứng nhu cầu thực tế, phục vụ người dân và doanh nghiệp mọi lúc, mọi
nơi, dựa trên nhiều phương tiện khác nhau.” thì cần phải có phương pháp,
cách thức phù hợp với điều kiện thực tiễn của từng địa phương.
Ứng dụng công nghệ thông tin huyện Kỳ Anh thời gian qua đã nhận được
sự quan tâm của sở Thông tin, truyền thông Hà Tĩnh, Ủy ban nhân dân tỉnh Hà
Tĩnh. Kỳ Anh đã có nhiều hoạt động tích cực, tạo bước chuyển biến mới về
nhận thức, hành động thực tiễn để phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin
trên địa bàn huyện phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Công tác
tin học hóa của các cơ quan trong hệ thống chính trị, các doanh nghiệp và nhân
dân đã đạt được một số kết quả quan trọng. Tuy nhiên, việc ứng dụng và phát
triển công nghệ thông tin hiện nay vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu, chưa khẳng
định được vị trí mũi nhọn, công cụ phục vụ đắc lực cho công cuộc đổi mới và
phát triển phục vụ các mục tiêu kinh tế - xã hội của huyện.
Trong thời gian qua, vấn đề nhận thức của một số cơ quan, đơn vị, phòng
ban, Ủy ban nhân dân các xã, thị trấn... về công nghệ thông tin chưa đầy đủ,



10
nguồn lực công nghệ thông tin chưa được đào tạo chuẩn, còn thiếu và yếu;
quyết tâm của các cơ quan, đơn vị, các xã, thị trấn về ứng dụng và phát triển
công nghệ thông tin chưa đồng đều trong quá trình triển khai thực hiện gặp
nhiều khó khăn; cơ sở hạ tầng còn nhiều hạn chế chưa đáp ứng yêu cầu của
việc ứng dụng... Để tháo gỡ một phần những vướng mắc và những thách thức
này thì việc tìm hiểu thực trạng, đề xuất, kiến nghị các giải pháp thực hiện
nhằm thúc đẩy ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý nhà nước ở huyện
Kỳ Anh phát triển hơn nữa là rất cần thiết.
Trong những năm gần đây, vấn đề về CNTT được Đảng, Nhà nước, các
cấp, các ngành và các nhà khoa học rất quan tâm. Có nhiều văn bản chỉ đạo,
nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề này như:
Bộ Chính trị, (2000), Chỉ thị số 58/CT-TW ngày 17/10/2000 về “Đẩy
mạnh ứng dụng và phát triển CNTT, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá”.
Ban tư tưởng văn hóa Trung ương, (2001), Ứng dụng và phát triển Công
nghệ thông tin phục vụ sự nghiệp Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Đặng Hữu, (2001), Ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin phục vụ
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
TS Nguyễn Hoài Anh, TS Nguyễn Đăng Hậu: Chính phủ điện tử, Nhà
xuất bản Thông tin và truyền thông.
Đặng Minh Ất, (2002), “Công nghệ thông tin trong sự nghiệp Công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, Kinh tế và phát triển”.
Bộ Bưu chính - Viễn Thông, (2005), Chiến lược phát triển Công nghệ
thông tin và truyền thông Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020.
Bộ Bưu chính - Viễn thông, (2007), Định hướng phát triển Công nghệ
thông tin và Truyền thông Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020.



11
Các văn bản và các công trình trên đề cập những nội dung quan trọng về
vai trò của công nghệ thông tin, cũng như ảnh hưởng, tác động của công nghệ
thông tin đến đời sống xã hội.
Vấn đề ứng dụng công nghệ thông tin được đề cập trong các văn bản,
luận văn, các bài viết như:
Đổi mới công tác thông tin phục vụ quản lý kinh tế của Chính phủ trong
giai đoạn hiện nay, (2001), Luận văn Thạc sĩ kinh doanh và quản lý của
Nguyễn Văn Hòa, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Nguyễn Bá Hiến, (2006), Ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ phát
triển kinh tế - xã hội tỉnh Vĩnh Phúc - Thực trạng và giải pháp, Luận văn
Thạc sĩ kinh doanh và quản lý của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
Phan Đình Diệu, (2001), Tổng quan về Công nghệ thông tin và tác động
của nó tới sự phát triển kinh tế - xã hội, Nxb Khoa học Kỹ thuật, Hà Nội.
Đặng Hữu, (2001), Ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin phục vụ
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
Chính phủ, (2007), Nghị định số 64/2007/NĐ-CP ngày 10 tháng 4 năm
2007 về: Ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của các cơ quan
Nhà nước.
Chính phủ, (2011), Nghị quyết số 30/NQ-CP ngày 08/11/2011 ban hành
chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020.
Chính phủ, (2005), Quyết định số 246/2005/QĐ-TTg ngày 06/10/2005
phê duyệt Chiến lược phát triển Công nghệ thông tin và Truyền thông đến
năm 2010 và định hướng đến năm 2020.
Chính phủ, (2010), Quyết định số 1755/QĐ-TTg ngày 22/09/2010 phê
duyệt Đề án “Đưa Việt Nam sớm trở thành nước mạnh về CNTT”.



12
Chính phủ, (2010), Quyết định 1605/QĐ-TTg ngày 27/08/2010 phê
duyệt Chương trình quốc gia về ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt
động của cơ quan nhà nước giai đoạn 2011 - 2015.
Chính phủ, (2004), Quyết định số 321/QĐ-TTg ngày 06/04/2004 phê
duyệt chương trình phát triển nguồn nhân lực về CNTT từ nay đến 2020.
Ủy ban nhân dân huyện Kỳ Anh, (2010), Kế hoạch số 268/KH-UBND
ngày 22/10/2010 về: Ứng dụng CNTT trong hoạt động của cơ quan Nhà nước
giai đoạn 2011-2015.
Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh, (2011), Quyết định số 1750/QĐ-UBND
ngày 03 tháng 6 năm 2011 về việc: Phê duyệt Đề cương đề án “Xây dựng
Chính phủ điện tử tại Hà Tĩnh giai đoạn 2011 - 2015, tầm nhìn đến 2025.
Nhìn chung, hầu hết các công trình nghiên cứu nêu trên đã khái quát
những vấn đề chung hoặc đề cập đến những khía cạnh khác nhau của việc
ứng dụng công nghệ thông tin. Các công trình này là những căn cứ lý luận và
là tài liệu cần để nghiên cứu các vấn đề về quản lý nhà nước về CNTT hay
ứng dụng CNTT trong quản lý nhà nước. Tuy nhiên, chưa có công trình nào
đề cập trực đến vấn đề ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý nhà nước
ở huyện Kỳ Anh.
Chính vì những lý do trên và với cương vị công tác của mình, tác giả
chọn vấn đề “Vai trò của công nghệ thông tin trong quản lý nhà nước ở
huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh” làm đề tài luận văn Thạc sĩ, chuyên ngành
Chính trị học.
2. Mục đích nghiên cứu
Nhằm phát huy vai trò của công nghệ thông tin trong quản lý nhà nước ở
huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh hiện nay.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ lý luận của việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý
nhà nước.



13
- Khảo sát, đánh giá thực trạng ứng dụng công nghệ thông tin trong quản
lý nhà nước ở huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh những năm qua
- Đề xuất các giải pháp nhằm phát huy vai trò của công nghệ thông tin
trong quản lý nhà nước ở huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Luận văn nghiên cứu vấn đề về vai trò của công nghệ thông tin trong
trong quản lý nhà nước.
- Luận văn tập trung nghiên cứu việc ứng dụng công nghệ thông tin trong
hoạt động của các cơ quan quản lý hành chính chức năng như các cơ quan,
ban ngành cấp huyện và UBND các xã, thị trấn của huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà
Tĩnh; khảo sát thực trạng ứng công nghệ thông tin trong thời gian từ 2010 đến
2014, đề xuất các giải pháp cho giai đoạn 2015-2020.
5. phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp như: phân tích và tổng hợp; so sánh;
thống kê số liệu; phỏng vấn, điều tra xã hội, v.v..
6. Đóng góp của luận văn
Trên cơ sở khẳng định vai trò của Công nghệ thông tin trong quản lý nhà
nước ở huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh, luận văn chỉ ra những hạn chế, tồn tại
trong quá trình ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý nhà nước tại
Huyện, từ đó, luận văn đề xuất một số phương hướng, giải pháp nhằm nâng
cao vai trò ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý nhà nước, đưa lại hiệu
quả cao hơn trong công tác quản lý nhà nước tại địa phương.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành 3 chương.



14
B. NỘI DUNG
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
VÀ VAI TRÒ CỦA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC TRÊN ĐỊA BÀN CẤP HUYỆN
1.1. Khái niệm công nghệ thông tin và đặc điểm của công nghệ thông tin
1.1.1. Khái niệm công nghệ thông tin
- Khái niệm công nghệ
Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia:
Công nghệ (tiếng Anh: technology) “Là sự tạo ra, sự biến đổi, việc sử
dụng, và kiến thức về các công cụ, máy móc, kỹ thuật, kỹ năng nghề nghiệp,
hệ thống, và phương pháp tổ chức, nhằm giải quyết một vấn đề, cải tiến một
giải pháp đã tồn tại, đạt một mục đích, hay thực hiện một chức năng cụ thể”
[6, Tr.44].
Luật Công nghệ thông tin, (năm 2006), định nghĩa: “Công nghệ là tập
hợp các phương pháp, quy trình, kỹ năng, bí quyết, công cụ, phương pháp
dùng để biến đổi các nguồn lực thành sản phẩm” [24, Tr.6].
Như vậy, chúng ta có thể hiểu: công nghệ chính là những phương
pháp, quy trình, kỹ năng nhằm tạo ra sự biến đổi, cải tiến để đạt được mục
đích cụ thể.
- Khái niệm thông tin
Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia: Thông tin (inform) có nghĩa là
thông báo tin tức. Tin tức chính là tất cả những gì mang lại hiểu biết cho con
người. Con người luôn có nhu cầu thu thập tin tức bằng nhiều cách khác
nhau: đọc báo, nghe đài, xem truyền hình, giao tiếp với người khác... Thông
tin giúp làm tăng hiểu biết của con người, là nguồn gốc của nhận thức và là cơ
sở của quyết định



15
- Khái niệm công nghệ thông tin
Cho đến nay, vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm CNTT.
Một số khái niệm CNTT phổ biến hiện nay như:
Theo UNESCO, CNTT bao gồm việc sử dụng các ứng dụng máy tính,
công nghệ viễn thông và tin học trong việc truy cập và cung cấp thông tin
riêng và chung. Nó cho phép mọi người giao tiếp và trao đổi thông tin giới
hạn trong không gian số (cyberspace), làm việc tại văn phòng ảo và thiết lập
một xã hội tri thức [20, Tr.34].
Theo GS. Phan Đình Diệu, CNTT là ngành công nghệ về xử lý thông
tin bằng các phương tiện điện tử, trong đó nội dung xử lý thông tin bao
gồm các khâu cơ bản như thu thập, lưu trữ, chế biến và truyền nhận thông
tin [18, Tr.17].
Theo Chỉ thị 58-CT/TW của Bộ Chính trị, CNTT là thuật ngữ dùng để
chỉ các ngành khoa học và công nghệ liên quan đến thông tin và các quá trình
xứ lý thông tin. Theo quan niệm này thì CNTT là hệ thống các phương pháp
khoa học, công nghệ, phương tiện, công cụ, bao gồm chủ yếu là các máy tính,
mạng truyền thông và hệ thống các kho dữ liệu nhằm tổ chức, lưu trữ, truyền
dẫn và khai thác, sử dụng có hiệu quả các nguồn thông tin trong mọi lĩnh vực
hoạt động kinh tế, xã hội, văn hoá... của con người [9, Tr.22].
Theo Luật CNTT, (2007), “CNTT là tập hợp các phương pháp khoa học,
công nghệ và công cụ kỹ thuật hiện đại để sản xuất, truyền đưa, thu thập, xử
lý, lưu trữ và trao đổi thông tin số” [24, Tr.2].
Nhìn chung, các quan điểm còn lại cũng đều đồng ý rằng CNTT là ngành
nghiên cứu, sản xuất phần mềm và phần cứng máy tính, đồng thời cũng là
ngành khoa học và công nghệ về thông tin và xử lý thông tin, sử dụng công
cụ, phương tiện chủ yếu là máy tính điện tử. Riêng khái niệm về CNTT của
Luật CNTT cần sử dụng thuật ngữ “thông tin” thay cho “thông tin số”. Bởi lẽ,
thông tin số là chỉ là một dạng biểu diễn thông tin được xử lý và lưu trữ bằng



16
các phương pháp số, hay còn được gọi là dữ liệu (data). Trong khi, một quy
trình xử lý thông tin của CNTT bao gồm: đầu vào là thông tin, xử lý thông tin
(số) và đầu ra là thông tin hoặc tri thức.
Có thể nói khái niệm về CNTT của Chỉ thị 58-CT/TW của Bộ Chính trị
đưa ra là hoàn chỉnh nhất và phù hợp với mục đích nghiên cứu của Luận văn.
Vì vậy, thuật ngữ CNTT trong Luận văn sẽ được hiểu theo quan điểm này.
Điểm cần lưu ý là CNTT bao gồm cả Ngành công nghệ, công nghiệp CNTT
và việc ứng dụng CNTT (thường gắn liền với một hệ thống tổ chức hay hệ
thống thông tin nào đó). Trong phạm vi nghiên cứu của Luận văn sẽ tập trung
vào nội dung của ứng dụng CNTT trong quản lý nhà nước.
1.1.2. Đặc điểm của công nghệ thông tin
- CNTT là ngành công nghệ mũi nhọn
Công nghệ mũi nhọn ở đây được hiểu là cái chóp của một kim tự tháp,
có nghĩa là nó là ngành công nghệ được xây dựng trên thành quả của nhiều
công nghệ khác và của những lý thuyết khoa học hiện đại. Do vậy, muốn xây
muốn xây dựng và phát triển một công nghệ mũi nhọn hoàn chỉnh phải phát
triển từng bước và phải lựa chọn thế đứng riêng của mình. Mặt khác, đặc
điểm của công nghệ mũi nhọn là luôn luôn nặng về tri thức, đó cũng là đặc
điểm của CNTT. Vì vậy, để phát triển CNTT luôn cần nguồn nhân lực có
trình độ cao.
- CNTT là ngành có tốc độ phát triển và phổ biến nhanh nhất
Trong lịch sử phát triển của nhân loại, chưa có ngành khoa học, công
nghệ nào có tốc độ phát triển và phổ biến nhanh như CNTT. Có thể hình dung
sự phát triển của CNTT qua định luật Moore, biểu tượng năng lực và sự phát
triển của CNTT. Theo định luật Moore, khả năng tính toán của một bộ vi xử
lý điện tử cứ sau 18 tháng lại tăng lên gấp đôi, trong khi giá cố định (hoặc
thấp hơn). Điều này là cơ sở để giải thích cho việc thay đổi nhanh chóng
trong ngành công nghiệp máy tính. Hiện nay, định luật này đã được sửa lại là



17
với thời gian là 24 tháng và hãng Intel vẫn đang tiếp tục duy trì định luật này
[10, Tr.2]. Theo dự đoán của các chuyên gia định luật Moore vẫn còn đúng
trong 1-2 thập kỉ nữa.
Thật vậy, kể từ khi máy tính cá nhân đầu tiên xuất hiện (1980) đến nay
đã có hơn 1 tỉ máy tính đang được sử dụng trên toàn thế giới (Mỹ, châu Âu,
và Nhật chiếm 58%). Dự đoán số lượng này sẽ còn nhân đôi trong 6 năm nữa
nhờ tốc độ tăng trưởng hàng năm đạt 12% do nhu cầu ngày một cao của
người dùng tại các nước đang phát triển; Đến năm 2014, 70% trong số 1 tỉ PC
tiếp theo sẽ thuộc về các quốc gia có thu nhập thấp, nguyên nhân chủ yếu là
do giá giảm và khả năng kết nối Internet mở rộng. Đồng thời, trong năm 2008
sẽ có khoảng 180 triệu, tức 16% máy tính bị đào thải. Trong số này, khoảng
35 triệu máy sẽ trở thành rác thải không qua xử lý chất độc hại [44, Tr.12].
Hiệp hội thông tin điện tử quốc tế vừa công bố báo cáo cho hay hiện nay
trên thế giới có hơn 3 tỷ người hàng ngày sử dụng đều đặn dịch vụ Internet,
và công nghệ thông tin này đang tiếp tục phát triển rất mạnh tại hầu hết các
quốc gia.
Theo tổ chức trên, Đan Mạch và Hàn Quốc là hai quốc gia đứng đầu về
tỷ lệ người sử dụng Internet, trong khi đó, Belarus dẫn đầu các nước thuộc
Liên Xô trước đây về tỷ lệ dân chúng sử dụng dịch vụ liên lạc hiện đại này, và
đứng thứ 38 toàn thế giới, trong khi Nga đứng thứ 43. Về tổng thể, trong năm
2014, số người sử dụng Internet trên toàn thế giới tăng 6,6% so với năm trước
đó, và trong 5 năm qua, số người sử dụng phương tiện liên lạc này tại các nước
đang phát triển đã tăng gấp đôi.
Giới chuyên gia truyền thông dự đoán rằng đến cuối năm nay, khoảng
44% số hộ gia đình trên toàn thế giới có kết nối Internet, tăng 4% so với năm
ngoái, và 14% so với bốn năm trước đó.
Theo Steve Ballmer, Giám đốc điều hành của Microsotf, trong 28 năm

qua (1980-2008), ngành công nghiệp IT đã trải qua cả thảy 4 cuộc cách


18
mạng. Đầu tiên là sự xuất hiện của PC bình dân, kế đến là sự phát triển của
giao diện người dùng đồ họa, sự nổi lên của Internet và cuối cùng là Web 2.0.
Với tốc độ đó, trung bình cứ 7 năm thế giới lại chứng kiến một cuộc cách
mạng mới của CNTT. Ballmer dự đoán, sắp tới, chúng ta sẽ chứng kiến cuộc
cách mạng thứ 5 của CNTT. Ba lĩnh vực mà cuộc cách mạng IT lần thứ 5 sẽ
biểu thị tác động rõ nhất là: tương tác xã hội, các vấn đề xã hội toàn cầu và cá
nhân hóa [10, Tr.3].
Dưới sự phát triển như vũ bão của CNTT, công nghệ cứ thay đổi liên tục.
Vì vậy, đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, cần lưu ý khi
lựa chọn các giải pháp về công nghệ. Nếu không, việc đầu tư hay định hướng sai
công nghệ sẽ ảnh hưởng lớn đến hiệu quả đầu từ và gây lãng phí lớn.
- CNTT là ngành khoa học có thể ứng dụng cho mọi lĩnh vực
Giới hạn của những công nghệ khác thường là không có khả năng kết
hợp nhiều loại thông tin, phương tiện với nhau. Ví dụ như với điện thoại chỉ
có thể gởi và nhận âm thanh, vô tuyến truyền hình thì chỉ có nhận hình ảnh,
âm thanh nhưng không thể phản hồi, tương tác. Với khả năng số hóa thông
tin, xử lý và tái tạo thông tin, CNTT trở thành công cụ, phương tiện cho các
công nghệ khác. CNTT có thể tham gia trực tiếp vào trong quá trình sản xuất
của các lĩnh vực như: công nghiệp, nông nghiệp, thương mại và dịch vụ, hoặc
tham gia vào hoạt động quản lý, điều hành của các hệ thống thông tin, hệ
thống lãnh đạo… CNTT còn tạo ra nhiều ngành nghề kinh tế mới, làm thay
đổi sâu sắc các ngành công nghiệp hiện tại, tăng khả năng cạnh tranh của các
ngành nghề thông qua hệ thống thương mại điện tử, dịch vụ truyền thông đa
phương tiện.
Ngày nay, CNTT vẫn đang tiếp tục phát triển và phổ biến ở mọi nơi, mọi
lĩnh vực, góp phần thúc đẩy nhanh quá trình tăng trưởng và chuyển dịch cơ

cấu kinh tế, thay đổi cơ cấu xã hội, phong cách sống, học tập và làm việc của
con người [4, Tr.28].


19

- CNTT là một công nghệ có nhiều tầng lớp
Trong CNTT, nếu tính từ người sử dụng (người dùng đầu cuối) đến khâu
sản xuất các thiết bị, vi mạch, .... ta sẽ thấy bên trong có nhiều tầng lớp và lớp
trên được xây dựng dựa trên các lớp phía dưới, chúng có mối quan hệ phụ
thuộc lẫn nhau về công nghệ. Càng lên cao, số lượng công nghệ có xu hướng
càng tăng, sự phát triển của công nghệ của lớp này cũng thúc đẩy sự phát triển
các công nghệ tương ứng ở lớp khác và ngược lại.
Có thể chia CNTT thành năm tầng lớp theo sơ đồ sau:
Hình 1.1: Sơ đồ về sự phân tầng của CNTT
Ứng dụng tích hợp
Ứng dụng cơ bản
Phát triển ứng dụng
Hệ thống
Thiết bị
Vi xử lý

(i) Lớp ứng dụng tích hợp, đây là lớp trên cùng gồm các ứng dụng được
phát triển riêng cho từng cơ quan, xí nghiệp nào đó. Các ứng dụng này do đơn
vị sử dụng tự phát triển hoặc đặt gia công bên ngoài. Chúng được phát triển
dựa trên một hệ quản trị CSDL nào đó (MySQL, PosgreSQL, Oracle, SQL


20
Server, DB2, …), thường hoạt động qua mạng và có xu hướng phát triển theo

dạng tích hợp, dùng chung cho cả hệ thống.
(ii) Lớp ứng dụng cơ bản, là lớp đa dạng và phổ biến nhất hiện nay. Bao
gồm các ứng dụng ở mức đơn giản, tổng quát để xử lý văn bản (OpenOffice,
Microsoft Office, …) hoặc tính toán và quản lý đơn giản (SPSS, Microsoft
Project, …); và cao hơn là các ứng dụng chuyên dùng dành riêng cho một lĩnh
vực nào đó như tính toán công nghiệp hay tính toán khoa học (SPSS,
MathType, Matlab…).
(iii) Lớp phát triển ứng dụng, các ứng dụng của lớp này thường được
dùng bởi các chuyên gia về phần mềm sử dụng để phát triển các ứng dụng của
hai lớp trên, mục tiêu là hướng về người dùng đầu cuối. Bao gồm các ngôn
ngữ lập trình (C, java, Visual Basic, C#, php, …), các hệ quản trị CSDL...
(iii) Lớp ứng dụng hệ thống, là những chương trình, ứng dụng đặc biệt
cho các ứng dụng của lớp trên có thể hoạt động hoặc giao tiếp với thiết bị
phần cứng. Chủ yếu là hệ điều hành và hệ điều hành mạng (Microsoft
Windows, Unix, Linux, Mac, Netware, ...). Đây thường là các ứng dụng độc
quyền (trừ các sản phẩm từ Linux), chúng có tầm ảnh hưởng sâu rộng đến các
tầng bên trên, đồng thời cũng quan hệ chặt chẽ về mặt công nghệ với các tầng
bên dưới.
(iv) Lớp thiết bị phần cứng, có thể coi như bao gồm tất cả các hệ máy và
mạng đang hoạt động trên thế giới. Việc sản xuất các máy này bắt đầu từ: làm
ra các bản mạch, rồi lắp ráp các linh kiện điện tử với phần điện, cơ khí, các
thiết bị ngoại vi... để trở thành một máy tính hoàn hảo, hay một bộ phận của
một thiết bị công nghiệp hay một sản phẩm tiêu dùng.
(v) Lớp vi xử lý, đây là lớp cuối cùng chính là việc sản xuất các linh kiện
điện tử, các chíp vi xử lý. Hiện nay, chỉ có Mỹ, Nhật và châu Âu là có công
nghệ hoàn chỉnh tạo ra các sản phẩm của lớp này.


21
Thông thường, khi xét đánh giá mức độ ứng dụng CNTT, người ta

thường tập trung xét ở 2 lớp trên cùng. Để đơn giản, ta có thể chia mức độ
ứng dụng CNTT thành 4 cấp độ tăng dần theo thứ tự sau: (1) ứng dụng
mức cơ bản, (1) ứng dụng mức chuyên dùng trong lĩnh vực, ngành nghề,
(3) ứng dụng mức có sử dụng hệ quản trị CSDL và (4) ứng dụng tích hợp
cho cả hệ thống.
Do công nghệ của các tầng lớp có mối quan hệ chặt chẽ với nhau nên khi
lựa chọn công nghệ ứng dụng cần lưu ý các điều kiện sẵn có và xu hướng
công nghệ của các tầng có liên quan.
- Khả năng số hóa thông tin, tổ chức, lưu trữ thông tin trên diện tích
nhỏ; truy xuất và xử lý thông tin một cách nhanh chóng và chính xác
Đây là một đặc trưng của máy tính điện tử nói riêng và CNTT nói chung.
Có thể hiểu số hóa thông tin là khả năng biểu diễn thông tin dưới dạng số 0 và
1, và lưu lại trên các thiết bị lưu trữ của máy tính. Các thông tin được lưu trữ
dưới dạng này gọi là thông tin số. Ưu điểm của thông tin số chính là có thể
mô tả chính xác thông tin, truy xuất nhanh và lưu trữ được trên diện tích nhỏ.
Ngày nay, khả năng lưu trữ và tốc độ xử lý thông tin của các thiết bị CNTT
ngày càng tăng, trong khi kích thước của thiết bị ngày càng nhỏ. Khả năng lưu
trữ của các thiết bị lưu trữ đã lên đến TB (TegaByte) và tốc độ tính toán đã đạt
hàng tỉ phép tính trên giây. Có thể đơn cử vài ví dụ sau:
Giả sử một trang giấy A4 có 40 dòng, một dòng 80 ký tự thì một quyển
sách 100 trang A4 khi lưu trữ sẽ chiếm khoảng 625 KB (KiloByte) hoặc một
tấm ảnh số trung bình sẽ chiếm khoảng 1 MB (MegaByte). Như vậy, chỉ với
một ổ cứng 1 TB (1 TB = 1 x 1024 GB = 1 x 10242 MB = 1 x 10243 KB) kích
thước bằng ½ quyển sách, ta có thể lưu trữ trên 1,7 triệu quyển sách hoặc trên
1,04 triệu tấm ảnh;
Và chỉ mất vài giây, thậm chí là vài mili giây, chúng ta đã có thể truy
xuất hay xử lý các thông tin số trên. Bởi lẽ, hàng tỉ phép tính trên giây chính


22

là tốc độ tính toán của các máy tính ngày nay; Còn 1 triệu tỉ phép tính trên
giây chính là tốc độ của siêu máy tính Roadruner của hãng IBM. Chỉ 1 ngày
làm việc của máy tính này đã bằng 6 tỉ người sử dụng máy tính 24 giờ mỗi
ngày trong suốt 365 ngày mỗi năm và liên tục 46 năm [5, Tr.7].
Nếu bỏ qua khả năng trao đổi và xử lý thông tin tự động thì ứng dụng
CNTT cũng đã giúp con người tiết kiệm được rất nhiều thời gian trong tính
toán, tìm kiếm thông tin và không gian lưu trữ thông tin mà không công nghệ nào
có thể thay thế được.
Một kết quả nghiên cứu trong năm 2006 của IDC, khối lượng thông tin
đã được số hóa của các bức ảnh, phim, thư điện tử, trang web, tin nhắn trực
tuyến, cuộc gọi điện đàm, cùng với các nội dung số khác trên khắp hành tinh
là 161 ExaBytes (khoảng 161 tỉ GigaByte); tương đương với 12 chồng sách
đều có chiều dài bằng khoảng cách từ trái đất tới mặt trời, hoặc gấp 3 triệu lần
số lượng thông tin trong tất cả các cuốn sách đã được in ra. Để lưu trữ 161
exabyte, chỉ cần có hơn 2 tỉ chiếc iPod trên thị trường. Trước đó, một cuộc
nghiên cứu tương tự đã được những nhà khoa học của ĐH Berkeley (Mỹ) tiến
hành vào năm 2003 cho thấy tổng số lượng thông tin của thế giới sản xuất ra
khi đó mới chỉ có 5 ExaByte [29, Tr.9].
Trong xu thế của sự phát triển, số hóa thông tin cũng là một tất yếu, là cơ
sở cho việc tái tạo, phổ biến thông tin và tri thức. Ứng dụng CNTT càng nhanh,
càng hiệu quả thì lượng thông tin được số hóa cũng tăng theo tương ứng. Trong
thực tiễn, lượng hóa thông tin số có thể coi là một trong các tiêu chí cho việc
đánh giá mức độ hiệu quả của một dự án CNTT nhưng thường bị bỏ qua.
- Đầu vào là thông tin, đầu ra là thông tin hoặc tri thức.
Như đã trình bày phần khái niệm, thông tin chính là đối tượng xử lý chủ
yếu của CNTT. Cùng với sự phát triển của xã hội, đặc biệt là sự phát triển của
cách mạng khoa học và công nghệ, hoạt động trực tiếp tạo ra sản phẩm không
còn là công việc của riêng người lao động, mà của cả một bộ phận ngày càng



23
tăng lên những người trực tiếp quản lý quá trình sản xuất, những kỹ sư, những
nhà công nghệ. Các sản phẩm được tạo ra từ CNTT có hàm lượng trí tuệ cao
ngày càng tăng. Trong lĩnh vực phần mềm của CNTT, sản phẩm tạo ra có
hàm lượng giá trị do trí tuệ kết tinh bên trong sản phẩm có thể đạt tới 80 90% tổng giá trị sản phẩm.
1.2. Khái niệm quản lý Nhà nước và đặc điểm quản lý nhà nước
1.2.1. Khái niệm quản lý Nhà nước
Quản lý trong xa hội nói chung là quá trình tổ chức và điều hành các
hoạt động nhằm đạt được những mục tiêu và yêu cầu nhất định, dựa trên
những qui luật khách quan.
Theo Giáo trình Quản lý hành chính nhà nước “Quản lý nhà nước là
sự tác động, tổ chức, và điều chỉnh bằng quyền lực nhà nước đối với các quá
trình xã hội và hành vi hoạt động của con người để duy trì và phát triển các
mối quan hệ xã hội và trật tự pháp luật nhằm thực hiện những chức năng và
nhiệm vụ của Nhà nước trong công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc
XHCN” [19, Tr.407].
Quản lý nhà nước được hiểu theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
Theo nghĩa rộng, quản lý nhà nước là hoạt động tổ chức, điều hành của
bộ máy nhà nước, nghĩa là nó bao hàm cả sự tác động, tổ chức của quyền lực
nhà nước trên các phương diện lập pháp, hành pháp và tư pháp. Theo cách
hiểu này, quản lý nhà nước được đặt trong cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, nhân dân làm chủ”.
Theo nghĩa hẹp, quản lý nhà nước là quá trình tổ chức, điều hành của
hệ thống cơ quan hành chính nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành vi
hoạt động của con người theo pháp luật, nhằm đạt được những mục tiêu, yêu
cầu, nhiệm vụ quản lý nhà nước.Các cơ quan nhà nước nói chung còn thực
hiện các hoạt động có tính chất chấp hành, điều hành, tính chất hành chính
nhà nước nhằm xây dựng, tổ chức bộ máy và củng cố chế độ công tác nội bộ



24
của mình. Chẳng hạn, ra quyết định thành lập, chia tách, sáp nhập các đơn vị,
tổ chức thuộc bộ máy của mình; đề bạt, khen thưởng, kỷ luật cán bộ, công
chức, ban hành qui chế làm việc nội bộ.
1.2.2. Đặc điểm của quản lý nhà nước
Đối với nhà nước xã hội chủ nghĩa, quản lý nhà nước gồm có những
đặc điểm cơ quản sau:
Một là, quản lý nhà nước luôn mang tính quyền lực, tính tổ chức chặt
chẽ. Đặc điểm pháp lý của quan hệ quản lý là sự không bình đẳng giữa các
bên trong quan hệ quản lý, vì vậy, trong quản lý nhà nước, mọi mệnh lệnh,
quyết định quản lý luôn luôn mang tính đơn phương, một chiều, bắt buộc thực
hiện và khi cần thiết các chủ thể quản lý có thể áp dụng các biện pháp cưỡng
chế thi hành. Các mệnh lệnh, quyết định quản lý phải được chấp hành một
cách nghiêm túc, triệt để, xác định rõ trách nhiệm pháp lý và xử lý nghiêm
minh mọi trường hợp vi phạm, hoặc làm trái các qui định đã được đưa ra.
Hai là, quản lý nhà nước là các hoạt động có mục tiêu rõ ràng, có chiến
lược và kế hoạch cụ thể để thực hiện các mục tiêu đưa ra. Đặc điểm này đòi
hỏi các cơ quan nhà nước phải xác định mục tiêu, xây dựng chiến lược và kế
hoạch hoạt động của mình nhằm đạt được các mục tiêu đã xác định trên cơ sở
chiến lược, kế hoạch của cấp trên và đường lối chính sách của Đảng. Như
vậy, các cơ quan hành chính nhà nước phải xác định cho mình những mục
tiêu và kế hoạch dài hạn, trung hạn và hang năm. Bên cạnh việc xác định các
mục tiêu, định hướng chủ yếu cần dự báo tình hình, những biến động, những
thay đổi có thể xảy ra để dự kiến các biện pháp điều chỉnh, cân đối, nhằm
thực hiện được các mục tiêu và định hướng chủ yếu, có tính chiến lược.
Ba là, quản lý nhà nước là hoạt động dựa trên những qui định chặt chẽ
của pháp luật, đồng thời là hoạt động có tính chủ động, sáng tạo và linh hoạt
trong thực tiễn điều hành, quản lý. Trên cơ sở những qui định của pháp luật
và mục tiêu, định hướng, kế hoạch đã xác định, các cơ quan quản lý hành



×