Tải bản đầy đủ (.doc) (123 trang)

Một số giải pháp quản lý hoạt động của các trung tâm giáo dục thường xuyên cấp huyện tỉnh bình phước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (608.48 KB, 123 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
___________________

LÊ DUY BÌNH

MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG CỦA
CÁC TRUNG TÂM GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN
CẤP HUYỆN TỈNH BÌNH PHƯỚC

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

NGHỆ AN - 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
___________________

LÊ DUY BÌNH

MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG CỦA
CÁC TRUNG TÂM GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN
CẤP HUYỆN TỈNH BÌNH PHƯỚC

Chuyên ngành: Quản lý giáo dục
Mã số: 60.14.01.14

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học: GS. TS. ĐINH XUÂN KHOA



NGHỆ AN - 2015


LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến:
Trường Đại học Vinh, Phòng Đào tạo Sau đại học, các giảng viên, các
nhà sư phạm, các nhà khoa học đã tham gia quản lý, giảng dạy, tạo điều kiện
cho tác giả tham gia khoá học này. Xin cảm ơn các thầy cô giáo đã tận tình
giảng dạy, giúp đỡ, cung cấp tài liệu, hướng dẫn tác giả trong quá trình học
tập và nghiên cứu khoa học.
Xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Giáo sư -Tiến sĩ Đinh Xuân Khoa,
người đã giúp đỡ, hướng dẫn định hướng đề tài và giúp đỡ tác giả trong suốt
quá trình nghiên cứu hoàn thành luận văn. Trân trọng cảm ơn các thầy cô giáo
trong Hội đồng Khoa học bảo vệ đề cương đã tận tình chỉ dẫn, góp ý giúp tác
giả có định hướng đúng đắn để hoàn thành luận văn.
Xin bày tỏ lòng biết ơn đối với sự quan tâm, tạo điều kiện của UBND
tỉnh Bình Phước, Sở Giáo dục và Đào tạo Bình Phước đặc biệt là Phòng
GDTX-CN tạo điều kiện để tác giả được học tập, nghiên cứu nâng cao kiến
thức phục vụ cho công việc của mình.
Chân thành cảm ơn các đồng chí Giám đốc, Phó giám đốc các
TTGDTX, Giáo viên chủ nhiệm, Bí thư Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí
Minh, các đồng chí Tổ trưởng chuyên môn, các thầy cô giáo, các em học viên
của các TTGDTX cấp huyện trên địa bàn tỉnh Bình Phước đã tạo điều kiện
thuận lợi trong việc cung cấp số liệu và tư vấn khoa học cho tác giả hoàn
thành luận văn này.
Xin cảm ơn gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã động viên, khích lệ tác
giả trong quá trình học tập, nghiên cứu.
Mặc dù đã cố gắng hết sức, song chắc chắn luận văn không tránh khỏi
những thiếu sót, rất mong nhận được sự đóng góp, chỉ dẫn giúp đỡ của quý

thầy cô giáo, quý đồng nghiệp cùng bạn bè để luận văn được hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn!
Tác giả
Lê Duy Bình


4

MỤC LỤC
Ngày 4/11/2013, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị
quyết Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI (Nghị quyết
số 29-NQ/TW) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng
yêu cầu CNH - HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN
và hội nhập quốc tế; Trong đó mục tiêu của giáo dục thường xuyên là:.......1


5
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

STT

Chữ viết đầy đủ trong luận văn

Chữ viết tắt

1
2

Bộ Giáo dục và Đào tạo
Bảo hiểm xã hội


trong luận văn
BGDĐT
BHXH

3

Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa

CNH-HĐH

4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18

Công nhân viên chức
Trung tâm giáo dục thường xuyên
Giáo dục

Giáo dục thường xuyên
Giáo viên
Giáo viên chủ nhiệm
Giáo dục thường xuyên - hướng nghiệp dạy nghề
Giám đốc, Phó giám đốc
Số lượng
Trung bình
Học lực
Hạnh kiểm
Phương pháp giáo dục
Quản lý giáo dục
Xã hội học tập

CNVC
TTGDTX
GD
GDTX
GV
GVCN
GDTX- HNDN
GĐ, PGĐ
SL
TB
HL
HK
PPGD
QLGD
XHHT



6
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ BẢNG BIỂU
Ngày 4/11/2013, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị
quyết Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI (Nghị quyết
số 29-NQ/TW) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng
yêu cầu CNH - HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN
và hội nhập quốc tế; Trong đó mục tiêu của giáo dục thường xuyên là:.......1


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngày 4/11/2013, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị
quyết Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI (Nghị quyết số
29-NQ/TW) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu
cầu CNH - HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội
nhập quốc tế; Trong đó mục tiêu của giáo dục thường xuyên là:
“Đối với giáo dục thường xuyên, bảo đảm cơ hội cho mọi người, nhất
là ở vùng nông thôn, vùng khó khăn, các đối tượng chính sách được học tập
nâng cao kiến thức, trình độ, kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ và chất lượng
cuộc sống; tạo điều kiện thuận lợi để người lao động chuyển đổi nghề; bảo
đảm xóa mù chữ bền vững, hoàn thiện mạng lưới cơ sở giáo dục thường
xuyên và các hình thức học tập thực hành phong phú, linh hoạt, coi trọng tự
học và giáo dục từ xa”.
Tổ chức và hoạt động của các trung tâm giáo dục thường xuyên quyết
định chất lượng giáo dục của ngành học thường xuyên nói riêng và chất lượng
toàn ngành giáo dục nói chung. Quản lý tổ chức và hoạt động ở các trung tâm
giáo dục thường xuyên theo đúng quy chế tổ chức và hoạt động do Bộ Giáo
dục và Đào tạo ban hành, phát huy hết chức năng nhiệm vụ của trung tâm là
nhân tố quyết định nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.

Đây là một hoạt động quản lý khá khó khăn và phức tạp của nhà
giáo dục.
Do đó có thể quản lý tốt việc tổ chức và hoạt động của trung tâm giáo
dục thường xuyên, người quản lý phòng Giáo dục Thường xuyên Sở Giáo dục
và Đào tạo phải dựa vào Quy chế tổ chức và hoạt động của trung tâm giáo
dục thường xuyên do Bộ giáo dục và Đào tạo ban hành, đồng thời phải có
thông tin chính xác kịp thời, kiểm tra các hoạt động của các trung tâm, dựa


2
vào đội ngũ cốt cán ở các trung tâm như: giám đốc, phó giám đốc, các tổ
trưởng tổ chuyên môn và các giáo viên giỏi có nhiều kinh nghiệm. Tổ chức và
hoạt động của các trung tâm theo quyết định 01/2007/QĐ-BGDĐT là một yêu
cầu bắt buộc hết sức cần thiết. Quản lý tổ chức và hoạt động này giúp các
trung tâm giáo dục thường xuyên tuân thủ quy định một cách đồng bộ. Quản
lý tốt tổ chức và hoạt động của các trung tâm giáo dục thường xuyên sẽ giữ
được kỷ cương và tính đoàn kết nội bộ, đồng thời tạo một động lực các trung
tâm năng động sáng tạo trong tình hình hiện tại, phát huy nhiều nhân tố điển
hình, đúc rút được nhiều bài học hay trong công tác quản lý.
Trong những năm qua tổ chức và hoạt động của các trung tâm giáo
dục thường xuyên trong tỉnh Bình Phước chưa tốt dẫn đến quy mô, số lượng,
chất lượng chưa cao, chưa chủ động trong công tác tuyển sinh, hàng năm
vào cuối tháng 9 các trường trung học phổ thông đã ổn định hết thì số học
sinh còn lại mới vào học các trung tâm giáo dục thường xuyên, tổng số
lượng học viên trong cả 8 trung tâm trong tỉnh (1 trung tâm giáo dục thường
xuyên cấp tỉnh, 7 trung tâm giáo dục thường xuyên cấp huyện) khoảng 1500,
bằng học sinh một trường trung học phổ thông trong tỉnh, các hoạt động
khác của trung tâm chưa đáp ứng được yêu cầu cho người học. Với tổng số
220 cán bộ, công nhân viên toàn các trung tâm nếu chỉ dạy học và quản lý số
học viên ở trên là quả là quá lãng phí mặt khác chất lượng giáo dục vẫn chưa

đáp ứng được nhu cầu mà xã hội mong đợi nhiều lãnh đạo và giáo viên lo
lắng cho sự tồn tại của các trung tâm.
Vấn đề quản lý hoạt động các trung tâm giáo dục thường xuyên cấp
huyện trong tỉnh Bình Phước sao cho có hiệu quả thiết thực để từng bước
nâng cao chất lượng giáo dục trong các trung tâm lại chưa được các cấp quản
lý của ngành giáo dục tỉnh Bình Phước tổng kết. Hệ thống các trung tâm cũng
chưa được sắp xếp quy mô, việc đầu tư về con người, cơ sở vật chất, cơ chế
chính sách cũng chưa được quan tâm đúng mức. Vì vậy ngay cả trung tâm


3
giáo dục thường xuyên được xem là khá hơn cũng xuất hiện không ít khó
khăn, những vấn đề bất cập; do đòi hỏi ngày càng cao của nhu cầu về giáo
dục. Cho nên hệ thống trung tâm giáo dục thường xuyên chắc chắn còn gặp
nhiều khó khăn dẫn đến hiệu quả tổ chức và hoạt động chưa cao.
Với thực tế đó, chúng tôi chọn vấn đề: “Một số giải pháp quản lý hoạt
động của các trung tâm giáo dục thường xuyên cấp huyện tỉnh Bình
Phước” để nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất một số giải pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động
của các trung tâm giáo dục thường xuyên cấp huyện tỉnh Bình Phước.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
- Khách thể: Vấn đề quản lý hoạt động của các trung tâm giáo dục
thường xuyên cấp huyện
- Đối tượng: Giải pháp quản lý hoạt động của các trung tâm giáo dục
thường xuyên cấp huyện tỉnh Bình Phước
4. Giả thuyết khoa học
Có thể nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động của các trung tâm giáo
dục thường xuyên trong địa bàn tỉnh Bình Phước nếu áp dụng hệ thống giải
pháp khoa học và khả thi do chúng tôi đề xuất.

5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của quản lý hoạt động các trung tâm giáo
dục thường xuyên cấp huyện
- Nghiên cứu cơ sở thực tiễn của đề tài: tìm hiểu, phân tích và đánh giá
thực trạng tổ quản lý hoạt động của các trung tâm giáo dục thường xuyên cấp
huyện trong tỉnh Bình Phước.
- Đề xuất các giải pháp quản lý để nâng cao hiệu quả hoạt động các
trung tâm giáo dục thường xuyên cấp huyện trong tỉnh Bình Phước.


4
6. Phương pháp nghiên cứu
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
- Nhóm nghiên cứu thực tiễn
- Nhóm Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia
- Phương pháp thống kê toán học
7. Đóng góp của luận văn
7.1. Về mặt lý luận
7.1. Về mặt thực tiễn
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn gồm ba chương.
Chương 1: Cơ sở lí luận quản lý hoạt động các trung tâm giáo dục
thường xuyên cấp huyện
Chương 2: Cơ sở thực tiễn của vấn đề quản lý hoạt động của trung tâm
giáo dục thường xuyên cấp huyện tỉnh Bình Phước.
Chương 3: Một số giải pháp quản lý hoạt động của các trung tâm giáo
dục thường xuyên cấp huyện tỉnh Bình Phước.


5

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG CỦA TRUNG TÂM GIÁO
DỤC THƯỜNG XUYÊN CẤP HUYỆN
1.1. LỊch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Các nghiên cứu ở nước ngoài
Theo những công bố mới nhất của các nhà khoa học Mỹ: Thông tin trên
thế giới tăng gấp đôi trong vòng 18 tháng; Lưu lượng thông tin di chuyển trên
internet tăng 30%/tháng và tăng gấp đôi sau 100 ngày; Năm 1990 mất 6 năm
để phát triển ô tô mới, nay là 18 tháng và chỉ còn cần 15 giờ để chế tạo 01 ô
tô; Mỗi giờ Sony tung ra thị trường 03 sản phẩm mới, cứ 5 phút Disney tung
ra một sản phẩm mới; Xấp xỉ 800.000 cuốn sách được in trong 01 năm, vốn
kiến thức của nhân loại cứ 7 năm thì tăng gấp đôi, số nhà khoa học 10 năm thì
tăng gấp hai lần. Một nửa số tài liệu khoa học được xuất bản trong 20 năm trở
lại đây;
Đây mới chỉ là những thông tin rất nhỏ và có thể chưa đầy đủ để chúng
ta thấy rằng với tốc độ phát triển như vũ bão của khoa học - kỹ thuật, nền tri
thức của nhân loại được thu nhận từ đâu? Khó có thể tiếp cận với nền tri thức
khổng lồ đó một cách liên tục thông qua 4 - 5 năm đại học; 2 năm thạc sĩ;
khoảng 4 năm nghiên cứu sinh và trong sự chuyển biến mạnh mẽ về cơ cấu xã
hội, sự phát triển thần kỳ của khoa học kỹ thuật và công nghệ thông tin, cùng
với sự thay đổi về quan niệm sống, các giá trị và nhân sinh quan, đòi hỏi mỗi
con người cần phải không ngừng học tập để trau dồi, nâng cao tri thức nhằm
đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao của xã hội hiện đại. Việc cần phải xây
dựng một “xã hội học tập suốt đời” có khả năng cung cấp cho mọi người, mọi
lứa tuổi, cơ hội được chủ động, tiếp thu trình độ học vấn mình mong muốn,
đồng thời thành quả học tập đó phải được công nhận và sử dụng một cách


6
thích đáng đã và đang là một quan niệm phù hợp với xu thế phát triển của

nhân loại nói chung, trong đó có Việt Nam.
Thông điệp “Học tập - Một kho báu tiềm ẩn” là nhan đề báo cáo của
Hội đồng giáo dục UNESCO nói về “Giáo dục thế kỷ XXI”, đề ra từ năm
1997 của thế kỷ XX. Bản báo cáo này đã khẳng định vai trò cơ bản của giáo
dục trong sự phát triển của xã hội và của mỗi cá nhân. Nhấn mạnh học tập
suốt đời như là một chìa khóa để mỗi cá nhân thích ứng với những thách thức
của thế kỷ XXI. Đây là một vấn đề phúc lợi xã hội để phát triển hài hòa và
cạnh tranh trong thế kỷ XXI.
Ngày nay, hầu như các quốc gia trên thế giới đều có quan điểm chung
về vấn đề giáo dục và học tập: Đó là việc học tập của mỗi con người không
thể đặt dấu chấm hết ngay sau quá trình học tập tại nhà trường phổ thông, khi
họ còn trẻ, mà phải được duy trì trong suốt cuộc đời của họ. Cũng có những
quốc gia đã sớm đưa ra được những chính sách cụ thể để xây dựng “xã hội
học tập suốt đời” như nước Anh. Cũng có những quốc gia lại tiến hành công
cuộc xây dựng “xã hội học tập suốt đời” từ mục tiêu tăng cường đào tạo nghề,
nhằm đối phó với nạn thất nghiệp như Mỹ và một số nước châu Âu. Còn tại
Nhật Bản, “học tập suốt đời” có ý nghĩa là toàn bộ những hoạt động học tập
trong suốt cuộc đời của một con người, bao gồm: giáo dục nhà trường, giáo
dục xã hội, các hoạt động văn hóa, thể thao, các hoạt động ngoại khóa…
nhằm giải tỏa căng thẳng. Các hoạt động tình nguyện, hoạt động đào tạo trong
công ty, xí nghiệp và các hoạt động học tập khác được tiến hành theo sở thích
và tại các địa điểm đa dạng. Ở đó, con người được tự do lựa chọn cơ hội học
tập ở bất cứ giai đoạn nào trong cuộc đời, và thành quả học tập đó được công
nhận một cách thích đáng.
Ở nhiều quốc gia, người ta hiểu rằng, công việc giáo dục phải được tiến
hành đối với mọi lứa tuổi, từ lúc lọt lòng cho đến lúc kết thúc cuộc sống. Các
quá trình giáo dục đó không phân biệt học trong nhà trường hay học ngoài xã


7

hội, hoặc tại gia đình; học có mục đích hay học ngẫu nhiên, học theo tri thức
và kỹ năng hay cần gì học nấy (như ở Nhật Bản). Tất cả các cách học này cần
phải được quan tâm và có sự quản lý chặt chẽ nhưng hợp lý và đều được hiểu
là GDTX. Với cách hiểu như thế, GDTX thực sự là một chính sách, đường
lối, hướng đi của một xã hội hiện đại, trong đó học tập là quyền của con
người. Như vậy, nếu phân chia hệ thống giáo dục ra làm hai hệ nhỏ mà thành
phần là: hệ thống giáo dục ban đầu và hệ thống giáo dục tiếp tục, thì sự liên
kết, liên thông, kết nối và được tiến hành không đứt đoạn nhờ sự đan xen và
liên tục của sự học ở mỗi con người thì được gọi là GDTX.
Theo quan niệm đó: GDTX bao gồm tất cả các cơ hội học tập mà mọi
người đều mong muốn hoặc cần có sau xóa mù chữ cơ bản và giáo dục Tiểu
học. Vì vậy, việc cung ứng các cơ hội học tập tiếp theo chương trình xóa mù
chữ có nhiều chương trình khác nhau đã và đang được nhiều nước thực hiện
như: Chương trình nâng cao chất lượng cuộc sống; chương trình tương
đương; chương trình tạo thu nhập; chương trình đáp ứng sở thích cá nhân;
chương trình định hướng tương lai… Và trên thực tế, những chương trình đại
loại như trên thường được nhiều đối tượng hoan nghênh, trong đó nhiều nhất
là: Những người bỏ học giữa chừng khi đang học trong nhà trường chính
quy, những người nghèo hoặc thất nghiệp, những người di cư, những người tị
nạn, những phụ nữ ít có cơ may học tập, những người về hưu (như tại Nhật
Bản, một xã hội đang đương đầu với thách thức xã hội già hóa dân số)…
Từ đó, ta thấy GDTX đang thực hiện những chức năng khác nhau,
trong đó người ta tổng kết có 4 chức năng chính:
Thứ nhất, chức năng thay thế: Với chức năng này, GDTX sẽ tạo cơ hội
học tập thứ 2 cho những người chưa bao giờ đi học, từ đó góp phần vào việc
mang lại công bằng xã hội và bình đẳng trong giáo dục.


8
Thứ hai, chức năng nối tiếp: Chức năng này sẽ phù hợp với những

người bỏ học giữa chừng vì lý do nào đó, để việc học tập của họ lại được tiếp
tục, liền mạch.
Thứ ba, chức năng bổ sung: Những người đã được cung ứng những tri
thức và kỹ năng nhờ quá trình giáo dục chính quy hoặc không chính quy
thường luôn thấy bản thân còn thiếu hụt những kiến thức, những kỹ năng nào
đó trong quá trình lao động, giao lưu xã hội… làm cho họ khó thích nghi, khó
phát triển trong điều kiện xã hội thay đổi nhanh chóng về mọi phương diện…
từ thực tiễn đó, yêu cầu con người phải cập nhật những hiểu biết, những
phương pháp làm việc cần thiết mà cuộc sống đòi hỏi (đây chính là tiền đề để
xây dựng xã hội học tập suốt đời) và là xu thế phát triển của giáo dục trong
tương lai gần.
Thứ tư, chức năng hoàn thiện: với chức năng này, GDTX mang lại cơ
hội học tập mà qua đó con người làm cho vốn kinh nghiệm của mình đầy đủ
hơn, năng lực hoạt động được nâng cao sức khỏe được tăng cường, những
phẩm chất nhân cách được phát triển hài hòa và hoàn chỉnh hơn.
UNESCO cũng đã đánh giá rất cao vai trò của GDTX thông qua những
nhận định sau đây:
- GD chính quy và GDTX đều có tầm quan trọng như nhau đối với sự
phát triển tài nguyên con người.
- GD chính quy và GDTX bổ sung cho nhau và vì vậy, các chương
trình GD tương đương cần phải được khuyến khích.
- Cả GD chính quy và GDTX đều có đối tượng riêng của mình.
- GDTX là một phần tiếp tục của GD chính quy, vì vậy cả hai loại
chương trình này cần được tiến hành song song với nhau.
- GD chính quy và GDTX cần phải có những tài liệu học tập tốt mang
tính đặc thù, đều phải có giáo viên chuyên trách và sự trợ giúp về tài chính.
- GD chính quy và GDTX cần được tổ chức một cách hệ thống.


9

- Bồi dưỡng và cập nhật kiến thức cho giáo viên và người học đều cần
thiết đối với cả GD chính quy và GDTX, nhất là phải thường xuyên tổ chức
các khóa huấn luyện về đổi mới phương pháp dạy học cho người dạy.
- Việc nghiên cứu lý luận và biên soạn giáo trình, học liệu phù hợp với
các chương trình GD chính quy và GDTX là rất cần thiết.
- GDTX cần đến sự tham gia của cộng đồng nhiều hơn GD chính quy.
- Chất lượng và hiệu quả của GDTX phụ thuộc vào mức độ đáp ứng
nhu cầu của người dân ở từng cộng đồng.
- GD chính quy và GDTX đều phải hướng tới sự phát triển của các kỹ
năng hành dụng “Học đi đôi với hành”.
- Việc quản lý, điều hành và đánh giá GD chính quy và GDTX phải
được thiết lập một cách có tổ chức.
- Mặc dù cả GD chính quy và GDTX đều được cấu trúc theo chương
trình chuẩn, nhưng chương trình của GDTX mang tính mềm dẻo hơn.
Đồng thời UNESCO cũng có 14 khuyến cáo về GD và hầu như 14 điều
này đều nói tới GDTX:
- GDTX phải giữ vai trò chủ đạo trong mọi chính sách GD tại các
nước phát triển và đang phát triển.
- GDTX qua mọi lứa tuổi, trong suốt cuộc đời, không chỉ bó hẹp trong
những bức tường nhà trường, nền GD phải được cải tổ toàn diện
- GD phải trở thành phong trào quần chúng thực sự.
- GD phải được tiến hành và tiếp thu bằng nhiều cách khác nhau.
Điều quan trọng không phải là học theo cách nào, mà là học cái gì? học
được cái gì?
- Xóa bỏ hàng rào giả tạo và lỗi thời giữa các ngành GD và các cấp
GD, giữa GD chính quy và GD không chính quy, xóa bỏ sự cách biệt cứng
nhắc giữa GD phổ thông, GDKHKT, GD chuyên nghiệp. Ngay từ cấp cơ


10

sở, GD đã mang lại tính kết hợp giữa lý thuyết với công nghệ, với thực
hành thủ công.
- GD không chỉ nhằm mục đích đào tạo thanh niên cho những công
việc cụ thể, mà còn trang bị cho học sinh khả năng thích ứng với nhiều loại
công việc khác nhau.
- Không chỉ riêng hệ thống nhà trường phải chịu trách nhiệm về đào
tạo kỹ thuật, mà cả các xí nghiệp, các ngành kinh doanh và hệ thống GD
ngoài nhà trường cũng phải chia sẻ trách nhiệm ấy với các trường học.
- GD đại học cần được mở rộng và đa dạng để đáp ứng các đòi hỏi của
từng con người và cả cộng đồng. Muốn vậy, trước hết phải có sự thay đổi
trong quan niệm và thái độ cổ truyền với trường đại học.
- Được nhận vào các ngành GD và các nghề nghiệp khác nhau chỉ tùy
thuộc ở kiến thức, khả năng và lực học của mỗi người.
- Đạo đức mới của GD là nhằm làm cho mỗi người trở thành thày dạy
và người kiến tạo nên sự tiến bộ văn hóa của bản thân mình.
- Khi soạn thảo và đặt kế hoạch cho các hệ thống giáo dục cần tính
đến khả năng do kỹ thuật mới đem lại.
- Thầy giáo phải được đào tạo để trở thành những chuyên gia dạy
học giỏi.
- Các chương trình đào tạo thầy giáo cần triệt để sử dụng các thiết bị
hiện đại và các phương pháp giảng dạy mới nhất.
- Trái với thông lệ cổ truyền, việc giảng dạy phải thích nghi với người
học, chứ không phải người học phải tuân theo những quy định cứng nhắc đã
định sẵn từ trước trong công việc giảng dạy.
- Người học và công chúng nói chung cần được có tiếng nói nhiều hơn
trong việc quyết định các vấn đề có liên quan đến giáo dục.
Những khuyến cáo này được UNESCO đưa ra vào những năm 80
của thế kỷ XX (tức là cách đây hơn 30 năm). Song đến nay ta vẫn thấy



11
dường như đó là những vấn đề thời sự ở nước ta trong thời điểm này,
trong đó có GDTX.
1.1.2. Các nghiên cứu ở trong nước
Từ công tác Bình dân học vụ đến xây dựng "xã hội học tập"
Gần 70 năm trước, ngày 8/9/1945, ngay sau Cách mạng Tháng Tám
thành công, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã đề nghị "mở chiến dịch chống nạn mù chữ" coi nạn thất học như một thứ
giặc nguy hiểm như giặc ngoại xâm và nạn đói.
Tư tưởng này của Bác Hồ vẫn hoàn toàn đúng và càng đúng trong tình
hình hiện nay khi giáo dục phải đón đầu nền kinh tế trí thức, phục vụ công
nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, cùng đất nước nhanh chóng hội nhập với
khu vực, hội nhập với thế giới đang phát triển với tốc độ nhanh.
Từ phong trào "diệt giặc dốt", xoá mù chữ; Chỉ sau một năm thực hiện
chương trình Bình dân học vụ, ngày 8-9-1946, cả nước ta có 74.957 lớp học
bình dân học vụ, 95.665 giáo viên và 2.520.678 người thoát nạn mù chữ
(trong số 22 triệu dân). Những lớp bổ túc văn hóa, tiếp sau bình dân học vụ
xóa mù chủ đã đưa tám triệu người dân trong chín năm kháng chiến (1946 1954) vừa lo chống giặc giữ nước, vừa học tập, thoát nạn mù chữ, và năm
năm sau năm 1959, tất cả các tỉnh, thành phố vùng đồng bằng trung du miền
Bắc đều hoàn thành nhiệm vụ xóa mù chữ cho nhân dân ở độ tuổi 12 - 50.
Kết thúc kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965) các vùng thấp
thuộc các tỉnh miền núi phía Bắc đã xóa xong nạn mù chữ cho nhân dân các
dân tộc thiểu số.
Kinh nghiệm thực tiễn xóa mù chữ ở miền Bắc đã trở thành những bài
học quý báu, bổ ích cho công cuộc xóa nạn mù chữ ở miền Nam ngay sau
ngày giải phóng, đất nước thống nhất, để ba năm sau, 1978, Bộ Giáo dục
chính thức công bố, nước ta đã cơ bản hoàn thành xóa nạn mù chữ.


12

Việc nâng cao dân trí; Sự nghiệp nâng cao dân trí của đất nước tiếp tục
tiến lên một bước mới, được đánh dấu bằng thập kỷ 1990 - 2000, cả nước
triển khai công cuộc xóa mù chữ - phổ cập giáo dục tiểu học, thực hiện mục
tiêu thế giới bước vào thế kỷ XXI không còn nạn mù chữ do UNESCO
khuyến cáo và Liên Hợp Quốc phát động và đến tháng 6/2000, cả nước ta đạt
chuẩn quốc gia xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học và nay đang tiếp tục
phổ cập giáo dục trung học cơ sở.
Gần 70 năm qua sự nghiệp xóa mù chữ, nâng cao dân trí luôn gắn liền
sự nghiệp giành độc lập, bảo vệ Tổ quốc, phát triển đất nước, gắn liền tên tuổi
Chủ tịch Hồ Chí Minh Người thầy lớn của dân tộc, ngành giáo dục và đào tạo
đã đạt được những thành tích to lớn, góp phần đáng kể, nâng cao dân trí giúp
cho đông đảo người lao động thoát khỏi tình trạng thất học, từng bước nâng
cao trình độ học vấn của cán bộ, người lao động trẻ tuổi, tạo nguồn đào tạo
nhân lực có kỹ thuật đáp ứng đòi hỏi sự nghiệp xây dựng đất nước.
Triển khai nhiệm vụ mới, thực hiện Quyết định số 112/2005/QĐ-TTg
của Thủ tường Chính phủ phê duyệt đề án ''Xây dựng xã hội học tập giai đoạn
2005-2010'', và quyết định số 89/QĐ- TTg về phê duyệt đề án “Xây dựng xã
hội học tập giai đoạn 2012-2020” ngành giáo dục và đào tạo tăng cường củng
cố tổ chức và hoạt động của các cơ sở giáo dục thường xuyên (bao gồm các
trung tâm học tập cộng đồng, trung tâm giáo dục thường xuyên, trung tâm
ngoại ngữ, tin học), giáo dục từ xa, để các cơ sở này có khả năng thực hiện
nhiều chương trình giáo dục đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân.
Phát triển mạng lưới trung tâm giáo dục thường xuyên, trung tâm học
tập cộng đồng, các cơ sở học tập, bồi dưỡng thường xuyên để đến năm 2010
tất cả các tỉnh, thành phố trong cả nước đạt tỷ lệ 100% số quận, huyện có
trung tâm giáo dục thường xuyên, 80% số xã, phường, thị trấn có trung tâm
học tập cộng đồng. Chỉ đạo và tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan, tổ
chức, cơ sở sản xuất, dịch vụ, kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế thành



13
lập các cơ sở học tập, bồi dưỡng thường xuyên cho người lao động, nhất là
trong lĩnh vực nông nghiệp và ở những vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó
khăn và đặc biệt khó khăn.
Đa dạng hóa các hình thức học tập với thời gian học tập linh hoạt, thực
hiện phương châm đưa lớp học về gần với người học, áp dụng các phương
thức giáo dục từ xa tăng nhanh khả năng cung ứng cơ hội học tập theo
phương thức giáo dục từ xa với các vùng khó khăn và đặc biệt khó khăn. Xây
dựng, đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, giáo viên trong các cơ sở giáo dục
từ xa, chú trọng việc đào tạo giảng viên tiếng dân tộc thiểu số làm nòng cốt
đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cốt cán, giáo viên dạy tiếng dân tộc thiểu số cho
các địa phương.
Từ bình dân học vụ đến xã hội học tập là một bước phát triển giáo dục
cả về lượng và chất. Phấn đấu cho mô hình xã hội học tập trở thành hiện thực
các cấp ủy đảng, chính quyền, các đoàn thể nhân dân, tổ chức kinh tế xã hội,
các gia đình cần nhận thức sâu sắc và tích cực phát triển ngành giáo dục
thường xuyên, phát triển các hình thức học tập thiết thực, đóng góp trí tuệ,
nhân lực, vật lực, tài chính... góp phần xây dựng một xã hội học tập, văn minh
và văn hóa, đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước.
- Ngành giáo dục thường xuyên miệt mài thắp sang tri thức nhân loại
thủ đô
Nghiên cứu sự hình thành và phát triển của ngành giáo dục thường
xuyên đi sâu vào nghiên cứu các trung tâm giáo dục thường xuyên của thành
phố Hà Nội từ sau cách mạng tháng 8 năm 1945 đến nay (Tạp chí Thủ đô)
- Phân cấp quản lý giáo dục thường xuyên trong những thập kỷ đầu của
thế kỷ thứ 21 chủ nhiệm đề tài Th.S Đào Duy Thụ;
- Giáo dục thường xuyên trong XHHT của giáo sư Phạm Tất Dong;
- Tư tưởng Hồ Chí Minh với XHHT.



14
1.2. Các khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1. Trung tâm giáo dục thường xuyên cấp huyện
- Trung tâm giáo dục thường xuyên là cơ sở giáo dục thường xuyên của
hệ thống giáo dục quốc dân. Trung tâm giáo dục thường xuyên bao gồm trung
tâm giáo dục thường xuyên quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây
gọi chung là trung tâm giáo dục thường xuyên cấp huyện); Trung tâm giáo
dục thường xuyên có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng.
1.2.2. Hoạt động của trung tâm giáo dục thường xuyên cấp huyện
Hoạt động trong TTGDTX cấp huyện rất đa dạng và phong nó phú
tùy thuộc vào từng đơn vị cụ thể nhưng nhìn chung thì các hoạt động cơ
bản đó là:
- Hoạt động QL: Công tác quản lý TTGDTX cấp huyện là công tác của
Chi bộ, GĐ, các PGĐ,Trưởng các phòng ban, tổ chức đoàn thể (công đoàn,
đoàn thanh niên, hội chữ thập đỏ v.v..) theo chức năng nhiệm vụ của quy chế
tổ chức hoạt động của TTGDTX do BGDĐT ban hành cùng với nội quy của
cơ quan đơn vị do tập thể xây dựng và được phê duyệt của GĐTTGDTX cấp
huyện. Công tác quản lý phải sát với tình hình thực tế nhưng phải đảm bảo
các khâu cơ bản (kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra) và tổng hợp các khâu
trên là việc sơ kết, tổng kết việc thực hiện kế hoạch; sơ kết tổng kết ở đây
mang tính linh hoạt phụ thuộc vào quy mô và tính quan trọng của công việc
chứ không phải nhất thiết mang tính hình thức nghi lễ mà ta thường coi là
những hội nghị sơ kết, tổng kết. Nhiều bộ phận có triển khai kế hoạch và tiến
hành các khâu của công tác quản lý nhưng bỏ qua sơ kết, tổng kết thì chúng ta
không đánh giá sát được việc thực hiện kế hoạch và những hoạt động của cơ
quan đơn vị; Hoạt động quản lý do GĐ TTGDTX cấp huyện xây dựng KH tổ
chức hoạt động chung theo năm học, học kỳ, tháng cho toàn bộ cơ quan đơn
vị và phê duyệt kế hoạch các phòng, tổ đoàn thể đảm bảo khoa học tránh
chồng chéo tạo sự quan hệ đấu mối giữa các phận trong thực hiện nhiệm vụ



15
chung. GĐ, PGĐ tiếp thu những tinh thần chỉ đạo của cấp trên qua các kênh
thông tin và trực tiếp chỉ đạo hoạt động trong đơn vị.
- Hoạt động của các Phòng chức năng: Trên cơ sở kế hoạch chung của
TTGDTX các phòng xây dựng KH sát với tình hình thực tế và GĐ phê duyệt
để thực hiện
+ Phòng dạy nghề và bồi dưỡng nâng cao trình độ; Tổ chức các lớp
nghề ngắn hạn, lớp chuyên đề
+ Phòng dạy văn hóa: Tổ chức các hoạt động chuyên môn chuyên môn
từ việc sinh hoạt chuyên môn, tổ chức dạy, học kiểm tra đánh giá đặc biệt là
đổi mới phương pháp giảng dạy phù hợp với thực tiễn và đối tượng học viên;
đây là hoạt động thường xuyên của tổ chuyên môn
+ Phòng quản lý đào tạo; Phối hợp với các trường đại học, cao đẳng,
trung cấp chuyên nghiệp liên kết đào tạo các lớp hệ vừa học vừa làm theo
chức năng của TTGDTX cấp huyện
+ Phòng tổ chức hành chính: Tổ chức các hoạt động theo chức năng
nhiệm vụ, quản lý, quản lý hệ thống hồ sơ sổ sách công văn đến, đi bảo đảm
thông tin hai chiều giải quyết những công việc cơ quan được GĐ và PGĐ
giao, chăm lo cơ sở vật chất sắp xếp lịch hoạt động cân đối các khoản thu chi
của cơ quan, phối hợp với công đoàn chăm lo chế độ chính sách cho cán bộ
công nhân viên.
+ Hoạt động của công đoàn TTGDTX: Công đoàn TTGDTX cấp huyện
chịu sự chỉ đạo của công đoàn ngành và chi bộ TTGDTX, công đoàn chì đạo
các tổ công đoàn động viên cán bộ công nhân viên yên tâm công tác, thăm hỏi
đoàn viên ốm đau, phối hợp về công tác chuyên môn, tư vấn các vấn đề về
chế độ chính sách của người lao động bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của
người lao động,tham gia các hoạt động nữ công kỷ niệm ngày 8/3; 20/10;
tham gia các chuyên đề chăm sóc sức khỏe và hạnh phúc gia đình và các
phong trào thể dục thể thao văn nghệ. Kinh nghiệm cho thấy dưới sự chỉ đạo



16
của chi bộ và công đoàn ngành giáo dục nếu cơ quan đơn vị nào sự phối hợp
giữa công đoàn và nhà trường tốt thì tạo ra sự đoàn kết nhất trí và hiệu quả
công việc cao.
+ Hoạt động của chi đoàn thanh niên TTGDTX: Chi đoàn thanh niên
TTGDTX chịu sự lãnh đạo của chi bộ và giám đốc TTGDTX có trách nhiệm
về mảng hoạt động đoàn đơn vị (chi đoàn CBCC,VC và chi đoàn học viên)
các hoạt động đoàn theo chủ đề chủ điểm chủ đề đã định trong năm theo kế
hoạch và một số vấn đề đột xuất, hoạt động đàn của TTGDTX cấp huyện góp
phần thúc đẩy hoạt động khác của đơn vị, trong quá trình hoạt động của đoàn
góp phần bổ sung nhiều vấn đề về giáo dục như kỹ năng sống, lý chí niềm tin,
tình cảm cho giới trẻ và tư vấn nghề nghiệp cho học viên tham gia các phong
trào tình nguyện, chủ nhật xanh, đền ơn đáp giúp nhau trong học tập và công
tác, có thể các chi đoàn kiêm thêm nhiệm vụ về công tác chữ thập đỏ theo
chức năng của hội chữ thập đỏ trong TTGDTX và trường học.
Nội dung hoạt động cụ thể của TTGDTX cấp huyện sẽ được trình bày
kỹ hơn ở phần sau.
1.2.3. Quản hoạt động của trung tâm giáo dục thường xuyên cấp huyện
Quản lý là một hiện tượng xuất hiện rất sớm, ngay từ buổi sơ khai, để
đương đầu với sức mạnh tự nhiên, để tồn tại và phát triển, con người đã phải
hình thành các nhóm hợp tác lao động tập thể nhằm thực hiện các mục tiêu
mà mỗi cá nhân riêng lẻ không thể thực hiện được, điều này đòi hỏi phải có
sự tổ chức, có phân công và hợp tác lao động, từ đó xuất hiện sự QL.
Chất lượng đạt được cao hay thấp, chất lượng tốt hay xấu đều có sự tác
động của yếu tố “Quản lý” trong tất cả các hoạt động của con người. Dưới
nhiều góc độ khác nhau và bằng các phương pháp tiếp cận khác nhau như
phương pháp thực nghiệm, phương pháp nghiên cứu lý thuyết, người ta đã
xây dựng nhiều học thuyết về QL. Mỗi học thuyết trong từng hoàn cảnh cụ



17
thể đều có giá trị riêng, tạo được những bước ngoặt lớn cho sự phát triển các
mặt hoạt động của xã hội nói chung cũng như lĩnh vực QL nói riêng.
Quản lý gắn với chức năng lao động xã hội, do nó bắt nguồn từ tính
chất xã hội của lao động. Có thể nói rằng, QL chính là các hoạt động do một
hoặc nhiều người điều phối hành động của người khác nhằm thu được kết quả
mong muốn; là sự tổ chức, kết hợp vận dụng tri thức với lao động để phát
triển sản xuất xã hội.
Quản lý trở thành một nhân tố của sự phát triển xã hội. Tuy nhiên, thuật
ngữ quản lý có nhiều cách hiểu khác nhau:
- Theo từ điển Tiếng Việt của Hội Ngôn ngữ học Việt Nam 1997:
+ Quản lý: là trông coi, giữ gìn theo những yêu cầu nhất định như quản
lý hồ sơ, quản lý vật tư.
+ Quản lý: là tổ chức và điều khiển các hoạt động theo yêu cầu nhất
định. [32]
- Theo Trần Hữu Cát và Đoàn Minh Duệ: “Quản lý là một hoạt động
thiết yếu nảy sinh khi con người lao động và sinh hoạt tập thể nhằm thực hiện
các mục tiêu chung. QL là tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể
QL (người quản lý) đến khách thể QL (người bị quản lý) trong một tổ chức
nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức”.[33]
- Theo Hà Thế Ngữ và Đặng Vũ Hoạt: “Quản lý là một quá trình định
hướng, quá trình có mục đích; quản lý là một hệ thống, là quá trình tác động
đến hệ thống nhằm đạt được mục tiêu nhất định”. [23]
- Theo từ điển Tiếng Việt: Quản lý (với ý nghĩa là một động từ)
+ Quản: Trông coi và giữ gìn theo những yêu cầu nhất định.
+ Lý: Tổ chức và điều khiển các hoạt động theo yêu cầu nhất định.
- Còn nhận định của tác giả Trần Kiểm: “Quản lý là những tác động của
chủ thể quản lý trong việc huy động, phát huy, kết hợp, điều chỉnh, điều phối

các nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực) trong và ngoài tổ chức (chủ yếu là


18
nội lực) một cách tối ưu nhằm đạt mục đích của tổ chức với hiệu quả cao nhất
và Quản lý một hệ thống xã hội là tác động có mục đích đến tập thể người thành viên của hệ - nhằm làm cho hệ vận hành thuận lợi và đạt tới mục đích
dự kiến”. [34]
Những nhận định nêu trên về thuật ngữ này là khá gần gũi với những
quan niệm và cách thức tổ chức, QL đang được áp dụng trong các tổ chức
kinh tế - xã hội ở nước ta nói chung cũng như trong các TTGDTX cấp huyện
nói riêng. Mỗi nội dung gắn với hoàn cảnh lịch sử và phương pháp tiếp cận
đối tượng khác nhau nên chúng có những điểm nhấn mạnh riêng. Từ những
luận điểm trên đây, có thể rút ra được những nội dung cơ bản nhất để áp dụng
vào thực tiễn nhằm giúp cho các hoạt động của nhà QL đạt được kết quả
mong muốn, đó là:
Quản lý là một hoạt động có tính khoa học, do vậy hoạt động quản lý
phải tuân theo các quy luật tự nhiên, quy luật xã hội. Muốn QL có hiệu quả
thì người QL phải thực hiện tốt các chức năng: Kế hoạch hóa, tổ chức, lãnh
đạo (chỉ đạo) và kiểm tra. Trong đó:
+ Kế hoạch hóa: Là xác định mục đích, mục tiêu đối với thành tựu
tương lai của tổ chức và các cách thức để đạt. Kế hoạch hóa có ba nội dung
chủ yếu: (a) Xác định, hình thành mục tiêu (phương hướng) đối với tổ chức;
(b) Xác định và đảm bảo có tính chắc chắn, cam kết về các nguồn lực của tổ
chức để đạt mục tiêu; (c) Quyết định xem những hoạt động nào là cần thiết để
đạt được mục tiêu.
+ Tổ chức: là quá trình hình thành nên cấu trúc các quan hệ giữa các
thành viên, giữa các bộ phận trong một tổ chức nhằm làm cho họ thực hiện
thành công các kế hoạch và đạt được mục tiêu của tổ chức. Nhờ việc tổ chức
có hiệu quả, người quản lý có thể điều phối tốt hơn nguồn nhân lực, vật lực.
Thành tựu của một tổ chức phụ thuộc rất nhiều vào năng lực sử dụng các

nguồn lực sao cho có hiệu quả và kết quả.


19
+ Lãnh đạo (chỉ đạo): là người QL có sự dẫn dắt chỉ đạo, liên kết, liên
hệ với người khác và động viên họ hoàn thành những nhiệm vụ nhất định để
đạt được mục tiêu của tổ chức sau khi kế hoạch được lập.
+ Kiểm tra: là một chức năng quản lý. Thông qua đó một cá nhân, một
nhóm hoặc một tổ chức theo dõi giám sát các thành quả hoạt động và tiến
hành những hoạt động sửa chữa, uốn nắn cần thiết. Một kết quả hoạt động
phải phù hợp với những chi phí bỏ ra, nếu không tương ứng thì phải tiến hành
những hoạt động điều chỉnh, uốn nắn. Đó cũng là quá trình tự điều chỉnh, diễn
ra có tính chu kỳ như sau:
◦ Người quản lý đặt ra những chuẩn mực thành đạt của hoạt động.
◦ Người quản lý đối chiếu, đo lường kết quả sự thành đạt so với chuẩn
mực đã đặt ra.
◦ Người quản lý tiến hành điều chỉnh những sai lệch.
◦ Người quản lý hiệu chỉnh, sửa lại chuẩn mực (nếu cần).
Đối với giáo dục, quản lý thực chất là sự tác động một cách khoa học
của chủ thể quản lý đến hệ thống giáo dục nhằm làm cho hệ vận hành đến một
trạng thái mới có chất lượng cao hơn.
Công cụ
quản lý

Chủ thể
Chủ thể
quản lý
quản lý

Chức năng

quản lý

Phương pháp
quản lý

Khách thể
quản lý

Mục
tiêu
quản



×