Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Động thái của cán cân thương mại và tỷ lệ mậu dịch

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 20 trang )

Động thái của cán cân thương mại và tỷ lệ mậu dịch
ĐỘNG THÁI CỦA CÁN CÂN THƯƠNG MẠI VÀ TỶ LỆ MẬU DỊCH – ĐƯỜNG
CONG J?
Lời mở đầu
Như chúng ta đã biết, cán cân thương mại hay còn gọi là cán cân mậu dịch (CCTM) Trade Balance là một thành phần chính và chiếm tỉ trọng lớn trong tài khoản vãng lai của
mỗi quốc gia. Nó ghi lại những thay đổi trong xuất khẩu và nhập khẩu một quốc gia trong
một khoảng thời gian nhất định (quý hoặc năm) cũng như mức chênh lệch (xuất khẩu trừ
đi nhập khẩu) giữa chúng. Khi mức chênh lệch là lớn hơn 0, thì cán cân thương mại có
thặng dư. Ngược lại, khi mức chênh lệch nhỏ hơn 0, thì cán cân thương mại có thâm hụt.
Khi mức chênh lệch đúng bằng 0, cán cân thương mại ở trạng thái cân bằng.
Sự cân bằng trong cán cân thương mại và các tỷ lệ mậu dịch (TLMD) vẫn luôn là điều
mà chính phủ các quốc gia hướng tới, bởi lẽ một sự gia tăng trong xuất khẩu hay nhập
khẩu có thể dẫn đến tình trạng xuất siêu hay nhập siêu đều sẽ mang lại những hậu quả
xấu cho nền kinh tế.
Tuy nhiên, để có thể điều chỉnh cán cân thương mại một cách có lợi theo ý muốn chủ
quan của con người thật không phải dễ dàng. Chúng ta cần phải nắm rõ những đặc thù,
tính chất và các nhân tố tác động, từ đó hình thành nên cách xử lý phù hợp để đạt được
mục tiêu phát triển bền vững.
Nhằm đáp ứng những nhu cầu đó, bài nghiên cứu sau đây của 3 tác giả: David K. Backus,
Patrick J. Kehoe và Finn E. Kydland sẽ cung cấp những giải thích mang tính lý thuyết
làm nền tảng để chúng ta tìm hiểu về 2 đặc tính quan trọng có được từ nguồn dữ liệu
quốc tế: đó là các hoạt động ngược chu kỳ trong xuất khẩu ròng và xu hướng của cán cân
thương mại. Họ thấy rằng cán cân thương mại là ngược chu kì và tương quan phủ định,
với các hoạt động hiện tại và tương lai trong tỷ lệ mậu dịch, nhưng rõ ràng tương quan
xác định với những vận động trong quá khứ theo dạng không đối xứng của hàm tương
quan chéo cho xuất khẩu ròng và các tỷ lệ mậu dịch của đường cong_S, vì nó trông giống
như một chữ S nằm ngang. Một điều quan trọng được rút ra là: mối quan hệ giữa cán cân
thương mại và các tỷ lệ mậu dịch phụ thuộc rất nhiều vào nguồn gốc của sự biến động.
Những nghiên cứu này được thực hiện trên 1 mô hình được giả thiết mang tên Nền kinh
tế lý thuyết, được hình thành bằng cách đưa ra dữ liệu về một số thuộc tính của các biến
động ngắn hạn trong cán cân thương mại và các tỷ lệ mậu dịch trong 11 nước phát triển


và giải thích chúng theo quan điểm của một mô hình tăng trưởng ngẫu nhiên của 2 nước
(theo Kydland và Prescott, 1982)
1


Động thái của cán cân thương mại và tỷ lệ mậu dịch
Mục tiêu cao hơn của bài nghiên cứu này là cung cấp một sự giải thích linh hoạt trong sự
cân bằng tổng quát về những thuộc tính này, bằng cách nghiên cứu các phản hồi khi tính
đến những thay đổi trong tiêu dùng và đầu tư sẽ tác động như thế nào đến sản lượng. Mô
hình phản ứng động này làm gia tăng các vận động ngược chu kì trong cán cân thương
mại và 1 hàm tương quan chéo không đối xứng giống như những gì nhìn thấy trong các
dữ liệu, đồng thời cho thấy các động thái đầu tư đóng vai trò trung tâm trong việc tạo ra
các đặc tính này của nền kinh tế lý thuyết.
Sự cân bằng theo nghĩa là sự tương quan giữa thương mại và giá cả tương đối phụ thuộc
rất nhiều vào nguồn gốc của sự biến động, và sẽ được minh họa rất rõ qua những đột biến
trong chi tiêu chính phủ. Trong trường hợp này, hàm tương quan chéo cho xuất khẩu ròng
và tỷ lệ mậu dịch là hình lều, chứ không phải hình chữ S. Những điểm này được phát
triển trong phần còn lại của bài, tại Mục I, với một mô tả về dữ liệu hàng quý sau chiến
tranh, bao gồm các diễn biến có tính chu kỳ của xuất khẩu ròng và các mối tương quan
giữa xuất khẩu ròng và tỷ lệ mậu dịch tại 11 nước phát triển. Tiếp theo đó, Phần II sẽ mô
tả một lý thuyết nền kinh tế với hai nước sản xuất hàng hoá khác nhau có vốn đầu tư và
lao động và những đột biến trong chi tiêu chính phủ. Phần III sẽ làm rõ về việc lựa chọn
các giá trị tham số và phương pháp để tính tóan thời gian cân bằng theo hướng xuất khẩu
ròng, tỉ lệ mậu dịch và các biến khác. Trong phần IV sẽ hướng về các thuộc tính của mô
hình, bao gồm các mối tương quan giữa xuất khẩu ròng và tỷ lệ mậu dịch. Mục V được
dành cho hai thí nghiệm cực: nền kinh tế không có vốn và đầu tư và nền kinh tế với
những cú sốc để mua hàng chính phủ một mình. Phần VI được dành cho một số tính năng
bổ sung về lý thuyết.
Với số lượng trang ít nhưng hàm chứa khối lượng kiến thức khá nhiều, cùng với lối viết
của các vị giáo sư người Mỹ, đôi khi gây khó khăn cho việc hiểu rõ các vấn đề trong bài.

Chính vì thế, nhóm thuyết trình đã cố gắng tìm đọc rất nhiều các tài liệu tham khảo có
liên quan, với mục tiêu cuối cùng là làm sao có thể chuyển tải một cách rõ ràng tinh thần
của bài viết đến người đọc theo văn phong của người Việt.
Tuy nhiên, với trình độ của sinh viên, cùng với những hạn chế về kiến thức cũng
như ngôn ngữ nên khó có thể tránh khỏi sai sót. Nhóm thuyết trình rất mong nhận được
những ý kiến đóng góp, chỉnh sửa chân thành của quý thầy cô để các bài nghiên cứu sau
sẽ được hoàn thiện hơn. Xin cảm ơn.

2


Động thái của cán cân thương mại và tỷ lệ mậu dịch
Nội dung chính trong bài thuyết trình của chúng ta đó là tìm câu trả lời cho 2 câu hỏi:
Thứ 1: Sự vận động của CCTM là như thế nào?
Thứ 2: Sự tương quan giữa CCTM và TLMD là như thế nào ?
Thứ 3: Các nhân tố tác động lên sự tương quan giữa CCTM và TLMD
Câu trả lời được khái quát như sau:
-

CCTM có xu hướng vận động ngược chu kì.
CCTM có xu hướng tương quan nghịch với sự thay đổi của TLMD trong hiện tại
và tương lai đồng thời tương quan thuận với những thay đổi trong quá khứ.

Cả 2 nội dung này sẽ được khái quát trong mô tả về đường cong S sẽ được thể hiện rõ
trong các phần sau của bài nghiên cứu.
Để chứng minh nội dung nghiên cứu tác giả sẽ thể hiện các quan sát trong nền kinh tế
thực tế qua mô hình 11 nước phát triển, sau đó sẽ chứng minh kĩ hơn trong mô hình giả
định về nền kinh tế lý thuyết với 2 cú sốc và cuối cùng là trong nền kinh tế No capital.
Các thuật ngữ:
Tỷ lệ mậu dịch (Terms of trade - p) là tỷ lệ của chỉ số giá hàng nhập khẩu so với hàng

xuất khẩu.
Cán cân thương mại (Trade Balance) là tỷ lệ xuất khẩu ròng trên sản lượng được tính
theo giá hiện hành.
- Sản lượng thực tế (y) là GNP hoặc GDP theo giá cố định.
Đường cong J: Trong nghiên cứu về sự phá giá, chúng ta được thường xuyên lưu ý rằng
các biến động không thuận lợi trong các tỉ lệ thương mại (tăng, trong thuật ngữ của chúng
tôi) đã được thường gắn liền với sự suy giảm trong cán cân thương mại mà lại phục hồi
trở lại 2-8 quý sau đó, và do đó là một mẫu hình chữ J. Đường cong J chỉ biểu hiện cho 1
giai đoạn phát triển của nước Mỹ mà thôi, còn trong trường hợp khái quát với số động
các nước thì nó có dạng hình chữ S.
Nghiên cứu trong thực tế với 11 quốc gia phát triển. Ta có bảng nghiên cứu:
Một số lượng hợp lý của tính không đồng nhất tồn tại ở các nước trong độ lớn của những
thống kê này, đặc biệt là trong biến số thương mại. Độ lệch chuẩn của dãy tỉ lệ giữa xuất
khẩu ròng và sản lượng đạt từ mức thấp 0.45% đối với Hoa Kỳ cho đến mức cao 1.75% ở
3


Động thái của cán cân thương mại và tỷ lệ mậu dịch
Phần Lan. Giá trị trung bình, trong mẫu của chúng tôi, là 1.06%. Độ lệch chuẩn của tỉ lệ
thương mại thay đổi phần nào, từ 1.63 ở Áo đến 5.48 ở Nhật Bản, giá trị trung bình của
nó là 2.92.

-

-

Cán cân thương mại và các tỉ lệ của thương mại thì ổn định cao. Sự tự tương quan
của xuất khẩu ròng kéo dài từ 0.29 ở Áo đến 0.9 ở Thụy Sĩ, với trung bình là 0.71.
Sự tự tương quan của tỉ lệ mậu dịch từ 0.5 ở Áo cho đến 0.88 ở Nhật Bản và Thụy
Sĩ, với trung bình là 0.80.

Các biến xuất khẩu ròng là ngược chu kỳ trong mỗi quốc gia.
Sự tương quan đồng thời giữa xuất khẩu ròng các tỉ lệ mậu dịch giữa các quốc gia
khác nhau một chút, nhưng thường là âm. Ở Phần Lan, Pháp, Ý, Nhật Bản, Thụy
Sỹ, và Vương quốc Anh, các mối tương quan thấp hơn -0.4. Hoa Kỳ là nước duy
nhất trong mẫu của chúng tôi mà hai biến có một tương quan dương.

____ Trong hình 1, chúng ta vẽ đồ thị hàm tương quan chéo cho hai biến, độ sớm và độ
trễ tới hai năm : các mối tương quan, có nghĩa là, giữa p t và nxk+t cho k giữa -8 và 8 Hàm
4


Động thái của cán cân thương mại và tỷ lệ mậu dịch
này thì đặc thù âm cho giá trị âm của k (phía bên trái của trục nằm ngang), nhưng đổi
thành dương khi k giữa 2 và 4.

5


Động thái của cán cân thương mại và tỷ lệ mậu dịch

6


Động thái của cán cân thương mại và tỷ lệ mậu dịch
1. Trong nền kinh tế lý thuyết :
-

-

-


-

-

-

Các đặc điểm:
Chỉ gồm 2 quốc gia của mô hình kinh tế đóng (1982) của Kydland và Prescott,
trong đó mỗi quốc gia sản xuất một loại sản phẩm với công nghệ riêng của mình,
và lao động thì không được tự do di chuyển. Sự biến động là được tạo ra bởi các
đột biến ngẫu nhiên trong năng suất và chi tiêu của chính phủ về hàng hóa và dịch
vụ.
Sở thích tiêu dùng của một nhóm dân cư đại diện trong quốc gia I được biểu diễn
bằng hàm hữu dụng

Trong đó
và c it và nit lần lượt là tiêu
dùng và thời gian sản xuất hao phí ở quốc gia i.
Về mặt kĩ thuật, mỗi quốc gia chuyên môn hóa sản xuất một loại sản phẩm duy
nhất, quốc gia 1 sản xuất sản phẩm a, và quốc gia 2 sản xuất sản phẩm b. Sản
phẩm được sản xuất ra sử dụng vốn k, và lao động n dưới dạng một hàm sản xuất
thuần nhất tuyến tính. Điều này làm gia tăng nguồn lực hạn chế

Lần lượt ở quốc gia 1 và 2, với F(k,n) = kөn1-ө, trong đó ө là hệ số co giãn của sản
lượng theo vốn. yit là GDP ở quốc gia i, được đo lường bởi số đơn vị sản phẩm
quốc nội, và ait và bit là 2 sản phẩm được tiêu dùng ở quốc gia i. Vì vậy, a2t là xuất
khẩu từ quốc gia 1 sang quốc gia 2, và b1t là nhập khẩu của quốc gia 1. Vectơ z
=(z1t,z2t) là đột biến ngẫu nhiên trong năng suất, hoặc kĩ thuật và sẽ được trình bày
dưới đây.

Tiêu dùng, đầu tư, và chi tiêu của chính phủ lần lượt được ký hiệu bởi c, x và g là
kết hợp của hàng hoá trong nước và nước ngoài:
C1t + x1t + g1t = G(a1t, b1t)
C2t + x2t + g2t = G(a2t, b2t)

Trong đó G(a,b) = [ω1a + ω2b-ρ]-1/ρ là phương trình thuần nhất bậc 1 với ρ >= -1.
Vì vậy, cả ba nguồn tiêu dùng cuối cùng về sản phẩm và dịch vụ đều bao gồm cả
hàng nội và hàng ngoại với những tỉ lệ giống nhau. Độ co giãn về sự thay thế giữa
hàng nội và hàng ngoại gọi là σ = 1/(1+ρ). Phương trình về việc tổng hợp về hàng
7


Động thái của cán cân thương mại và tỷ lệ mậu dịch

-

-

-

hoá nội địa và nhập khẩu được đề xuất bởi Paul S. Armington (1969) và là một
thuộc tính tiêu chuẩn của mô hình mậu dịch cân bằng tổng quát (Alan V. Deardorff
và Robert M. Stern, 1990; Jonh Wally (1985). Theo đó, chúng tôi gọi G là thuyết
tổng hợp Armington. Tỉ trọng ωi trong công thức tổng hợp G cho phép chúng ta cụ
thể hóa số lượng hàng nội và hàng ngoại trong tiêu dùng trong nước. Chi tiêu của
chính phủ g là ngẫu nhiên và chúng tôi sẽ mô tả ảnh hưởng của nó dưới đây.
Sự hình thành vốn bao gồm thời gian để xây dựng cấu trúc của Kydland và
Prescott (1982). Theo mô hình kinh tế của họ, cần một thời gian là j quý để có thể
làm gia tăng tổng lượng vốn. Một đơn vị gia tăng trong tổng lượng vốn sau thời
gian j quý đòi hỏi phải mua 1/j đơn vị sản phẩm cuối cùng trong khoảng j quí liên

tiếp nhau. Để biểu diễn điều này bằng toán học, đặt s i,t là lượng tăng thêm trong
tổng lượng vốn của quốc gia i trong khoảng thời gian t + j, tổng lượng vốn được
xác định như sau :
Ki, t+1=(1-δ)ki, t + si,t –j+1
Trong đó, δ là tỉ lệ khấu hao. Trong khoảng thời gian t, tổng chi tiêu trên tổng
lượng vốn là tổng chi tiêu vốn trên các dự án hiện thực:

Trong tất cả các phép thử, ngoại trừ j bằng 1, chi tiêu vốn trong thời gian t đều sẽ
làm gia tăng tổng lượng vốn trong thời gian t +1.
Cuối cùng, tác động của bốn nhân tố cơ bản đến nền kinh tế bị chi phối bởi mô
hình tự hồi quy hai biến độc lập. Tác động kĩ thuật như sau:

Trong đó
theo phân phối chuẩn và độc lập theo thời gian với phương sai Vz.
Mối tương quan về tác động kỹ thuật z1 và z2 được xác định bởi những phần tử
nằm ngoài đường chéo của A và Vz. Tương tự, tác động đến chi tiêu của chính phủ
được xác định bởi công thức:

-

Trong đó gt = (g1t,g2t) và
theo phân phối chuẩn với phương sai Vg.
Từ các thành tố trên chúng ta có thể xây dựng được thu nhập của mỗi quốc gia và
số lượng sản phẩm của mỗi quốc gia trong nền kinh tế lý thuyết. GDP của quốc
gia 1 trong thời gian t, tính theo số lượng hàng hoá được sản xuất trong nước là y 1t.
Nguồn lực hạn chế xem như GDP bằng với tổng a1t+a2t. Để liên kết sản lượng quốc
gia với các thành phần chi tiêu, lưu ý rằng thuyết tổng hợp Armington biểu diễn
8



Động thái của cán cân thương mại và tỷ lệ mậu dịch
tổng chi tiêu c1t + x1t + g1t như là một hàm theo a1t, b1t. Vì G là một phương trình
bậc 1 thuần nhất, ta có phương trình cân bằng:

-

Trong đó q1t và q2t là giá của 2 sản phầm trong thời gian t trong những đơn vị hàng
hoá kết hợp. Sử dụng nguồn lực hạn chế ta có thể biểu hiện sản lượng quốc gia
như sau:

-

Trong đó pt = q2t/q1t là tỉ lệ mậu dịch. Vì vậy, tổng sản lượng quốc gia là tổng tiêu
thụ (c1t + x1t + g1t)/q1t và xuất khẩu ròng (a2t – ptb1t). Chúng tôi đo lường cán cân
mậu dịch trong mô hình như đã làm trong bài bằng tỉ số giữa xuất khẩu ròng với
tổng sản lượng, và được tính theo giá hiện hành

-

Chúng tôi ước tính tỉ lệ mậu dịch ở quốc gia 1 từ tỉ lệ thay thế biên giữa 2 sản
phẩm ở quốc gia 1 và định giá ở mức sản lượng cân bằng

-

Bây giờ chúng tôi miêu tả ngắn gọn thủ tục chọn giá trị tham số chuẩn (xem bảng
2) và tính toán sự cân bằng cạnh tranh. Cả hai đều được phỏng theo thuyết nền
kinh tế mở của Kydland và thuyết nền kinh tế đóng của Prescott; xem chi tiết ở
phần 4, 5 và phần II, III ở những trang trước (Backus et al., 1992)
Trong phần lớn các trường hợp, chúng tôi chọn lựa các tham số chung cho sở thích
tiêu dùng và sản xuất để đánh đồng các tỷ số của Mỹ tương tự như các tỷ số trong

trạng thái nền kinh tế ổn định. Các tham số của đường cong được lựa chọn từ các
thống kê hiện tại. Chúng tôi sử dụng thặng dư Solow của Mỹ và tập hợp các nước
châu Âu để ước lượng các tham số của quy trình công nghệ, mà kết quả bất ngờ là
nó ổn định cao và có tương quan dương giữa các nước. Yếu tố mới duy nhất là
các tham số của tập hợp Armington và nó chi phối đột biến của chi tiêu chính
phủ,chúng tôi sẽ miêu tả cả hai dưới đây. Với giá trị của các tham số của mô hình,
chúng tôi tính toán trạng thái cân bằng bằng cách giải phép tính gần đúng bậc 2
cho vấn đề của các nhà chính sách xã hội mà sự hài lòng của người tiêu dùng ở 2
nước là như nhau.

-

9


Động thái của cán cân thương mại và tỷ lệ mậu dịch
Các tham số quan trọng nhất trong bài nghiên cứu này thuộc về các tham số trong
thuyết Armington, nó chi phối độ co giãn của sự thay thế hàng hóa ngoài nước và
trong nước và tỷ lệ trung bình của hàng hóa nhập khẩu so với tổng sản lượng. Độ
co giãn của sự thay thế: ơ = 1 / (1 + ρ), và có một sự không chắc chắn về những
giá trị của tham số này mà dữ liệu trình bày (theo cuộc khảo sát ước tính được
cung cấp bởi Stern v.v… [1976 ]). Dường như các nghiên cứu đáng tin cậy nhất
chỉ ra rằng đối với Hoa Kỳ độ co giãn là giữa 1 và 2, và các giá trị trong khoảng
này thường được sử dụng trong các mô hình thương mại thực nghiệm. Đối với
Nhật Bản và một số nước châu Âu, độ co giãn có vẻ là nhỏ hơn (theo các cuộc
thảo luận của Deardorff và Stern [1990 Ch.3] và Whalley [1985 Ch.5]). Chúng tôi
sử dụng ơ = 1.5 là điểm khởi đầu nhưng chúng tôi còn thử nghiệm với các giá trị
khác nữa. Dựa vào những điều kiện đầu tiên, chúng tôi xác định ω 1 và ω2 từ việc
quan sát tỉ lệ hàng nhập khẩu và xuất khẩu so với GDP:
p = ( ω2 / ω1 )( a1 / b1)1/ơ

Trong một trạng thái đối xứng ổn định với y1 = y2, b1 = a2, và p = 1, tỷ lệ
a1/b1 có thể được biểu diễn là (1 – b 1 / y1) / (b1 / y1), trong đó b1/y1 là tỷ lệ nhập
khẩu so với GDP trong quốc gia 1. Với p = 1, điều này xác định tỷ lệ ω 2/ω1. Để
thuận tiện, chúng tôi đặt các mức của ω 1 và ω2 sao cho giá trị ổn định của y 1 là 1.
Chúng tôi sử dụng tỷ lệ nhập khẩu là 0.15, nó hơi lớn hơn giá trị trung bình của nó
tại Hoa Kỳ, Nhật Bản, và châu Âu (với phần thương mại nội bộ châu Âu bị loại
trừ) trong thập kỉ qua. Chúng tôi sử dụng các giá trị tham số này như một tiêu
chuẩn nhưng vẫn còn xem xét các giá trị thay thế trong các phần sau. Chúng tôi
hoãn cuộc thảo luận về những biến động của chính phủ cho đến khi chúng được sử
dụng trong phần tiếp theo.
2. Nền kinh tế lý thuyết với cú sốc năng suất:
-

Chúng ta có thể có được một số phán đoán cho những diễn biến cơ bản của mối
tương quan này từ hình 4, chúng tôi đã minh hoạ bằng đồ thị các phản ứng của tỷ lệ
mậu dịch và các biến khác với một đột biến có lợi cho năng suất trong nước. Về tác
động, chúng tôi thấy có sự gia tăng sản lượng trong nước và do đó giảm giá tương đối
của quốc gia đó, nghịch đảo của tỉ lệ mậu dịch. Trong biểu đồ thứ 2,chúng ta thấy
rằng đột biến này cũng làm tăng tiêu thụ, nhưng tăng ít hơn một nửa sản lượng tăng.
Tuy nhiên, đầu tư lớn hơn tiêu thụ, và cán cân thương mại lúc đầu bị thâm hụt. Sau
đó, sự bùng nổ tăng trưởng của đầu tư tiêu tan, và thâm hụt thương mại từ từ chuyển
sang thặng dư. Mô hình phản ứng đẩy này cho thấy sự tăng lên, trong nền kinh tế
chuẩn, trong mối tương quan đồng thời âm giữa xuất khẩu ròng và tỷ lệ mậu dịch.
Các mối tương quan giữa pt và nxt+k tăng với k trong khoảng k = 0, phản ánh độ dốc
dương của hàm phản động của xuất khẩu ròng trong hình 4.
10


Động thái của cán cân thương mại và tỷ lệ mậu dịch


3.

Tác động của độ co giãn của sự thay thế lên đường cong S

Có lẽ các thông số quan trọng nhất cho cán cân thương mại / tỷ lệ mậu dịch liên
quan là độ co giãn thay thế giữa hàng hóa trong và ngoài nước. Trong nền kinh tế
chuẩn, độ co giãn này là 1,5; trong hai thử nghiệm tiếp theo chúng tôi chọn giá trị
lớn hơn và nhỏ hơn. Trong thử nghiệm với độ co giãn lớn (σ = 2,5), sự tương quan
đồng thời giữa xuất khẩu ròng và tỷ lệ mậu dịch là yếu hơn, di chuyển từ -0,41
trong trường hợp chuẩn đến -0,05. Trong thí nghiệm với độ co giãn nhỏ (σ = 0,5),
sự tương quan nghịch mạnh mẽ hơn. Rõ ràng các thông số co giãn, σ, có ảnh
hưởng đáng kể đến sự tương quan này. Trong hình 5, chúng tôi vẽ sơ đồ tương
quan các giá trị của σ giữa 0 và 5. Chúng tôi thấy rằng sự tương quan âm đối với
độ co giãn nhỏ và dương với độ co giãn lớn, với sự thay đổi dấu xảy ra vào
11


Động thái của cán cân thương mại và tỷ lệ mậu dịch
khoảng σ = 2.7. Chúng tôi nhận được một bức tranh hoàn chỉnh hơn về các tác
động của độ co giãn thay thế về động lực thương mại và giá cả từ chức năng tương
quan chéo. Trong hình 6, chúng tôi tường trình các chức năng cho cán cân thương
mại tỷ lệ mậu dịch trong ba nền kinh tế lý thuyết đầu tiên. Chúng tôi thấy rằng đối
với mỗi một trong ba giá trị của các độ co giãn thay thế, các hàm tương quan chéo
thể hiện một đường cong S. Sau đó, rõ ràng rằng giá trị của độ co giãn không thay
đổi ý nghĩa của lý thuyết. Những gì thay đổi độ co giãn di chuyển sang trái và
phải: ví dụ như chúng ta giảm σ, những thay đổi tương quan chéo di chuyển sang
bên phải. Như vậy, độ co giãn thay thế giữa hàng hóa trong và ngoài nước ảnh
hưởng đến tương quan đồng thời giữa cán cân thương mại và tỷ lệ mậu dịch,
nhưng không phải là hình dạng bất đối xứng của hàm tương quan chéo.
Sự phụ thuộc vào thời gian của các đường cong S trên độ co giãn của các mức độ

thay thế cho một giải thích tinh tế hơn của dữ liệu: có một mối quan hệ tính tóan
về thời gian của các điểm giao nhau các hàm tương quan chéo và độ đàn hồi của
mức độ thay thế. Các nghiên cứu ước tính độ co giãn thay thế giữa hàng hóa nước
ngoài và trong nước đối với Hoa Kỳ thường có giá trị lớn hơn so với châu Âu và
Nhật Bản (ví dụ, Whalley của [1985 Ch 5.] khảo sát các bằng chứng). Chúng tôi
cũng xem qua tương quan chéo đối với Hoa Kỳ trong hình 1 di động sang trái
tương đối đối với các nước khác.
4. Nền kinh tế lý thuyết với cú sốc trong chi tiêu chính phủ:
Trong thử nghiệm mang tên đột biến của chính phủ, những đột biến trong chi tiêu
chính phủ như là sự thúc đẩy đơn lẻ.Với đột biến duy nhất của chính phủ mà
chúng tôi tìm thấy, một lần nữa,cho rằng tính chất của mô hình nhiều khác biệt với
các tính chất của thử nghiệm chuẩn.Mối tương quan đương thời giữa xuất khẩu
ròng và tỉ lệ thương mại, ví dụ, thay đổi từ -0,41 trong nền kinh tế chuẩn đến
1.00.Nhưng khía cạnh thú vị nhất của những khác biệt này liên quan đến hàm
tương quan chéo đối với cán cân thương mại và tỉ lệ mậu dịch.Với đột biến của
chính phủ, hàm tương quan chéo, vẽ trong hình 9, là hình lều :đó là luôn dương,
đỉnh ở độ trễ bằng không, và giảm theo cả hai hướng .Ở đây, không có dấu hiệu
của một đường cong S.
Một lần nữa chúng ta có thể nhận được một số hiểu biết cho việc này từ các phản
ứng động của nền kinh tế đối với một đột biến trước đây,được nói đến trong hình
10.Sự khác biệt nổi bật giữa những đột biến của chính phủ và năng suất thể hiện
chủ yếu trong các phản ứng của đầu tư.Ở đây không có xu hướng ,như với những
đột biến năng suất, cho một sự bùng nổ đầu tư theo sau đột biến.
Trong ngắn hạn, nền kinh tế tạo ra một đường cong S-khi sự hình thành vốn là một
phần quan trọng của cơ chế lan truyền và biến động được điều khiển bởi những
đột biến năng suất. Với những đột biến duy nhất trong chi tiêu chính phủ ,thì
không có đường cong S.Trong ý nghĩa này, sự hình thành vốn và nguồn gốc của
biến động giá cả và thương mại là những yếu tố quan trọng trong việc xác định
12



Động thái của cán cân thương mại và tỷ lệ mậu dịch
hình dạng của các hàm tương quan chéo với xuất khẩu ròng và tỉ lệ mậu dịch trong
khuôn khổ lý thuyết của chúng tôi.

Mối tương quan giữa cán cân thương mại và tỉ lệ mậu dịch khi nền kinh tế có 2 cú
shock. (cú shock năng suất và cú shock chi tiêu chính phủ)
Gía trị trung bình của g tại mỗi quốc gia là khoảng 20% của mức sản lượng ổn định,
chúng tôi đã xét đến ở p1.

13


Động thái của cán cân thương mại và tỷ lệ mậu dịch

Sự đổi mới này là những độ lệch chuẩn đã được tính toán từ trước bằng với 2% giá trị
trung bình của chi tiêu chính phủ, hay 0.004. Những đột biến này là khác nhau giữa các
quốc gia, vì nó lệ thuộc vào nguồn dữ liệu quốc tế.
Nếu xét 1 cách chi tiết nhất, những đặc tính của nền kinh tế với những tác động của chính
phủ cũng gàn giống với 1 nền kinh tế chuẩn do hai tác động trái ngược nhau lên mối
tương quan giữa cán cân thương mại và tỉ lệ mậu dịch, nhưng tác động của cú shock năng
suất theo tác giả là mạnh hơn. Sự biến thiên của lượng xuất khẩu ròng được duy trì sao
cho ngược với chu kì. Hàm tương quan chéo giữa lượng xuất khẩu ròng và tỉ lệ mậu
dịch , ở hình vẽ 7, đã “phẳng” (đường nét đứt bớt lõm hơn đường nét thẳng) hơn nhiều so
với nó khi chỉ có 1 sự đột biến từ chi tiêu chính phủ và từ đó sẽ không làm thay đổi
những đặc tính của học thuyết.
5. Trong nền kinh tế No capital:

Để nhấn mạnh sự kết nối này, chúng tôi lập các tham số vốn cổ phần
bằng

0,001 trong thử nghiệm không có vốn, với việc loại trừ vốn hiệu quả từ nền kinh
tế. Các diễn biến của thương mại và giá cả thay đổi đột ngột.Chúng tôi thấy rằng ở
đây, trái ngược với các nền kinh tế chuẩn, cán cân thương mại là đồng chu kỳ, và
14


Động thái của cán cân thương mại và tỷ lệ mậu dịch
các mối tương quan đồng thời của xuất khẩu ròng và tỉ lệ mậu dịch có xu hướng
tăng mạnh. Hàm tương quan chéo, được vẽ trong hình 9, là hình lều: Không có
bằng chứng về đường cong-S xuất hiện trong nền kinh tế với sự hình thành vốn.
Những sự khác biệt giữa nền kinh tế có và không có vốn chỉ ra rằng, sự hình thành
vốn đóng một vai trò trung tâm trong động thái thương mại và có liên quan về giá
cả tương đối trong nền kinh tế chuẩn.
Các tính chất của nền
kinh tế không có vốn, có
thể được hiểu, phần lớn,
như phản ánh của sự che
dấu tiêu dùng. Xem như
là các diễn biến có tính
chu kỳ của thương mại.
Chúng ta sẽ thấy trong
phần tiếp theo mà trong
nền kinh tế này, tiêu
dùng ít biến đổi hơn thu
nhập; kết quả là, cán cân
thương mại là đồng chu
kỳ. Liên quan đến sự
chuyển động đồng thời
giữa thương mại và giá
cả tương đối, hàm phản

ứng động lại cung cấp
một vài hiểu biết. Một
đột biến có lợi cho sản
xuất trong nước dẫn đến
một gia tăng sản lượng
trong nước, tăng nhỏ
hơn sự tiêu dùng nội
địa, và (với các giá trị tham số đã tính) có sự thặng dư mậu dịch.Với sự tăng
trưởng đầu ra của hàng hóa nội địa,dẫn đến giá tương đối giảm, và gia tăng tỉ lệ
mậu dịch. Điều này dẫn đến một tương quan dương đồng thời giữa cán cân thương
mại với tương quan nhỏ hơn giữa độ sớm và độ trễ(xem hình 9)

15


Động thái của cán cân thương mại và tỷ lệ mậu dịch

Chúng ta xem xét sự thay đổi của động lực hình thành vốn. Hầu hết các nghiên cứu đều
cho rằng hoặc các mức chi phí đã được điều chỉnh hoặc xây dựng cấu trúc vốn qua nhiều
kì chính là nguyên nhân của vấn đề này. Mendoza (1991) và Marianne Baxter và Mario J.
Crucini (1993) lại xem xét các chi phí nổi của việc sự thay đổi tổng lượng vốn. Kydland
và Prescott (1982) đã tán thành với “time to build” và họ cho rằng để kiểm chứng ta cần
phải có 1 thời hạn là 4 quý ( J=4, với J là 1 kí hiệu trong học thuyết này) là chính xác
nhất nếu chúng ta xem xét trong nền kinh tế Mỹ. Chúng ta xem xét 1 thí nghiệm khác với
J=2,minh họa “time to build” tại bảng 3. Theo kinh nghiệm chúng ta thấy rằng hàm tương
quan chéo không quá khác biệt so với nền kinh tế chuẩn. Như chúng ta đã thấy ở hình vẽ
8, sự thay đổi của hàm tương quan chéo về phía bên phải trong khoảng 1 quý, cho chúng
ta thấy học thuyết này đã gần gũi hơn rất nhiều với thực tế.
Sự thay đổi thứ 2 là độ trễ chiếm 1 kì trong quá trình thương mại. Hàng hóa được xuất
khẩu từ quốc gia thứ nhất vào thời kì t thì không thể được sử dụng vào quốc gia 2 trong

thời điểm t+1. Chúng ta nghĩ rằng sự chậm trễ này có liên quan đến cả 2 khoảng thời gian
đang trên đường vận chuyển và làm thủ tục hải quan. Thuyết tổng hợp Armington vào
thời kì t, trong trường hợp này là

tương ứng với
trong nước và nước ngoài. Chúng ta quy ước độ trễ giao hàng trong 1 kì là “time to ship”.
Sự chậm trễ trong việc giao hàng này đã gợi lên 1 câu hỏi khó: Khái niệm nào cho các
mức giá sẽ phù hợp nhất để thiết lập nên chỉ số giá nhập khẩu?

16


Động thái của cán cân thương mại và tỷ lệ mậu dịch
Một khả năng được đưa ra đó có thể là mức giá giao hàng, và trong khuôn khổ học thuyết
của chúng ta thì nó có thể làm tăng tỉ lệ mậu dịch tại quốc gia 1

Các mức giá so sánh này rất tương thích với các mức giá nhập khẩu khi đã xóa bỏ thuế
quan. Một khả năng là giá hợp đồng vẫn giữ nguyên theo mức giá đặt hàng . Trong
trường hợp này, tỉ lệ mậu dịch cân bằng là

Tại đó

Là tỉ suất thay đổi biên tế cho hàng hóa nội địa hỗn hợp. Chúng ta sẽ đề cập các đặc tính
này trong 1 định nghĩa khác ở bảng 3, cho đến khi chúng ta ước chừng được giá cả được
hình thành như thế nào từ nguồn dữ liệu quốc tế.
Chúng ta nhận thấy rằng độ trễ của việc giao hàng ở “time to ship” thực sự hướng đến sự
điều chỉnh trong mối quan hệ của cán cân thương mại và tỉ lệ mậu dịch. Chúng ta thấy ở
hình vẽ số 8 rằng hàm tương quan chéo đã dịch chuyển về phía bên phải trong khoảng 1
quý, đúng như trong nền kinh tế chuẩn, 1 lần nữa làm cho nó gần gũi hơn với tình hình ở
các nền kinh tế khác . Như vậy, cả time to build và time to ship đều rất hữu dụng khi đánh

giá cho nền kinh tế chuẩn.

6. Những điều bất thường:

Chúng tôi đã nhấn mạnh ý nghĩa của lý thuyết về hàm tương quan chéo giữa cán cân
thương mại và tỉ lệ mậu dịch. Chúng tôi mở rộng bài nghiên cứu của chúng tôi đối với
17


Động thái của cán cân thương mại và tỷ lệ mậu dịch
những đặc tính khác và chỉ ra 2 sự khác biệt giữa những đặc tính định lượng của lý thuyết
của chúng tôi và những đặc tính đó trong thực tế thế giới.
Sự khác biệt đầu tiên được dẫn chứng qua bảng 1và 3: về những giá trị và những sự lựa
chọn trong 1 phạm vi rộng lớn của tham số chuẩn của chúng tôi, tính khả biến của những
tỉ lệ mậu dịch thì nhỏ hơn đáng kể trong lý thuyết kinh tế hơn là trong thực tế.
Christian Zimmermann (1991) chú thích 1 sự khác biệt tương tự trong 1 nền kinh tế
giống nhau với 3 nước diện tích khác nhau, Stockman and Linda L. Tesar (1991) cũng
thấy được sự khác biệt tương tư đó trong 1 nền kinh tế với những hàng hóa thương mại
và phi thương mại.Độ lệch chuẩn của tỉ lệ mậu dịch bằng 0.48% trong nền kinh tế chuẩn
(bảng 3) và bằng 2.92% trong số liệu của Mỹ (bảng 1), sự khác biệt gần gấp 6 lần. Nếu
chúng ta so sánh lý thuyết theo số liệu của Nhật, sự khác biệt thậm chí còn lớn hơn nữa.
Sự khác biệt nhỏ hơn nếu chúng ta sử dụng 1 độ co giãn nhỏ hơn của sự thay thế(co giãn
ít) hoặc thêm vào đột biến trong chi tiêu của chính phủ ( 2 cú sốc), nhưng mặc dù thế sự
khác biệt giữa lý thuyết và thực tế là điều chắc chắn. Thay vào đó, chúng ta có thể chỉ ra
rằng độ lệch tiêu chuẩn của những giá tương đối trong số liệu đã bị thổi phồng quá mức.
VD: William Alterman (1991), đã xây dựng nhựng chỉ số giá xuất nhập khẩu của Mỹ tiến
bộ hơn. Sử dụng những chỉ số này, sai số được biều hiện qua tỉ lệ mậu dịch thì ít hơn
khoảng 30% so với những số liệu đã đươc sử dụng trong bảng 1. Chún tôi nghĩ nó thì
không chính xác, tuy nhiên, sai số thì đủ lớn để giải thích hầu hết sự khác biệt thực tế
trong sự biến động về giá giữa lý thuyết và số liệu.

Những sự khác biệt thứ 2 liên quan đến tầm quan trọng cũng như đặc tính của
những sự dao động trong toàn bộ số lượng. VD: độ lệch chuẩn của tiêu dùng và đầu tư;
và những mối tương quan về sản lượng và tiêu dung giữa các nước. Chúng tôi đã trình
bày những đặc tính này trong bảng 4 cho tất cả các tham số đã đươc sử dụng trong bảng
3. Đối với sự biến đổi của đầu tư, chúng tôi dựa vào nghiên cứu mới nhất (Backus et
al.,1992), khi hàng hóa trong và ngoài nước thì thay thế hoàn toàn cho nhau và hang hóa
có thề không bị chịu chi phí vận chuyển giữa các nước, ta thấy sự thay đổi trong đầu tư
thì nhiều hơn so với số liệu. Trong số liệu của Mỹ (trình bày ở dòng đầu bảng 4) độ lệch
chuẩn của đẩu tư bẳng 3.15 lần độ lệch chuẩn của sản lượng. Khi tham số‘the time-tobuild’’ J bằng 1, khi nó nằm trong nền kinh tế của bài nghiên cứu này, tỷ số đó bằng
31.47 (Backus et al., 1992 bảng 5). Chúng tôi xem như nền kinh tế trong thử nghiệm là
“sự thay thế hoàn hảo”, trong đó ta đặt σ = 100 và ω1 = ω2. Trong trường hợp này, độ
lệch chuẩn của đầu tư so với độ lệch chuẩn của sản lượng bằng 30.32. Tuy nhiên, trong
nền kinh tế chuẩn thì đầu tư ít biến động hơn:độ lệch chuẩn của nó so với độ lệch chuẩn
của sản lượng bằng 3.48. Rõ ràng, khuyết điểm của kĩ thuật này là khả năng thay thế
không hoàn toàn, ngay cả khi cho giá trị của σ lớn bằng 2.5 (cuộc thí nghiệm chi tiết của
18


Động thái của cán cân thương mại và tỷ lệ mậu dịch
chúng tôi về sự co giãn), thì đủ để mang lý thuyết đến gần thực tế trong khía cạnh này. Vì
lý do đó chúng tôi không xem sự biến động của đầu tư là sự bất thường của thuyết này.
Sự khác biệt rõ ràng hơn là những gì chúng tôi gọi là sự bất thường của tỷ số tiêu
dùng/sản lượng( trong bài nghiên cứu gần đây). Trong thực tế, mối tương quan giữa các
nước về tiêu dùng thì ít hơn so với sản lượng; chúng tôi thấy có sự trái ngược trong
những nền kinh tế mang tính lý thuyết của chúng tôi. Ví dụ: thực tế đối với nước Mỹ và
toàn bộ các nước châu Âu thì tương quan tiêu dùng bằng 0.46; tương quan sản lượng là
0.70 (xem dòng “Data” của bảng 4). Đối với nền kinh tế có những sự thay thế hoàn hảo,
những mối tương quan đó lần lượt là 0.67 và 0.58, vì vậy rõ ràng có 1 sự khác biệt lớn
giữa lý thuyết và thực tế. Với khả năng thay thế không hoàn toàn giữa hàng hóa trong và
ngoài nước (vd : cuộc nghiên cứu chuẩn), tương quan tiêu dùng (0.77) chắc chắn vẫn lớn

hơn tương quan sản lượng (0.02), mặc dù sự khác biệt giữa chúng thì nhỏ hơn. Sự bổ
sung qua lại giữa hang hóa trong và ngoài nước làm giảm đáng kể sự khác biệt này nhưng
không triệt tiêu sự khác biệt (xem thử nghiệm sự co giãn ít, trong đó σ đã được giảm từ
1.5 xuống 0.5 trong trường hợp chuẩn). Stockman và Tesar (1991) đã làm vài điều tốt
hơn về mặt sử dụng hàng hóa phi thương mại và taste shocks (nhận biết các biến động),
nhưng họ đã nói không đúng sự thật về tương quan tiêu dùng hàng hóa thương mại giữa
các nước. Donna Costello và Jack Praschnik (1992) giới thiệu một thành phần thứ 3 là
nước sản xuất dầu đã làm gia tăng tính biến động của những tỉ lệ mậu dịch ở những nước
nhập khẩu dầu và làm thấp di tương quan tiêu dùng giữa các nước. Mặc dù vậy, họ thấy
rằng những tỉ lệ mậu dịch đối với hàng hóa công nghiệp vẫn ít biến động trong mô hình
hơn là trong thực tế và cũng thấy rằng tương quan của nước đối lập về sự tiêu dùng hàng
hóa công nghiệp trong thuyết của chúng tôi thì cao hơn nhiều so với thực tế.
Tóm lại, bài nghiên cứu đến đây đã chỉ ra hai sự khác biệt rõ ràng giữa những đặc
tính trong thực tế và trong nền kinh tế mang tính lý thuyết. Một là liên quan đến tính khả
biến của giá cả tương đối: sự biến động trong tỉ lệ mậu dịch trong thực tế thì cao hơn
trong nền kinh tế lý thuyết. Khác biệt khác lien quan đến sự vận động cùng nhau trên thế
giới: trong thuyết này, chúng tôi thấy rằng mối tương quan về sản lượng giữa các nước
thì cao hơn so với tiêu dùng; trong thực tế thì ngược lại. Theo quan điểm của chúng tôi,
những điều bất thường này là hai trong số những vấn đề chủ yếu trong nghiên cứu chu
trình kinh doanh quốc tế và đóng vai trò là những thử thách rõ ràng đối với nghiên cứu
tương lai trong khu vực này.
Câu hỏi được đặt ra trong phần này là những nhân tố bất thường này ảnh hưởng
như thế nào đến sự đánh giá của chúng ta về sự vận động của thương mại tự do và những
tỉ lệ mậu dịch. Câu hỏi trên gần như không thề trả lời nếu không biết những điều bất
thường đó được phân tích như thế nào. Tuy nhiên, chúng tôi nghi ngờ sự chuyển động
19


Động thái của cán cân thương mại và tỷ lệ mậu dịch
ngược chu kỳ trong thương mại và hàm tương quan chéo có dạng chữ S đối với thương

mại và những giá tương quan có thề là đặc tính mạnh mẽ của lý thuyết, bởi vì họ tin
tưởng chủ yếu vào sự tồn tại của những đột biến năng suất và động lực của sự hình thành
vốn và những nhân tố này phù hợp với nền kinh tế mở rộng hơn. Vì vậy, chúng tôi phỏng
đoán rằng sự giải thích bằng đường cong S có thể vượt qua được sự biến đổi được gọi là
những điều bất thường trong cá quy mô khác nhau của các thuộc tính trong mô hình.
7. Kết luận cuối cùng:
- Đối với nền KT có sự hình thành vốn,hàm tương quan chéo có dạng đường cong
-

chữ S.
Đối với nền KT không có vốn hoặc chỉ có đột biến trong chi tiêu chính phủ thì
hàm này dạng lều, trong đó nền KT không vốn dốc hơn.
Như vậy, sự hình thành vốn và nguồn gốc biến động giá cả và thương mại là
những yếu tố giúp xác định hình dạng của hàm tương quan chéo giữa XK ròng và
TLMD.

20



×