1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC VINH
NGUYỄN THỊ HỒNG GẤM
MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ
ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC TRẺ
Ở CÁC TRƯỜNG MẦM NON THÀNH PHỐ MỸ THO
TỈNH TIỀN GIANG
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
NGHỆ AN, NĂM 2015
2
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC VINH
NGUYỄN THỊ HỒNG GẤM
MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ
ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC TRẺ
Ở CÁC TRƯỜNG MẦM NON THÀNH PHỐ MỸ THO
TỈNH TIỀN GIANG
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Chuyên ngành: Quản lý giáo dục
Mã số: 60.14.01.14
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN BÁ MINH
NGHỆ AN, NĂM 2015
3
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập và nghiên cứu tại Phòng Sau Đại học trường
Đại học Vinh, tôi đã được các thầy giáo, cô giáo trong nhà trường giảng dạy
và tận tình giúp đỡ. Nhân dịp này, tôi xin chân thành cám ơn các thầy giáo, cô
giáo trong khoa Sau đại học.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành và sâu sắc đến PGS.TS
Nguyễn Bá Minh đã quan tâm, tận tình hướng dẫn, tạo điều kiện giúp đỡ tôi về
mọi mặt để tôi hoàn thành đề tài nghiên cứu.
Quá trình thực hiện đề tài không thể tránh khỏi những thiếu sót, bản
thân tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy, cô giáo và bạn
bè đồng nghiệp để đề tài được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn !
Nghệ An, tháng 5 năm 2015
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Hồng Gấm
4
Trang
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
Chương I: Cơ sở lý luận của vấn đề quản lý đổi mới phương
pháp giáo dục trẻ ở các trường mầm non
1.1.Lịch sử nghiên cứu đề tài
1.2. Các khái niệm cơ bản của đề tài
1.3. Đổi mới phương pháp giáo dục trẻ ở trường mầm non
1.4. Quản lý đổi mới PPGD trẻ ở các trường mầm non
Chương II: Thực trạng công tác quản lý phương pháp giáo dục
trẻ ở các trường mầm non thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang
2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên – kinh tế - xã hội và tình hình
1
6
9
18
21
32
giáo dục của TP Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang.
2.2. Khái quát về điều tra thực trạng
2.3. Thực trạng đổi mới PPGD trẻ ở các trường mầm non thành phố
41
42
Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang
2.4. Thực trạng công tác quản lý đổi mới PPGD trẻ ở các trường mầm
56
non
2.5. Đánh giá chung về thực trạng
Chương III: Một số giải pháp quản lý phương pháp giáo dục
trẻ ở các trường mầm non thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang
3.1.Các nguyên tắc đề xuất giải pháp
3.2. Các giải pháp đổi mới phương pháp giáo dục trẻ ở các trường
mầm non Thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang
3.3. Thăm dò sự cần thiết và tính khả thi của giải pháp đã đề xuất
KẾT LUẬN
1. Kết luận
2. Khuyến nghị
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TT
1
Chữ viết tắt
CNH-HĐH
Nội dung
Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa
66
70
71
92
95
96
5
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
CBQL
CNTT
CSVC
CSGD
CLGD
ĐDDH
GDĐT
GDMN
GV
PPGD
TBDH
QLGD
XHHGD
Cán bộ quản lí
Công nghệ thông tin
Cơ sở vật chất
Chăm sóc giáo dục
Chất lượng giáo dục
Đồ dùng dạy học
Giáo dục đào tạo
Giáo dục mầm non
Giáo viên
Phương pháp giáo dục
Thiết bị dạy học
Quản lí giáo dục
Xã hội hóa giáo dục
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đất nước ta đang thực hiện lộ trình CNH - HĐH với mục tiêu đến năm
2020 sẽ từ một nước nông nghiệp về cơ bản trở thành nước công nghiệp, hội
nhập quốc tế về nhiều mặt, trong đó có GDĐT. Văn kiện Đại hội Đảng lần
thứ XI đã khẳng định: “Phát triển GDĐT là một trong những động lực
quan trọng thúc đẩy sự nghiệp CNH – HĐH là điều kiện để phát huy nguồn
lực con người - yếu tố cơ bản về phát triển xã hội tăng trưởng kinh tế nhanh
và bền vững”; “Nâng cao chất lượng toàn diện; đổi mới cơ cấu tổ chức, cơ
chế quản lý, nội dung phương pháp dạy học”; “ Phát triển, nâng cao chất
6
lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong
những yếu tố quyết định sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước”. Nhân
tố quyết định thắng lợi của công cuộc CNH - HĐH đất nước và hội nhập
quốc tế là con người, là nguồn lực người Việt Nam được phát triển về số
lượng và chất lượng trên cơ sở mặt bằng dân trí được nâng cao. Muốn đạt
được mục tiêu đó, trước hết cần tập trung làm chuyển biến mạnh mẽ chất
lượng và hiệu quả nền GD theo định hướng: Đổi mới và nâng cao năng lực
quản lý nhà nước trong GDĐT; Đẩy mạnh đổi mới nội dung, chương trình và
phương pháp GD theo hướng HĐH, phù hợp với thực tiễn Việt Nam cùng với
đổi mới cơ chế QLGD.
GDĐT nước ta trong những năm qua đã có những đóng góp to lớn
vào sự nghiệp CNH - HĐH và hội nhập quốc tế. Song chúng ta phải thừa
nhận rằng: GD còn chậm đổi mới, chưa thích ứng nhanh với sự tiến bộ của
khoa học và công nghệ, chất lượng đào tạo nguồn nhân lực còn hạn chế,
thách thức trên con đường hội nhập quốc tế.
GDMN là bậc học đầu tiên trong hệ thống GD quốc dân, là nền tảng
đầu tiên của ngành GDĐT. Chất lượng nuôi dưỡng chăm sóc và GD trẻ ở
trường mầm non tốt có tác dụng rất lớn đến chất lượng GD ở bậc học tiếp
theo. GDMN có mục tiêu, nhiệm vụ quan trọng nhằm GD toàn diện cho
trẻ về thể chất, tình cảm, đạo đức, thẩm mỹ, trí tuệ là cơ sở để hình thành
nên nhân cách con người mới XHCN Việt Nam và là tiền đề cần thiết cho
trẻ bước vào trường tiểu học được tốt.
Như Bác Hồ kính yêu đã nói: “GDMN tốt sẽ mở đầu cho một nền GD
tốt”. Trường mầm non có nhiệm vụ nuôi dưỡng, chăm sóc và GD các cháu,
bồi dưỡng cho các cháu trở thành người công dân có ích.
Vì vậy, các trường mầm non có nhiệm vụ GD trẻ có được những thói
quen học tập, sinh hoạt hàng ngày. Muốn thực hiện được điều đó, trước hết
7
người quản lý hướng dẫn, chỉ đạo phải toàn diện. Trong chuyên môn phải
nhận thức đúng về nhiệm vụ, yêu cầu của ngành học và đồng thời nắm vững
các chỉ tiêu, kế hoạch của Ngành học giao cho.
Đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng, đổi mới GD là vấn đề cấp thiết
hiện nay. Đổi mới GD trên tất cả các mặt: mục tiêu đào tạo, nội dung chương
trình, PPGD, trong đó quản lý đổi mới PPGD trẻ có ý nghĩa quyết định đến chất
lượng tại các trường mầm non nói chung.
Trong những năm qua, GDĐT thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang đã tổ
chức nhiều hội thảo chuyên đề về đổi mới PPGD trẻ, việc đổi mới PPGD trẻ đã
đem lại một số kết quả đáng trân trọng, từng bước nâng cao chất lượng GD toàn
diện. Tuy nhiên, công tác quản lý về đổi mới PPGD trẻ ở một số trường còn hạn
chế, hiệu quả chưa cao. Phần lớn chỉ dừng lại ở mức chủ trương, chưa đề ra
những biện pháp cụ thể, hiệu quả; chưa chọn lọc được những nội dung thiết thực,
trọng tâm; chưa tìm ra cách thức tổ chức quá trình đổi mới một cách khoa học,
hữu hiệu nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới chương trình GDMN phù hợp với đường
lối GD của Đảng và Nhà nước. Thậm chí, có không ít trường đã hướng sự chỉ đạo
quản lý của mình chạy theo bệnh thành tích, chạy theo nhu cầu thi đua, xa rời
mục đích đào tạo con người phát triển toàn diện, năng động và sáng tạo.
Xuất phát từ thực tiễn công tác QLGD nói chung, quản lý các trường
mầm non nói riêng, chúng tôi thấy rằng quản lý đổi mới PPGD trẻ là điều hết
sức quan trọng và cần thiết nhằm góp phần thực hiện tốt mục tiêu GD đề ra là
một tiền đề quan trọng để trẻ bước vào lớp 1.
Với nhiệm vụ là một CBQL Bậc học mầm non, chỉ đạo hoạt động
chuyên môn trong đó công tác đổi mới PPGD trẻ là một nhiệm vụ trọng tâm
trong năm học này. Chính vì lí do đó tôi chọn đề tài: “Một số giải pháp quản
lý đổi mới phương pháp giáo dục trẻ ở các trường mầm non thành phố Mỹ
Tho, tỉnh Tiền Giang”.
8
2. Mục đích nghiên cứu
Đề ra một số giải pháp quản lý đổi mới PPGD trẻ ở các trường mầm non
nhằm nâng cao chất lượng GDMN thành phố Mỹ Tho,tỉnh Tiền Giang.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể
Vấn đề quản lý đổi mới PPGD trẻ ở các trường mầm non.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Giải pháp quản lý đổi mới PPGD trẻ ở các trường mầm non thành phố
Mỹ tho, tỉnh Tiền Giang.
4. Giả thuyết khoa học
Nếu chúng ta xây dựng được một số giải pháp có luận cứ khoa học, phù hợp
với thực tiễn và có tính khả thi thì sẽ góp phần nâng cao chất lượng quản lý đổi
mới PPGD trẻ ở các trường mầm non thành phố Mỹ tho, tỉnh Tiền Giang.
5. Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu nghiên cứu
5.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1.1. Xây dựng cơ sở lý luận của đề tài
Nghiên cứu lý luận của vấn đề quản lý đổi mới PPGD trẻ ở các trường
mầm non thành phố Mỹ tho, tỉnh Tiền Giang.
5.1.2. Nhiệm vụ nghiên cứu thực tiễn
Nghiên cứu thực trạng công tác quản lý đổi mới PPGD trẻ ở các trường
mầm non thành phố Mỹ tho, tỉnh Tiền Giang.
5.1.3. Đề xuất một số giải pháp
Đề xuất một số giải pháp giúp CBQL, giáo viên vận dụng một cách
sáng tạo vào đổi mới PPGD trẻ ở các trường mầm non góp phần nâng cao
chất lượng giáo dục trẻ.
5.2. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài.
9
Phạm vi: Khảo sát tại các trường mầm non trên địa bàn thành phố Mỹ
tho, tỉnh Tiền Giang.
6. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện tốt nhiệm vụ của đề tài, tôi đã sử dụng các nhóm phương
pháp nghiên cứu sau:
6.1 Phương pháp nghiên cứu lý luận
- Thu thập các thông tin lý luận đề xây dựng lý luận của đề tài.
- Sử dụng các phương pháp phân tích, khái quát hóa, hệ thống hóa, các
văn kiện, Nghị quyết của Đảng, Nhà nước về lĩnh vực giáo dục nhằm định
hướng lý luận chung; các công trình nghiên cứu về Quản lý Nhà nước,
QLGD, Quản lý nhà trường, Quản lý hệ thống GDMN.
6.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Điều tra, tham khảo ý kiến chuyên gia, quan sát, phỏng vấn trực tiếp,
khảo sát, thí nghiệm,...
6.3. Phương pháp thống kê toán học
Lập bảng biểu, thống kê, phân tích, xử lý các số liệu của đề tài, giúp
đánh giá vấn đề chính xác, khoa học.
7. Dự kiến những đóng góp mới của luận văn
7.1. Luận văn làm rõ một số vấn đề lý luận về đổi mới PPGD và quản lý
đổi mới PPGD trẻ ở trường mầm non.
7.2. Phản ánh thực trạng chất lượng GDĐT, chất lượng công tác quản lý
đổi mới PPGD trẻ các trường mầm non thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang.
7.3. Đề xuất được một số giải pháp quản lý đổi mới PPGD trẻ mang
tính thiết thực và khả thi nhằm nâng cao chất lượng GV các trường mầm non
thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang.
8. Cấu trúc của luận văn
10
Ngoài phần mở đầu, kết luận, kiến nghị, danh mục các tài liệu tham
khảo và phụ lục, luận văn có 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận của vấn đề quản lý đổi mới PPGD trẻ ở các
trường mầm non.
Chương 2. Thực trạng công tác quản lý đổi mới PPGD trẻ ở các trường
mầm non thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang.
Chương 3. Một số giải pháp quản lý đổi mới PPGD trẻ ở các trường
mầm non thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang..
11
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ QUẢN LÝ ĐỒI MỚI PHƯƠNG PHÁP
GIÁO DỤC TRẺ Ở CÁC TRƯỜNG MẦM NON
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Những nghiên cứu ở nước ngoài
Ngay từ thời cổ đại, tư tưởng về PPGD và quản lý PPGD đã được thể hiện
trong những quan điểm của nhiều nhà triết học đồng thời là nhà GD. Đức Khổng
Tử (551- 479 TCN) đã giúp học trò phát triển bằng cách khuyến khích sở trường
và phê bình sở đoản, phương châm chính của dạy học là khải phát (gợi mở).
Socrates (469 - 399 TCN) đã đề xuất thực hiện phương pháp đàm thoại trong
dạy học và được sử dụng cho đến ngày nay. J.A.Komenxki (1592 - 1670) đã
phân tích các hiện tượng trong tự nhiên và hiện thực để đưa ra các biện pháp dạy
học buộc học sinh phải tìm tòi, suy nghĩ để nắm được bản chất của sự vật hiện
tượng. J.J.Rousseau (1717 - 1778) chủ trương GD trẻ em một cách tự nhiên và
người học sẽ tự khám phá tích luỹ kiến thức thông qua chính hoạt động của
mình. Nhiều nhà GD tiêu biểu xuất hiện khoảng cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX
như John Dewey (1859 - 1952), A.Macarenco (1888 - 1938), Jean Piaget (1896
- 1980),… cũng có quan điểm hướng đến sự tích cực hóa hoạt động nhận thức
của người học.
Khi nói về PPGD có thể nói là vấn đề được các nhà khoa học GD trên
thế giới quan tâm, các nhà khoa học có tên tuổi của Liên Xô trước đây như:
Đannhilốp, Êxipôp, Lecne, Babansky... Các nhà tâm lý học nổi tiếng cũng đã
có những công trình nghiên cứu sâu sắc liên quan đến PPGD như: Piagiê,
Lêônchiep...là các nhà khoa học đặt cơ sở lý luận có tính nền tảng cho PPGD.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, khoa học GD đã thực sự có những đổi mới
về lượng và chất. Những vấn đề chủ yếu trong các tác phẩm kinh điển của
chủ nghĩa Mác- Lê Nin đã thực sự định hướng cho hoạt động GD, đó là các
12
quy luật về "sự hình thành cá nhân con người", "tính quy luật về kinh tế - xã
hội đối với giáo dục"…Các quy luật đó đã đặt ra những yêu cầu đối với
QLGD và tính ưu việt của xã hội đối với việc tạo ra các phương tiện và điều
kiện cần thiết cho GD.
Tại hệ thống trường Mầm non Quốc tế Saigon Academy, PPGD chủ
yếu yêu cầu căn cứ theo đặc điểm lứa tuổi của trẻ, thực hiện GD trong vui
chơi, sinh hoạt; GD có chủ ý, tiếp thu một cách tự nhiên; hòa mình vào môi
trường, nêu cao những tấm gương sáng.
1.1.2. Những nghiên cứu ở trong nước
Ngày nay với sự phát triển như vũ bão của nền khoa học kỹ thuật, chất
lượng hoạt động GD đóng vai trò chủ đạo, then chốt, trong đó việc đổi mới
PPGD trẻ là vấn đề hết sức quan trọng và cần thiết và bậc học mầm non là
bậc học đầu tiên đặt nền móng cho sự hình thành và phát triển nhân cách của
mỗi người. Người ta ví “ tâm hồn trẻ như một trang giấy trắng”, chúng ta vẽ
lên trang giấy trắng như thế nào thì kết quả sẽ như thế đó. Nhân ngày khai
trường, Bác Hồ đã viết: “Từ giờ phút này trở đi, các cháu được hưởng một
nền GD hoàn toàn Việt Nam... làm phát triển hoàn toàn năng lực sẵn có của
các cháu”. Nội dung bức thư như là một định hướng cho sự phát triển của
PPGD, thấm nhuần lời dạy của Bác chúng ta luôn quan tâm đến chất lượng
của việc đổi mới PPGD ngay từ bậc học mầm non, bởi đó là thế hệ của tương
lai đất nước.
Ở Việt Nam, các vấn đề có liên quan đến PPDH cũng rất được quan tâm,
đặc biệt sau năm 1986 (được coi là mốc của đổi mới tư duy). Nhiều tác giả có
các công trình nghiên cứu về vấn đề này như: Phạm Minh Hạc, Nguyễn Kỳ,
Trần Bá Hoành, Trần Kiều, Nguyễn Hữu Chí, Và một số các nhà giáo giàu kinh
nghiệm cũng quan tâm đến vấn đề PPDH và phát triển lý luận dạy học chung
vào thực tiễn dạy học ở Việt Nam: Văn như Cương, Tôn Thân.
13
Về quản lý đổi mới PPDH và quản lý chất lượng, hiệu quả dạy học phải
kể đến các công trình nghiên cứu của: Quách Tuấn Ngọc; Trần KiểmTrần
Kiều; Trần Bá Hoành luôn lấy người học làm trung tâm với ý tưởng cốt lõi là
người học phải tích cực, chủ động, sáng tạo trong quá trình học tập. Quan
điểm này hoàn toàn phù hợp với tinh thần nghị quyết TW 2 khoá VIII về GDĐT. Nghị quyết yêu cầu: “Đổi mới mạnh mẽ PPGD, khắc phục lối truyền thụ
một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học”. Nội dung này
đã được thể hiện thành quy định pháp luật tại chương I điều 4, luật GD. Quốc
hội X, kì họp thứ tư, ngày 28/10 đến ngày 02/12/1998 thông qua ghi rõ:
1. Nội dung GD phải đảm bảo tính cơ bản, toàn diện, thiết thực, hiện
đại và có hệ thống.
2. PPGD phải phát huy tính tự giác, tích cực, chủ động sáng tạo của
học sinh, phù hợp với đặc điểm từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương
pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Tác động
đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”.
Trong những năm qua (từ 1995 trở lại đây) vấn đề quản lý bậc học mầm
non đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, nhiều công trình nghiên cứu ở
các cấp độ khác nhau đã được thực hiện: đề tài cấp Nhà nước và cấp Bộ, một
số luận văn tiến sỹ, thạc sỹ.
Đề tài cấp Bộ: Những biện pháp chỉ đạo nâng chất lượng CSGD trẻ của
trường mầm non (Phạm Thị Châu, trường Cao đẳng sư phạm nhà trẻ - Mẫu giáo
TW1 năm 1995). Nguyễn Thị Hoài An: “Biện pháp quản lý cơ sở mầm non Hà
Nội nhằm nâng cao chất lượng CSGD trẻ”. Luận văn thạc sỹ khoa học GD năm
1999. Công trình nghiên cứu này đề cập các biện pháp quản lý trường tư thục,
một loại hình GDMN xuất hiện nhiều trong giai đoạn hiện nay.
Nguyễn Thị Dung: “Một số biện pháp quản lý chất lượng trường trọng
điểm trên địa bàn tỉnh Nghệ An”. Luận văn thạc sỹ khoa học GD năm 2003;
14
Đề tài đã chỉ ra được một số biện pháp quản lý chất lượng trường trọng điểm
trên địa bàn tỉnh Nghệ An nên chưa đi sâu nghiên cứu chất lượng GD các
trường mầm non.
Nguyễn Thị Hường: “Một số biện pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ quản lý các trường mầm non huyện Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa”. Luận
văn thạc sỹ khoa học GD năm 2010.
Nguyễn Thị Đào: “Một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
quản lý các trường mầm non huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An”. Luận văn
thạc sỹ khoa học GD năm 2012. Qua đó ta thấy công trình nghiên cứu về
quản lí đổi mới PPGD trẻ ở các trường mầm non hầu như chưa được đề cập
đến. Đặc biệt là một số giải pháp quản lý đổi mới PPGD trẻ ở các trường mầm
non thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang.
1.2. Các khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1. Trường mầm non
1.2.1.1. Khái niệm
Trường mầm non là đơn vị giáo dục cơ sở của ngành học mầm non, là
trường được liên hợp giữa nhà trẻ và mẫu giáo. Trường mầm non có chức
năng thu nhận để chăm sóc và giáo dục trẻ em từ 3 tháng đến 6 tuổi, nhằm
giúp trẻ hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách; chuẩn bị cho trẻ em
vào lớp 1. Trường mầm non có các lớp mẫu giáo và các nhóm trẻ. Trường do
một ban giám hiệu có hiệu trưởng phụ trách [4].
1.2.1.2. Vai trò trường MN
Trường mầm non là đơn vị cơ sở của GDMN trong hệ thống GD quốc
dân của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam do ngành GD quản lý.
Trường mầm non đảm nhận việc nuôi dưỡng chăm sóc và GD trẻ em nhằm
giúp trẻ em hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị những
tiền đề cần thiết cho trẻ vào trường phổ thông sau này [4].
15
1.2.1.3. Nhiệm vụ và quyền hạn của trường mầm non
Tổ chức thực hiện việc nuôi dưỡng, chăm sóc, GD trẻ em từ ba tháng tuổi
đến sáu tuổi theo chương trình GDMN do Bộ trưởng Bộ GDĐT ban hành. Huy
động trẻ em lứa tuổi mầm non đến trường; Tổ chức GD hoà nhập cho trẻ em có
hoàn cảnh khó khăn, trẻ em khuyết tật. Quản lý cán bộ, GV, nhân viên để thực
hiện nhiệm vụ nuôi dưỡng, chăm sóc và GD trẻ em. Huy động, quản lý, sử dụng
các nguồn lực theo quy định của pháp luật. Xây dựng cơ sở vật chất theo yêu
cầu chuẩn hoá, HĐH hoặc theo yêu cầu tối thiểu đối với vùng đặc biệt khó khăn.
Phối hợp với gia đình trẻ em, tổ chức và cá nhân để thực hiện hoạt động nuôi
dưỡng, chăm sóc và GD trẻ em. Tổ chức cho CBQL, GV, nhân viên và trẻ em
tham gia các hoạt động xã hội trong cộng đồng. Thực hiện kiểm định chất lượng
nuôi dưỡng, chăm sóc và GD trẻ em theo quy định. Thực hiện các nhiệm vụ và
quyền hạn khác theo quy định của pháp luật [4].
1.2.2. Phương pháp giáo dục trẻ mầm non
Theo Từ điển Tiếng Việt: Phương pháp là cách thức tiến hành để có hiệu quả.
Theo quan điểm Triết học: Phương pháp là hình thái chiếm lĩnh hiện
thực, sự chiếm lĩnh hiện thực trong các hoạt động của con người, đặc biệt là
hoạt động nhận thức và cải tạo thực tiễn.(Bách khoa toàn thư triết học(Liên
Xô), tập III, tr 409). Phương pháp chính là cách thức làm việc của chủ thể,
cách thức này tuỳ thuộc vào nội dung vì “Phương pháp là sự vận động bên
trong của nội dung” (Hêghen).
Thuật ngữ “phương pháp” bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp (methodos) có
nghĩa là con đường để đạt mục đích. Theo đó, PPGD là con đường để đạt
mục đích dạy học.
PPGD là một thành tố quan trọng của quá trình GD, là cách thức tương
tác giữa người dạy và người học nhằm giải quyết tốt nhiệm vụ giáo dưỡng,
16
GD và phát triển trong quá trình GD. PPGD có quan hệ gắn bó hữu cơ với
các thành tố khác của quá trình GD. Nó vừa bị chi phối bởi mục đích GD vừa
góp phần thực hiện mục đích GD. PPGD quy định bởi nội dung GD và nội
dung GD chi phối việc lựa chọn và vận dụng hợp lý các PPGD.
PPGD mầm non là yếu tố vô cùng quan trọng trong việc nuôi, dạy, chăm
sóc trẻ. Do vậy các GV ở trường mầm non luôn luôn học hỏi, sáng tạo, cải
tiến và đổi mới PPGD để cho việc nuôi dạy trẻ ngày càng tốt hơn, một số
PPGD luôn luôn được áp dụng ở trường mầm non: PPGD tình cảm và khích
lệ, dùng lời, trực quan, minh họa, thực hành, trò chơi, nêu gương, tình huống,
luyện tập, lấy trẻ làm trung tâm,…đó là phương tiện phát triển toàn diện trẻ.
Cùng một nội dung GD như nhau, nhưng bài học có làm cho trẻ thực
sự hứng thú học tập hay không; có phát triển được tính độc lập, tích cực,
sáng tạo để giải quyết các vấn đề bức xúc của cuộc sống hay không; có để
lại dấu ấn sâu đậm và khơi dậy ở tâm hồn các em những tình cảm lành
mạnh, trong sáng hay không; phần lớn tùy thuộc vào việc lựa chọn PPGD
của người GV. Cho đến nay, PPGD vẫn là một hiện tượng sư phạm nhiều
quan điểm, khái niệm PPGD còn là vấn đề đang được tranh luận, chưa có ý
kiến thống nhất. Thái Duy Tuyên đã tóm tắt khái niệm này trong ba dạng cơ
bản sau đây: “Theo quan điểm điều khiển học, phương pháp là cách thức tổ
chức hoạt động nhận thức của trẻ và điều khiển hoạt động này. Theo quan
điểm lôgic, phương pháp là những thủ thuật logic được sử dụng để giúp trẻ
nắm kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo một cách tự giác. Theo bản chất của nội
dung, phương pháp là sự vận động của nội dung dạy học.” [35, tr.38].
Tuỳ theo quan niệm về mối quan hệ trong quá trình GD, đã có nhiều
định nghĩa khác nhau về PPGD. Nếu đứng trên góc độ dạy học tích cực, có
thể chọn định nghĩa sau: “PPGD là một hệ thống tác động liên tục của GV
nhằm tổ chức hoạt động nhận thức và thực hành của học sinh để trẻ lĩnh hội
17
vững chắc các thành phần của nội dung GD nhằm đạt được mục tiêu đã định”
[28, tr.32], hay nói một cách khái quát chung: PPGD là con đường để đạt
mục đích dạy học.
1.2.3. Quản lý đổi mới phương pháp giáo dục trong nhà trường
1.2.3.1. Khái niệm quản lý
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, hoạt động quản lý đã
xuất hiện rất sớm. Từ khi con người biết tập hợp lại với nhau, tập trung sức
lực để tự vệ hoặc kiếm sống, thì bên cạnh lao động chung của mọi người đã
xuất hiện những hoạt động tổ chức, phối hợp điều khiển đối với họ. Những
hoạt động đó xuất hiện, tồn tại và phát triển như một yếu tố khách quan, là
cơ sở cho các hoạt động chung của con người đạt được kết quả mong muốn.
K.Marx đã viết: “Một người độc tấu vĩ cầm tự mình điều khiển lấy mình,
còn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng” [23]. Như vậy, đã xuất hiện
một dạng lao động mang tính đặc thù là tổ chức, điều khiển các hoạt động
của con người theo những yêu cầu nhất định được gọi là hoạt động quản lý.
Từ đó có thể hiểu là lao động và quản lý không tách rời nhau, quản lý là
hoạt động điều khiển lao động chung. Xã hội phát triển qua các phương
thức sản xuất thì trình độ tổ chức, điều hành tất yếu được nâng lên, phát
triển theo những đòi hỏi ngày càng cao hơn. Cùng với sự phát triển của xã
hội loài người, quản lý đã trở thành một ngành khoa học và ngày càng phát
triển toàn diện.
Quản lý là một hiện tượng xã hội được hình thành và phát triển cùng với
sự xuất hiện, phát triển của xã hội loài người. Nó bắt nguồn và gắn chặt với
sự phân công, hợp tác lao động. Quản lý là một phạm trù tồn tại khách quan
được ra đời một cách tất yếu do nhu cầu của mọi chế độ xã hội, mọi tổ chức,
mọi quốc gia, mọi thời đại. Quản lý là một dạng hoạt động xã hội đặc thù, trở
thành một nhân tố của sự phát triển xã hội, một hoạt động phổ biến, diễn ra ở
18
mọi lĩnh vực, ở mọi cấp độ và liên quan đến mọi người. Có thể nói quản lý là
một trong những loại hình lao động có hiệu quả nhất, quan trọng nhất.
Khái niệm quản lý (managemeent) là khái niệm rất chung, tổng quát.
Trong quá trình nghiên cứu của lý luận khoa học quản lý, tùy theo góc độ tiếp
cận mà khái niệm này được quan niệm theo nhiều cách khác nhau.
Harold Koontz, Cyril O’Donnell, Heinz Weihrich đưa ra khái niệm:
“Quản lý là một hoạt động thiết yếu, nhằm bảo đảm sự phối hợp những nỗ
lực cá nhân nhằm đạt được các mục đích của nhóm. Mục tiêu của nhà quản lý
là nhằm hình thành một môi trường mà trong đó con người có thể đạt được
các mục đích của nhóm với thời gian, tiền bạc, vật chất, và sự bất mãn cá
nhân ít nhất...” [23, tr.33].
Tác giả Đặng Quốc Bảo cho rằng: “Bản chất hoạt động quản lý gồm hai
quá trình tích hợp vào nhau: quá trình “quản” gồm sự coi sóc, giữ gìn, duy trì
hệ ở trạng thái “ổn định”; quá trình “lý” gồm sự sửa sang, sắp xếp, đổi mới
hệ đưa hệ vào thế “phát triển”…Trong “quản” phải có “lý”, trong “lý” phải
có “quản” để động thái của hệ ở thế cân bằng động: hệ vận động phù hợp,
thích ứng và có hiệu quả trong mối tương tác giữa các nhân tố bên trong (nội
lực) với các nhân tố bên ngoài (ngoại lực)” [2, tr.14].
Các tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc và Nguyễn Quốc Chí nhấn mạnh:
“Hoạt động quản lý là tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản
lý (người quản lý) đến khách thể quản lý (người bị quản lý) trong một tổ chức
nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức” [10, tr.1].
Tác giả Hà Thế Ngữ cho rằng: “Quản lý là quá trình dựa vào các quy
luật khách quan vốn có của hệ thống để tác động đến hệ thống nhằm chuyển
hệ thống đó sang một trạng thái mới” [28, tr.363]. Tác giả Trần Kiểm quan
niệm: “Quản lý là những tác động của chủ thể quản lý trong việc huy động,
phát huy, kết hợp, sử dụng, điều chỉnh, điều phối các nguồn lực (nhân lực, vật
19
lực, tài lực) trong và ngoài tổ chức (chủ yếu là nội lực) một cách tối ưu nhằm
đạt mục đích của tổ chức với hiệu quả cao nhất” [24, tr.8].
Các khái niệm trên tuy có khác nhau về cách diễn đạt, nhưng chúng đều
có chung những dấu hiệu chủ yếu sau: Hoạt động quản lý được tiến hành
trong một tổ chức hay một nhóm xã hội; hoạt động quản lý là những tác động
có tính hướng đích; hoạt động quản lý là những tác động phối hợp nỗ lực của
các cá nhân, là sự lựa chọn các khả năng tối ưu nhằm thực hiện mục tiêu của
tổ chức đã đề ra.
Từ các khái niệm trên, chúng ta có thể hiểu khái niệm quản lý như sau:
Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý lên đối
tượng và khách thể quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực,
các thời cơ của tổ chức để đạt mục tiêu đặt ra trong điều kiện môi trường
luôn biến động.
1.2.3.2. Khái niệm đổi mới
Theo Từ điển Tiếng Việt, năm 2008: “Đổi mới là thay đổi hoặc làm
cho thay đổi tốt hơn, tiến bộ hơn so với trước, đáp ứng yêu cầu của sự phát
triển”. Đổi mới là cải cách cái lỗi thời, cái cũ thay vào đó là thừa kế cái tốt và
thêm cái mới hợp với thời đại mới. Đó là con đường tiến hóa của nền văn minh.
Đổi mới không bao giờ là đủ cả, nó kéo dài theo chiều dài của lịch sử. Đó là kết
luận của chủ nghĩa Mác Lê-nin về tính biện chứng của quá trình phát triển, về
tính phản tương thích giữa thượng tầng kiến trúc và hạ tầng cơ sở xã hội cũng
như sự đấu tranh thường xuyên giữa chúng để thúc đẩy tiến trình lịch sử đi lên.
Như vậy: Đổi mới là thay đổi, kế thừa cái cũ và tiếp thu những cái mới
một cách linh hoạt, phù hợp với điều kiện hoàn cảnh để đáp ứng yêu cầu của
xã hội trong giai đoạn hiện nay.
20
1.2.3.3. Đổi mới PPGD
Khái niệm đổi mới PPGD
Đổi mới PPGD có thể hiểu là con đường tốt nhất để đạt chất lượng và
hiệu quả GD cao. Đổi mới PPGD theo định hướng của đổi mới mục tiêu GD
hiện nay, về bản chất là sự đổi mới cách thức tổ chức GD theo quan điểm
phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh.
Quan điểm về đổi mới PPGD
Đổi mới GD nói chung, đổi mới PPGD nói riêng là quy luật phát triển
tất yếu của thời đại và mỗi quốc gia trên bước đường phát triển xã hội, GD và
chính bản thân người làm công tác GD, GV và HS trong điều kiện mới. Đổi
mới PPGD là thay đổi, kế thừa các PPGD truyền thống và tiếp thu những
PPGD mới một cách linh hoạt, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh để đáp ứng
yêu cầu của xã hội trong giai đoạn hiện nay.
Đổi mới không phải thay cái cũ bằng cái mới. Nó là sự kế thừa, sử dụng
một cách có chọn lọc và sáng tạo hệ thống PPGD truyền thống hiện còn có
giá trị tích cực trong việc hình thành tri thức, rèn luyện kĩ năng, kinh nghiệm
và phát triển thái độ tích cực đối với đời sống, chiếm lĩnh các giá trị xã hội.
Đổi mới PPGD theo hướng khắc phục các phương pháp đã lạc hậu, truyền thụ
một chiều, tăng cường sử dụng các phương tiện TBDH tạo điều kiện cho
người học hoạt động tích cực, độc lập và sáng tạo. Đổi mới PPGD là tăng
cường vận dụng những thành tựu mới của khoa học, kĩ thuật, CNTT có khả
năng ứng dụng trong quá trình dạy học nhằm nâng cao CLGD. Đổi mới
PPGD phải được tổ chức, chỉ đạo một cách có hệ thống, khoa học, đồng bộ,
khả thi. Đổi mới PPGD phải thực sự góp phần nâng cao CLGD [17].
Đổi mới PPGD đòi hỏi phải kiên quyết loại bỏ các PPGD lạc hậu, truyền
thụ một chiều, HS thụ động trong học tập và mất dần khả năng sáng tạo vốn
có của người học, khắc phục những chướng ngại vật về tâm lí, những thói
21
quen cổ hủ ở cả người dạy và người học. Phải quyết tâm, mạnh dạn chiếm
lĩnh những thành tựu mới của khoa học kĩ thuật, ứng dụng sáng tạo khoa học
kĩ thuật vào quá trình dạy học nhằm góp phần nâng cao CLGD.
Đổi mới PPGD phải được tổ chức, chỉ đạo một cách có hệ thống, khoa
học, đồng bộ, có tính khả thi; không được cầu toàn, thụ động, phải mạnh dạn
vừa làm, vừa rút kinh nghiệm. Đổi mới PPGD phải thực sự góp phần nâng
cao CLGD. Định hướng đổi mới PPGD theo hướng tiếp cận hệ thống quá
trình dạy học đặt sự đổi mới PPGD trong mối quan hệ biện chứng với sự đổi
mới mục tiêu, đổi mới nội dung, chương trình, hình thức, phương tiện, kiểm
tra đánh giá. Đổi mới PPGD theo định hướng của mục tiêu đổi mới GD hiện
nay, về bản chất là đổi mới cách thức tổ chức dạy học phát huy “tính tích cực,
chủ động sáng tạo” của học sinh. Đổi mới sao cho người học trở thành chủ
thể thực sự tích cực, tự giác trong hoạt động của chính mình.
Để đổi mới PPGD thành công, cần phải đổi mới một cách toàn diện, đồng
bộ các thành tố, các bộ phận cấu thành của quá trình dạy học. Sự đổi mới cần
bắt đầu ở việc lập kế hoạch, thiết kế và triển khai kế hoạch bài học ở trên lớp
đến vận dụng linh hoạt, sáng tạo các PPGD, đa dạng hoá các phương tiện
GD, hình thức tổ chức GD và cuối cùng là đánh giá kết quả dạy học [17].
1.2.3.4. Quản lý đổi mới PPGD ở trường mầm non
Quản lý đổi mới PPGD ở trường mầm non là quá trình tác động có mục
đích, có tổ chức của CBQL đến cách thức làm việc của cô và trò nhằm đạt được
mục đích dạy học. Quản lý đổi mới PPGD luôn được đặt trong mối quan hệ mật
thiết với các thành tố khác của quá trình dạy học: Mục tiêu - Nội dung - Phương
pháp - Phương tiện - Hình thức - Kết quả và tiến hành đồng bộ với việc quản lý
các thành tố đó, đặc biệt là sự tác động vào mối quan hệ giữa cô và trò trong quá
trình dạy - học.
22
Quản lý đổi mới PPGD là nội dung cốt lõi trong hệ thống quản lý của
nhà trường. Nói đến quản lý đổi mới PPGD là nói đến việc thực hiện đồng bộ
các hoạt động quản lý đội ngũ sư phạm; quản lý cơ sở vật chất, trang thiết bị
phương tiện dạy học; quản lý điều kiện và môi trường làm việc, cơ chế hoạt
động, tổ chức và điều hành, kiểm tra và đánh giá, phối hợp các lực lượng GD
trong và ngoài nhà trường.
1.2.4. Giải pháp quản lý đổi mới PPGD trẻ ở trường mầm non
1.2.4.1. Giải pháp
Theo Từ điển Tiếng việt, giải pháp là: “phương pháp giải quyết một vấn
đề”. Nói đến giải pháp là nói đến những cách thức tác động nhằm thay đổi
chuyển biến một quá trình, một trạng thái hoặc hệ thống…nhằm đạt được
mục đích. Giải pháp thích hợp giúp cho vấn đề được giải quyết nhanh hơn,
mang lại hiệu quả hơn.
1.2.4.2. Giải pháp quản lý đổi mới PPGD trẻ ở trường mầm non
Giải pháp quản lí đổi mới PPGD trẻ ở trường mầm non là cách thức tác
động hướng vào việc tạo ra những biến đổi về phương pháp quản lí trong việc
GD trẻ ở các trường mầm non. Giúp cho trẻ phát huy tính tích cực trong các
hoạt động, kết quả cuối cùng là đứa trẻ cần đạt mục tiêu mong đợi cuối độ tuổi
và đồng thời chuẩn bị tâm thế tốt nhất cho trẻ trước khi vào tiểu học.
Để đạt được hiệu quả trong việc đổi mới PPGD cho trẻ, CBQL ở các
trường đưa ra nhiều giải pháp như: Nâng cao nhận thức về đổi mới PPGD
cho đội ngũ giáo viên; Tăng cường quản lý đổi mới khâu thiết kế kế hoạch
bài học và tổ chức các hoạt động GD; Tăng cường quản lí việc khai thác, sử
dụng CSVC và TBDH của GV; Bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ cho đội ngũ GV; Tăng cường quản lý hoạt động của tổ chuyên
môn; Phối hợp chặt chẽ hoạt động của Ban đại diện cha mẹ học sinh và các
lực luợng giáo dục khác; Tổ chức tham quan học tập; Chỉ đạo xây dựng lớp
23
điểm và tổ chức hội giảng, hội thảo,...Do vậy, người quản lý phải có kiến
thức sâu rộng, có kinh nghiệm, phải nhạy cảm, linh hoạt và mềm dẻo để gắn
kết những giải pháp với nhau, giải quyết các mâu thuẫn giữa các giải pháp, biết
tiên đoán trước hoàn cảnh, tình huống mà đối tượng quản lý đặt ra thì người
quản lý mới có được quyết định đúng trong việc lựa chọn giải pháp quản lý hữu
hiệu nhất.
1.3. Đổi mới phương pháp giáo dục trẻ ở trường mầm non
1.3.1. Yêu cầu về mục tiêu, nội dung, phương pháp, hình thức tổ
chức và đánh giá sự phát triển của trẻ trong quá trình đổi mới PPGD
1.3.1.1. Về mục tiêu
GDMN là bộ phận trong hệ thống GD quốc dân. GDMN thực hiện việc
nuôi dưỡng, chăm sóc, GD trẻ em từ ba tháng tuổi đến sáu tháng tuổi (Điều
21 – Luật Giáo dục 2005). Mục tiêu của GDMN là giúp trẻ em phát triển về
thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của
nhân cách, chuẩn bị cho trẻ em vào lớp một (Điều 22 - Luật GD, 2005); hình
thành và phát triển ở trẻ những chức năng tâm sinh lí, năng lực và phẩm chất
mang tính nền tảng, những kĩ năng sống cần thiết phù hợp với lứa tuổi, khơi
dậy và phát triển tối đa những khả năng tiềm ẩn, đặt nền tảng cho việc học ở
các cấp học tiếp theo và cho việc học suốt đời.
1.3.1.2. Yêu cầu về nội dung
Đảm bảo tính khoa học, tính vừa sức và nguyên tắc đồng tâm phát triển từ
dễ đến khó; đảm bảo tính liên thông giữa các độ tuổi, giữa nhà trẻ, mẫu giáo và
cấp tiểu học; thống nhất giữa nội dung GD với cuộc sống hiện thực, gắn với cuộc
sống và kinh nghiệm của trẻ, luôn lấy trẻ làm trung tâm, phát huy tích tích cục ở
trẻ, chuẩn bị cho trẻ từng bước hòa nhập vào cuộc sống [5].
Phù hợp với sự phát triển tâm sinh lí của trẻ em, hài hòa nuôi dưỡng, chăm
sóc và GD; giúp trẻ phát triển cơ thể cân bằng, khỏe mạnh, nhanh nhẹn; cung cấp
24
kĩ năng sống phù hợp với lứa tuổi; giúp trẻ em biết kính trọng, yêu mến, lễ phép
với ông bà, cha mẹ, thầy cô, cô giáo, yêu quí anh, chị, em, bạn bè; thật thà, mạnh
dạn, tự tin và hồn nhiên, yêu thích cái đẹp; ham hiểu biết, thích đi học [5].
1.3.1.3. Yêu cầu về phương pháp
Đối với GD nhà trẻ, PPGD phải chú trọng giao tiếp thường xuyên, thể
hiện sự yêu thương và tạo sự gắn bó của người lớn với trẻ; chú ý đặc điểm cá
nhân trẻ để lựa chọn PPGD cho phù hợp, tạo cho trẻ cảm giác an toàn về thể
chất và tinh thần; tạo điều kiện thuận lợi cho trẻ được tích cực hoạt động giao
lưu cảm xúc, hoạt động với đồ vật và vui chơi, kích thích sự phát triển các
giác quan và các chức năng tâm – sinh lí; tạo môi trường GD gần gũi với
khung cảnh gia đình, giúp trẻ thích nghi với nhà trẻ [5].
Đối với GD mẫu giáo, PPGD phải tạo điều kiện cho trẻ trải nghiệm, tìm
tòi, khám phá môi trường xung quanh dưới nhiều hình thức đa dạng, đáp ứng
nhu cầu, hứng thú của trẻ phương châm “chơi mà học, học bằng chơi”. Chú
trọng đổi mới tổ chức môi trường GD nhằm kích thích và tạo cơ hội cho trẻ
tích cực khám phá, thử nghiệm và sáng tạo ở các khu vực hoạt động một vui
vẻ. Kết hợp hài hòa giữa GD trẻ trong nhóm bạn với GD cá nhân, chú ý đặc
điểm riêng của từng trẻ để có PPGD phù hợp. Tổ chức hợp lí các hình thức
hoạt động cá nhân, theo nhóm nhỏ và cả lớp, phù hợp với độ tuổi của
nhóm/lớp, với khả năng của từng trẻ, với nhu cầu và hứng thú của trẻ cùng
với điều kiện thực tế [5].
1.3.1.4. Yêu cầu về hình thức tổ chức
Theo chương trình GDMN hiện nay hình thức tổ chức đổi mới PPGD trẻ
được phân loại theo các cách tiếp cận sau đây:
a) Theo mục đích và nội dung đổi mới, có các hình thức:
- Tổ chức hoạt động có chủ định và theo ý thích của trẻ.
25
- Tổ chức lễ, hội: Tổ chức kỷ niệm các ngày lễ hội, các sự kiện quan
trọng trong năm liên quan đến trẻ có ý nghĩa giáo dục và mang lại niềm vui
cho trẻ (Tết trung thu, Ngày hội đến trường, Tết cổ truyền, Ngày hội của các
bà, các mẹ, các cô, các bạn gái,...).
b) Theo vị trí không gian, các hình thức:
- Tổ chức trong phòng nhóm, lớp.
- Tổ chức hoạt động ngoài trời.
- Tổ chức tham quan, vui chơi.
c) Theo số lượng trẻ, có các hình thức:
- Tổ chức hoạt động cá nhân.
- Tổ chức hoạt động theo nhóm.
- Tổ chức hoạt động cả lớp [5].
1.3.1.5. Yêu cầu về đánh giá sự phát triển của trẻ
Đánh giá sự phát triển của trẻ (bao gồm đánh giá trẻ hằng ngày và đánh
giá trẻ theo giai đoạn) nhằm theo dõi sự phát triển của trẻ, làm cơ sở cho việc
xây dựng kế hoạch và kịp thời điều chỉnh kế hoạch cho phù hợp với trẻ, với
tình hình thực tế ở địa phương. Trong đánh giá phải có sự phối hợp nhiều
phương pháp, hình thức đánh giá; coi trọng đánh giá sự tiến bộ của từng trẻ,
đánh giá trẻ thường xuyên qua quan sát hoạt động hằng ngày [5].
1.3.2. Mục đích đổi mới PPGD trẻ ở trường mầm non
Trước những yêu cầu về đổi mới về mục tiêu, nội dung chương trình và
cách đánh giá kết quả học tập của trẻ, PPGD cũng buộc phải thay đổi theo.
Đổi mới PPGD là nội dung hết sức quan trọng trong việc nâng cao chất lượng
GD, bởi vì: GV dạy thế nào để đạt được mục tiêu GD cụ thể đã đề ra và GV
có thể đo được kết quả ấy; GV dạy thế nào để hình thành nhân cách cho trẻ;
GV dạy thế nào để trẻ hứng thú với mọi hiện tượng xung quanh mình; GV
dạy thế nào để trẻ tìm tòi, khám phá, trãi nghiệm với các kiến thức đã học;