Tải bản đầy đủ (.doc) (118 trang)

Một số giải pháp quản lý công tác giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông huyện quỳnh lưu, tỉnh nghệ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (575.31 KB, 118 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

HỒ TRƯỜNG SƠN

MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ CÔNG TÁC
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ
THÔNG HUYỆN QUỲNH LƯU, TỈNH NGHỆ AN

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

NGHỆ AN - 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

HỒ TRƯỜNG SƠN

MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ CÔNG TÁC
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ
THÔNG HUYỆN QUỲNH LƯU, TỈNH NGHỆ AN

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ GIÁO DỤC
MÃ SỐ: 60.14.01.14

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN NHƯ AN

NGHỆ AN - 2015



LỜI CẢM ƠN
Luận văn là kết quả của quá trình học tập, nghiên cứu và công tác của bản
thân cùng với sự hướng dẫn, giúp đỡ tận tình, chu đáo của các thầy cô giáo, các
cơ quan, ban ngành có liên quan. Bằng tình cảm chân thành và lòng biết ơn sâu
sắc, tôi xin gửi lời cảm ơn tới:
- Hội đồng khoa học chuyên ngành Quản lý giáo dục, Khoa Sau đại học
Trường đại học Vinh, các thầy cô giáo đã giảng dạy, tạo mọi điều kiện động
viên, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu.
- Sở Giáo dục - Đào tạo Nghệ An, Huyện uỷ, Uỷ ban nhân dân huyện Quỳnh
Lưu, Phòng Giáo dục Quỳnh Lưu, các trường THPT Quỳnh Lưu 1, THPT
Quỳnh Lưu 2, THPT Quỳnh Lưu 3, THPT Quỳnh Lưu 4, THPT Nguyễn Đức
Mậu, THPT dân lập Cù Chính Lan, THPT tư thục Lý Tự Trọng, TTGDTX
Quỳnh Lưu và các ban, ngành có liên quan đã cung cấp tài liệu, số liệu cần thiết
cho luận văn.
- Xin cảm ơn gia đình, đồng nghiệp, bạn bè đã động viên, khích lệ và giúp đỡ
tôi rất nhiều trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới người hướng dẫn khoa học:
TS. Nguyễn Như An - Người thầy đã trực tiếp giảng dạy và tận tình hướng dẫn,
chỉ bảo, động viên tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu để hoàn thành luận
văn.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong quá trình thực hiện và hoàn thành luận
văn, song vì nhiều lý do khách quan và chủ quan nên chắc chắn luận văn sẽ
không tránh khỏi thiếu sót, hạn chế. Tôi rất mong nhận được sự thông cảm và
những ý kiến đóng góp quý báu của các thầy, cô giáo, các cán bộ quản lý và các
bạn đồng nghiệp để luận văn được hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn!

i



MỤC LỤC

ii


BẢNG CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
ATGT

An toàn giao thông

BCH

Ban chấp hành

BGH

Ban giám hiệu

CB

Cán bộ

CBQL

Cán bộ quản lý

CNH, HĐH

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa


CNTT

Công nghệ thông tin

CSVC

Cơ sở vật chất

GDCD

Giáo dục công dân

GDĐĐ

Giáo dục đạo đức

GD-ĐT

Giáo dục đào tạo

GV

Giáo viên

GVCN

Giáo viên chủ nhiệm

GVBM


Giáo viên bộ môn

HK

Hạnh kiểm

HL

Học lực

HS

Học sinh

KT-XH

Kinh tế - Xã hội

NGLL

Ngoài giờ lên lớp

PP

Phương pháp

QL

Quản lý


QL GDĐĐ

Quản lý Giáo dục đạo đức

TDTT

Thể dục - thể thao

THPT

Trung học phổ thông

TTGDTX

Trung tân Giáo dục thường xuyên

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

iii


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

iv


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Trong những năm qua, đất nước ta chuyển mình trong công cuộc đổi mới
sâu sắc và toàn diện, từ một nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền
kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước. Với công cuộc đổi mới, chúng ta có nhiều thành tựu to lớn rất đáng tự hào
về phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục.
Tuy nhiên, mặt trái của cơ chế mới cũng ảnh hưởng tiêu cực đến sự
nghiệp giáo dục, trong đó sự suy thoái về đạo đức và những giá trị nhân văn tác
động đến đại đa số thanh niên và học sinh như: có lối sống thực dụng, thiếu ước
mơ và hoài bão, lập thân, lập nghiệp; những tiêu cực trong thi cử, bằng cấp,
chạy theo thành tích. Thêm vào đó, sự du nhập văn hoá phẩm đồi trụy thông qua
các phương tiện như phim ảnh, games, Internet… làm ảnh hưởng đến những
quan điểm đúng đắn về tình bạn, tình yêu trong lứa tuổi thanh thiếu niên và học
sinh, nhất là các em chưa được trang bị và thiếu kiến thức về vấn đề này.
Đánh giá thực trạng giáo dục, đào tạo Nghị quyết TW2 khóa VIII nhấn
mạnh: “Đặc biệt đáng lo ngại là một bộ phận học sinh, sinh viên có tình trạng
suy thoái về đạo đức, mờ nhạt về lý tưởng, theo lối sống thực dụng, thiếu hoài
bão lập thân, lập nghiệp vì tương lai của bản thân và đất nước. Trong những
năm tới cần tăng cường giáo dục tư tưởng đạo đức, ý thức công dân, lòng yêu
nước, chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh… tổ chức cho học sinh tham
gia các hoạt động xã hội, văn hoá, thể thao phù hợp với lứa tuổi và với yêu cầu
giáo dục toàn diện”.
Từ năm 2005 đến nay, tình trạng học sinh phạm pháp có chiều hướng ngày
càng phức tạp cả về tính chất, mức độ lẫn sự nghiêm trọng của các vụ án, trong
khi nguyên nhân nhiều khi rất đơn giản như thiếu tiền chơi điện tử, đua đòi quá
mức kinh tế cho phép…

1



Quỳnh Lưu là một vùng đất có lịch sử lâu đời, giàu truyền thống cách
mạng và truyền thống hiếu học. Đây cũng là nơi tập trung nhiều trường THPT
lớn và cũng đang phải đối diện với một vấn đề nhức nhối hiện nay là sự sa sút về
phẩm chất đạo đức của một bộ phận học sinh THPT. Quản lý công tác giáo dục
đạo đức là vấn đề cấp bách của các trường THPT trong huyện. Chính vì vậy,
cần phải đưa ra những giải pháp quản lý để nâng cao hơn nữa chất lượng giáo
dục đạo đức, nhanh chóng phát huy hiệu quả của công tác quản lý giáo dục đạo
đức trên thực tiễn của địa phương.
Chính vì những lí do này, chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài: “Một số giải
pháp quản lý công tác giáo dục đạo đức cho học sinh THPT huyện Quỳnh
Lưu, tỉnh Nghệ An ”, với mong muốn được góp phần tháo gỡ những khó khăn
trong việc giáo dục đạo đức cho học sinh THPT tại huyện Quỳnh Lưu, tỉnh
Nghệ An hiện nay, giúp cho công tác giáo dục trong nhà trường phát huy được
hiệu quả tốt hơn trong thực tế.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất được các giải pháp khoa học, phù hợp quản lý công tác giáo dục
đạo đức cho học sinh THPT ở huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.
Các giải pháp khoa học nêu trong luận văn nhằm nâng cao chất lượng
quản lý công tác giáo dục đạo đức cho học sinh THPT nói chung và quản lý
công tác giáo dục đạo đức cho học sinh THPT trên địa bàn huyện Quỳnh Lưu
nói riêng.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1 Khách thể nghiên cứu
Vấn đề quản lý công tác giáo dục đạo đức cho học sinh ở các trường THPT.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Giải pháp quản lý công tác giáo dục đạo đức cho học sinh ở các trường
THPT huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.

2



4. Giả thuyết khoa học
Nếu đề xuất được các giải pháp có cơ sở khoa học và có tính khả thi thì có
thể nâng cao hiệu quả quản lý công tác giáo dục đạo đức cho học sinh ở các
trường THPT huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý công tác giáo dục đạo đức cho
học sinh ở trường THPT.
5.2. Nghiên cứu thực tiễn quản lý công tác giáo dục đạo đức cho học sinh
ở các trường THPT huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An .
5.3. Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý giáo dục đạo đức
cho học sinh ở các trường THPT huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Phương pháp phân tích, tổng hợp, khái quát hóa tài liệu liên quan để xây
dựng cơ sở lý luận của đề tài.
6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp điều tra qua các phiếu hỏi.
- Phương pháp nghiên cứu các sản phẩm hoạt động.
- Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia.
- Phương pháp khảo nghiệm, thử nghiệm.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục.
6.3. Phương pháp thống kê toán học
Sử dụng phương pháp này để xử lý các số liệu thu được về mặt định
lượng.
7. Đóng góp của luận văn
- Về lý luận: Hệ thống hoá các vấn đề lý luận về giáo dục đạo đức và
quản lý công tác giáo dục đạo đức cho HS THPT.

3



- Về thực tiễn: Khảo sát được thực trạng và đưa ra các giải pháp có tính
khoa học và có tính khả thi để nâng cao hiệu quả quản lý công tác giáo dục đạo
đức cho học sinh ở các trường THPT huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, nội dung chính của
luận văn gồm 3 chương.
Chương 1. Lý luận về quản lý công tác giáo dục đạo đức cho học sinh
trung học phổ thông
Chương 2. Thực trạng quản lý công tác giáo dục đạo đức cho học sinh
THPT huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An
Chương 3. Giải pháp quản lý công tác giáo dục đạo đức cho học sinh
THPT huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An

4


Chương 1
LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ CÔNG TÁC GIÁO DỤC
ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Sơ lược lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1 Các nghiên cứu ở trong nước
Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Có tài mà không có đức thì là người vô
dụng”. Người coi trọng mục tiêu, nội dung giáo dục đạo đức trong các nhà
trường như: “Đoàn kết tốt”, “Kỷ luật tốt”, “Khiêm tốn, thật thà dũng cảm”, “Con
người cần có bốn đức: cần - kiệm - liêm - chính, mà nếu thiếu một đức thì không
thành người”.
Kế thừa tư tưởng của Người, có rất nhiều tác giả nước ta đã nghiên cứu về
vấn đề này như: Phạm Minh Hạc, Hà Thế Ngữ, Nguyễn Đức Minh, Phạm

Hoàng Gia, Phạm Tất Dong và nhiều tác giả khác.
Phát biểu tại Hội thảo, Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Vinh
Hiển khẳng định: “Vấn đề giáo dục đạo đức trong học sinh hiện rất cấp bách vì
xã hội phức tạp hơn. Những giá trị đạo đức đang thay đổi và thay đổi ngày càng
nhanh”.
Còn theo ông Phùng Khắc Bình, Vụ trưởng Vụ Công tác học sinh, sinh
viên, Bộ Giáo dục và Đào tạo thì “tình trạng xuống cấp về đạo đức, lối sống, tội
phạm và bạo lực trong một bộ phận học sinh xảy ra gây lo lắng, bức xúc trong
dư luận xã hội. Đây là điều trăn trở thường xuyên của ngành giáo dục.”
Về nội dung GD ĐĐ cho học sinh, tác giả Phạm Minh Hạc trong công
trình Về phát triển con người thời kỳ CNH - HĐH đã nêu rõ các định hướng giá
trị đạo đức cần cung cấp cho con người Việt Nam nói chung và học sinh nói
riêng hiện nay là: “Trang bị cho mọi người những tri thức cần thiết về tư tưởng
chính trị, đạo đức nhân văn, kiến thức pháp luật và văn hóa xã hội, hình thành ở
mọi công dân thái độ đúng đắn, tình cảm, niềm tin đạo đức trong sáng đối với
5


bản thân, đối với mọi người, đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc
và với mọi hiện tượng xảy ra xung quanh. Tổ chức tốt việc giáo dục và rèn
luyện giới trẻ, để mọi người tự giác thực hiện những chuẩn mực đạo đức xã hội,
có thói quen chấp hành những quy định của pháp luật, nỗ lực học tập, rèn luyện,
tích cực cống hiến sức lực, trí tuệ vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước” [11, 169].
Trong cuốn Tâm lý học đại cương, ông cũng nêu lên 6 giải pháp cơ bản
GD ĐĐ cho người Việt Nam thời kỳ CNH - HĐH: “Tiếp tục đổi mới nội dung,
hình thức GD ĐĐ trong các trường học; củng cố ý tưởng giáo dục ở gia đình và
cộng đồng, kết hợp chặt chẽ với giáo dục nhà trường trong việc GD ĐĐ cho con
người; kết hợp chặt chẽ GD ĐĐ với việc thực hiện nghiêm chỉnh luật pháp của
các cơ quan thi hành pháp luật; tổ chức thống nhất các phong trào thi đua yêu

nước và các phong trào rèn luyện đạo đức, lối sống cho toàn dân, trước hết cho
cán bộ đảng viên, cho thầy cô các trường học; xây dựng một cơ chế tổ chức và
chỉ đạo thống nhất toàn xã hội về GD ĐĐ; nâng cao nhận thức cho mọi người”
[10, 171- 176].
Tác giả Phạm Trung Thanh trên cơ sở nghiên cứu thực trạng đạo đức học
sinh THCS của tỉnh Hải Dương đã đưa ra 10 kiến nghị cụ thể nhằm nâng cao
chất lượng GD ĐĐ học sinh. Tác giả đặt ra yêu cầu các nhà giáo, các nhà QL
giáo dục phải nâng cao tinh thần trách nhiệm, có kỹ năng tổ chức các hoạt động
giáo dục cho học sinh.
GS. TS Đặng Vũ Hoạt trong bài viết Đổi mới hoạt động của GV CN với
việc GD ĐĐ cho học sinh đã đi sâu nghiên cứu vai trò của giáo viên chủ nhiệm
trong quá trình GD ĐĐ cho học sinh và đưa ra một số định hướng cho giáo viên
chủ nhiệm trong việc đổi mới nội dung, cải tiến PP GD ĐĐ cho học sinh trong
trường PT [16, 19].
Tác giả Võ Huỳnh Ngọc Vân nghiên cứu các biện pháp phối hợp giữa
Hiệu trưởng và tổ chức đoàn TNCS Hồ Chí Minh trong việc GD ĐĐ học sinh.

6


Tác giả Nguyễn Kim Bôi nêu một số giải pháp nâng cao chất lượng GD ĐĐ HS
ở trường THPT Trần Đăng Ninh, tỉnh Hà Tây.
Ngoài ra, chúng tôi còn tiếp cận với một số công trình nghiên cứu của
PGS.TS. Phạm Khắc Chương như Một số vấn đề GD ĐĐ ở trường THPT,
PGS.TS. Đặng Quốc Bảo: Một số ý kiến về giáo dục nhân cách thế hệ trẻ, học
sinh, sinh viên và PP giáo dục.
Đặc biệt, vấn đề QL GD ĐĐ đã được đề cập trong một số Luận văn Thạc
sĩ QL giáo dục như: Một số biện pháp phối hợp giữa Hiệu trưởng và tổ chức
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh trong công tác GD ĐĐ cho học sinh THPT tỉnh Bình
Dương (Thạc sĩ Võ Huỳnh Ngọc Vân), Những giải pháp tổ chức phối hợp giữa

nhà trường, gia đình và xã hội nhằm GD ĐĐ cho học sinh THPT ở thị xã Thái
Bình (Thạc sĩ Trần Thị Hải Yến).
Nhìn chung các đề tài nghiên cứu trên đã đi sâu vào việc xác định các nội
dung GD ĐĐ, định hướng các giá trị đạo đức, các biện pháp GD ĐĐ cho học
sinh. Đặc biệt, hiện nay chưa có đề tài nào nghiên cứu về những biện pháp QL
hoạt động GD ĐĐ cho học sinh các trường THPT ở huyện Quỳnh Lưu. Vì vậy,
nghiên cứu đề tài, chúng tôi muốn đưa ra một số biện pháp QL hoạt động GD
ĐĐ để nâng cao chất lượng GD ĐĐ cho học sinh các trường THPT huyện
Quỳnh Lưu hiện nay.
1.1.2. Các nghiên cứu ở nước ngoài
Với tư cách là một bộ phận của tri thức triết học, những tư tưởng đạo đức
học đã xuất hiện hơn 26 thế kỷ trước đây trong triết học Trung Quốc, Ấn Độ, Hy
Lạp cổ đại. Ở phương Đông, khái niệm đạo đức đầu tiên xuất hiện trong kinh
văn đời nhà Chu và từ đó trở đi nó được người Trung Quốc cổ đại sử dụng
nhiều.
Cùng với sự xuất hiện tư tưởng đạo đức, ở thời cổ đại, con người đã sớm
ý thức vai trò quan trọng của việc GD ĐĐ. Những tư tưởng về GD ĐĐ xuất hiện
sớm nhất gắn với tên tuổi của các nhà giáo dục như Democrit, Platon, Aristot
(Hy Lạp cổ) hay Khổng Tử, Trang Tử (Trung Quốc).
7


Ở phương Đông từ thời cổ đại, Khổng Tử (551-479-TCN ) trong các tác
phẩm: “Dịch, Thi, Thư, Lễ, Nhạc Xuân Thu” rất xem trọng việc giáo dục đạo đức.
Ở phương Tây, nhà triết học Socrat (470-399-TCN) đã cho rằng đạo
đức và sự hiểu biết quy định lẫn nhau. Có được đạo đức là nhờ ở sự hiểu biết, do
vậy chỉ sau khi có hiểu biết mới trở thành có đạo đức.
Aristoste (384-322-TCN) cho rằng không phải hy vọng vào Thượng đế áp
đặt để có người công dân hoàn thiện về đạo đức, mà việc phát hiện nhu cầu trên
trái đất mới tạo nên được con người hoàn thiện trong quan hệ đạo đức. .

Đến thời hiện đại, việc GD ĐĐ đã có sự đổi mới rõ rệt về nội dung, hình
thức, PP giáo dục và được nâng lên tầm cao mới, là nhiệm vụ chung của toàn xã
hội. Trong nhà trường, GD ĐĐ cho người học được đặt liền với việc giáo dục
các tri thức khoa học. Chính vì vậy, trong nhiều năm qua, công tác GD ĐĐ đã
thu hút sự quan tâm của nhiều nhà QL giáo dục, nhà giáo, nhà đạo đức học.
1.2. Một số khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1. Đạo đức và giáo dục đạo đức
1.2.1.1. Đạo đức
Tùy theo hướng tiếp cận và phạm vi hoạt động của đạo đức mà có thể
định nghĩa khái niệm này theo các khía cạnh sau:
- Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp các qui tắc, nguyên
tắc, chuẩn mực xã hội nhờ nó con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình sao
cho phù hợp với lợi ích và hạnh phúc của con người, với tiến bộ xã hội trong
quan hệ cá nhân - cá nhân và quan hệ cá nhân - xã hội.
- Đạo đức là toàn bộ những qui tắc, chuẩn mực - nhằm điều chỉnh và đánh
giá cách ứng xử của con người với nhau trong quan hệ xã hội và quan hệ với tự
nhiên.

8


- Đạo đức là hệ thống các qui tắc, chuẩn mực - biểu hiện sự tự giác trong
quan hệ con người với con người, con người với cộng đồng xã hội, với tự nhiên
và với cả bản thân mình.
- Những tiêu chuẩn, nguyên tắc xử lý các mối quan hệ trong gia đình,
cộng đồng hay xã hội, được thừa nhận rộng rãi. Đạo đức quy định hành vi, quan
hệ của con người đối với nhau và đối với xã hội nói chung; Là những nguyên lý
(nguyên tắc) phải tuân theo trong quan hệ giữa người với người, giữa cá nhân
với xã hội, phù hợp yêu cầu của mỗi chế độ chính trị và kinh tế xã hội nhất định
Một cách hoàn chỉnh, có thể định nghĩa đạo đức “là một hình thái ý thức

xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, qui tắc nhằm điều chỉnh và đánh giá cách
ứng xử của con người trong quan hệ với nhau, với xã hội, với tự nhiên trong
hiện tại hoặc quá khứ cũng như tương lai. Chúng được thực hiện bởi niềm tin cá
nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội” [18, 8].
Đạo đức bao gồm những chuẩn mực xã hội điều chỉnh hành vi của con
người trong quan hệ với người khác và với cộng đồng (gia đình, làng xóm, giai
cấp, dân tộc hoặc toàn xã hội). Căn cứ vào những chuẩn mực ấy, người ta đánh
giá hành vi của mỗi người theo các quan niệm về thiện và ác, về cái không được
làm (vô đạo đức) và về nghĩa vụ phải làm.
Khác với pháp luật, các chuẩn mực đạo đức thường không ghi thành văn
bản có tính cưỡng chế, song đều được mọi người thực hiện do sự "kềm tỏa" của
lương tâm cá nhân và của dư luận xã hội. Đạo đức ra đời và phát triển do nhu
cầu của xã hội phải điều tiết các mối quan hệ giữa cá nhân và hoạt động chung
của con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Tính đạo đức biểu hiện bản chất đặc thù của xã hội loài người, là nét cơ
bản trong tính người (so với các động vật bậc cao khác). Sự tiến bộ của ý thức
đạo đức là thước đo sự tiến bộ chung của xã hội.
Giá trị đạo đức cũng bị thay đổi theo thời gian và môi trường xã hội: Đạo
đức là một hiện tượng lịch sử và xét cho cùng, là sự phản ánh của các quan hệ

9


xã hội. Đạo đức của xã hội nguyên thủy khác với đạo đức trong chế độ chủ nô,
phong kiến, tư sản hay cộng sản...
Như vậy, đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là một mặt của đời sống
xã hội con người và là một hình thái chuyên biệt của quan hệ xã hội, thực hiện
chức năng xã hội quan trọng là điều chỉnh hành vi của con người trong mọi lĩnh
vực của đời sống. Chính vì vậy, mỗi cá nhân, tập thể và toàn bộ xã hội phải có ý
thức hình thành cho mình những chuẩn mực đạo đức hoàn thiện, thống nhất để

từ đó, xây dựng xã hội ngày càng ổn định, văn minh, tốt đẹp hơn.
1.2.1.2. Giáo dục đạo đức
Quá trình hình thành và phát triển đạo đức của con người là quá trình tác
động qua lại giữa xã hội và cá nhân để chuyển hóa những nguyên tắc, yêu cầu,
chuẩn mực, giá trị đạo đức - xã hội thành những phẩm chất đạo đức cá nhân,
làm cho cá nhân đó trưởng thành về mặt đạo đức đáp ứng yêu cầu của xã hội.
Có thể hiểu quá trình GD ĐĐ là một hoạt động có tổ chức, có mục đích,
có kế hoạch nhằm biến những nhu cầu chuẩn mực, giá trị đạo đức của cá nhân
nhằm góp phần phát triển nhân cách của mỗi cá nhân và thúc đẩy sự phát triển
tiến bộ của xã hội. GD ĐĐ thực chất là tạo ra các xúc cảm về những chuẩn mực
xã hội để điều chỉnh các hành vi đạo đức, biến các nhu cầu về đạo đức của xã
hội thành các nhu cầu và thói quen thực hiện hành vi đạo đức của mỗi người:
“GD ĐĐ là quá trình tác động tới người học để hình thành cho họ ý thức, tình
cảm và niềm tin đạo đức, đích cuối cùng quan trọng nhất là tạo lập được những
thói quen hành vi đạo đức” [18, 85].
Như vậy, mục đích của GD ĐĐ chính là hình thành cho học sinh nhận
thức đạo đức, tình cảm đạo đức, niềm tin đạo đức và ý chí, nghị lực để biến
những chuẩn mực đạo đức đã được cung cấp thành hành vi, thói quen đạo đức
hàng ngày. Mặt khác, GD ĐĐ trong nhà trường còn hướng tới huấn luyện, bồi
dưỡng những kỹ năng ứng xử - giao tiếp cho học sinh nhằm hướng đến việc xây
dựng văn hóa học đường theo hướng tích cực.

10


GD ĐĐ trong trường PT là một bộ phận của quá trình giáo dục tổng thể,
có quan hệ biện chứng với các quá trình bộ phận khác nhau như giáo dục trí tuệ,
giáo dục thẩm mĩ, giáo dục thể chất, giáo dục lao động và giáo dục hướng
nghiệp giúp cho HS hình thành và phát triển nhân cách toàn diện. GD ĐĐ cho
HS là tập trung vào việc giáo dục lòng trung thành với Đảng, hiếu với dân, yêu

quê hương đất nước, có lòng vị tha, có lòng nhân ái, cần cù, liêm khiết và chính
trực. Đó là đạo đức XHCN.
Quá trình GD ĐĐ trong trường THPT phải làm cho học sinh thấm nhuần
sâu sắc thế giới quan Mác - Lênin, tư tưởng đạo đức cách mạng của Hồ Chí
Minh, tính chân lý khách quan của các giá trị đạo đức nhân văn, nhân bản của
các tư tưởng, coi đó là kim chỉ nam cho hành động của mình. Thông qua việc
tiếp cận với cuộc đấu tranh cách mạng của dân tộc và hoạt động của cá nhân để
củng cố niềm tin và lẽ sống, lý tưởng sống, lối sống theo con đường CNXH.
Học sinh phải thấm nhuần chủ trương, chính sách của Đảng, biết sống và làm
việc theo pháp luật, có kỷ cương nền nếp, có văn hóa trong các mối quan hệ
giữa con người với tự nhiên, với xã hội và giữa con người với nhau. Nhận thức
ngày càng sâu sắc nguyên tắc, yêu cầu, chuẩn mực và các giá trị đạo đức xã hội
XHCN, biến các giá trị đó thành ý thức, tình cảm, hành vi, thói quen và cách
ứng xử trong đời sống hàng ngày. Để thực hiện được những yêu cầu đó, quá
trình GD ĐĐ có nhiệm vụ: Phát triển nhu cầu đạo đức cá nhân; hình thành và
phát triển ý thức đạo đức; rèn luyện ý chí, hành vi, thói quen và cách ứng xử đạo
đức; phát triển các giá trị đạo đức cá nhân theo những định hướng giá trị mang
tính đặc thù dân tộc và thời đại.
Hơn thế, một nội dung quan trọng của GD ĐĐ cho học sinh trong nhà
trường là phải biến quá trình giáo dục thành tự giáo dục. Theo đó, học sinh từ vị
trí khách thể, đối tượng của quá trình giáo dục chuyển thành chủ thể chủ động,
tích cực của quá trình tự giáo dục, tự nhận thức các giá trị đạo đức và rèn luyện
để hình thành các hành vi, thói quen đạo đức tích cực.

11


Quá trình GD ĐĐ bao gồm các tác động của rất nhiều nhân tố khách
quan, chủ quan, bên trong và bên ngoài. Trong đó, yếu tố đạo đức xã hội giữ vai
trò quan trọng. GD ĐĐ chỉ đạt hiệu quả khi nhà sư phạm biết tổ chức và đưa ra

các biện pháp tổ chức các hoạt động giáo dục một cách có hiệu quả nhằm đạt
được mục tiêu giáo dục đề ra là biến các yếu tố đạo đức xã hội trở thành giá trị
đạo đức của cá nhân.
1.2.2. Quản lý, Quản lý giáo dục và Quản lý trường học
1.2.2.1. Quản lý
QL đã xuất hiện và được áp dụng ngay từ buổi sơ khai của cuộc sống
cộng đồng, khi con người làm việc theo nhóm để thực hiện những mục tiêu nhất
định. Con người không thể đạt được mục tiêu với tư cách là những cá nhân riêng
lẻ nên QL xuất hiện như một yếu tố cần thiết để phối hợp những nỗ lực cá nhân,
hướng tới những mục tiêu chung. Mục tiêu của mọi nhà QL là nhằm hình thành
một môi trường trong đó con người có thể đạt được mục đích của nhóm với thời
gian, tiền bạc vật chất và sự bất mãn cá nhân ít nhất nhưng thỏa mãn nhiều nhất.
Theo cách tiếp cận hệ thống thì QL là sự tác động của chủ thể QL đến
khách thể QL (hay là đối tượng QL) nhằm tổ chức phối hợp hoạt động của con
người trong các quá trình sản xuất - xã hội để đạt được mục đích đã định.
Các Mác đã lột tả bản chất QL là: “Nhằm thiết lập sự phối hợp giữa
những công việc cá nhân và thực hiện những chức năng chung, nảy sinh từ sự
vận động của toàn bộ cơ thể sản xuất, khác với sự vận động riêng lẻ của nó. Một
người chơi vĩ cầm riêng lẻ tự điều khiển mình. Còn dàn nhạc thì cần người chỉ
huy” [4, 342].
Theo Nguyễn Minh Đạo : “QL là sự tác động liên tục có tổ chức, có định
hướng của chủ thể (người QL, người tổ chức QL) lên khách thể (đối tượng QL)
về các mặt chính trị, xã hội, văn hóa, kinh tế.... bằng một hệ thống các luật lệ,
các chính sách, các nguyên tắc, các PP và các biện pháp cụ thể, nhằm tạo ra môi
trường và điều kiện phát triển của đối tượng [9, 97].

12


Tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc cho rằng: “QL là sự tác

động có chủ đích của chủ thể QL đến đối tượng QL nhằm đạt được mục tiêu của
tổ chức” [5, 1].
Tác giả Trần Kiểm định nghĩa “QL là những tác động của chủ thể QL
trong việc huy động, phát huy, kết hợp, sử dụng, điều chỉnh, điều phối các
nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực) trong và ngoài tổ chức với hiệu quả cao
nhất” [21, 8].
Theo Đặng Quốc Bảo: QL là thuật ngữ chỉ quá trình “Quản” và “Lý”
tích hợp vào nhau nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được muc tiêu đã
định.
“Quản” là cai quản, coi sóc, giữ gìn, duy trì hệ ở trạng thái ổn định.
“Lý” là sửa sang sắp xếp đổi mới, đưa hệ vào thế phát triển.
QL là quá trình duy trì hệ ổn định để phát triển và tạo ra sự phát triển
trong thế ổn định.
Đặc thù của QL là hệ thống hoàn chỉnh như một cơ thể sống gồm nhiều
yếu tố liên kết một cách hữu cơ theo một quy luật nhất định trong không gian và
thời gian nhất định. Hệ thống xã hội gồm hai phân hệ đó là chủ thể QL và khách
thể QL.
Những khái niệm trên về QL khác nhau về cách diễn đạt, nhưng vẫn cho
thấy một ý nghĩa chung: QL là sự tác động có tổ chức có hướng đích của chủ thể
QL lên đối tượng QL và khách thể QL nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các tiềm
năng, các cơ hội của tổ chức để đạt được mục tiêu đặt ra trong điều kiện biến
động của môi trường. Hoạt động QL phải là sự tác động có định hướng, có mục
đích, có kế hoạch để đưa hệ thống vào một trật tự ổn định, tạo đà cho một sự
phát triển nhanh, mạnh và bền vững.
1.2.2.2. Quản lý giáo dục
Khoa học QL giáo dục là một bộ phận chuyên biệt của khoa học QL xã
hội nói chung bởi đối tượng nghiên cứu của nó là hệ thống giáo dục quốc dân.

13



Vì vậy, QL giáo dục mặc dù có những điểm riêng biệt song cũng chịu sự chi
phối bởi mục tiêu QL xã hội.
QL giáo dục theo nghĩa tổng quan là hoạt động điều hành, phối hợp các
lực lượng xã hội nhằm đẩy mạnh công tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu phát
triển xã hội. Ngày nay, với sứ mệnh phát triển giáo dục thường xuyên, công tác
giáo dục không chỉ giới hạn ở thế hệ trẻ mà cho mọi người; tuy nhiên trọng
tâm vẫn là giáo dục thế hệ trẻ cho nên QL giáo dục được hiểu là sự điều hành
hệ thống giáo dục quốc dân, các trường trong hệ thống giáo dục quốc dân.
Theo M.I.Konzacov, “QL giáo dục là tác động có hệ thống, có kế hoạch,
có ý thức và tính hướng đích của chủ thể QL ở các cấp khác nhau đến tất cả các
mắt xích của hệ thống nhằm mục đích đảm bảo việc hình thành nhân cách cho
thế hệ trẻ trên cơ sở nhận thức và vận dụng những quy luật chung của xã hội
cũng như những quy luật của quá trình giáo dục, của sự phát triển thể lực và tâm
lý trẻ em”[13, 10]
Nhà nghiên cứu Đặng Quốc Bảo quan niệm: “QL giáo dục theo nghĩa
tổng quan là hoạt động điều hành, phù hợp với lực lượng xã hội nhằm đẩy mạnh
công tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển xã hội (...) cho nên QL giáo
dục được hiểu là sự điều hành của hệ thống giáo dục quốc dân” [8, 1].
Tác giả Trần Kiểm chia QL giáo dục thành hai cấp độ vĩ mô và vi mô. QL
giáo dục vĩ mô là QL nền giáo dục hoặc hệ thống giáo dục; QL giáo dục vi mô
là QL nhà trường [21, 36]. Ở cấp độ vi mô, quan niệm này cũng thống nhất với
ý kiến của Phạm Minh Hạc khi ông cho rằng “QL giáo dục là QL trường học,
thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình”.
QL giáo dục là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp
quy luật của chủ thể QL nhằm làm cho hệ vận hành theo đường lối và nguyên lý
giáo dục của Đảng, thực hiện các tính chất của nhà trường XHCN Việt Nam mà
tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy học, giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ giáo dục tới
mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới nhất về chất.


14


QL giáo dục về mặt nhà nước là tập hợp những tác động hợp quy luật
được thể chế bằng pháp luật của chủ thể QL đến tất cả các phân hệ làm cho hệ
thực hiện được mục tiêu giáo dục mà kết quả cuối cùng là chất lượng và hiệu
quả quá trình giáo dục đào tạo thế hệ trẻ. Mục tiêu giáo dục là mô hình lí tưởng
(mô hình tư duy), kết quả của tư duy khoa học về đối tượng khách quan đã
được chủ thể lựa chọn để chịu sự biến đổi nhằm thỏa mãn nhu cầu của chủ thể.
Từ những khái niệm trên, chúng ta có thể khái quát như sau: QL giáo dục
là hệ thống tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể QL
nhằm làm cho hệ vận hành theo đúng đường lối và nguyên lý giáo dục của
Đảng, thực hiện được các tính chất của nhà trường mà tiêu điểm hội tụ là quá
trình dạy học, giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ giáo dục đến mục tiêu dự kiến lên
trạng thái mới về chất.
Mục đích của QL giáo dục là nhằm thực hiện các quan điểm đường lối
giáo dục của Đảng: nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài đáp
ứng yêu cầu cách mạng trong giai đoạn mới. QL giáo dục cũng có 4 chức năng:
lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra đánh giá. Dựa vào phạm vi, QL giáo dục
được chia thành hai loại: QL hệ thống giáo dục diễn ra ở tầm vĩ mô, trong phạm
vi toàn quốc hoặc trên địa bàn của địa phương, tỉnh hoặc TP/ QL nhà trường
diễn ra ở tầm vi mô trong một nhà trường, một cơ sở.
1.2.2.3. Quản lý trường học
Đối với các ngành QL giáo dục thì nhà trường là đơn vị cơ sở có vai trò
quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến việc thực hiện mục đích, mục tiêu kế
hoạch đào tạo thế hệ trẻ mà kết quả cuối cùng là dạy tốt - học tốt.
QL trường học với tư cách là một tổ chức giáo dục ở cơ sở vừa mang tính
đặc thù của giáo dục vừa mang tính xã hội, trực tiếp đào tạo, giáo dục thế hệ trẻ,
là tế bào chủ chốt củ hệ thống giáo dục từ TW đến địa phương. Do vậy, trường
học là khách thể cơ bản của mọi cấp QL.


15


Công tác QL tường học gồm QL sự tác động giữa trường học và xã hội
đồng thời QL chính nhà trường. QL quá trình giáo dục đào tạo trong nhà trường
được coi là một hệ thống bao gồm các thành tố:
- Thành tố tinh thần: mục đích giáo dục, nội dung giáo dục, biện pháp
giáo dục.
- Thành tố con người: GV, HS.
- Thành tố vật chất: cơ sở vật chất, các phương tiện, trang thiết bị phục vụ
cho dạy và học.
Mục tiêu của QL trường học chính là những chỉ tiêu cho các hoạt động
của trường được dự kiến trước khi triển khai các hoạt động đó. Đây là một hệ
thống liên quan đến nhiều cấp, do tính đa dạng và phức tạp của công tác đào tạo
thế hệ trẻ, mục tiêu QL của nhà trường. Thực chất, nó là cái mong muốn, cái dự
kiến, cái phải thực hiện trong quá trình triển khai mọi hoạt động giáo dục của
nhà trường.
Công tác QL giáo dục nói chung, QL nhà trường nói riêng gồm có QL các
hoạt động giáo dục diễn ra trong nhà trường và các quan hệ giữa nhà trường với
xã hội trên các nội dung:
- QL hoạt động dạy và học.
- QL hoạt động GD ĐĐ.
- QL hoạt động lao động sản xuất.
- QL hoạt động giáo dục thể chất và vệ sinh.
- QL hoạt động hướng nghiệp, dạy nghề.
- QL hoạt động xã hội, hoạt động đoàn thể.
Người trực tiếp QL trường học và chịu trách nhiệm về hoạt động của nhà
trường là Hiệu trưởng và các Phó Hiệu trưởng.
QL giáo dục trên cơ sở QL nhà trường là một phương hướng cải tiến QL

giáo dục theo nguyên tắc tăng cường QL phân cấp nhằm phát huy tối đa năng
lực trách nhiệm quyền hạn của các chủ thể QL trực tiếp thực hiện mục tiêu giáo
dục đào tạo mà xã hội yêu cầu.
16


1.2.3. Quản lý giáo dục đạo đức và giải pháp quản lý giáo dục đạo đức
QL hoạt động GD ĐĐ cho học sinh THPT là tổ hợp những cách thức, con
đường của chủ thể QL tác động vào khách thể QL nhằm thực hiện mục tiêu giáo
dục nhân cách theo dự kiến.
Về bản chất, QL hoạt động GD ĐĐ là quá trình tác động có định hướng
của chủ thể QL lên các thành tố tham gia vào quá trình hoạt động nhằm thực
hiện có hiệu quả mục tiêu GD ĐĐ (nhằm hình thành niềm tin, lý tưởng, động
cơ, tình cảm, thái độ, hành vi và thói quen. Đó là những nét tính cách của nhân
cách ứng xử đúng đắn trong xã hội).
QL hoạt động GD ĐĐ bao gồm việc QL mục tiêu, nội dung, hình thức, PP
giáo dục, huy động đồng bộ lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường nhằm
thực hiện tốt nhiệm vụ GD ĐĐ, biến quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo
dục.
Mục tiêu của QL hoạt động GD ĐĐ cho học sinh là làm cho quá trình GD
ĐĐ vận hành đồng bộ, hiệu quả trong việc giáo dục hình thành và phát triển
nhân cách HS.
PP GD ĐĐ gắn bó chặt chẽ với lý tưởng xã hội và mục đích giáo dục. Do
vậy, tất cả các PP giáo dục trong nhà trường đều không được trái mục đích giáo
dục và cùng hướng đến phục vụ nội dung giáo dục.
Để công tác GD ĐĐ cho học sinh tiến hành đúng hướng và đạt được kết quả
tốt, các nhà trường tất yếu phải nhờ đến sự hỗ trợ của các giải pháp QL. Giải pháp
QL là hệ thống các cách thức tổ chức, điều khiển hoạt động của một nhóm (hay
nhiều nhóm xã hội) cùng nhau thực hiện những mục đích và nhiệm vụ chung.
Từ đó, đề xuất các giải pháp QL thực chất là đưa ra các cách thức tổ chức,

điều khiển có hiệu quả hoạt động của một nhóm (hệ thống, quá trình) nào đó.
Tuy nhiên, các cách thức tổ chức, điều khiển này phải dựa trên bản chất, chức
năng, yêu cầu của hoạt động QL.
Giải pháp QL GD ĐĐ trước tiên cũng là giải pháp QL GD nhưng nó
hướng vào một đối tượng, hoạt động cụ thể chính là công tác GD ĐĐ cho học
17


sinh trong nhà trường. Hoạt động này cũng cần phải được thực hiện nghiêm túc
từ khâu lập kế hoạch, triển khai thực hiện, giám sát quá trình thực hiện cho đến
công đoạn kiểm tra, đánh giá kết quả thực hiện như thế nào. Thực chất, đây là
tập hợp các cách làm, cách hành động cụ thể để nâng cao hiệu quả GD ĐĐ cho
học sinh. Nó hướng đến duy trì trật tự cho công tác GD ĐĐ cho học sinh và để
cho công tác này đạt được mục tiêu đề ra một cách tốt nhất.
1.3. Một số vấn đề về giáo dục đạo đức cho học sinh THPT
1.3.1. Một số đặc điểm tâm sinh lí của học sinh THPT
1.3.1.1. Đặc điểm sự phát triển trí tuệ
Qua việc phân tích tâm lý lứa tuổi và tâm lý sư phạm có thể thấy, học sinh
THPT có lứa tuổi từ 15 - 18 tuổi. Đây là giai đoạn các em phát triển nhanh
không chỉ về sinh lý mà còn về cả tâm lý. Về mặt trí tuệ, học sinh THPT có
những đặc điểm sau:
- Tri giác có mục đích đã đạt tới mức rất cao.
- Ghi nhớ có chủ định giữ vai trò chủ đạo trong hoạt động trí tuệ, đồng thời
vai trò của ghi nhớ logic trừu tượng, ghi nhớ ý nghĩa ngày một tăng rõ rệt.
- Các em đã tạo được tâm thế phân hoá trong ghi nhớ.
- Có sự thay đổi về tư duy: các em có khả năng tư duy lý luận, tư duy trừu
tượng một cách độc lập, chặt chẽ có căn cứ và mang tính nhất quán..
Sự thay đổi về trí tuệ so với lứa tuổi học sinh THCS trước đó bắt nguồn từ
những nguyên nhân chính:
+ Do cấu trúc của não phức tạp và chức năng của não phát triển.

+ Do sự phát triển của quá trình nhận thức.
+ Do ảnh hưởng của hoạt động học tập.
Sự phát triển nhanh, linh hoạt và có chủ định về mặt trí tuệ của học sinh
THPT có thể nói là một lợi thế cho GV nói chung và GV giảng dạy đạo đức nói
riêng vì ở giai đoạn này, học sinh đã hiểu biết và tự chịu trách nhiệm về hành vi
của mình. Tính năng động và độc lập cao giúp các em tiếp thu kiến thức tốt và
tự chuyển hóa những tri thức đạo đức thành kinh nghiệm đạo đức của cá nhân.
18


Mặt khác, sự nối kết giữa nhận thức đạo đức và thực hành đạo đức cũng trở nên
dễ dàng hơn nếu các em tích cực, chủ động. Nhưng bao giờ cũng vậy. Cánh cửa
thuận lợi mở ra thì đi theo sau nó là những khó khăn mà GV phải đối diện như:
học sinh không chịu nghe lời GV; học sinh đề cao tri thức khoa học mà xem nhẹ
tri thức đạo đức và việc rèn luyện đạo đức; tính cách ương bướng và tư tưởng
thực dụng biểu hiện rõ; xu hướng ưa thích khẳng định mình bằng cách làm
những việc khác người...
Các nhà giáo dục cần giúp các em có thể phát huy hết năng lực độc lập
suy nghĩ của mình, nhìn nhận và đánh giá các vấn đề một cách khách quan. Mặt
khác, cũng cần có những biện pháp khắc phục những hạn chế trên bằng cách tạo
ra một môi trường học tập cởi mở, để các em phát triển tự do nhưng vẫn phải
duy trì không khí nghiêm túc, tính định hướng của giờ học.
1.3.1.2. Sự hình thành thế giới quan
Học sinh THPT là lứa tuổi quyết định sự hình thành của thế giới quan.
Đây là nét chủ yếu trong sự phát triển tâm lý của tuổi thanh niên học sinh.
Những cơ sở của thế giới quan đã được hình thành dần dần từ rất sớm.
Nhưng đến giai đoạn này, khi nhân cách đã phát triển ở mức cao thì các em mới
xuất hiện nhu cầu đưa những tiêu chuẩn, nguyên tắc hành vi đã được xác định
trong cả quá trình trước đó vào trong một hệ thống hoàn chỉnh. Một khi đã có
được hệ thống quan điểm riêng thì HS không chỉ hiểu về bản thân thế giới khách

quan mà còn đánh giá được nó, xác định được thái độ của mình đối với thế giới.
Chỉ số đầu tiên của sự hình thành thế giới quan là sự phát triển của hứng
thú nhận thức đối với những vấn đề thuộc nguyên tắc chung nhất của vũ trụ,
những quy luật phổ biến của tự nhiên, của xã hội và của sự tồn tại xã hội loài
người... Các em cố gắng xây dựng quan điểm riêng trong các lĩnh vực xã hội, tư
tưởng, chính trị, đạo đức... thông qua các môn học ở bậc THPT. Chính nội dung
các môn học này đã giúp các em rất nhiều trong quá trình xây dựng thế giới
quan tích cực về mặt tự nhiên, xã hội.

19


×