Tải bản đầy đủ (.doc) (115 trang)

Vai trò lãnh đạo của Đảng ủy phường trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách cấp cơ sở ở Quận Cái Răng, Thành phố Cần Thơ trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (465.77 KB, 115 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

VƯƠNG CÔNG KHANH

VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ỦY PHƯỜNG
TRONG VIỆC XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHUYÊN TRÁCH
CẤP CƠ SỞ Ở QUẬN CÁI RĂNG, THÀNH PHỐ
CẦN THƠ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 60.31.02.01

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN THÁI SƠN

Đồng Tháp, 2015


2
LỜI CÁM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tôi xin bày tỏ tình cảm chân thành và lòng
biết ơn sâu sắc đến Ban Giám hiệu và quý thầy, cô giáo Khoa Giáo dục Chính
trị, Phòng Sau đại học Trường Đại học Vinh; xin chân thành cám ơn Ban
Giám hiệu và quý thầy, cô giáo Phòng Sau đại học và Trường Đại học Đồng
Tháp; xin chân thành cán ơn Ban Tổ chức Thành ủy Cần Thơ, Thường trực
Quận ủy và Ban Tổ chức Quận ủy Cái Răng cùng sự giúp đỡ nhiệt tình của
các đồng chí, đồng nghiệp.


Đặc biệt tôi luôn ghi nhớ và trân trọng công sức, sự chỉ dẫn tận tình,
cùng lòng biết ơn sâu sắc đến thầy Phó Giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Thái Sơn,
người đã trực tiếp hướng dẫn và giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn.
Dù đã rất cố gắng và nỗ lực cao, nhưng luận văn chắc chắn không tránh
khỏi những thiếu sót. Kính mong quý thầy, cô giáo, các nhà khoa học giúp đỡ,
góp ý để luận văn hoàn thiện hơn.
Đồng Tháp, ngày 30 tháng 6 năm 2015
Tác giả luận văn
Vương Công Khanh


3
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa...............................................................................................1
Lời cảm ơn...................................................................................................2
Mục lục........................................................................................................3
MỞ ĐẦU.....................................................................................................5
NỘI DUNG...............................................................................................11
Chương 1: Cơ sở lý luận về vai trò lãnh đạo của đảng ủy phường đối với
công tác xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách cấp cơ sở ..............11
1.1. Một số khái niệm cơ bản....................................................................11
1.2. Quan điểm của Đảng, Nhà nước về công tác xây dựng đội ngũ cán bộ
chuyên trách cấp cơ sở......................................................................14
1.3. Vai trò lãnh đạo của Đảng ủy phường đối với công tác xây dựng đội
ngũ cán bộ chuyên trách cấp cơ sở....................................................38
Chương 2: Đội ngũ cán bộ chuyên trách cấp cơ sở và thực trạng vai trò
lãnh đạo của đảng ủy phường đối với công tác xây dựng đội ngũ cán
bộ chuyên trách cấp cơ sở ở quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ....45
2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, chính trị, xã hội của quận Cái Răng, thành

phố Cần Thơ......................................................................................45
2.2. Thình hình đội ngũ cán bộ chuyên trách cấp cơ sở ở quận Cái Răng,
thành phố Cần Thơ hiện nay.............................................................51
2.3. Thực trạng lãnh đạo của Đảng ủy phường đối với công tác xây dựng
đội ngũ cán bộ chuyên trách cấp cơ sở ở quận Cái Răng, thành phố
Cần Thơ hiện nay..............................................................................60
Chương 3: Phương hướng và những giải pháp nâng cao vai trò lãnh đạo
của Đảng ủy phường trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên
trách cấp cơ sở ở quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ......................71


4
3.1. Phương hướng nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng ủy phường trong
việc xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách cấp cơ sở ở quận Cái
Răng, thành phố Cần Thơ..................................................................71
3.2. Những giải pháp chủ yếu nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng ủy
phường trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách cấp cơ
sở ở quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ..........................................78
KẾT LUẬN.............................................................................................109
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................112


5
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chất lượng lãnh đạo của cấp ủy đảng là một trong những nhân tố đặc
biệt quan trọng có ý nghĩa quyết định đối với năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của mỗi cấp bộ đảng. Cách mạng nước ta bước vào thời kỳ mới – thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thực hiện mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh theo định hướng xã

hội chủ nghĩa, nhiều cấp ủy đảng đã phát huy tốt vai trò lãnh đạo của mình;
song, cũng có không ít cấp ủy đảng chất lượng và hiệu quả lãnh đạo còn thấp,
cá biệt có nơi còn phạm những sai lầm nghiêm trọng. Do đó, việc nâng cao
chất lượng của cấp ủy đảng hiện nay là vấn đề có ý nghĩa rất lớn về lý luận và
thực tiễn, là vấn đề rất cơ bản và cấp bách.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa IX về đổi mới và nâng cao chất lượng của hệ thống chính trị ở cơ sở xã,
phường, thị trấn đã xác định: xây dựng đội ngũ cán bộ ở cơ sở xã, phường, thị
trấn là một trong ba vấn đề cơ bản và bức xúc cần tập trung giải quyết, trong
đó yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở có năng lực tổ chức vận động nhân
dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước, công tâm, thạo việc, tận tụy với dân, biết phát huy sức dân, không tham
nhũng, không ức hiếp nhân dân, trẻ hóa đội ngũ, chăm lo công tác đào tạo, bồi
dưỡng, giải quyết hợp lý và đồng bộ chính sách đối với cán bộ cơ sở.
Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22 tháng 10 năm 2009 của Chính
phủ về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công
chức ở xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở
cấp xã. Theo Nghị định này, những cán bộ chuyên trách giữ chức vụ bầu cử
theo nhiệm kỳ ở cấp xã, phường bao gồm: Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy; Chủ
tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân; Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân
dân; Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Bí thư Đoàn Thanh niên


6
Cộng sản Hồ Chí Minh; Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam; Chủ tịch
Hội Nông dân Việt Nam (áp dụng đối với xã, phường, thị trấn có hoạt động
nông, lâm, ngư, diêm nghiệp và có tổ chức Hội Nông dân Việt Nam); Chủ
tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam.
Phường là nơi tuyệt đại bộ phận nhân dân cư trú, sinh sống. Hệ thống
chính trị và cán bộ cấp cơ sở có vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức và

vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ
của nhân dân, huy động mọi khả năng phát triển kinh tế - xã hội, tổ chức cuộc
sống của cộng đồng dân cư. Trong những năm gần đây, đội ngũ cán bộ đảng
viên cấp cơ sở nói chung và đội ngũ cán bộ chuyên trách cấp cơ sở nói riêng
đã có bước phát triển về chất lượng. Tuy nhiên, đội ngũ này vẫn bộc lộ những
yếu kém, bất cập về kiến thức, năng lực, trình độ trước những yêu cầu của
tình hình, nhiệm vụ mới. Vì vậy, một số cán bộ gặp khó khăn, lúng túng,
thậm chí vi phạm trong thực thi nhiệm vụ. Bên cạnh đó, trước tác động tiêu
cực của cơ chế thị trường, một bộ phận cán bộ cấp cơ sở suy thoái về tư tưởng
chính trị, phẩm chất đạo đức lối sống, quan liêu, hách dịch, cửa quyền, vi
phạm dân chủ, tham nhũng, lãng phí... dẫn đến bị kỷ luật. Những điều đó đã
làm ảnh hưởng không nhỏ đến uy tín và hiệu quả sự lãnh đạo của Đảng, quản
lý điều hành của Nhà nước, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng;
đồng thời đặt ra đòi hỏi bức thiết phải phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng ủy
cấp phường, xã để đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức,
đặc biệt là đội ngũ cán bộ chuyên trách cấp cơ sở.
Quận Cái Răng được thành lập vào năm 2004, liền kề trung tâm thành
phố, quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh chóng với nhiều công trình trọng
điểm, đặt ra hàng loạt các nhiệm vụ nặng nề, phức tạp về quy hoạch xây dựng
và quản lý qui hoạch xây dựng, quản lý đô thị, quản lý đất đai, giải phóng mặt
bằng, xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội, phát triển kinh tế, văn


7
hóa - xã hội, phòng chống các tệ nạn xã hội, quản lý dân cư, đảm bảo an ninh
chính trị - trật tự an toàn xã hội...
Để thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ nêu trên, các phường trong quận
Cái Răng phải phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng ủy phường để xây dựng
một đội ngũ cán bộ chuyên trách vững mạnh, có phẩm chất, năng lực, phương

pháp, phong cách công tác tốt, nhạy bén, năng động, đáp ứng được yêu cầu
ngày càng cao của tình hình mới. Trên cơ sở Nghị quyết số 03-NQ/TW, ngày
18 tháng 6 năm 1997 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa VIII): “Về Chiến
lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”; Nghị
quyết số 17-NQ/TW, ngày 18 tháng 3 năm 2002 của Ban Chấp hành Trung
ương (khóa IX): “Về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ
sở xã, phường, thị trấn”; Hướng dẫn số 17-HD/TCTW, ngày 23 tháng 4 năm
2003 của Ban Tổ chức Trung ương: “Về công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo,
quản lý thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”; Nghị
quyết số 42-NQ/TW, ngày 30 tháng 11 năm 2004 của Bộ Chính trị: “Về công
tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước”; Nghị quyết số 22-NQ/TW, ngày 02 tháng 02 năm
2008 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa X): "Về nâng cao năng lực lãnh
đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ,
đảng viên"; Trần Đình Hoan, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung
ương Đảng, Trưởng ban Tổ chức Trung ương: “Mười năm công tác tổ chức,
cán bộ của Đảng và những yêu cầu, nhiệm vụ trong thời gian tới”; Chỉ thị số
17/2009/CT-UBND, ngày 31/12/2009 của Ủy ban nhân dân thành phố Cần
Thơ: “Về việc tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy và chuẩn hóa đội ngũ cán bộ,
công chức xã, phường, thị trấn trên địa bàn thành phố Cần Thơ”; Nghị quyết
04-NQ/QU, ngày 27/6/2012 của Quận ủy Cái Răng: “Về công tác đào tạo bồi
dưỡng cán bộ”; các luận văn thạc sĩ khoa học chính trị ...


8
Từ những lý do nêu trên, đồng thời xuất phát từ đòi hỏi thực tiễn ở cơ
sở trong quá trình xây dựng và phát triển quận Cái Răng hiện nay và qua quá
trình công tác của bản thân. Tôi chọn nội dung về xây dựng Đảng, xây dựng
đội ngũ cán bộ để nghiên cứu đề tài: "Vai trò lãnh đạo của Đảng ủy phường
trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách cấp cơ sở ở quận Cái

Răng, thành phố Cần Thơ trong giai đoạn hiện nay" làm luận văn Thạc sỹ
chuyên ngành Chính trị học.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ vai trò lãnh đạo của Đảng ủy phường trong việc xây
dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách cấp cơ sở, luận văn đề xuất phương hướng
các giải pháp để phát huy vai trò của Đảng ủy phường trong việc xây dựng
đội ngũ cán bộ chuyên trách cấp cơ sở ở quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ
đáp ứng nhiệm vụ trong giai đoạn mới.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về vai trò lãnh đạo của Đảng ủy phường đối
với việc xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách cấp cơ sở.
- Khảo sát, đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ chuyên trách cấp cơ sở
và công tác xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách cấp cơ sở ở quận Cái Răng,
thành phố Cần Thơ trong giai đoạn vừa qua.
- Đề xuất phương hướng và những giải pháp nhằm phát huy vai trò lãnh
đạo của Đảng trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách cấp cơ sở ở
quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn
mới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là vai trò lãnh đạo của Đảng ủy
phường đối với công tác xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách cấp cơ sở ở
quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ trong giai đoạn hiện nay.


9
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về lý luận: Đề tài không trình bày toàn bộ các vấn đề lý luận về cán
bộ và công tác cán bộ mà tập trung phân tích những vấn đề liên quan đến vai
trò lãnh đạo của Đảng ủy phường đối với công tác xây dựng đội ngũ cán bộ

chuyên trách và những quan điểm về lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ, đặc
biệt là đội ngũ cán bộ chuyên trách cấp cơ sở.
+ Về thực tiễn: Đề tài tập trung phân tích đánh giá vai trò lãnh đạo của
Đảng ủy phường, đội ngũ cán bộ chuyên trách và công tác xây dựng đội ngũ
cán bộ chuyên trách cấp cơ sở ở quận Cái Răng (bao gồm các chức danh theo
quan điểm của Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa IX; Nghị định số
92/2009/NĐ-CP ngày 22 tháng 10 năm 2009 của Chính phủ về chức danh, số
lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị
trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã).
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài này được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và quan điểm, đường lối của Đảng Công sản Việt Nam; nghiên cứu dựa
trên chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, kế hoạch của các cấp ủy; nghiên cứu các
văn bản luật, nghị định, thông tư, đề án, kế hoạch của của các cơ quan nhà
nước; sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học, thống kê, phân tích,
tổng hợp; phương pháp lôgíc và lịch sử, đặc biệt coi trọng phương pháp tổng
kết thực tiễn.
6. Đóng góp của đề tài
- Góp phần làm rõ thêm cơ sở khoa học, quan điểm về vai trò lãnh đạo
của Đảng ủy phường trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách cấp cơ
sở hiện nay.
- Đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu, thiết thực, khả thi
góp phần nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng ủy phường nhằm nâng cao chất


10
lượng đội ngũ cán bộ chuyên trách cấp cơ sở ở quận Cái Răng trong giai đoạn
hiện nay.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho

Quận ủy, Ủy ban nhân dân quận, các đoàn thể chính trị - xã hội của quận; cho
đảng ủy, ủy ban nhân dân, các đoàn thể chính trị - xã hội cấp phường của
quận Cái Răng trong công tác xây dựng đảng, nhất là việc phát huy vai trò
lãnh đạo của Đảng ủy phường đối với việc xây dựng công tác cán bộ, công
tác xây dựng hệ thốn chính trị, xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách cấp cơ
sở. Đề tài còn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu,
giảng dạy và học tập về công tác xây dựng Đảng, công tác can bộ và xây
dựng hệ thống chính trị cấp phường tại Trung tâm bồi dưỡng chính trị quận
Cái Răng.
7. Kết cấu luận văn. Luận văn có 3 chương, 8 tiết. Cụ thể:
Chương 1: Cơ sở lý luận về vai trò lãnh đạo của Đảng ủy phường đối
với công tác xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách cấp cơ sở.
Chương 2: Đội ngũ cán bộ chuyên trách cấp cơ sở và thực trạng vai trò
lãnh đạo của Đảng ủy phường đối với công tác xây dựng đội ngũ cán bộ
chuyên trách cấp cơ sở ở quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ.
Chương 3: Phương hướng và những giải pháp nâng cao vai trò lãnh đạo
của Đảng ủy phường trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách cấp cơ
sở ở quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ.


11
B. NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ỦY
PHƯỜNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
CHUYÊN TRÁCH CẤP CƠ SỞ
1.1.

Một số khái niệm cơ bản


1.1.1. Đảng ủy phường
Theo quy định của Đảng và Nhà nước ta hiện nay: “Các cơ sở xã,
phường, thị trấn là nơi tuyệt đại bộ phận nhân dân cư trú, sinh sống. Hệ thống
chính trị ở cơ sở có vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức và vận động nhân
dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tăng
cường đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, huy động
mọi khả năng phát triển kinh tế - xã hội, tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân
cư” [24, tr.166]. Xã, phường, thị trấn là đơn vị hành chính - cấp hành chính
cuối cùng trong hệ thống hành chính bốn cấp, thường được gọi chung là “cấp
cơ sở” với đầy đủ các mặt đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội. Phường
với tư cách là cấp hành chính cơ sở (tương đương với xã và thị trấn) phường
là cấp chấp hành, là cầu nối trực tiếp giữa hệ thống chính trị với nhân dân,
hàng ngày tiếp xúc, nắm bắt và phản ánh những tâm tư, tình cảm, nguyện
vọng của nhân dân; tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối của
Đảng và pháp luật của Nhà nước; tăng cường đại đoàn kết toàn dân, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, huy động mọi khả năng phát triển kinh tế, văn
hóa, xã hội, tổ chức đời sống dân cư. Đồng thời, phường cũng là nơi bắt
nguồn và cung cấp sáng kiến, những kinh nghiệm, những nhân tố mới, những
điển hình mới và những phát hiện mới nhằm điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện
các chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước.


12
Xã còn là nơi tổng kết thực tiễn, cung cấp các luận cứ khoa học cho các công
trình nghiên cứu khoa học của đất nước.
Đảng ủy là tên gọi của tắt của ban chấp hành đảng bộ, ban chấp hành
đảng bộ là do đại hội đảng bầu ra, ở phường thì do đại hội đảng viên hoặc do
đại hội đại biểu đảng bộ phường bầu, Đảng ủy còn có tên gọi khác là cấp ủy,
ở phường là cấp ủy cơ sở, là hạt nhân chính trị của tổ chức cơ sở đảng.
Theo Điều 21, Điều lệ Đảng khóa XI: “Tổ chức cơ sở đảng (chi bộ cơ

sở, đảng bộ cơ sở) là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở. Ở xã,
phường, thị trấn có từ ba đảng viên chính thức trở lên, lập tổ chức cơ sở đảng
(trực thuộc cấp ủy cấp huyện) … Tổ chức cơ sở đảng có từ ba mươi đảng viên
trở lên, lập đảng bộ cơ sở, có các chi bộ trực thuộc đảng ủy” [25, tr35, 36].
Như vậy, Đảng ủy phường là cấp ủy cơ sở và là cơ quan lãnh đạo của
đảng bộ cơ sở, có các chi bộ trực thuộc, do bầu cử lập ra, là hạt nhân chính trị
thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
1.1.2. Cán bộ, cán bộ chuyên trách
1.1.2.1. Cán bộ
Cán bộ: Thuật ngữ cán bộ thường dùng theo hai nghĩa:
Theo nghĩa hẹp: Để nói về những người được bầu hoặc được bổ nhiệm
giữ chức vụ trong các tổ chức (Đảng, Nhà nước, đoàn thể nhân dân) thuộc hệ
thống chính trị ở các cấp từ Trung ương đến cơ sở. Hoạt động công vụ của
cán bộ, (công chức); các nguyên tắc quản lý cán bộ, (công chức); nghĩa vụ,
quyền của cán bộ, (công chức); những việc cán bộ, (công chức) không được
làm; chức vụ, chức danh cán bộ, (công chức) cấp xã, phường; bầu cử, tuyển
dụng, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, (công chức) cấp xã, phường… theo quy định
của Luật Cán bộ, công chức 2008 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2010).
Chế độ, chính sách đối với cán bộ, (công chức) xã, phường, thị trấn theo Nghị
định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 của Chính phủ…


13
Theo nghĩa rộng: Cán bộ bao gồm tất cả những người đảm nhiệm một
công việc, mà những công việc này cần khả năng tập hợp, vận động nhân dân
hưởng ứng, cùng thực hiện; không chỉ trong các tổ chức thuộc hệ thống chính
trị mà cả trong các tổ chức kinh tế, văn hóa, xã hội… những người tự nguyện
làm việc “ích nước, lợi nhà”, được nhân dân tín nhiệm suy tôn làm cán bộ
(như cán bộ không chuyên trách làm trưởng thôn, ấp, tổ trưởng dân phố, cán
bộ làm công tác phát thanh, tuyên truyền, dạy bình dân học vụ, phụ trách

nhóm công dân làm thủy lợi, chống bão lụt, làm việc từ thiện không hưởng
lương … ở các xóm, ấp, đường phố; cán bộ của các hội quần chúng theo nghề
nghiệp, sở thích, giới tính …).
Theo quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 4 Luật Cán bộ, công chức
2008: “Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ
chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng
lương từ ngân sách nhà nước. Cán bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung
là cấp xã) là công dân Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ
trong Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư
Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị – xã hội” [40, tr.9].
1.1.2.2. Cán bộ chuyên trách
Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, có
quy định “Cán bộ chuyên trách là những cán bộ phải dành phần lớn thời gian
lao động làm việc công để thực hiện chức trách được giao, bao gồm cán bộ
giữ chức vụ qua bầu cử gồm: cán bộ chủ chốt của cấp ủy đảng, Hội đồng
nhân dân, Ủy ban nhân dân, những người đứng đầu Ủy ban Mặt trận Tổ quốc
và các đoàn thể chính trị - xã hội” [21, tr.178].


14
Theo Nghị định số 114/2003/NĐ-CP ngày 10 tháng 10 năm 2003 về
cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn (có hiệu lực thi hành từ ngày
25/10/2003). Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ
(sau đây gọi chung là cán bộ chuyên trách cấp xã), gồm có các chức vụ sau
đây: Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, Thường trực Đảng ủy (nơi không có Phó Bí
thư chuyên trách công tác đảng), Bí thư, Phó Bí thư chi bộ (nơi chưa thành
lập đảng ủy cấp xã); Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân; Chủ tịch,

Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân; Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, Bí thư
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ,
Chủ tịch Hội Nông dân và Chủ tịch Hội Cựu chiến binh.
1.2.

Quan điểm của Đảng, Nhà nước về công tác xây dựng đội

ngũ cán bộ chuyên trách cấp cơ sở
1.2.1. Quan điểm của Đảng về công tác xây dựng đội ngũ cán bộ
chuyên trách cấp cơ sở
Từ kinh nghiệm lịch sử của xã hội loài người và từ chính quá trình
truyền bá lý luận khoa học vào phong trào công nhân. C. Mác và Ph.
Angghen đã khẳng định: Muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những con người
sử dụng lực lượng thực tiễn [32, tr.181].
Trong điều kiện lịch sử cụ thể của cách mạng ở thời kỳ Đảng chưa nắm
chính quyền. C.Mác và Ph.Ăngghen chưa có thực tế để bàn nhiều về công tác
xây dựng đội ngũ cán bộ, nhưng hai ông rất quan tâm đến việc xây dựng một
đội ngũ những nhà tuyên truyền, cổ động, quảng bá tư tưởng cộng sản; lãnh
đạo, tổ chức các phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản … đội ngũ đó chính
là những cán bộ cách mạng chuyên nghiệp của Đảng trong thời kỳ hoạt động
bí mật.
Khi Đảng chưa có chính quyền, vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ đã rất
được quan tâm, khi có chính quyền, vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ lại càng
trở nên quan trọng và cấp bách hơn. Hàng loạt vấn đề được đặt ra sau khi


15
Đảng giành được chính quyền, rất nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội đòi hỏi
Đảng phải lãnh đạo, quản lý. Vì vậy, Đảng phải gấp rút lựa chọn, đào tạo, bồi
dưỡng một đội ngũ cán bộ mạnh cả về số lượng và chất lượng để đáp ứng

được những yêu cầu của thời kỳ mới.
Trong sự nghiệp cách mạng, có nhiều nhiệm vụ, nhiều công việc, song
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi: “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”;
“muôn việc thành công hay thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém” [34, tr.240,
269]. Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt cán bộ ở vị trí có tính chất quyết định. Theo
Người, chính sách đúng đắn có thể không thu được kết quả nếu cán bộ làm
sai, cán bộ yếu kém. Người nói: “Khi đã có chính sách đúng, thì sự thành
công và thất bại của chính sách đó là do cách tổ chức công việc, do nơi lựa
chọn cán bộ, do nơi kiểm tra. Nếu ba điểm ấy sơ sài, thì chính sách đúng mấy
cũng vô ích” [34, tr.154].
Để có cán bộ tốt, đáp ứng được cho phong trào, cho nhiệm vụ của mỗi
giai đoạn cách mạng, công tác cán bộ có vị trí quyết định. Hồ Chí Minh là
người nêu gương trong việc hoạch định đường lối, chính sách vừa nguyên tắc,
vừa linh hoạt trong xây dựng đội ngũ cán bộ. Chủ tịch Hồ Chí Minh quan
niệm, xây dựng đội ngũ cán bộ luôn gắn với tổ chức; chất lượng cán bộ là kết
quả tổng hợp của tất cả các khâu đào tạo, huấn luyện, bồi dưỡng, đánh giá, sử
dụng, đề bạt, cất nhắc, kiểm tra, giám sát, phê bình … và sự nỗ lực phấn đấu
của từng người.
Quán triệt tư tưởng, quan điểm của Hồ Chí Minh về vấn đề cán bộ và
xây dựng đội ngũ cán bộ, từ khi ra đời đến nay, Đảng ta luôn coi vấn đề cán
bộ có tầm quan trọng chiến lược đối với cách mạng Việt Nam. Trong mỗi giai
đoạn cách mạng, qua mỗi lần Đại hội và Hội nghị Trung ương, Đảng ta đều
có chủ trương, nghị quyết về cấn đề cán bộ cho phù hợp với tình hình và
nhiệm vụ mới. Đảng đã khẳng định: “Tiếp tục đổi mới cán bộ và công tác cán
bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ vững mạnh và đồng bộ… đáp ứng yêu cầu của


16
sự nghiệp đổi mới” [17, tr.98]. Kinh nghiệm thực tiễn đã chỉ rõ, sự chính xác
của đường lối, chính sách và thành công của việc thực hiện đường lối, chính

sách ấy đều tùy thuộc cuối cùng ở chất lượng của công tác cán bộ. Từ đó,
Đảng ta khẳng định: công tác cán bộ là quan trọng nhất, là nguyên nhân của
mọi nguyên nhân.
Để hoàn thành nhiệm vụ chính trị theo đường lối đổi mới, Đảng xác
định: “Đổi mới cán bộ lãnh đạo các cấp là mắt xích quan trọng nhất mà Đảng
ta phải nắm chắc để thúc đẩy những cuộc cải cách có ý nghĩa cách mạng” [21,
tr 132]. Từ nhận thức như vậy, Đảng rất quan tâm đến việc xây dựng đội ngũ
cán bộ: Có một đội ngũ cán bộ đủ phẩm chất và năng lực xây dựng đường lối
chính trị đúng đắn và tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối đó là vấn đề cốt tử
của lãnh đạo, là sinh mệnh của Đảng cầm quyền.
Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, càng
đi vào nền kinh tế thị trường, càng hội nhập với khu vực và thế giới thì nhiệm
vụ cách mạng càng khó khăn, phức tạp. Trong bối cảnh đó, Đảng và Nhà
nước ta càng phải ý thức sâu sắc tầm quan trọng quyết định của vấn đề cán
bộ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm: Việc xây dựng đội ngũ cán bộ, đào
tạo nhân tài cho đất nước là việc rất trọng yếu của sự nghiệp cách mạng.
Người là tấm gương trong việc hoạch định đường lối, chính sách vừa có tính
nguyên tắc, vừa có tính linh hoạt trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ của
Đảng ta. Người coi công tác cán bộ có các vấn đề lớn liên quan chặt chẽ với
nhau, đó là người làm công tác cán bộ phải hiểu cán bộ, khéo dùng cán bộ, cất
nhắc cán bộ, thương yêu cán bộ và phê bình cán bộ.
Công tác cán bộ của Đảng giữ một vai trò, vị trí quan trọng, Nghị quyết
Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII về chiến
lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Gồm
các nội dung:


17
- Quan điểm về xây dựng đội ngũ cán bộ:

(1)- Phải xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Công
tác cán bộ được đổi mới có vai trò quyết định thực hiện thắng lợi mục tiêu đó.
Mặt khác, quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc là môi trường thực tiễn để rèn luyện, tuyển chọn và
đào tạo cán bộ, nâng cao phẩm chất, kiến thức, năng lực của đội ngũ cán bộ.
(2)- Quán triệt quan điểm giai cấp công nhân của Đảng, phát huy truyền
thống yêu nước và đoàn kết dân tộc Thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng lập
trường, quan điểm, ý thức tổ chức của giai cấp công nhân cho đội ngũ cán bộ.
Đồng thời tăng cường số cán bộ xuất thân từ công nhân, trước hết là cán bộ
chủ chốt trọng hệ thống chính trị các cấp. Phát huy truyền thống yêu nước,
đoàn kết, tập hợp rộng rãi các loại cán bộ, trọng dụng nhân tài, không phân
biệt đảng viên hay người ngoài Đảng, dân tộc, tôn giáo, người ở trong nước
hay người Việt Nam định cư ở nước ngoài; không định kiến với những người
có sai lầm trong quá khứ, nay đã hối cải và sửa chữa. Kế thừa, phát huy
truyền thống tốt đẹp của đội ngũ cán bộ cách mạng để xây dựng các thế hệ
cán bộ hiện tại và tương lai.
(3)- Gắn việc xây dựng đội ngũ cán bộ với xây dựng tổ chức và đổi mới
cơ chế, chính sách. Xây dựng đội ngũ cán bộ và xây dựng tổ chức, đổi mới cơ
chế chính sách, phương thức, lề lối làm việc có quan hệ chặt chẽ, tác động lẫn
nhau. Có nhiệm vụ chính trị mới lập tổ chức; có tổ chức mới bố trí cán bộ,
không vì cán bộ và lập ra tổ chức. Mỗi cán bộ trong tổ chức phải có chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm rõ ràng. Quy hoạch, đào tạo, bố trí,
sử dụng cán bộ phải gắn với yêu cầu và nội dung xây dựng bộ máy nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, kiện toàn hệ thống
chính trị, đổi mới cơ chế chính sách.


18

(4)- Thông qua hoạt động thực tiễn và phong trào cách mạng của nhân
dân, nâng cao trình độ dân trí để tuyển chọn, giáo dục, rèn luyện, bồi dưỡng
cán bộ. Trên cơ sở phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo, nâng cao dân trí
để xây dựng đội ngũ cán bộ một cách cơ bản, chính quy, có hệ thống; đồng
thời thông qua hoạt động thực tiễn và phong trào cách mạng của nhân dân để
giáo dục, rèn luyện, đào tạo, đánh giá, sàng lọc, tuyển chọn cán bộ. Không
đánh giá, sử dụng cán bộ một cách cảm tính, chủ quan. Mọi phẩm giá và bằng
cấp, danh hiệu và chức vụ tài năng và cống hiến đều phải được kiểm nghiệm
qua hoạt động thực tiễn. Phong trào cách mạng của quần chúng là trường học
lớn của cán bộ. Phải dựa vào dân để phát hiện, kiểm tra và giám sát cán bộ.
(5)- Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán
bộ theo nguyên tắc tập trung dân chủ, đồng thời phát huy trách nhiệm của các
tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị. Đảng phải trực tiếp chăm lo xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức cho hệ thống chính trị, trên mọi lĩnh vực.
Đảng thực hiện đường lối, chính sách cán bộ thông qua các tổ chức đảng (ban
cán sự đảng, đảng đoàn, đảng uỷ) và đảng viên trong các cơ quan nhà nước và
các đoàn thể nhân dân, thực hiện đúng quy trình, thủ tục, pháp luật của Nhà
nước và điều lệ của các đoàn thể và tổ chức xã hội. Phân công, phân cấp quản
lý cán bộ cho các cấp ủy và các tổ chức đảng; đồng thời thường xuyên kiểm
tra việc thực hiện công tác cán bộ của các ngành, các cấp, coi đây là một
trong những công việc quan trọng bậc nhất của lãnh đạo. Những vấn đề về
chủ trương, chính sách, đánh giá, bố trí, sử dụng, điều động, đề bạt, khen
thưởng, xử lý kỷ luật cán bộ nhất thiết phải do cấp ủy có thẩm quyền quyết
định theo đa số. Nghiêm túc chấp hành các nghị quyết của cấp ủy về cán bộ
và công tác cán bộ; cá nhân phải chấp hành quyết định của tập thể; tổ chức
đảng cấp dưới phải chấp hành quyết định của tổ chức đảng cấp trên.
- Quan điểm xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách cấp cơ sở theo Nghị
quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX về đổi



19
mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn.
Theo nghị quyết này thì việc xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở có cán bộ chuyên
trách, cán bộ chuyên trách là những cán bộ phải dành phần lớn thời gian lao
động làm việc công để thực hiện chức trách được giao, bao gồm:
(1)- Cán bộ giữ chức vụ qua bầu cử gồm: cán bộ chủ chốt của cấp ủy
đảng, hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân, những người đứng đầu ủy ban Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội.
(2)- Cán bộ chuyên trách ở cơ sở có chế độ làm việc và được hưởng
chính sách về cơ bản như cán bộ, công chức nhà nước; khi không còn là cán
bộ chuyên trách mà chưa đủ điều kiện để hưởng chế độ hưu trí, được tiếp tục
tự đóng bảo hiểm xã hội hoặc hưởng phụ cấp một lần theo chế độ nghỉ việc.
Cán bộ, công chức cơ sở có đủ điều kiện được thi tuyển vào ngạch công chức
ở cấp trên.
(3)- Chế độ đào tạo, bồi dưỡng: Tích cực trẻ hóa và từng bước chuẩn
hóa đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở. Phấn đấu có khoảng 70 - 80% cán bộ
chuyên trách giữ chức vụ qua bầu cử được đào tạo, bồi dưỡng đạt tiêu chuẩn
quy định (từ năm 2005). Đổi mới căn bản chương trình, nội dung và phương
pháp giảng dạy đối với cán bộ cơ sở theo hướng đào tạo cơ bản, bồi dưỡng
theo chức danh, bảo đảm tính thiết thực. Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng
viên và tăng cường cơ sở vật chất ở các trường chính trị cấp tỉnh, các trung
tâm giáo dục chính trị cấp huyện.
(4)- Đổi mới sự chỉ đạo của cấp trên đối với cơ sở: Các tổ chức trong hệ
thống chính trị từ Trung ương đến cấp huyện phải đổi mới phương thức chỉ
đạo, khắc phục bệnh quan liêu, xa dân, hướng mạnh tới cơ sở, tới thôn, xóm,
ấp, bản, tăng cường đi sát, làm việc trực tiếp với cơ sở, với dân, thấu hiểu
nguyện vọng của dân, cùng với cơ sở giải quyết vướng mắc cho dân, tổng kết
những điển hình tốt từ cơ sở, những sáng kiến của dân. Mỗi cấp có quy chế cụ



20
thể về thời gian làm việc tại cơ sở, giảm bớt sự chỉ đạo bằng giấy tờ và triệu
tập cán bộ cơ sở lên họp.
(5)- Sớm sửa đổi, bổ sung Luật về tổ chức hội đồng nhân dân, ủy ban
nhân dân (với quy định cụ thể về phân cấp, ủy quyền cho chính quyền cơ sở),
ban hành luật về hội, các quy chế về tổ chức, phương thức làm việc của tổ
chức đảng và đoàn thể ở cơ sở, các chính sách đối với cán bộ ở cơ sở.
(6)- Trong việc hướng dẫn, chỉ đạo thực hiện nghị quyết này đối với cơ
sở, cần có biện pháp sát hợp với những nơi tập trung đồng bào dân tộc thiểu
số; vận dụng những nguyên tắc chung đối với hệ thống chính trị ở cơ sở để
quy định cụ thể cho phường. Các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ
đạo các quận, huyện, thành phố, thị xã tổng kết, đánh giá đúng thực chất của
các tổ chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở, có sự phân loại các cơ sở và đội
ngũ cán bộ, đảng viên, trước hết là đội ngũ cán bộ chủ chốt để có giải pháp
phù hợp. Có biện pháp cụ thể với sự hỗ trợ về cán bộ và tài chính để sớm
khắc phục tình trạng yếu kém của hệ thống chính trị trong một số xã, phường;
trước hết phải tập trung chấn chỉnh cho được các cơ sở đang có nguy cơ trở
thành điểm nóng.
1.2.2. Quan điểm, chính sách pháp luật của Nhà nước về công tác
xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách cấp cơ sở
1.2.2.1. Quan niệm về chính sách cán bộ
Chính sách cán bộ là hệ thống các quan điểm, chủ trương của Đảng
Cộng sản và Nhà nước Việt Nam đối với đội ngũ cán bộ; là công cụ và các
giải pháp nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ đồng bộ, có chất lượng, đáp ứng yêu
cầu của mỗi thời kỳ cách mạng. Chính sách cán bộ bao gồm: Chính sách đào
tạo - bồi dưỡng, chính sách sử dụng và quản lý cán bộ; chính sách bảo đảm
lợi ích vật chất và động viên tinh thần cán bộ… Chính sách cán bộ là một
trong những chính sách lớn của Đảng và Nhà nước, có tầm quan trọng đặc
biệt đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam, vì như lời Chủ tịch



21
Hồ Chí Minh đã nói: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc” và “vấn đề cán bộ
quyết định mọi công việc” [34, tr.269, 284].
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, Đảng thống nhất lãnh đạo công tác
cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, chính sách cán bộ là chính sách thống nhất
trong hệ thống chính trị. Mỗi lĩnh vực, bộ phận hợp thành của hệ thống chính
trị có thể vận dụng thực hiện chính sách cán bộ phù hợp với điều kiện cụ thể
của bộ phận, lĩnh vực mình nhưng không đi chệch quan điểm, mục tiêu chung
mà chính sách cán bộ của Đảng đã quy định. Tùy theo mức độ quan trọng,
phạm vi, cấp độ điều tiết của chính sách, các cơ quan lãnh đạo như Đại hội
Đại biểu toàn quốc của Đảng, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban
Bí thư Trung ương Đảng ban hành các văn bản như: Nghị quyết, Quy định,
Quy chế … về chính sách cán bộ; các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thể
chế hóa thành luật, pháp lệnh, nghị định, quy định để thực hiện. Từng thời
gian, các chế độ, chính sách có thể được điều chỉnh, bổ sung, cụ thể hóa thêm,
loại bỏ những điều bất hợp lý cho phù hợp với tình hình thực tế đã biến đổi,
bảo đảm tính công bằng, động viên đội ngũ cán bộ phấn đấu vươn lên trong
công tác và học tập.
Hệ thống chính sách cán bộ:
Hệ thống chính sách là công cụ điều tiết cực kỳ quan trọng trong lãnh
đạo quản lý xã hội. Hệ thống chính sách có thể thúc đẩy, tạo ra động lực cho
sự phát triển, cũng có thể kìm hãm, triệt tiêu các động lực, cản trở sự phát
triển của một hoạt động nào đó. Trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ,
chính sách cán bộ đúng, phù hợp sẽ phát huy được tính trách nhiệm, sự sáng
tạo, thu hút được nhân tài, làm cho nội bộ đoàn kết nhất trí, làm cho mọi
người đồng tâm hiệp lực, hăng hái, nhiệt tình trong công việc. Ngược lại,
chính sách cán bộ sai, bất hợp lý sẽ tạo ra tâm trạng chán nản, kìm hãm sự
sáng tạo, triệt tiêu tính tích cực, nội bộ mất đoàn kết, có thể nảy sinh nhiều



22
tiêu cực, có thể đẩy hàng loạt cán bộ đến chỗ sai lầm, làm hao phí tài năng
của đất nước …
Hệ thống chính sách cán bộ bao gồm nhiều nội dung, trong đó có thể
phân thành ba nội dung chủ yếu:
Thứ nhất, chính sách đào tạo - bồi dưỡng cán bộ:
Đó là chính sách đầu tư cho việc đào tạo, bồi dưỡng những người ưu tú
trở thành cán bộ, cán bộ chủ chốt. Đó là chính sách học bổng, miễn giảm học
phí, chính sách cho vay tiền đóng học phí cho con em các gia đình có công
với cách mạng, gia đình liệt sĩ, thương binh, con các gia đình nghèo, vượt
khó, những học sinh giỏi, đạo đức tốt, sinh viên các ngành sư phạm … Chính
sách bồi dưỡng tài năng ngay từ các trường phổ thông, trung học chuyên
nghiệp và đại học; chính sách đầu tư kinh phí của nhà nước để cán bộ ưu tú và
sinh viên xuất sắc đi đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chuyên môn, tham quan ở
nước ngoài; đầu tư và tổ chức tốt các trường bổ túc văn hóa, trường dân tộc
nội trú.
Thứ hai, chính sách sử dụng và quản lý cán bộ.
Đó là việc bố trí và sử dụng cán bộ đúng tiêu chuẩn, phù hợp với sở
trường của cán bộ, việc đề bạt cán bộ đúng người, đúng việc, đúng lúc…; đó
là chính sách đoàn kết tập hợp các loại cán bộ; trọng dụng, thu hút những
người có đức, có tài trong Đảng và cả ngoài Đảng, người ở trong nước và
người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Đó là chế độ quản lý chặt chẽ đội ngũ
cán bộ, các cơ quan quản lý cán bộ phải am tường cả về đạo đức, cả về năng
lực và tình trạng sức khỏe của từng cán bộ.
Thứ ba, chính sách đảm bảo lợi ích vật chất và động viên tinh thần.
Đó là chính sách về tiền lương, một bộ phận thu nhập cơ bản trong thu
nhập của cán bộ, bảo đảm tái sản xuất mở rộng sức lao động; đó là chính sách
tôn vinh những người có công với nước, biểu dương, khen thưởng những
người có thành tích xuất sắc trong lao động sản xuất, trong phát minh, sáng



23
chế khoa học và công nghệ, trong sáng tạo văn hóa - nghệ thuật, trong quản lý
và công tác; chính sách tặng thưởng huân chương...
Đi đôi với chính sách đãi ngộ vật chất là việc giáo dục lý tưởng cách
mạng cho cán bộ, làm cho mục tiêu, lý tưởng cách mạng trở thành động lực
thúc đẩy sự phấn đấu vươn lên của từng cán bộ.
Chính sách cán bộ đối với cán bộ cấp phường cũng nằm trong những
quan niệm về chính sách cán bộ nói chung của Đảng và Nhà nước ta mà
chúng ta đã nêu ở những phần trên.
1.2.2.2. Chính sách pháp luật của Nhà nước về công tác xây dựng đội
ngũ cán bộ chuyên trách cấp cơ sở
Trải qua các giai đoạn phát triển của đất nước, cơ chế chính sách pháp
luật của Nhà nước về công tác xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách cấp cơ
sở đã qua nhiều bước đổi mới. Năm 1998, khi Nhà nước ban hành Pháp lệnh
cán bộ, công chức, trước và sau khi Pháp lệnh cán bộ, công chức ra đời,
Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật để quy định chi tiết
và hướng dẫn việc xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách cơ sở với nhiều nội
dung, luôn đổi mới theo từng giai đoạn. Các vấn đề về quản lý biên chế, về
tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ; về kỷ luật cán bộ; về chế độ thôi việc,
nghỉ hưu; về đào tạo, bồi dưỡng;... đều được Chính phủ quy định chi tiết và
các cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn thực hiện.
Sau thời gian thực hiện Pháp lệnh cán bộ, công chức từ năm 1998 đến
2003, thực hiện chủ trương của Đảng về tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, thực hiện xã hội hóa các hoạt
động sự nghiệp, đẩy mạnh phân cấp quản lý cán bộ, công chức, đẩy mạnh cải
cách hành chính nhà nước, năm 2003 Nhà nước đã sửa đổi, bổ sung một số
điều của Pháp lệnh cán bộ, công chức để đáp ứng yêu cầu đó. Theo đó, Pháp
lệnh cán bộ, công chức sửa đổi, bổ sung năm 2003 đã phân định cán bộ, công

chức làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước với cán bộ, công chức


24
làm việc trong các đơn vị sự nghiệp của nhà nước; quy định chế độ công chức
dự bị; bổ sung cán bộ chuyên trách cấp xã vào phạm vi điều chỉnh của Pháp
lệnh. Đồng thời đổi mới một bước cơ chế quản lý biên chế và tuyển dụng
công chức vào các cơ quan nhà nước và các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước.
Cùng với việc Nhà nước sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh
cán bộ, công chức, hệ thống các Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành Pháp lệnh cũng được nghiên cứu để trình Chính phủ ban hành thay thế
cho các Nghị định ban hành năm 1998 như: về cán bộ, công chức cấp xã; về
việc tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ, công chức trong các đơn vị sự
nghiệp của Nhà nước; về tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ trong các cơ
quan nhà nước; về chế độ, chính sách đối với cán bộ ở xã, phường, thị trấn...
Đến đến 2008, việc xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách cơ sở được điều
chỉnh bởi Luật Cán cán bộ, công chức. Đây là văn bản có giá trị pháp lý cao
nhất từ trước đến nay, tuy nhiên để hiểu rõ nội dung về chính sách pháp luật
của Nhà nước về xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách cơ sở thì được quy
định bởi các nghị định của Chính phủ, quyết định của Thủ tướng Chính phủ,
thông tư hướng dẫn của các bộ. Ở mỗi thời kỳ phát triển kinh tế - xã hội đều
được Nhà nước điều chỉnh việc xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách cơ sở
với những chính sách cụ thể như sau:
+ Ngày 26 tháng 7 năm 1995, Chính phủ ban hành Nghị định số 50-CP
về chế độ sinh hoạt phí đối với cán bộ xã, phường, thị trấn (thay thế Nghị
định số 46-CP ngày 23 tháng 6 năm 1993 của Chính phủ). Nghị định quy định
quy định số lượng cán bộ làm công tác Đảng, công tác chính quyền ở phường
từ 12 đến 15 cán bộ, hưởng sinh hoạt phí hàng tháng. Ngày 23 tháng 01 năm
1998, Chính phủ ban hành Nghị định số 09/1998/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung
Nghị định 50/CP ngày 26 tháng 7 năm 1995 của chính phủ về chế độ sinh

hoạt phí đối với cán bộ xã, phường, thị trấn. Theo quy định của Nghị định thì
số lượng cán bộ và tiền lương của cán bộ được điều chỉnh tăng tương ứng.


25
Đến ngày 21 tháng 10 năm 2003, Chính phủ ban hành Nghị định số
121/2003/NĐ-CP về chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã,
phường, thị trấn (thay thế Nghị định số 50/CP ngày 26 tháng 7 năm 1995 và
Nghị định số 09/1998/NĐ-CP ngày 23 tháng 01 năm 1998 của Chính phủ sửa
đổi, bổ sung Nghị định số 50/CP ngày 26 tháng 7 năm 1995 về chế độ sinh
hoạt phí đối với cán bộ xã, phường, thị trấn).
+ Ngày 22 tháng 10 năm 2009, Chính phủ ban hành Nghị định số
92/2009/NĐ-CP về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với
cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không
chuyên trách ở cấp xã.
- Chính sách về đào tạo bồi dưỡng cán bộ: Qua các thời kỳ, Đảng và
Nhà nước luôn có những chính sách cụ thể để đào tạo bồi dưỡng cán bộ nói
chung và cán bộ chuyên trách nói riêng nhằm không ngừng nâng cao trình độ
cán bộ, nhất là cán bộ cấp cơ sở. Nghị định số 121/2003/NĐ-CP quy định cán
bộ chuyên trách khi được cử đi đào tạo, bồi dưỡng thì được hưởng chế độ như
cán bộ, công chức ở cấp trên được cử đi đào tạo, bồi dưỡng. Đến Nghị
92/2009/NĐ-CP quy định cán bộ chuyên trách được đào tạo, bồi dưỡng kiến
thức phù hợp tiêu chuẩn chức danh hiện đang đảm nhiệm và theo quy hoạch
cán bộ, công chức. Được hưởng chế độ như: được cấp tài liệu học tập; được
hỗ trợ một phần tiền ăn trong thời gian đi học tập trung; được hỗ trợ chi phí đi
lại từ cơ quan đến nơi học tập.
- Chính sách về bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, nghỉ hưu, khen thưởng,
kỷ luật:
+ Theo Nghị định số 09/1998/NĐ-CP Ngày 23 tháng 01 năm 1998 sửa
đổi, bổ sung Nghị định số 50/CP ngày 26 tháng 7 năm 1995 của chính phủ về

chế độ sinh hoạt phí đối với cán bộ xã, phường, thị trấn. Cán bộ chuyên trách
khi nghỉ việc thì được hưởng chế độ trợ cấp: Nam đủ 55 tuổi, nữ đủ 50 tuổi,
có thời gian công tác liên tục 15 năm trở lên, có đóng bảo hiểm xã hội đủ 15


×