Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Tiếp xúc văn hóa Đông Tây thời cận đại ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (354.27 KB, 24 trang )


THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
LỜI MỞ ĐẦU
Năm 1986 trước sự khủng hoảng về kinh tế xã hội ở Việt Nam (kinh tế

OBO
OKS
.CO
M

ngày càng sa sút nghiêm trọng, lạm phát tăng cao, đời sống nhân dân giảm
nhanh chóng) trước sự biến chuyển lớn lao của tình hình thế giới (chiến tranh
lạnh kết thúc, q trình tồn cầu hố, xu thế hồ bình, hữu nghị, hợp tác ngày
càng phát triển. Ngay cả Liên xơ và Trung Quốc, hai nước lớn trong hệ thống xã
hội chủ nghĩa cũng tiến hành những sự cải cách cho phù hợp với sự chuyển biến
của tình hình trong nước và quốc tế). Đại hội VI, Đảng cộng sản Việt Nam
(ĐCSVN) đã đưa ra đường lối đổi mới chuyển từ nền kinh tế kế hoạch tập trung,
quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, đa
phương hố đa dạng hố các quan hệ quốc tế. Từ đường lối đổi mới đó kinh tế
Việt Nam dần dần thốt khỏi khủng hoảng và từng bước phát triển, đời sống
người dân được cải thiện nâng cao rõ rệt cả về vật chất lẫn tinh thần, quan hệ
quốc tế được mở rộng theo đúng chủ trương “Việt Nam muốn làm bạn, làm đối
tác tin cậy của tất cả các nước”.

Song song với các kết quả đạt được, thành tựu của sự mở cửa, sự thơng
thương quan hệ với nhiều nước thì văn hố từ khắp các châu lục cũng tràn vào
Việt Nam, có những yếu tố tiến bộ, tích cực thúc đẩy kinh tế - xã hội - Văn
hố... phát triển (như kĩ thuật, cơng nghệ, các giá trị văn háo khiến các dân tộc
hiểu và gần bũi nhau hơn...) lại có cả những yếu tố, nhưng tệ nạn phá vỡ các giá
trị đạo đức tốt đẹp, kìm hãm sự phát triển (như các tệ nạn xã hội : Mại dâm, ma


KI L

t, cờ bạc, các bệnh nguy hiểm của nạn ăn chơi trác táng... các luận điệu xun
tạc của các thế lực phản động...). Có nhiều nhà nghiên cứu nhận xét rằng người
Việt Nam đặc biệt là giới trẻ ngày nay đang xa dần những giá trị truyền thống
tốt đẹp của dân tộc, lại căng q mức ảnh hưởng tác động từ bên ngồi.
Văn hố là thuộc tính, là nền tảng làm nên bản sắc dân tộc. Giữ gìn bản
sắc cũng là cách thức cơ bản để các dân tộc khơng tự đánh mất mình.
Câu hỏi đặt ra vậy người Việt Nam phải có thái độ như thế nào để vừa giữ
được các giá trị bản sắc dân tộc, vừa tiếp thu, tiếp nhận văn hố từ bên ngồi vào
0



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
mà khơng trở thành “lai căng” hay “vong bản” (nói chính xác hơn là phải có thái
độ như thế nào giữa truyền thống và hiện đại).
Ngày 1-9-1858 thực dân Pháp nổ tiếng súng xâm lược Việt Nam kết thúc

OBO
OKS
.CO
M

q trình dòm ngó, biến nước ta thành thuộc địa. Cùng với qn đội trang bị
súng ống, vũ khí hiện đại, bộ máy Nhà nước phản động với tồ án, qn đội,
cảnh sát, nhà tù để sẵn sàng đàn áp bắt cứ cuộc nổi dậy của nhân dân Việt Nam,
thực dân Pháp còn đem vào Việt Nam một luồng khí mới của văn minh phương
Tây nhằm nơ dịch văn hố, giành lại sự thống trị tuyệt đối về mặt tinh thần đối
với nhân dân ta. Các loại hình văn hố nghệ thuật, kết quả của mơi trường cưỡng

bức đó đã dần hình thành: Báo chí, văn học, nhiếp ảnh, điện ảnh, kiến trúc, hội
hoạ, âm nhạc, ngơn ngữ... Thực dân Pháp đã coi các loại hình văn háo này là
cơng cụ thống trị hữu hiệu nhân dân ta (Nhằm từng bước xố dần rồi xố hẳn
ảnh hưởng của văn hố Trung hoa, gây tâm lý tự ti, rồi nể phục và sợ hãi Pháp).
Trong bối cảnh như vậy, câu hỏi trên đã được đặt ra với tồn thể xã hội Việt
Nam vừa mang tính bức thiết, vừa mang tính nóng bỏng, thời sự. Người Việt
Nam trong giai đoạn đó có thái độ như thế nào. Tiếp nhận hay khơng tiếp nhận
nền văn minh xa lạ (có tính nơ dịch) ấy. Nếu tiếp nhận thì tiếp nhận như thế nào:
lấy tất cả hay có sự chọn lọc.

Vì lí do đó (hay chính xác là câu hỏi đó) mà trong bài viết này tơi muốn
tìm hiểu thái độ của người Việt Nam. đối với vấn đề nên hay khơng nên tiếp
nhận văn minh phương Tây (tơi chỉ dừng lại ở văn minh phương Tây, thứ văn
minh Pháp đã đưa sang Việt Nam) thơng qua lĩnh vực báo chí. Tơi hi vọng rằng

KI L

trong khi điểm lại lịch sử báo chí Việt Nam để thấy được những thái độ, cách
ứng xử của nhân dân ta với báo chí có thể chúng ta sẽ tìm ra thái độ thích hợp
trong q trình tiếp xúc giữa hai nền văn minh . Kết quả, ý nghĩa, cũng như bài
học đúc kết của thái độ ấy sẽ là kinh nghiệm q báu cho thái độ tiếp nhận các
nền văn hố ngày nay.

1



THệ VIEN ẹIEN Tệ TRệẽC TUYEN
NI DUNG
Bỏo chớ l sn phm ca phng Tõy, ra ủi cựng vi s hỡnh thnh v


OBO
OKS
.CO
M

phỏt trin ca ch ngha t bn (CNTB). Bỏo chớ ra ủi phi cú cỏc ủiu kin :
iu kin k thut tc l phi cú ngh in ch ri, in hot bn bi t bỏo trc
ht phi cú tớnh ủnh k; ủiu kin th hai l phi cú ngi lm bỏo (l mt
ngh); ủiu kin th ba l phi cú ủc gi (núi cho cựng bỏo chớ cng l mt sn
phm hng hoỏ. Vit Nam trong thi k phong kin nhng hỡnh thc thụng tin
s khai ủó ủc s dng nh nhng cõu vố lu truyn trong dõn gian, ting mừ
lng, ting trng ging thp ủiu trong sinh hot ủỡnh lng... ủn nhng hỡnh
thc thụng tin chớnh thc ca Nh nc phong kin t chc ra Qung Vn ỡnh
thi Lờ Thỏnh Tụng hay Qung Minh ỡnh thi Gia Long chng hn. Núi chung
ủõy mi ch l nhng hỡnh thc s khai ca thụng tin, nú cha phi l bỏo chớ.
Bỏo chớ ch xut hin Vit Nam khi thc dõn Phỏp xõm lc nc ta, khi k
thut in v th s dng ti Vit Nam. Nhng thit b ny, ủc s dng trc
ht ủ in n cỏc cụng vn, ch th, hot ủng ca cỏc tng tỏ, binh lớnh tin
hnh chin tranh xõm lc v bỡnh ủnh cỏc ni m thc dõn Phỏp chim ủc.
u nm 1865 soỏi ph Nam K thy cn thit phi m mang giỏo dc,
truyn bỏ hc thut v t tng Phỏp nht l to cho vic ủa quc ng thc s
vo qu ủo xõm lng vn hoỏ ủỏnh bi ch Nho, quyt ủnh cho xut bn t
bỏo ting Vit ủu tiờn : t Gia nh Bỏo. õy l t bỏo m ủu cho lch s bỏo
chớ Vit Nam. Bỏo chớ Vit Nam t khi hỡnh thnh (nm 1865 vi s ra ủi ca

KI L

t Gia nh Bỏo) ủn nm 1945 cú th chia thnh cỏc giai ủon sau:
1. Giai ủon hỡnh thnh (1865 - 1907)

Nh trờn ủó núi bỏo chớ l cụng c ca thc dõn Phỏp nhm nụ dch dõn
ta. Phỏp ủa bỏo chớ, mt loi hỡnh vn hoỏ phng Tõy vo Vit Nam nhm
truyn bỏ t tng hc thuyt ca Phỏp ủng thi vi vic xoỏ dn nh hng
ca vn hoỏ Hỏn ủó n sõu trong tõm thc ngi Vit Nam. Tuy nhiờn, thc dõn
Phỏp mc dự ủa vn hoỏ bỏo chớ vo nhng khụng cho nhõn dõn ta ủc t do
ra bỏo, ủc t do vit bỏo núi lờn ý chớ nguyn vng ca mỡnh. Sc lnh ngy
2



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
30.12.1898 buộc tất cả các báo tiếng Việt, chữ Trung Hoa và các tiếng khác (trừ
tiếng Pháp) phải có giấy phép trước khi xuất bản. Đưa ra sắc lệnh thực dân Pháp
đã ngang nhiên làm ngơ trước luật báo chí ngày 29.7.1881 thừa nhận tự do báo

OBO
OKS
.CO
M

chí áp dụng ở chính quốc, ở Angiêri và các xứ thuộc địa của tổng thống Pháp.
Sắc lệnh ngày 30.12.1898 về báo chí là cơ sở của chế độ báo chí ở Việt Nam
trong suốt thời kỳ thuộc địa (tuy có thay đổi chút ít để phù hợp với tình hình,
song thực chất báo chí ln ln bị kìm chặt trong sử kiểm sốt gắt gao của
chính quyền thực dân).

Chính vì sắc lệnh ngặt nghèo này thì ngay cả ở Nam Kỳ - là xứ trực trị
nhiều tờ báo đều do người Pháp đứng tên dù là tính tốn của thực dân hay là sự
khéo léo củấcc nhà u nước. Ở Bắc kỳ, Trung Kỳ việc xuất bản báo chí đặc
biệt là báo Tiếng Việt lại có phần phức tạp hơn.


Ở Nam Kỳ, Gia Đình báo là tờ báo xuất hiện đầu tiên bằng chữ quốc ngữ
(cũng là đầu tiên bằng chữ quốc ngữ ở Việt Nam). Ngồi Gia Định báo là tờ báo
độc diễn trong làng báo ngót 40 năm thì ở Nam Kỳ còn có một số tờ báo khác
như Nơng cổ mít đàm, Lục tỉnh tân văn, Phan n Báo.

Ở Bắc kỳ báo chí xuất hiện muộn hơn (do Bắc Kỳ bị thơn tính hồn tồn
muộn). Những tờ báo đầu tiên : Đại Nam đồng văn nhật báo, Đại Việt tân báo...
tiêu biểu nhất là tờ Đăng cổ tùng báo.

Giai đoạn này trên cả nước cả khoảng 10 tờ báo.

Các tờ báo ra đời cuối thế kỳ XIX hầu hết là do người Pháp lập ra nhằm
phục vụ cho chính sách xâm lược, nơ dịch nhân dân ta. Người viết bao gồm cả

KI L

người Việt và người Pháp (người Việt chủ yếu là cơng chức cho Pháp). Nội
dung là tun truyền cho chính sách của thực dân Pháp. Hình thức trình ày đơn
điệu thơ sơ, khơ khan xếp hết bài này đến bài khác. Độc giả chủ yếu là cơng
chức, quan lại, các nhà nho và lớp trí thức nho học. Thực dân Pháp còn thúc đẩy
các hoạt động tun truyền theo hình thức này bằng việc phát khơng đến độc giả
hoặc bắt buộc các cơng sở, các làng xã phải mua và đọc báo. Thời kỳ này các tờ
báo tun truyền cho chính sách của thực dân Pháp gần như giữ vai trò độc tơn
cũng có tờ áo thể hiện tinh thần u nước rõ rệt như tờ Phan n báo (1898) do
3



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

Diệp Văn Cương lập ra với loạt bài. Đòn Câu ARCHIMEDE của Cuồng Sĩ.
Bằng Giang có nhận xét rất đúng rằng: Đay là tơ báo quốc ngữ đầu tiên bị cấm ở
Nam Kỳ.

OBO
OKS
.CO
M

Trương Vĩnh Ký, đại diện cho giới cơng chức làm viẹc cho Pháp là một
trong những nhà báo đầu tiên của nước ta. Ơng là chủ bút tờ Gia Định báo từ
năm 1869. Về chính trị, rõ ràng ơng là người thân Pháp : Ca ngợi cơng ơn khai
hố của thực dân, bào chữa cho chính sách đầu hàng và hành động phản
quốccủa bọn Việt Nam. Nhiều lần Trương Vĩnh Ký cho rằng : ta khơng chống
lại được văn minh phương Tây, hơn nữa còn cơng khai khẳng định :Tơi phục vụ
cho cả hai đất nước đẻ ra tơi và tổ quốc lớn là nước Pháp. Tuy nhiên Trương
Vĩnh Ký có cơng thúc đẩy báo chí non trẻ của ta sung sức và khơng ngừng phát
triển bằng việc đưa các bài nghiên cứu nghiêm túc lên trên mặt báo. Có thể nói
trình độ văn hố, khoa học khơng ngừng hỗ trợ nếu khơng nói là quyết định uy
tín cho tờ báo bởi sự nghiêm túc, kịp thời và sinh động. Trương Vĩnh Ký còn có
cơng lớn trong việc phổ biến chữ quốc ngữ qua tun truyền, cổ động và dạy
trên tờ Gia Định báo.

Bước sang thế kỷ XX báo chí Việt Nam có bước chuyển biến với nội
dung phong phú hơn, có tính chun sâu hơn, có sự tham gia của nhiều giai tầng
hơn (phản ánh rõ nét sự thay đổi của xã hội Việt Nam).

Về nội dung các mục được mở rộng : có các trang đăng tải truyện dịch,
truyện dài, truyện ngắn, mục thơ ca (đăng các thơ sáng tác mới, văn học dân
gian sưu tầm); tầm mắt vươn xa với mục “Âu châu điện báo” của Nơng cổ mít


KI L

đàm; “Điện báo tồn cầu” của Đăng cổ tùng báo, mục “Nhời đàn bà” để tranh
thủ độc giả phụ nữ; rồi cả mục quảng cáo...
Về nghệ thuật báo chí cũng có những bước tiến đáng kể nhất là tờ Đăng
cổ tùng báo : cách đưa tin nhanh gọn đảm bảo tính thời sự, nội dung phong phú
hơn, tầm mắt vươn xa với mục “Điện báo tồn cầu” đăng tin thế giới; đối tượng
phụ nữ cũng được tranh thủ với mục “Nhời đàn bà” chữ quốc ngữ với thể văn
tường thuật phóng sự nghị luận đã được dùng khá thơng thốt hơn hẳn.

4



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
Bên cạnh tiếng nói của các tờ báo thân Pháp ca ngợi các chính sách thực
dân của Pháp ở thuộc địa, ta thấy xuất hiện tiếng nói của các khuynh hướng
khác. Giới tư sản bản xứ mới hình thành dùng báo chí giới thiệu kinh nghiệm

OBO
OKS
.CO
M

kinh doanh, cổ vũ đi vào thương trường, canh nơng kỹ nghệ cho giới chủ,
thương gia người Việt lợi kinh tế với người Hoa, với ngoại kiều (tờ nơng cổ mít
đàm). Tuy nhiên tờ báo chủ trương n ổn làm ăn dưới sự đơ hộ của thực dân
Pháp (dù báo có đăng một số bài thờ u nước được sưu tập, có bài thơ của Lê
Quang Chiêu hoạ lại thơ của Tơn Thọ Tường bác lại luận điệu bán nước của y).

Có thể nói ngay từ khi mời hình thành tầng lớp tư sản bản xứ đã tỏ ra lung lay,
bạc nhược về chính trị.

Những sĩ phu tư sản hố trong phong trào Đơng Kinh Nghĩa Thục đã khéo
léo tận dụng báo chí để tun truyền một số bài thơ u nước, cổ động tinh thần
dân tộc. Tờ báo này bị đình bản ngày 14.7.1907 (Đăng cổ tùng báo) do thực dân
Pháp lo sợ ảnh hưởng của tờ báo tới các tầng lớp nhân dân. Chính Koblukowski
- Tồn quyền Đơng Dương đã phải thừa nhận: Đó là những vần thơ ca nảy lửa,
thấm đượm tinh thần u nước rất kích động hừng hực ngọn lửa căm thù giặc
Pháp và chí khí tự lập tự cường của Sào Nam, Tây Hồ... của Đơng Kinh Nghĩa
Thục... thiêu cháy ảo tưởng về nền trị bình vĩnh cửu.

Đặc biệt đáng chú ý là việc xuất bản lục tỉnh tân văn, một tờ báo quốc ngữ
do Trần Chánh Chiếu - một người vào làng Tây nhưng có cảm tình với phong
trào Đơng Du, với Phan Bội Châu - làm chủ bút. Báo hơ hào bỏ cờ bạc, hút
thuốc phiện; giảm bớt nghi lễ cưới xin, ma nhay, kêu gọi giành lại quyền lợi

KI L

kinhtế trong thương mại, dịch vụ... đang nằm trong tay Hoa kiều, Ấn kiều được
Chính phủ Pháp che chở. Báo còn lên án bọn quan lại phong kiến tham nhũng
kêu gọi đồng bào hợp quần tương thân tương ái... Những tư tưởng cấp tiến này
khiến thực dân Pháp lo sợ và chúng ra lệnh bắt ơng. Tờ báo sang tay các chủ bút
khác, màu sắc cũng khác đi.

2. Giai đoạn 1907 - 1918

Sau khi phong trào Đơng Kinh Nghĩa Thục, phong trào Đơng Du, phong
trào chống thuế bị dập tắt, một mặt thực dân Pháp thi hành chính sách kiểm
5




THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
duyệt gắt gao bịt mồn bịt miệng những tư tưởng tiến bộ, ngăn chặn sách báo
cách mạng từ ngồi vào (Tân thư, Tân văn) (Chính sách kiểm duyệt ngặt nghèo
này khiến cho sau khi Đăng cổ tùng báo ngừng xuất bản ở Bắc kỳ, trên tồn

OBO
OKS
.CO
M

quốc chỉ có hai tờ báo tiếng Việt xuất bản ở Nam Kỳ là lục tỉnh tân văn và nơng
cổ mít đàm). Mặt khác, chúng tìm cách vạch ra một đường lối báo chí mới có
hiệu lực nhằm phản cơng lại những tư tưởng u nước. Trong khi đó năm 1911
cách mạng Tân Hội thành cơng gây ra một tiếng vang lớn trong nhân dân ta,
nhiều người u nước Việt Nam đã đi theo tiếng gọi ấy, trong đó có cụ Phan Bội
Châu. Việt Nam quang phục hội ra đời với tơn chỉ “Đánh đuổi giặc Pháp khơi
phục Việt Nam” và gây ra các vụ bạo động khiến thực dân Pháp hết sức lo sợ
càng làm cho chúng quyết tâm thực hiện ngay đường lối báo chí mới. Chính
Sestier - thanh tra chính trị bản xứ đã thừa nhận “Thật là một việc tốn cơng vơ
ích và là một đường lối chính trị tồi khi muốn dập tắt tư tưởng và tình cảm của
dân chúng An Nam, đã thể hiện rõ rệt trong sự bàn luận các vấn đề chính tri”.
Đường lối báo chí đó là : Đặt cho báo chí nhiệm vụ làm tấm mộc để chắn đỡ ảnh
hưởng của phong trào giải phóng dân tộc từ bên ngồi tràn về, đồng thời đặt
nhiệm vụ dùng báo chí để hướng dẫn dư luận bản xứ. Theo đó “Chính phủ cần
phải tỏ ra khơng hề đối lập với tiến hố”, “đang muốn giúp nó phát triển và
những người viếtvăn muốn giáo dục cho dân chúng và những nhà dịch thuật có
khả năng cải tạo những tin tức ở nước ngồi, trong phạm vi kính trọng tự do và

thanh danh người khác cũng là tơn trọng chính phủ bảo hộ.

Đúng là giọng điệu của chủ thuyết Pháp - Việt đề huề.

KI L

Trong chiến tranh thế giới lần thứ nhất để thực hiện nhiệm vụ: phải cấp
cho chính quốc tới mức tối đa nhân lực, vật lực và tài lực, đồng thời một mặt
vẫn duy trì trật tự an ninh ở thuộc địa, mặt khác làm cho guồng máy kinh tế và
chính trị chạy đều, thực dân Pháp ráo riết thi hành chủ thuyết này. Giữa năm
1916, cuộc chiến Âu châu bước bào giai đoạn quyết liệt đòi hỏi các thuộc địa
phải đẩy mạnh hơn nữa cái nghĩa vụ vắt máu và tiền bạc cho “mẫu quốc” Albert
Sarraut trở lại làm tồn quyền mở đầu cho hàng loạt thay đổi trong chính sách
thống trị thuộc địa của thực dân Pháp nhằm phục vụ trước mắt cho cuộc chiến
6



THệ VIEN ẹIEN Tệ TRệẽC TUYEN
v mc tiờu lõu di cho ch ủ thuc ủa ụng Dng. Trong mt bi din
thuyt di ủ ch ủo cho hot ủng bỏo chớ ụng Dng ụng ta cho rng :
Mt t bỏo, mt ngũi bỳt, cũn cỏi ủng lc no bng v ngha v ca nh bỏo

OBO
OKS
.CO
M

l phi din gii cho ngi ta bit cỏi cụng khai hoỏ ca nc Phỏp x ny...
Phi ch ủo thuyt minh, din gii bỡnh lun cho ngi ta bit cỏi cụng y ln

lao chng no bi lũng qung ủi vụ cựng ca nc i Phỏp... khin cho
nhng ngi ủc hng cỏi cụng y phi ủi n kớnh trng ủi ủi.
Nhng ch trng trờn ủõy ca thc dõn Phỏp ủó quy ủnh khuynh hng
bỏo chớ Vit Nam giai ủon ny : T ụng Dng tp chớ ủn Trung Bc tõn
vn, cụng th bỏo, ri Nam Phong...

Ni dung c bn ca bỏo chớ thi k ny l ủ cao cụng ủc khai hoỏ ca
thc dõn Phỏp, chng li mnh m cỏc t tng yờu nc, cỏc t tng tin b
ủng thi tuyờn truyn chớnh sỏch ca Phỏp, vn ủng ngi dõn mua quc trỏi,
tham gia quõn ủi chin ủu cho mu quc, c ủng gúp vn phỏt trin kinh t
nc nh bi tr hng hoỏ Trung Quc... Cú th núi tinh thn ch yu ca cỏc t
bỏo ra ủi trong thi k ny l c suý cho ch thuyt Phỏp - Vit ủ hu m ủi
tiờn phong l ụng Dng tp chớ, Nam Phong.

T ụng Dng tp chớ, ch bỳt Nguyn Vn Vnh kch lit chng li
cỏch mng, ra sc t cỏo nhng ngi cỏch mng mt cỏch d di m sau chin
tranh khụng h thy hoc ớt thy trờn mt bỏo ca ngi Vit, dự l t sn. Ngay
trong s 1, ụng Dng tp chớ ủó nhng v n bom, bo ủng ca Vit Nam
quang phc hi l quõn cung di, l dựng khớ gii tiu nhõn l dũi b

KI L

ngoi quc... ủỏng b r ln sụng hụ ho quan li hi nc Phỏp - Vit phi
hp tỏc m tr ủi. T bỏo ch trng Trung ngha vi i Phỏp ủ cu tin b
ci lng, khai hoỏ. H khụng ph nhn ngi Phỏp ủc nhiu quyn li
nhng gii thớch rng ủú l s ủn bự cụng lai khai hoỏ, bo h, tr an. H khụng
ph nhn (khụng th ph nhn) dõn ta b tr nhng li cho rng di ch ủ
thuc ủa cũn khỏ hn l sng di ch ủ nh vua hi ủc lp.H cũn t bo
cha rng ch nghớa Phỏp - Vit mi l s yờu nc. H cng khng ủnh chớnh


7



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
họ mới là những người biết u thương giống nòi, còn những người cách mạng
thì chẳng làm được gì hết mà chỉ làm loạn hại nước hại dân.
Tờ Nam Phong với chủ bút Phạm Quỳnh cũng có một luận điệu như thế,

OBO
OKS
.CO
M

tin vào thiên chức của Đại Pháp xưa nay vẫn được dạy cho phát triển quốc t
của mình khiến cho dân mình biết có một nhân cách riêng mà sống theo nhân
cách ấy. Phạm Quỳnh cho rằng nhiệm vụ của nhà báo là người đứng giữa giãi
bày ban bố những mưu hay chước phải cho phần nhiều người đọc được biết
cũng thay mặt quốc dân mà trình bày cho Nhà nước rõ cái chân tình trong nước
và những sở nguyện của dân. Khác với Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh đề cao
tư tưởng tơn qn, trung vua tức là u nước.

Nguyễn Bá Trác trong bài xã luận với đầu đề “thế nào là u nước đăng
trên số đầu của Cơng thị báo và dịch ra quốc ngữ trên số 2 của Trung Bắc tân
văn đã nói rằng : Nước là gì ? Nước tức là dân. Muốn u nước thì phải u dân.
Muốn u dân thì phải u người bênh vực cho dân. Nước đại Pháp bênh vực
cho dân ta đó. Vậy ta muốn u nước thì tất nhiên phải u nước Đại Pháp.
Đúng là tư tưởng thân Pháp.

Tuy nhiên, bên cạnh tiếng nói ca ngợi cơng ơn khai hố của thực dân

Pháp, tun truyền cho chính sách của Pháp ở Đơng Dương mang khuynh
hướng quốc gia cải lương thì báo chí thời kỳ này có những bước chuyển quan
trọng về các hình thức và nọi dung Đơng Dương tạp chí (1913) và Trung Bắc
Tân văn (1915) được coi là mở ra một kỷ ngun mới cho báo chí xứ này”. Loại
tạp chí khảo cứu trưởng thành vượt bậc với tạp chí Nam Phong (1917). Đơng

KI L

dương tạp chí là tờ báo đầu tiên chú ý nhiều đến văn học, văn học chữ quốc ngữ
bắt đầu phơi thai, bạn đọc Việt Nam là quen với văn học thế giới qua một số tác
phẩm dịch. Ngồi ra tờ báo còn đóng vai trò tích cực trong truyền bá chữ quốc
ngữ (với mục “Dạy tiếng An Nam cho người Pháp và dạy cho những người biết
chữ Nho và chữ Nơm tự học chữ quốc ngữ, các tác phẩm văn học trong và ngồi
nước...). Nam phong tạp chí với phong cách tạp chí khảo cứu có tính bách khoa
tồn thư đã giúp độc giả Việt Nam tìm hiểu học thuật, văn hố, văn học nước
ngồi (của cả Phương Đơng và Phương Tây) tìm hiểu văn hố, văn học cổ nước
8



THÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
ta; góp phần vào phát triển chữ quốc ngữ và tiếng nói dân tộc. Cùng với Đông
Dương tạp chí, Nam Phong ñã góp phần xây dựng nền văn học bằng chữ quốc
ngữ trong bước ñầu mới hình thành (hai tờ ñăng nhiều tác phẩm văn học hơn cả

OBO
OKS
.CO
M


so với các tờ báo khác hai mươi năm ñầu thế kỷ XX).
3. Giai ñoạn 1919 - 1920

Báo chí Việt Nam phát triển thêm một bước mới rất quan trọng về chất.
Sự phát triển ñó ảnh hưởng nhiều của tình hình trong nước và quốc tế. Khôi
phục kinh tế Pháp bị tàn phá trong chiến tranh và tiến hành khai thác thuộc ñịa
với quy mô lớn, có chiều sâu. Đi ñôi với sự thay ñổi chính sách kinh tế thực dân
Pháp còn thực hiện các chủ trương thích ứng nhằm củng cố và tăng cường bộ
máy chính quyền cai trị như mở rộng cơ sở xã hội, mở rộng các trường học quốc
học thành lập hội. “Khai trí tiến ñức”... Làm nảy sinh những cơ cấu giai cấp mới
và quan hệ xã hội mới : Giai cấp tư sản và giai cấp công nhân tăng nhanh về số
lượng và chất lượng, tầng lớp tiểu tư sản ñông ñảo thêm, nông dân bị bóc lột
theo cả lối phong kiến và tư bản chủ nghĩa.

Đây là giai ñoạn mà Pháp bỏ hẳn chữ Hán và lối thi cử chữ Hán thay bằng
các trường dạy chữ quốc ngữ và tiếng Pháp, mở các kỳ thi bằng chữ quốc ngữ
và chữ Pháp, thay ñổi nội dung dạy học... Do ñó ñã làm thay ñổi lớn trong ñội
ngũ trí thức nói chung và ñội ngũ các nhà báo nói riêng. Tầng lớp trí thức ñược
ñào tạo tại các trường quốc ngữ và Pháp ngày càng ñông. Việc dạy chữ quốc
ngữ và ngày càng mở rộng nó ñã tạo một công chúng bạn ñọc ñông ñảo cho báo
tiếng Việt. Hơn nữa nhiều nhà tư bản bản xứ mở nhà in, ngành in càng phát triển

KI L

làm cho việc in báo tiếng Việt dễ dàng hơn . Tình hình ñó ảnh hưởng ñến báo
chí sau chiến tranh.

Thời kỳ 1919 - 1939 chứng kiến những sự kiện quan trọng : tiếng bom Sa
Điện của Phạm Hồng hái, phong trào ñòi thả Phan Bội Châu, phong trào ñể tang
Phan Châu Trinh, phong trào ñón tiếp Bùi quang Chiêu... chứng tỏ phong trào

cách mạng sôi nổi rộng khắp mạnh mẽ.
Thêm vào ñó tình hình thế giới có những bước chuyển quan trọng Nhà
nước xã hội chủ nghĩa ñầu tiên trên thế giới : nước Nga Xô Viết ra ñời, QTCS
9



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
III thành lập lãnh đạo và tổ chức cách mạng thế giới. Đặc biệt luận cương về vấn
đề dân tộc và thuộc địa của Lênin đã chỉ ra con đường giải phóng các dân tộc
thuộc địa. Nguyễn Ái Quốc đã nắm lấy ngay cẩm nang đó, tham gia tích cực

OBO
OKS
.CO
M

hoạt động thực tiễn và học tập lí luận xây dựng đường lối chiến lược cho cách
mạng Việt Nam, đồng thời truyền bá những tư tưởng cứu nước mới về nước mở
ra một thời kỳ mới cho cách mạng Việt Nam .

Đáng lưu ý là thời kỳ này, thực dân Pháp cho phép một số người thuộc
tầng lớp trên trong xã hội được xuất bản báo chí (tất nhiên là phải tn theo
pháp luật và sự kiểm sốt của chính quyền thực dân). Vì vậy mà số lượng báo
chí có tăng lên.

Báo chí Việt Nam diễn ra trong hồn cảnh như vậy đã phát triển với tốc
độ khá nhanh cả về số lượng và chất lượng. Tờ báo là tiếng nói của nhiều
khuynh hướng khác nhau phức tạp hơn phản ánh lợi ích của nhiều giai cấp và
tầng lớp xã hội lúc bấy giờ (khác với khuynh hướng thực dân, phong kiến chủ

yếu ở các giai đoạn trước). Ngồi những tờ báo mang tính chất kinh tế, chính trị,
tơn giáo như thời kỳ trước, tuy cơ cấu có thay đổi, báo kinh tế có xu hướng phát
triển theo con đường tư bản chủ nghĩa (TBCN) của giai cấp tư sản dân tộc, có tờ
kinh tế kết hợp chặt chẽ với chính trị, xuất hiện thể loại mới về văn hố, khoa
học, và thể dục, thể thao (giai đoạn 1919 - 1925) và y dược, nghệ thuật, kỹ thuật
(1926 - 1930).

Bên cạnh những tờ báo và tạp chí xuất bản cơng khai và hợp pháp một
dòng báo chí mới xuất hiện trong lịch sử báo chí nước ta, báo cách mạng xuất

KI L

bản bí mật khơng hợp pháp mở đầu bằng tờ thanh niên của Tổng bộ thanh niên
cách mạng do Nguyễn Ái Quốc sáng lập.
Thời kỳ 1919 - 1930 còn chứng kiến sự tăng nhanh của báo chí xuất bản
bằng chữ quốc ngữ. Ta có thể thấy rõ điều đó qua bảng số liệu dưới đây :
Báo chí Năm 1922

TổNG Số

BÁO TIếNG

BÁO CHữ QUốC

PHÁP

NGữ

10




THÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
44

36

8

TRUNG Kỳ

39

29

10

NAM Kỳ

3

2

1

TổNG

OBO
OKS
.CO

M

BắC Kỳ

86

67

19

BÁO TIếNG

BÁO CHữ QUốC

PHÁP

NGữ

69

56

13

49

38

11


3

2

1

121

96

25

BÁO TIếNG

BÁO CHữ QUốC

PHÁP

NGữ

72

58

14

71

44


27

10

4

6

153

106

47

Báo chí Năm 1925

TổNG Số
BắC Kỳ
TRUNG Kỳ
NAM Kỳ
TổNG

Báo chí Năm 1929

BắC Kỳ
TRUNG Kỳ
NAM Kỳ
TổNG

KI L


TổNG Số

Nguồn: Hồng Chương, Tìm hiểu lịch sử báo chí Việt Nam-Nxb Sự thật, H,
1987

Số lượng báo bằng chữ quốc ngữ tăng : từ 19 tờ lên 25 rồi 47 tờ. Nếu só
với báo bằng tiếng Pháp sự cách biệt về số lượng cũng giảm nhiều : năm 1922
báo chí bằng chữ quốc ngữ chiếm 1/3 so với báo bằng tiếng Pháp thì năm 1929
11



THệ VIEN ẹIEN Tệ TRệẽC TUYEN
bỏo bng ch quc ng bng 1/2 bỏo bng ting Phỏp. iu ủú chng t s ln
mnh ca bỏo ch quc ng núi chung v ch quc ng núi riờng .
Bỏo chớ t nhõn ca ngi bn x xut hin ngy cng nhiu, chớnh quyn

OBO
OKS
.CO
M

thc dõn dự vn duy trỡ s kim soỏt gt gao ủi vi t bỏo ting Vit, vi cỏc t
bỏo tin b song chỳng khú cú th kim soỏt ủc ht. Thi k trc, bỏo chớ
tay sai ca thc dõn ủa ra mt ủiu gỡ khụng ai dỏm bỏc b, thỡ tỡnh hỡnh nay ủó
khỏc. Vic Ngụ c K vit bi trờn bỏo Hu Thanh phờ phỏn Phm Qunh l
mt vớ d. Nm 1927 t Dõn bỏo (do Ngụ Vn Mu ch nhim) xut bn H
Ni ủng bi ủ kớch cỏc chin s tham gia ụng Kinh Ngha Thc l ủỏng ủem
b r trụi sụng. n ngy 9.5.1927 mt vn ri ngi gm cụng nhõn, hc

sinh, th th cụng, ngi buụn bỏn nh, cỏc em bỏn bỏo... biu tỡnh trc tr s
bỏo ủ phn ủi. n ngy 16.5.1927 t bỏo buc phi ủúng ca. (ra ủi ngy
1.5.1927) (trong khi ủú Nguyn Vn Vnh trong ụng Dng tp chớ ủũi b r
ln sụng cỏc nh yờu nc m khụng gp phi s phn ủi cụng khai ca qun
chỳng. iu ủú chng t thi th ủó thay ủi, giai cp ủó thc tnh, bỏo chớ ca
thc dõn Phỏp tay sai khụng th pht l sc mnh ủu tranh ca qun chỳng.
Thi k ny bỏo chớ thc dõn, phong kin cú th lc hn song uy tớn ủó
ngy cng gim sỳt.

Cỏc t chc cỏch mng ngay t khi thnh lp ủó rt coi trng vic xut
bn bỏo chớ lm c quan ngụn lun cho mỡnh, coi ủú l v khớ chin ủu cc k
quan trng khụng th thiu ủc trong ủu tranh. Cỏc t bỏo cỏch mng in bng
phng tin thụ s, cỏc bn vit tay (in giy sỏp, in thch, in ủt sột) c nh. S

KI L

lng trờn 100 bn tr li. Theo thng kờ cha ủy ủ trong thi k ny cú
khong trờn di 50 t bỏo cỏch mng. So vi cỏc t chc yờu nc v cỏch
mng khỏc nh Hi phc Vit sau ủi l Hng Nam ri Tõn Vit v Vit Nam
Quc dõn ủng thỡ rừ rng cỏc t chc ny cha ý thc v vic s dng bỏo chớ
lm v khớ chin ủu (t chc Tõn Vit khụng cú mt t bỏo no, cũn Quc dõn
ng thỡ ch ra ủc mt s bỏo duy nht). Nu so sỏnh vi tng s bỏo trong
khong thi gian 1923 - 1929 l 90 t m bỏo cỏch mng trờn di 50 t cng

12



THệ VIEN ẹIEN Tệ TRệẽC TUYEN
chng t cỏc nh cỏch mng Vit Nam ủó rt coi trng cụng c ny (6/1925 12/1929).

Nh trờn ủó núi t bỏo Thanh niờn l t bỏo cỏch mng ủu tiờn, sau ủú

OBO
OKS
.CO
M

Nguyn i Quc cũn xut bn cỏc t : Cụng nụng, (t lớnh cỏch mng (2/1927),
ủi tờn bỏo ng thanh thnh t Nhõn ỏi (1928)... Cựng vi s phỏt trin ca
h thng t chc, v c s ca Hi thanh niờn cỏch mng nhiu t bỏo ca k
b, tnh b v chi hi cng ra ủi. K b Nam k cú t Bụnsờvớch, tnh b Hi
Phũng cú c ủ, ng lũng tranh ủu... n khi cỏc ng Cng sn ra ủi, bỏo
chớ cng ủc coi l v khớ ủu tranh sc bộn.

Hng lot cỏc t bỏo nhõn danh Trung ng, cỏc cp b ng ủa
phng, c s cng ra bỏo. ng Cng sn ụng Dng, cp Trung ng cú t
Bỳa lim (1.10.1929) v ngi Cng sn. K b cú t Bụnsờvớch (Trung K), c
Cng sn (Nam K). Tnh b Hi Phũng cú Sao ... Cỏc chi b sn xut cng
ra bỏo, m Hũn Gai cú t bỏo Hm M, M than, chi b Phỳ Ring cú gii
thoỏt... Tng t An Nam Cng sn ng cng ln lt cho ra bỏo ca ng
mỡnh nh t C ũ (c quan ngụn lun), tp chớ Bụnsờvớch (c quan lớ lun), chi
b Thng Hi. Cỏc t bỏo cỏch mng ủó gii thiu vi nhõn dõn ta mt con
ủng cỏch mng mi, mt phng phỏp cỏch mng, mt kiu con ngi chin
s cỏch mng mi nhm bo ủm chú s nghip gii phúng dõn tc. Cỏc t bỏo
ny ủó m ra mt th gii quan, mt nhõn sinh quan mi cho nhõn dõn Vit
Nam v bt ủu thõm nhp vo Vit Nam, m ủu cho cỏch mng t tng
chớnh tr ngi Vit Nam. Bỏo chớ cỏch mng ủi din cho dõn tc, th hin

KI L


nguyn vng ca giai cp cụng nhõn, nhõn dõn lao ủng v c dõn tc Vit
Nam... ging cao ngn c ủc lp dõn tc v ch ngha xó hi, vch ra con
ủng chõn chớnh cho cỏch mng Vit Nam.
Giai cp t sn Vit Nam (t sn dõn tc) va ra ủi ủó cú nhng t bỏo
khỏ tiờu biu H Ni nh khai hoỏ Nht bỏo, Thc Nghip dõn bỏo trờn c s
ca dũng bỏo kinh t ủa xut hin Nam k ủu th k XX l t Nụng C mớt
ủm (1901). H hụ ho mi ngi ủi vo con ủng thc nghip, phờ phỏn t
tng trng vn khinh nghip, truyn bỏ thc thut, chn hng nụng nghip,
13



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
cơng nghiệp, thương nghiệp, chấn hưng nội hố... Giai cấp tư sản đề nghị chính
quyền thực dân được tự do mậu dịch, tự do bn bán với nước ngồi, lên tiếng
phản đối Hoa kiều chiếm đất ở nước ta, đòi cấm khơng cho Trung Quốc nhập

OBO
OKS
.CO
M

cảng vào nước ta... Rõ ràng là giai cấp tư sản Việt Nam một mặt tỏ ra bất mãn
với chế độ hà khắc của thực dân (hạn chế quyền tự do), mặt khác lại khơng dám
lật đổ chế độ ấy (mà chỉ đòi xin cải cách, thay đổi có lợi cho việc bn bán của
họ). Tính chất hai mặt của giai cấp tư sản dân tộc Việt Nam thể hiện sự khơng
dứt khốt, cương quyết, nhiều khi rất mâu thuẫn (tờ thực nghiệp dân báo một
mặt xin thực dân Pháp được tự do ngơn luận, mặt khác một mặt xin thực dân
Pháp được tự do ngơn luận, mặt khác lại cám ơn cơ quan kiểm duyệt cho rằng
nó có tác dụng đẩy lùi các tư tưởng sai lệch). Giai cấp tư sản dùng tơ báo như là

một cơng cụ để gây sức ép làm phương tiện thúc ép Pháp nảh ra một số quyền
lợi.

Sơi động hơn cả là những tờ báo của tầng lớp tiểu tư sản năng động và
giàu lòng u nước. Dòng báo “đối lập” xuất hiện, dĩ nhiên hoạt động khơng dễ
dàng (PGS-TS Phạm Xanh đã từng nhận xét chưa bao giờ có tờ báo nào mà bị
đe doạ và trù úm như tờ La Cloche Félec trong lịch sử báo chí Việt Nam) nhưng
ảnh hưởng tích cực của nó đối với tình cảm cộng đồng, tinh thần dân tộc là điều
khẳng định. Nguyễn An Ninh là người đã khơi dòng báo chí đối lập đó, ơng đã
lợi dụng sơ hở trong luật pháp của thực dân cho phép người Pháp được tựdo ra
báo để ra một tờ báo tun truyền tinh thần u nước, tố cáo tội ác của thực rân.
Từ tờ báo của Nguyễn An Ninh hàng loạt các tờ báo tiến bộ khác ra đời, tờ Le

KI L

Nhà Q của Nguyễn Khánh Tồn Le Jêun An nam của Lam Hiệp Châu, La
Cloche Félec sau đổi là L’An nam của Nguyễn An Ninh, Phan Văn Tường.
Những tờ báo tiến bộ do người Việt chủ trương đã làm lay động và thơi thúc
những người Pháp chân chính sống ở Sài Gòn lúc đó hoạt động (Luật sư
Mònanh cho ra tời Đơng Dương GS.Ganơpski ra tờ Tiếng nói tự do)... Những tờ
báo do người Việtvà người Pháp chủ trương đã tạo thành dòng báo đối lập tiến
bộ trong lịch sử báo chí Việt Nam. Dòng báo chí đối lập, vì vậy đã có một lượng

14



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
độc giả khổng lồ đặc biệt là giới trẻ. Đó là lực lượng chuẩn bị cho cách mạng,
cho sự đối đầu quyết liệt hơn với chính quyền thực dân.

Bên cạnh dòng báo chí đối lập kể trên, ta còn thấy những tờ báo có tinh

OBO
OKS
.CO
M

thần u nước, tiến bộ chống chính quyền thực dân với mức độ khác nhau, thuộc
hệ tư tưởng khác nhau : như tờ Tiếng dân của Huỳnh Thúc Kháng (thuộc tầng
lớp sĩ phu tư sản hố), như tờ Thân Chung của Diệp Văn Kỳ (luật sư)...
Ngồi ra thời kỳ này ta còn thấy những tờ báo có khuynh hướng tự do về
kinh tế, văn hố, khoa học, giáo dục, kĩ thuật. Đặc biệt giới nữ đã có hẳn một tờ
báo riêng làm cơ quan ngơn luận cho mình tồn tại trong suốt 5 năm: đó là tờ Phụ
nữ tân văn . Tờ báo có đăng những vấn đề thời sự chính trị, có quan điểm tiến bộ
mang đậm màu sắc riêng : giải phóng phụ nữ khỏi giàng buộc của lễ giáo phong
kiến, nữ cơng gia chánh, vệ sinh và khoa học...

Nhìn vào số lượng các tờ báo thời kỳ này (thời kỳ 1919-1924) có thêm 26
tờ báo, tạp chí mới, nhiều hơn tổng số báo và tạp chí 54 năm trước từ 1865 1919) thời kỳ 1925 - 1929 có thêm 40 tờ hợp pháp, cơng khai và gần 50 báo
cách mạng bí mật, bất hợp pháp. Vậy trong giai đoạn từ 1919 - 1929 ở Việt Nam
báo chí đã tăng thêm khoảng 116 tờ). Nhìn vào nội dung và tính chất của nó ta
có thể thấy rằng báo chí nước ta đã có bước phát triển vượt bậc cả về số lượng
và chất lượng. Các tờ báo, tạp chí dần trở thành món ăn tinh thần của các giai
tầng xã hội, trở thành diễn đàn cho các giai tầng (báo của tư sản, của tiểu tư sản.
của vơ sản, của thực dân phong kiến, của thanh niên, phụ nữ...). Hầu như tất cả
các lực lượng xã hội đều có những tờ báo riêng, phản ánh lợi ích của mình. Tuy

KI L

nhiên chỉ có những người cách mạng là sử dụng báo chí như một cơng cụ, một

vũ khí sắc bén để thực hiện nhiệm vụ giải phóng dân tộc (bằng chứng là mặc dù
chỉ xuất bản dưới dạng bí mật bất hợp pháp, báo chí cách mạng tăng lên khơng
ngừng và nhanh chóng : trên dưới 50 tờ trong một thời gian ngắn từ tháng
6/1925 - tháng 12/1929, tờ báo xuất hiện ở tất cả các cấp của các Đảng cách
mạng và đi vào vận động trong nhiều giai tầng khác nhau : cơng nhân, nơng dân,
binh lính...).
4. Giai đoạn 1930 - 1945
15



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
Đây là giai đoạn cuối cùng của nền báo chí thuộc địa, giai đoạn mà báo
chí Việt Nam đạt con số cao nhất, trên 400 tờ vào những năm 1930 - 1939. Con
số này có giảm đi khi qn đội Nhật vào Đơng Dương, nhưng đến cách mạng

OBO
OKS
.CO
M

tháng Tam thành cơng, con số là trên 200 tờ.
Dòng báo cơng khai, hợp pháp càng có sự phân hố sâu sắc theo những
màu sắc chính trị - xã hội khác nhau và nở rộ các loại báo chun biệt cho từng
giới, nghề nghiệp, tơn giáo, giải trí...

Đặc biệt sự trưởng thành của báo giới được thể hiện ở con số người làm
báo, cơ cấu xã hội và nghề nghiệp của họ, tính cách hiện đại hố càng tăng
thêm. Đầu những năm 40 Hoa Bằng đã nhận xét : Nghề làm báo xứ ta mới xuất
hiện độ 70 năm nay. Bây giờ Nhật báo, tạp chí, sớm gióng trống, tối khua

chng, đổi mới tai mắt dân chúng khơng phải là mới lạ nữa. Báo chí trở thành
một nghề mới, một sự nghiệp. Báo được in ra với đủ loại ngơn ngữ, đủ loại báo
và chỉ được biệt phát triển tạp chí chun ngành, đã có báo nói (trong tay qn
đội Pháp), báo đã bắt đầu in màu, nhiều ảnh và khá mỹ thuật.

Báo chí cách mạng vẫn đi đầu cả về số lượng và mức độ ảnh hưởng tỏng
quần chúng. Sau thất bại của khởi nghĩa n Bái và cao trào đấu tranh do Đảng
Cộng sản lãnh đạo, một tâm lý thất vọng, cầu an hưởng lạc len vào các tầng lớp
tư sản, tiểu tư sản trí thức, học sinh ở thành thị. Dưới sự áp bức của phong kiến,
của thực dân, họ sợ cách mạng, sợ đổ máu, sợ khơng dám đấu tranh trực diện về
chính trị mà chỉ hoạt động văn hố với mục đích cải lương. Do đó trong báo chí
xuất hiện một trào lưu mới : văn chương lãng mạn trào phúng thịnh hành tiêu

KI L

biểu của nó là nhóm Tự lực văn đồn gồm những nhà văn trong tầng lớp tiểu tư
sản chịu ảnh hưởng của tư sản dân tộc. Trên hai tờ Phong Hố và ngầyny họ
khơng dám đả kích càng khơng dám mơ đến việc thay đổi chế độ đương thời mà
chỉ chế giễu một số quan lại hào lý. Họ lơi cuốn “thanh niên vào một phong trào
trẻ trung, sơi nổi, đem tiếng cười mỉa mai những thói hư tật xấu thay cho tiếng
nói căm hờn chế độ”. Lý tưởng của họ là sống theo phong cách tây với xe hơi,
biệt thự, bãi nghỉ mát chống lại các nghi lễ rườm rà, nghiêm trang trong cung
đình. Ý niệm, những chuyện kiếm hiệp, những chuyện dâm ơ, những kiểu giáo
16



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
dục nhi đồng nửa tư sản, nửa q tộc, những tờ báo cò chiều, câu ấm... Những
tờ báo này đã gặp được mảnh đất màu mỡ là tầng lớp tư sản và tiểu tư sản đương

hoang mang chán nản. Và có lúc nó đã thắng thế trên dòng báo chí cơng khai.

OBO
OKS
.CO
M

Nhưng trong những tiếng nói ầm ỹ và có vẻ như vơ hại ấy, người ta nghe một
tiếng nói phản kích từ tờ báo lân thiếu niên nhưng tờ báo vừa ra mắt một số thì
đóng cửa.

Cùng lúc này trên báo chí diễn ra một cuộc tranh luận giữa hai nhà báo
Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh về thuyết trực trị và thuyết qn chủ lập
hiến. Phạm Quỳnh đại diện của địa chủ bản xứ theo thuyết qn chủ lập hiến
còn Nguyễn văn Vĩnh - đại diện tư sản dân tộc lại chủ trương theo thuyết trực
trị. Đặt Việt Nam dưới quyền cai trị trực tiếp của thực dân Pháp. Nhưng rõ ràng
đây chỉ là trò chơi chính trị của những kẻ phản bội lợi ích nhân dân. Trực trị hay
qn chủ lập hiến thực chất cũng chịu sự bóc lột của thực dân phong kiến.
Sang năm 1935 tình hình thế giới và trong nước có nhiều biến đổi quan
trọng. Quốc tế cộng sản họp thay đổi đường lối chủ trương. Từ chủ trương của
Quốc tế cộng sản, bên Pháp nhân dân đã thành cơng trong cuộc tổng tuyển cử và
chính phủ mặt trận nhân dân Pháp ra đời. Sự thành lập chính phủ mặt trận nhân
dân và sự đấu tranh của nhân dân Pháp, mơi trường Đơng Dương có nhiều thuận
lợi để đấu tranh : Thực dân Pháp buộc phải ban bố một số cải cách, quyền dân
chủ ở Việt Nam. Các nhà văn non trẻ đã chớp lấy cơ hội dùng báo chí làm diễn
đàn tun truyền chủ nghía Mác-Lênin: các tờ báo đầu tiên đó là Hồn trẻ, Đời
mới tiến bộ, Kiến văn, Tiếng trẻ, Nhành lúa... lấn át những tiếng cười vui vẻ và

KI L


đánh ngã những thuyết duy tâm và nghệ thuật vị nghệ thuật của nhóm báo tiên
tiến hố và báo Sơng Hương.

Từ năm 1936, đặc biệt là từ sau phong trào Đơng Dương đại hội một mặt
trận dân chủ hình thành. Những nhóm cộng sản xuất hiện với những tờ báo
Chính danh của nó. Phong trào cơng khai thời kỳ này (với các khẩu hiệu đòi tự
do cơm áo và hồ bình), một mặt đã pháp lý hố cho những tờ báo cộng sản, mặt
khác thơng qua những khẩu hiệu này báo chí góp phần thúc giục nhân dân nổi
dậy đấu tranh : từ phong trào đón tiếp Gơđa đến cuộc mít tinh ngày 1/5 thu hút
17



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
hàng vạn người tham gia cùng hàng trăm cuộc đình cơng... dưới ảnh hưởng của
các phong trào này. Tác dụng của báo chí còn củng cố tình đồn kết Trung Việt (ủng hộ cuộc kháng chiến của Trung Quốc) chống tư tưởng thân Nhật,

OBO
OKS
.CO
M

ngoan ngỗn âm mưu của bọn phong kiễn cấu kết thực dân nhằm trở lại hiệp
ước 1884. Báo chí cộng sản và mặt trận dân chủ ngày càng giữ vai trò quan
trọng trong các hội nghị báo giới Bắc và Trung Kỳ hồi bấy giờ.
Từ phong trào đấu tranh mạnh mẽ của quần chúng từ sự cương quyết của
Đảng cộng sản tờ báo Dân chúng ra đời, khơng phải xin phép thực dân. Sự ra
đời của tờ báo tiếng việt đầu tiên khơng xin phép là một bước nhảy quan trọng
trong báo chí. Rõ ràng dưới sức ép của quần chúng đã buộc đế quốc phải
nhựơng bộ.


Ngồi tờ báo của cộng sản và các lực lượng tiến bộ, báo chí thời kỳ này
còn xuất hiện các tờ báo mang hình thức khác nhau. Tờ báo của phái Tờ rốt kít,
báo dân của Việt Nam quốc dân đảng, mang xu hướng cải lương như ngày nay,
chủ trương tự trị chống độc lập dân tộc như tờ L’Effort (nỗ lực), cho đến mấy tờ
báo Bảo Hồng (Tổ quốc An Nam, Việt cường), những tờ báo chun phá rối
cộng sản : Tranh đấu, Tia sáng, Phụ nữ thời đàm, các tờ báo tơn giáo, các tờ
chun mơn như Đơng y tùng báo, y học thừơng thức (1939), các tờ địa phương
như tỉnh Ninh Bình (1936 - 1939), Ninh Thuận cơng báo (1938). Ngồi ra còn
có các tờ báo có khuynh hướng khơng rõ rang : như tờ Cười (1930), vui (1938 1939), Hồn Q (1936), ích hữu (1937)... Các tờ báo này khơng được chính phủ
ngủi.

KI L

ni dưỡng khơng được nhân dân ủng hộ nên sống cầm chừng, và tồn tại ngắn
Đến khi chiến tranh bùng nổ, thực dân Pháp ra lệnh tịch thu cấm đốn tất
cả các tờ báo cộng sản, các tờ báo tiến bộ, bắt giữ những nhà báo theo xu thế
này. Tuy nhiên báo chí cách mạng qua cuộc vận động dân chủ sơi nổi đã giao
những mầm sống vững chắc trong nhân dân.
Khi Nhật mới vào Đơng Dương những tờ báo tiến bộ rút vào hoạt động bí
mật, những tờ báo còn lại một sốlàm tay sai cho Pháp, một số cho Nhật, một số
trung dung ở giữa. Song báo chí vẫn ra nhiều. Có những tờ báo chun mơn, báo
18



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
tơn giáo đặc biệt là hai tờ văn chương được giới trẻ u thích là Thanh Nghị và
Tri Tân.
Sau khi Nhật hất cẳng Pháp, dòng báo chí có sự thay đổi, một số báo


OBO
OKS
.CO
M

trước kia là tay sai cho Pháp (Đơng Pháp) chuyển sáng cổ động tư tưởng cho
Nhật. Một số tờ báo lấy danh nghĩa Việt Nam Quốc dân đảng (Bình Minh, Hải
Phòng nhật báo) còn kêu gọi đổi chủ.

Đối với báo chí cách mạng : báo vẫn xuất bản bí mật trong tù nhưng lại
bán cơng khai, có khi chèn ép cả báo Nhật ở đơ thị. Báo trong tù vẫn giữ vai trò
quan trọng như Suối reo (nhà tù Sơn La), Bình Minh (nhà tù Hồ Bình), dòng
sơng Cơng và Tiếng gió ngàn (Nghĩa Lộ). Cá tờ báo này vừa rèn luyện ý chí,
tăng cường lí luận cách mạng vừa mở rộng phạm vi ảnh hưởng ra dân chúng địa
phương. Các nhà cách mạng ln tâm niệm báo chí phải phục vụ nhân dân, vì
nhân dân. Muốn thế thì người dân phải thấy được trách nhiệm và sức mạnh của
mình. Báo chí chính là cơ quan tun truyền có hiệu lực cao trong việc đăng
những lời hiệu triệu khởi nghĩa đăng những chiến cơng của du kích đánh Nhật
rồi phong trào rầm rộ “phá kho thóc của Nhật”, thành lập uỷ ban khởi nghĩa... đã
góp phần truyền khơng khí đấu tranh mạnh mẽ trong quần chúng trước giờ phút
lịch sử của dân tộc. Cách mạng tháng Tám thành cơng, vì thế khơng chỉ là sự

KI L

thắng lợi về chính trị mà còn là sự thắng lợi về tư tưởng, về văn hố.

19




THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
KẾT LUẬN
Báo chí Việt Nam ra đời vào thời khắc thật đặc biệt tồn tại và phát triển
gắn liền với q trình xâm lược và nơ dịch văn hố của thực dân Pháp. Chính

OBO
OKS
.CO
M

hồn cảnh đó đã quy định rất lớn tới sự phát triển của dòng báo chí Việt Nam.
Đặc biệt trong những giai đoạn đầu khi Pháp vẫn giữ quyền thống trị đối với báo
chí. Báo chi Việt Nam vì vậy có thể coi là xuất phát tử dòng báo thuộc địa !
Điều đó khẳng định ngay từ đầu báo chí phải làm nhiệm vụ là cơng cụ cho cuộc
đấu tranh chính trị của nhân dân ta.

Nhìn vào lịch sử báo chí thuộc địa 80 năm qua (1865 - 1945) ta thấy rõ
ràng các thái độ tiếp nhận của nhiều tằng lớp nhân dân, trước sự du nhập của
văn minh phương Tây (ở đây là báo chí). Từ mục đích là cơng cụ thống trị nơ
dịch văn hố của thực dân Pháp, báo chí đã dần trở thành một vũ khí sắc bén
nhằm chống lại chính sự nơ dịch ấy. Các giai tầng Việt Nam vươn lên nắm lấy
tờ báo trong tay thực dân. Nếu như trước 1919 do chính sách ngăn cản cấm
đốn, sự kiểm duyệt khắt khe của đế quốc, báo chí hầu như chỉ là tiếng nói của
thực dân và phong kiến tay sai thì từ sau chiến tranh thế giới thứ nhất với sự ra
đời và lớn mạnh của các tầng lớp nhân dân đã bộc lộ nhu cầu thể hiện mình lao
vào những cuộc đấu tranh chính trị, xã hội và kinh tế và báo chí là vũ khí mà họ
sử dụng. Song chỉ có những người cách mạng theo khuynh hướng vơ sản mới sử
dụng thành cơng báo chí với ý nghĩa là cơng cụ tư tưởng văn hố để vận động
quần chúng đi theo cách mạng và đưa cách mạng đến thắng lợi cuối cùng. PGSTS Phạm Xanh trong bài : Nguyễn An Ninh - người khơi dòng báo chí độc lập


KI L

đã nhận xét : Mọi cuộc cách mạng theo đúng ý nghĩa của nó thường được nhen
nhóm từ lĩnh vực văn hố, tư tưởng.
Báo chí vốn là một trong những phương tiện thơng tin đã là sự chuẩn bị
về tư tưởng, chính trị và cả tổ chức cho việc thành lập Đảng cộng sản Việt Nam,
một bước quan trọng đưa cách mạng đến thành cơng.
Kinh nghiệm trong lịch sử báo chí cho thấy báo chí chỉ phát triển, khi nó
thốt ra khỏi sự nơ dịch thực dân, khi nó gắn với cuộc vận động giải phóng dân
tộc, gắn với sự nghiệp giải phóng nhân dân. Những nhà báo đầu tiên của Việt
20



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
Nam: Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Tơn Thọ Tường... khơng bao giờ đưa
nước ta thốt khỏi sự nơ dịch đó, bởi sự gắn bó chặt chẽ với quyền lợi thực dân.
Giai cấp tư sản dân tộc, tầng lớp tiểu tư sản dù có tinh thần u nước, nhưng vẫn

OBO
OKS
.CO
M

lệ thuộc vào thực dân, vẫn mang nặng tư tưởng tư sản. Chỉ có khuynh hứng vơ
sản mà đại diện là Đảng Cộng sản đã biễtuất phát từ nhân dân, từ quyền lợi nhân
dân, từ truyền thống u nước, từ tính cộng đồng, kết hợp với tư tưởng dân chủ
mới (tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin) là đưa Việt Nam đến thắng lợi cuối
cùng giành lại độc lập, tự do, tự chủ cho tồn dân tộc.


Đúng như bản đề cương văn hố 1943 đã khẳng định : Văn hố mới Việt
Nam là thứ văn hố có tính dân tộc về hình thức và dân dân chủ về nội dung tức
là văn hố diễn ra trong dân tộc và nó thẩm thấu vào trong bản sắc dân tộc,
nhưng lại là tân dân chủ - nhân dân mới biểu trưng cho dân chủ trong hoạt động
văn hố. Truyền thống và hiện đại khơng thể tách rời.

Tuy nhiên cũng khơng thể phủ nhận vai trò của những người làm báo Việt
Nam trong 80 năm thuộc địa. Họ là những người đã mở đầu cho một phương
tiện thơng tin mới. Hơn nữa phương tiện thơng tin ấy lại nảy sinh ra hai loại hình
Nam.

KI L

văn hố mới : ngơn ngữ và văn học đang góp phần tạo dựng nên văn hố Việt

21



THệ VIEN ẹIEN Tệ TRệẽC TUYEN
TI LIU THAM KHO

* Sỏch

OBO
OKS
.CO
M


1. inh Xuõn Lõm, Nguyn Vn Khỏnh, Nguyn ỡnh Lờ - i cng
lch s Vit Nam , Tp II - Nxb Giỏo dc , 2000.

2. quang hng - Lch s bỏo chớ Vit Nam (1865 - 1945) - Nxb i
hc Quc gia H Ni , 2000.

3. quang Hng - Tip xỳc vn hoỏ ụng Tõy Vit Nam thi cn ủi
- Chuyờn ủ ging dy, H Ni , 1997.

4. Hng Chng : Tỡm hiu lch s bỏo chớ Vit Nam - Nxb S Tht, H,
1987.
* Tp chớ .

1. PGS-TS Phm Xanh - Nguyn An Ninh - Ngi khi dũng bỏo chớ ủi
lp Vit Nam di thi thuc Phỏp - Tp chớ Xa v Nay s 144 (T7/2003)
trang 12,13,14, 39.

2. Phm Thanh : Tỡm hiu nhng Nh bỏo ủu tiờn Vit Nam - Tp chớ

KI L

bỏo chớ v tuyờn truyn s 3 (Thỏng 5 + thỏng 6 nm 2003) trang 42-43.

22



THÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN

MỤC LỤC


OBO
OKS
.CO
M

LỜI MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 0
NỘI DUNG ........................................................................................................... 2
1. Giai ñoạn hình thành (1865 - 1907) ............................................................ 2
2. Giai ñoạn 1907 - 1918 ................................................................................... 5
3. Giai ñoạn 1919 - 1920 ................................................................................... 9
4. Giai ñoạn 1930 - 1945 ................................................................................. 15
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 20

KI L

TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 22

23



×