Tải bản đầy đủ (.doc) (116 trang)

Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã, thị trấn trên địa bàn huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (744.42 KB, 116 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐAI HỌC VINH
-------o0o-------

CHU HỒNG PHI

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ,
CÔNG CHỨC CẤP XÃ, THỊ TRẤN TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN DIỄN CHÂU, TỈNH NGHỆ AN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ


2

NGHỆ AN - 2015


1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐAI HỌC VINH
-------o0o-------

CHU HỒNG PHI

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ,
CÔNG CHỨC CẤP XÃ, THỊ TRẤN TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN DIỄN CHÂU, TỈNH NGHỆ AN HIỆN NAY

Chuyên ngành: Chính trị học


Mã số: 60.31.02.01

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Viết Quang

NGHỆ AN - 2015


2

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn Thạc sỹ này, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành
và sâu sắc tới: Trường Đại học Vinh, Phòng sau Đại học, Khoa Giáo dục
Chính trị Trường Đại học Vinh, quý thầy, cô giáo đã trực tiếp giảng dạy lớp
cao học khóa 21 chuyên ngành Chính trị học, tổ chức tại Trường Đại học
Vinh.
Tôi trân trọng cảm ơn tình cảm sâu sắc tới thầy giáo PGS.TS Trần Viết Quang,
khoa Giáo dục Chính trị Trường Đại học Vinh, người trực tiếp hướng dẫn
khoa học và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu. Tôi xin
chân thành cảm ơn: Ban Thường vụ Huyện ủy – UBND huyện và các phòng,
ban, ngành cấp huyện; Đảng ủy các xã, thị trấn huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ
An; gia đình, bạn bè trong và ngoài lớp đã nhiệt tình hỗ trợ, tạo điều kiện
thuận lợi và động viên tôi kịp thời trong suốt quá trình học tập và thực hiện
Luận văn!
Nghệ An, tháng 10 năm 2015
Tác giả

Chu Hồng Phi



3

MỤC LỤC
12......................................................................................................................4
SC......................................................................................................................4
Sơ cấp...............................................................................................................4
DANH MỤC BẢNG.........................................................................................6
NỘI DUNG....................................................................................................13
Chương 1 ......................................................................................................13
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ, ..........................................13
CÔNG CHỨC XÃ, THỊ TRẤN........................................................................13
Kết luận Chương 1........................................41
Cán bộ, công chức cấp xã có một vai trò hết sức quan trọng trong nền
hành chính nước nhà. Đây là cấp gần dân nhất, trực tiếp giải quyết các
vụ việc ở cơ sở với người dân. Là cầu nối giữa nhân dân và Nhà nước,
đại diện cho nhân dân nói lên những tâm tư nguyện vọng trong cuộc
sống của nhân dân. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Đảng ta khẳng
định, cán bộ là nguyên nhân của mọi nguyên nhân, vấn đề cán bộ và
công tác cán bộ có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng trong công tác xây
dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị. Trong công tác xây dựng Đảng
và cải cách hành chính Nhà nước; đội ngũ CB, CC có vai trò, vị trí cực
kỳ quan trọng, yếu tố quyết định thành công của cải cách hành chính
Nhà nước. Nếu chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã tốt thì bộ
máy hành chính sẽ vận hành trơn tru, mọi công việc sẽ được giải
quyết dứt điểm từ cơ sở. ............................................................................41
Ngày nay, nâng cao chất lượng đội ngũ CB, CC là yêu cầu hết sức cấp
thiết, góp phần nâng cao hiệu quả của việc xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa; đội ngũ CB, CC có đủ phẩm chất và năng lực;
hệ thống các cơ quan nhà nước hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, phù

hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội
nhập kinh tế quốc tế; đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững
của đất nước.................................................................................................41
Vì vậy, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã, thị trấn
trên địa bàn huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện nay là
vấn đề cấp bách, cần thiết, vừa có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn trong
giai đoạn hiện nay........................................................................................41
Chương 2.......................................................................................................42
THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XÃ, THỊ
TRẤN TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN DIỄN CHÂU, TỈNH NGHỆ AN................42
2.1. Khái quát về huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An và đội ngũ cán bộ,
công chức xã, thị trấn trên địa bàn huyện................................................42
3.1.2.Phương hướng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức xã,
thị trấn tỉnh Nghệ An...................................................................................82


4

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9

10
11
12
13

Ký hiệu
CBCC
CNH-HĐH

ĐH
ĐV
HĐND
KT-XH
LLCT
MTTQ
QLNN
QLHCNN
SC
TC

Nguyên nghĩa
Cán bộ, công chức
Công nghiệp hóa - hiện đại hóa
Cao đẳng
Đại học
đảng viên
Hội đồng nhân dân
Kinh tế - xã hội
Lý luận Chính trị
Mặt trận Tổ quốc

Quản lý nhà nước
Quản lý hành chính nhà nước
Sơ cấp
Trung cấp


5

14

UBND

Ủy ban nhân dân


6

DANH MỤC BẢNG
12......................................................................................................................4
SC......................................................................................................................4
Sơ cấp...............................................................................................................4
DANH MỤC BẢNG.........................................................................................6
NỘI DUNG....................................................................................................13
Chương 1 ......................................................................................................13
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ, ..........................................13
CÔNG CHỨC XÃ, THỊ TRẤN........................................................................13
Kết luận Chương 1........................................41
Cán bộ, công chức cấp xã có một vai trò hết sức quan trọng trong nền
hành chính nước nhà. Đây là cấp gần dân nhất, trực tiếp giải quyết các
vụ việc ở cơ sở với người dân. Là cầu nối giữa nhân dân và Nhà nước,

đại diện cho nhân dân nói lên những tâm tư nguyện vọng trong cuộc
sống của nhân dân. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Đảng ta khẳng
định, cán bộ là nguyên nhân của mọi nguyên nhân, vấn đề cán bộ và
công tác cán bộ có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng trong công tác xây
dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị. Trong công tác xây dựng Đảng
và cải cách hành chính Nhà nước; đội ngũ CB, CC có vai trò, vị trí cực
kỳ quan trọng, yếu tố quyết định thành công của cải cách hành chính
Nhà nước. Nếu chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã tốt thì bộ
máy hành chính sẽ vận hành trơn tru, mọi công việc sẽ được giải
quyết dứt điểm từ cơ sở. ............................................................................41
Ngày nay, nâng cao chất lượng đội ngũ CB, CC là yêu cầu hết sức cấp
thiết, góp phần nâng cao hiệu quả của việc xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa; đội ngũ CB, CC có đủ phẩm chất và năng lực;
hệ thống các cơ quan nhà nước hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, phù
hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội
nhập kinh tế quốc tế; đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững
của đất nước.................................................................................................41
Vì vậy, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã, thị trấn
trên địa bàn huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện nay là
vấn đề cấp bách, cần thiết, vừa có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn trong
giai đoạn hiện nay........................................................................................41
Chương 2.......................................................................................................42
THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XÃ, THỊ
TRẤN TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN DIỄN CHÂU, TỈNH NGHỆ AN................42
2.1. Khái quát về huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An và đội ngũ cán bộ,
công chức xã, thị trấn trên địa bàn huyện................................................42
3.1.2.Phương hướng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức xã,
thị trấn tỉnh Nghệ An...................................................................................82



7

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Cấp xã là cấp gần gũi nhân dân
nhất, là nền tảng của hành chính. Cấp xã làm được việc thì mọi việc đều
xong xuôi” [26, tr.169].. Như vậy cấp xã, đặc biệt là chính quyền cấp xã, là
cấp quan hệ trực tiếp với nhân dân, là nơi đầu tiên giải quyết các yêu cầu
của nhân dân, tạo điều kiện cho nhân dân thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ
của mình đồng thời là nơi thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, pháp
luật của Nhà nước.
Xã, thị trấn là đơn vị hành chính Nhà nước cấp cơ sở, hàng ngày trực
tiếp tiếp xúc với các công dân; trực tiếp tiếp nhận, chấp hành và thực hiện
các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Vì vậy,
công tác quản lý hành chính Nhà nước có chất lượng hay không bắt đầu từ
đội ngũ cán bộ, công chức xã, thị trấn.
Có thể nói rằng, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong các
phong trào thi đua yêu nước, cấp xã là nơi trực tiếp thực hiện cuộc vận
động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” và thực hiện “Quy
chế dân chủ ở cơ sở” do Bộ Chính trị phát động và ban hành. Vì vậy, để
chính quyền cấp xã thực hiện và phát huy tốt vị trí và vai trò của mình
trong thực tiễn, điều này phụ thuộc rất lớn vào đội ngũ CB, CC xã, thị trấn
như trong Nghị quyết Trung ương III (khóa VIII) đã từng khẳng định: “Cơ
sở xã, phường, thị trấn mạnh hay yếu là một phần quan trọng phụ thuộc vào
chất lượng đội ngũ cán bộ xã, phường, thị trấn… Họ chính là những người
đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ
và thi hành”. Để có thể làm được những việc này, đội ngũ CB, CC cấp xã
cần có những hiểu biết nhất định về pháp luật và kỹ năng áp dụng pháp
luật, kỹ năng xử lý và giải quyết tình huống mới có thể giải quyết được
công việc và biến cố xảy ra trong thực tiễn quản lý hành chính cơ sở. Việc



8

nâng cao chất lượng nguồn lực, nâng cao khả năng giải quyết công việc,
trình độ chuyên môn và thái độ, hành vi, tác phong trong tiếp xúc, ứng xử
của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã đối với nhân dân trong xã là nhiệm
vụ thường xuyên, có ý nghĩa hết sức quan trọng cả trước mắt cũng như lâu
dài trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong những năm qua, mặc dù việc xây dựng, phát triển chất lượng
cán bộ nói chung và cán bộ, công chức cấp xã nói riêng trên địa bàn huyện
Diễn Châu đã được quan tâm; số lượng và chất lượng cán bộ ở cấp xã có
trình độ về các mặt nói chung đã tăng lên đáng kể, song vẫn còn nhiều bất
cập. Phần lớn cán bộ, công chức ở cấp xã không được quy hoạch, đào tạo
bài bản; việc bố trí, sử dụng chưa phù hợp. Đội ngũ cán bộ, công chức cấp
xã chủ yếu phát triển từ cơ sở, làm việc theo lối kinh nghiệm, thiếu khoa
học; trình độ, phương pháp quản lý còn hạn chế, thậm chí có nhiều sai
phạm, điều đó đã ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương.
Từ thực tế đó, cần có một sự nghiên cứu toàn diện, trên cơ sở tổng quan
những vấn đề cơ bản về phát triển chất lượng cán bộ nói chung và cán bộ,
công chức ở cấp xã nói riêng; phân tích đúng thực trạng chất lượng cán bộ,
công chức cấp xã trên địa bàn huyện, từ đó đề xuất các giải pháp để nâng
cao chất lượng cán bộ, công chức xã, thị trấn trên địa bàn huyện một cách
đồng bộ, hợp lý, đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.
Về mặt lý luận, vấn đề nâng cao chất lượng cho đội ngũ cán bộ, công
chức hiện nay không những được quan tâm bởi các nhà quản lý, sử dụng
cán bộ, công chức mà còn là đề tài quan tâm của rất nhiều người có trách
nhiệm với sự phát triển nguồn nhân lực của một huyện, của một tỉnh, một
quốc gia cả về mặt chất và mặt lượng. Đã có một số công trình nghiên cứu,

khảo sát về đội ngũ cán bộ, công chức, xây dựng đội ngũ cán bộ công chức
và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức được thực hiện như:


9

- Đề tài: “Nâng cao chất lượng đội ngũ công chức xã trên địa bàn tỉnh
Nghệ An” của tác giả Trần Khánh Thục (2008), Học viện Chính trị - Hành
chính Quốc gia Hồ Chí Minh đã phân tích, làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận
và thực tiễn của việc nâng cao chất lượng công chức xã của tỉnh Nghệ An;
trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp chủ yếu để góp phần nâng cao chất lượng
đội ngũ công chức.
Luận văn thạc sĩ kinh tế: "Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chính
quyền cấp xã ở tỉnh Phú Thọ hiện nay" của tác giả Bùi Thị Hoa (2003),
Học viện Hành chính Quốc gia đã tổng quan được những vấn đề lý luận về
cán bộ chính quyền cấp xã và chất lượng đội ngũ cán bộ chính quyền cấp
xã; hệ thống hóa được những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng, Nhà nước ta về đội ngũ cán bộ chính
quyền cấp xã; đúc kết được khái niệm và những tiêu chí đánh giá, những
yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã và đề
xuất được một số giải pháp khá cụ thể để nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ chính quyền cấp xã ở Phú Thọ nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi
mới. Tuy nhiên, đề tài luận văn của tác giả Bùi Thị Hoa mới chỉ nêu được
những vấn đề chung về đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã và đưa ra các giải
pháp về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã ở địa bàn tỉnh
Phú Thọ, chưa đề cập sâu các loại hình cán bộ...
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước KHXH 05-03 (GS-TS
Nguyễn Phú Trọng làm chủ nhiệm đề tài) “Luận chứng khoa học cho việc
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước” đã đúc kết và đưa ra những quan điểm, định

hướng trong việc sử dụng các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ nói chung và trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống kinh tế xã
hội. Đề tài là một tài liệu tham khảo hữu ích trong trường hợp liên quan
đến cán bộ là công chức trong các đơn vị hành chính sự nghiệp.


10

- Luận văn thạc sỹ: “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức quản lý Nhà
nước về kinh tế trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Thanh Hóa”
của Cầm Bá Tiến (2000), Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Luận
văn đã phân tích thực trạng đội ngũ cán bộ các huyện tại Thanh Hóa đồng
thời đề tài chú trọng đề xuất giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ công chức
trong quản lý nhà nước về kinh tế.
- Huyện Diễn Châu đã ban hành Đề án số 03- ĐA/HU, ngày
12/12/2011 của BTV Huyện ủy Diễn Châu (2011) về việc nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị cấp huyện và cơ sở trong giai
đoạn 2011- 2015 và những năm tiếp theo. Trong đó đã quan tâm đề cập vấn
đề quy hoạch, đào tạo, xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ trong hệ thống
chính trị cấp huyện và cơ sở trên địa bàn huyện. Tuy nhiên, đề án vẫn chưa
đi sâu, nghiên cứu cụ thể về việc xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ, công
chức xã, thị trấn.
- Tiểu luận thạc sỹ Quản lý kinh tế - ĐHKT- ĐHQGHN: "Nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa,
hiện đại hóa tại huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An" của tác giả Nguyễn Thị
Hồng Dung (2012), phòng LĐTB&XH-UBND huyện Diễn Châu. Tiểu
luận làm rõ thực trạng chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng
yêu cầu CNH, HĐH của huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Từ đó đưa ra
các giải pháp cơ bản để nâng cao chất lượng chất lượng của đội ngũ CB,
CC đáp ứng yêu cầu CNH-HĐH của huyện trong giai đoạn 2012-2020.

- Luận văn thạc sỹ: “Nâng cao chất lượng cán bộ công chức cấp
huyện ở huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An” của Trần Ngọc Giáp (2014),
Trường Đại học Mỏ-Địa chất. Luận văn có khái quát tình hình chung về
cán bộ, công chức trên địa bàn huyện Diễn Châu nhưng chủ yếu đi sâu vào
nghiên cứu đội ngũ cán bộ, công chức cấp huyện.
Như vậy, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu trên những góc độ
khác nhau liên quan đến chủ đề nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ công


11

chức. Tuy nhiên, việc nghiên cứu về nâng cao chất lượng cán bộ, công
chức xã, thị trấn nói chung và ở huyện Diễn Châu nói riêng đến nay chưa
có một tác giả nào đi sâu nghiên cứu. Đây là khoảng trống cần tìm hiểu,
nghiên cứu nhằm góp phần nâng cao chất lượng nguồn lực, nâng cao chất
lượng cán bộ, công chức phục vụ nhân dân góp phần thực hiện thắng lợi sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Xuất phát từ những lý do trên và với cương vị công tác của mình, tác giả
chọn vấn đề “Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã, thị
trấn trên địa bàn huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An hiện nay” làm luận văn
thạc sỹ chuyên ngành Chính trị học.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ lý luận và thực trạng chất lượng của đội ngũ cán
bộ, công chức xã, thị trấn của huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An, đề xuất các
giải pháp nhằm nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức xã, thị
trấn huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An trong thời gian tới.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận và kinh nghiệm về nâng cao chất lượng
cán bộ, công chức xã, thị trấn.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức

xã, thị trấn ở huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.
- Đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ công chức xã, thị trấn tại huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An trong thời
gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu vấn đề về nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ công chức xã, thị trấn.
* Phạm vi nghiên cứu:
Về không gian: Luận văn tập trung khảo sát thực trạng chất lượng đội
ngũ cán bộ, công chức tại các xã, thị trấn trên địa bàn huyện Diễn Châu,


12

tỉnh Nghệ An và tham khảo một số địa phương khác để lấy tư liệu so sánh,
đối chiếu.
- Về thời gian: Khảo sát, điều tra, xử lý số liệu từ năm 2009 - 2014.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng các phương pháp phân
tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, thống kê, hệ thống hóa. Trong đó
phương pháp hệ thống hóa được sử dụng trong chương 1 nhằm khái quát
cơ sở lý luận và kinh nghiệm của việc nâng cao chất lượng cán bộ, công
chức xã, thị trấn. Phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh đối
chiếu được sử dụng chủ yếu ở chương 2 nhằm khái quát tình hình kinh tế
xã hội huyện Diễn Châu, qua đó phân tích tổng hợp thực trạng và các yếu
tố ảnh hưởng đến chất lượng cán bộ công chức xã, thị trấn. Phương pháp hệ
thống hóa, phân tích, tổng hợp sử dụng ở chương 3 để đề xuất phương
hướng, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng cán bộ, công chức xã, thị trấn
của huyện Diễn Châu trong thời gian tới.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng phương pháp tìm hiểu đi đến các xã,

thị trấn tiếp xúc, phỏng vấn một số CB, CC, quan sát hoạt động của đội ngũ
CB, CC xã, thị trấn. Tổ chức lấy phiếu điều tra bảng hỏi CB, CC tại 39 xã,
thị trấn.
6. Đóng góp của luận văn
- Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về chất lượng cán
bộ công chức xã, thị trấn.
- Đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ
công chức cấp xã, thị trấn trong thời gian tới.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo
cho công tác quản lý, sử dụng bố trí đội ngũ cán bộ xã, thị trấn huyện Diễn
Châu, tỉnh Nghệ An nói riêng và các huyện khác nói chung.


13

NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ,
CÔNG CHỨC XÃ, THỊ TRẤN
1.1. Lý luận chung về chất lượng cán bộ, công chức cấp xã, thị trấn
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
- Khái niệm cán bộ, công chức
“Cán bộ” là thuật ngữ được du nhập vào Việt Nam từ Trung Quốc, để
chỉ những người nòng cốt, người chỉ huy được sử dụng để phân biệt với
nhân dân. Với cách hiểu này, người đọc sẽ hiểu đó là những người có chức
vụ, có một vị trí “lãnh đạo” thì cũng có những quyền hạn nhất định mà
nhân dân là những người không có quyền hạn đó [30, tr.198].
Theo giải thích trong Từ điển tiếng Việt, “Cán bộ” là người làm công
tác nghiệp vụ chuyên môn trong cơ quan nhà nước [19, tr.105]. Theo cách
giải thích này, người đọc có thể cho rằng cán bộ là “ người của nhà nước”

và làm những công việc cho Nhà nước. Còn những người làm trong các tổ
chức khác thì không được coi là cán bộ.
Theo khoản 1, Điều 4 của Luật Cán bộ, công chức Việt Nam (2008)
quy định: Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm
giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản
Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương ( gọi chung là cấp tỉnh); ở huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh ( gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng
lương từ ngân sách nhà nước.
Thuật ngữ “công chức” được xuất phát từ các nước tư bản phương
Tây. Cộng hòa Pháp đã xác định: “Công chức là những người được tuyển
dụng, bổ nhiệm vào làm việc trong các công sở gồm các cơ quan hành
chính công quyền và các tổ chức dịch vụ công cộng do Nhà nước tổ chức,


14

bao gồm cả Trung ương và địa phương nhưng không kể đến các công chức
địa phương, thuộc các hội đồng thuộc địa phương quản lý” [30, tr.228]. Có
thể thấy nổi bật lên trong khái niệm này chính là nguồn nhân lực làm việc
tại các cơ quan chính quyền Nhà nước và các tổ chức dịch vụ công cộng do
Nhà nước tổ chức được coi là công chức Nhà nước.
Tại Trung Quốc có khái niệm: “Công chức Nhà nước là những người
công tác trong cơ quan hành chính Nhà nước các cấp, trừ nhân viên phục
vụ”. [30, tr.268]. Trung Quốc khẳng định luôn ngay từ ban đầu là “công
chức Nhà nước”. Đã khẳng định như vậy thì công chức chắc chắn phải làm
việc trong các cơ quan nhà nước. Với người Trung Quốc đó là cơ quan
hành chính Nhà nước các cấp, ngoài ra không tính tới các cơ quan khác do
Nhà nước tổ chức và thành lập.
Tại Nhật Bản: Công chức Nhà nước gồm những người được nhận

chức trong bộ máy của Chính phủ Trung ương, ngành tư pháp, quốc hội,
quân đội, trường công và các bệnh viện quốc lập, xí nghiệp và các đơn vị
sự nghiệp quốc doanh được lĩnh lương của ngân sách Nhà nước. Công chức
địa phương gồm những người làm việc và lĩnh lương từ tài chính địa
phương” [30,tr.156].
Theo khái niệm này, Nhật Bản đã chia công chức thành hai cấp là cấp
“công chức nhà nước” và cấp “công chức địa phương”. So với Trung Quốc,
nội hàm trong khái niệm của Trung Quốc các đối tượng được gọi là “công
chức” có thể rộng hơn, liệt kê thành nhiều thành phần hơn và cụ thể hơn rất
nhiều. Các công chức cấp nào thì được hưởng lương từ ngân sách của cấp
đó.
Công chức là một thuật ngữ được sử dụng trong quản lý nhà nước,
trong sắc lệnh số 76/SL ngày 20/5/1950 của Chủ tịch nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa. Đó là những công dân Việt Nam được chính quyền nhân dân
tuyển để giữ một chức vụ thường xuyên trong cơ quan Chính phủ, ở trong


15

hay ở ngoài nước đều là công chức theo quy chế này, trừ những trường hợp
riêng tư do Chính phủ quy định.
Theo Nghị định 169/HĐBT ngày 25/5/1991: “Công dân Việt Nam
được tuyển dụng và bổ nhiệm giữ một công vụ thường xuyên trong một
công sở của Nhà nước ở Trung ương hay địa phương, ở trong nước hay
ngoài nước đã được xếp vào một ngạch, hưởng lương do ngân sách Nhà
nước cấp gọi là công chức Nhà nước”. Nghị định số 95/1998/NĐ-CP, ngày
17/11/1998 về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức: “Công dân Việt
Nam, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách Nhà nước, bao gồm
những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc giao giữ một công việc
thường xuyên, được phân loại theo trình độ đào tạo, ngành chuyên môn,

được xếp vào một ngạch hành chính, sự nghiệp; những người làm việc
trong các cơ quan, đơn vị thuộc quân đội nhân dân và công an nhân dân mà
không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp và công nhân quốc
phòng”. Tuy nhiên, chiếu theo các khái niệm và Nghị định trên thì có rất
nhiều cán bộ trong các cơ quan hành chính Nhà nước sẽ không thuộc đối
tượng là “công chức” mặc dù họ được hưởng lương từ ngân sách Nhà
nước.
Theo Nghị định 06/2010/NĐ-CP: Công chức được tuyển dụng bổ
nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong biên chế giữ một công vụ
thường xuyên hoặc nhiệm vụ thường xuyên trong các cơ quan hành chính
Nhà nước ở cấp tỉnh, cấp huyện; Trong các cơ quan, đơn vị quân đội nhân
dân (mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp như
chuyên viên vi tính, kế toán…); Trong các cơ quan, đơn vị công an nhân
dân (mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp); Trong các cơ
quan Đảng; Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Quốc hội, Kiểm toán
Nhà nước; Trong các bộ và cơ quan ngang bộ; Tòa án nhân dân các cấp
(Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; Chánh án, phó chánh án các tòa
chuyên trách, thẩm phán); Viện kiểm sát Nhân dân; tổ chức chính trị xã hội


16

(Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội
Nông dân, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh…); Trong bộ máy
lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập …
Như vậy, có thể hiểu: Công chức là công dân Việt Nam được tuyển
dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh, trong biên chế, hưởng
lương từ ngân sách nhà nước hoặc được đảm bảo quỹ lương của đơn vị sự
nghiệp công lập theo quy định của pháp luật, làm việc trong cơ quan, tổ
chức, đơn vị”[8,tr.1].

- Khái niệm cán bộ, công chức cấp xã
Theo khoản 3 điều 4 Luật cán bộ công chức năm 2008: Cán bộ xã,
phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là công dân Việt Nam, được
bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ cho Thường trực Hội đồng nhân dân, ủy
ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính
trị - xã hội; công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ
một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc ủy ban nhân dân cấp xã, trong
biên chế và hưởng lương từ ngân sách Nhà nước.
Tuy nhiên, một đơn vị hành chính cấp cơ sở thì không chỉ có công
chức mà còn có các cán bộ thực hiện các công việc của UBND, các công
việc liên quan trực tiếp với nhân dân trong và trên địa bàn xã nên có thể sử
dụng chung một cụm từ là “cán bộ, công chức”. Theo Pháp luật có thể sử
dụng chung là CB,CC cấp xã trong đó bao gồm cả CB,CC xã, phường, thị
trấn. Đây là nguồn nhân lực làm việc tại cơ quan quản lý nhà nước hành
chính cấp nhỏ nhất của nhà nước và trực tiếp làm việc, tiếp xúc và quan hệ
và sống cùng nhân dân. Chính vì thế, Bác Hồ đã dạy các cán bộ cấp cơ sở
là “nền tảng của hành chính” cần chú trọng việc gần gũi dân, “mọi việc đều
xong xuôi” không chỉ đối với các công việc của CB,CC, mà còn tạo điều
kiện thuận lợi cho nhân dân học tập, nhận thức và thực hiện các nghĩa vụ
công dân tốt hơn, nhanh chóng và đồng lòng khi lực lượng CB,CC xã, thị
trấn tiếp xúc và tận tụy với nhân dân.


17

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “ Cấp xã là cấp gần gũi nhân dân nhất,
là nền tảng của hành chính. Cấp xã làm được việc thì mọi việc đều xong
xuôi”[30, tr.169]. Như vậy cấp xã, thị trấn, đặc biệt là chính quyền cấp xã,
thị trấn, là cấp quan hệ trực tiếp với nhân dân, là nơi đầu tiên giải quyết các
yêu cầu của nhân dân, tạo điều kiện cho nhân dân thực hiện tốt các quyền

và nghĩa vụ của mình đồng thời là nơi thực hiện các đường lối, chủ trương
của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Điều 3 Nghị định 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 quy định cán bộ
cấp xã có các chức vụ: Bí thư và Phó Bí thư Đảng ủy; Chủ tịch và Phó chủ
tịch HĐND; Chủ tịch và Phó chủ tịch UBND; Chủ tịch MTTQ; Bí thư
Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh; Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ;
Chủ tịch Hội cựu chiến binh, Chủ tịch Hội Nông dân.
Công chức cấp xã có chức danh: Trưởng công an; Chỉ huy trưởng
Quân sự; Văn phòng - Thống kê; Địa chính - xây dựng - đô thị và môi
trường (đối với phường, thị trấn) hoặc địa chính - nông nghiệp - xây dựng
và môi trường (đối với xã); Tài chính - Kế toán; Tư pháp - Hộ tịch; Văn
hóa - Xã hội.
1.1.2. Chất lượng cán bộ, công chức xã, thị trấn
Chất lượng cán bộ, công chức xã, thị trấn thể hiện qua những tiêu chí
cơ bản như:
- Kiến thức chuyên môn
Kiến thức chuyên môn là phần không thể thiếu đối với CB,CC. Một
đơn vị hành chính cấp cơ sở có đầy đủ các công việc liên quan đến kinh tế,
quản lý xây dựng, địa chính, giáo dục, y tế, tư pháp… chính vì vậy, việc
trang bị kiến thức chuyên môn là bắt buộc đối với CB,CC cấp xã. Tuy
nhiên, kiến thức chuyên môn có được không chỉ do đào tạo tại trường lớp,
đó là sự tích hợp từ trường lớp, môi trường làm việc và sự trải nghiệm
trong công việc giúp cho cán bộ, công chức có kiến thức chuyên môn vững
chắc và có thể giải quyết tốt công việc theo đúng chuyên ngành được học.


18

Ngoài kiến thức chuyên môn đã được đào tạo, cán bộ, công chức cần
tự nâng cao kiến thức chuyên môn cho mình thông qua việc cập nhật kiến

thức chuyên ngành thường xuyên qua các kênh thông tin khác nhau. Khi
cán bộ, công chức thường xuyên trau dồi kiến thức chuyên môn thì kiến
thức chuyên môn ngày một nâng cao dẫn đến một trình độ chuyên môn
chuyên sâu và năng lực chuyên môn ngày một phát triển.
Trình độ chuyên môn được hiểu là chuyên môn được đào tạo của cán
bộ, công chức về một chuyên ngành nào đó với bậc học từ trung cấp trở
lên. Chẳng hạn một người học Cao đẳng chuyên ngành Kế toán thì được
ghi trong lý lịch có trình độ chuyên môn “cao đẳng kế toán”. Như vậy, có
thể hiểu kiến thức chuyên môn là trình độ nguồn nhân lực được thông qua
quá trình đào tạo tại các cơ sở đào tạo từ trung cấp trở lên. Kết quả của các
bậc đào tạo này được thể hiện thông qua các loại văn bằng, chứng chỉ. Đó
là những kiến thức được trực tiếp sử dụng trong quá trình công tác tại các
cơ quan, tổ chức. Tuy nhiên, trên thực tế trình độ kiến thức chuyên môn
của nguồn nhân lực có tương xứng với bằng cấp hay không phụ thuộc vào
hệ thống đánh giá học tập, nghiên cứu và đào tạo tại các cơ sở đào tạo. Vì
vậy, cần có sự kiểm nghiệm trong tác nghiệp thực tế mới có thể thấy được
đầy đủ năng lực chuyên môn thực sự của nguồn nhân lực.
- Trình độ quản lý nhà nước
Các CB, CC làm việc trong các cơ quan hành chính Nhà nước dù ở
cấp độ nào cũng cần có trình độ quản lý Nhà nước trong việc giải quyết thủ
tục hành chính cho tổ chức và công dân trong địa bàn quản lý. Trong điều
5, Nghị định về CB, CC cấp xã có nêu tiêu chuẩn của CB, CC cấp xã làm
việc trong các tổ chức chính trị – xã hội, làm việc trong HĐND, UBND cần
có trình độ hiểu biết về lý luận chính trị, có trình độ học vấn, trình độ
chuyên môn phù hợp yêu cầu nhiệm vụ; đủ năng lực và sức khỏe để hoàn
thành nhiệm vụ được giao (Luật cán bộ, công chức ngày 13 tháng 11 năm
2008);


19


Quản lý hành chính Nhà nước có những nội dung riêng đối với CB,
CC ở từng cấp khác nhau. Trong Điều 23, Nghị định về CB, CC về nội
dung QLNN đối với CB, CC cấp xã có các điểm: (1) Ban hành và tổ chức
thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về CB, CC cấp xã; (2) Xây dựng kế
hoạch, quy hoạch cán bộ, công chức cấp xã; (3) Quy định chức vụ, chức
danh cán bộ, công chức cấp xã; (4) Quy định số lượng cán bộ, công chức
cấp xã; (5) Tổ chức thực hiện việc quản lý, sử dụng và phân cấp quản lý
cán bộ công chức cấp xã; (6) Ban hành quy định tuyển dụng, chế độ tập sự
đối với công chức cấp xã; (7) Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã;
(8) Thực hiện chế độ tiền lương, khen thưởng, kỷ luật và các chế độ, chính
sách đãi ngộ đối với cán bộ, công chức cấp xã; (9) Thực hiện chế độ báo
cáo thống kê về cán bộ, công chức cấp xã; (10) Thanh tra, kiểm tra việc thi
hành quy định về cán bộ, công chức cấp xã; (11) Các công tác khác liên
quan đến QLNN đối với cán bộ, công chức cấp xã.
Từ nội dung QLNN đối với đội ngũ CB, CC nêu trên có thể thấy hoạt
động QLNN có rất nhiều nội dung, đa dạng và càng phức tạp khi có liên
quan đến cuộc sống của nhân dân. Có thể dựa vào mức độ hoàn thành công
việc, kết quả và chất lượng hoạt động để thông qua đó phân tích và đánh
giá chất lượng nguồn nhân lực, đánh giá về thành tích và năng lực thực
hiện công việc của nguồn nhân lực. Tuy nhiên chỉ căn cứ vào những điều
đó thì chưa đầy đủ và chính xác. Có những trường hợp đặc biệt, người CB,
CC xã, thị trấn không hoàn thành nhiệm vụ vì lý do khách quan. Người CB,
CC cấp xã không thực hiện đúng và không hoàn thành nhiệm vụ trong điều
kiện làm việc bình thường thì chắc chắn CB, CC đó có trình độ thực thi
công việc thấp và thể hiện chất lượng nguồn nhân lực thấp.
Như vậy, trình độ QLNN của CB, CC xã, thị trấn không chỉ giới hạn
là những kiến thức về QLNN. Để phát huy được kiến thức QLNN thì người
CB, CC xã, thị trấn cần có những chuyên môn khác hỗ trợ trong quá trình



20

thực hiện công việc tại cơ sở cũng như thực thi những hoạt động công vụ
khác trên địa bàn khu vực dân cư của xã, thị trấn.
- Trình độ lý luận chính trị
Trình độ lý luận chính trị (LLCT) là vấn đề đầu tiên cần được trang bị
cho CB, CC để CB, CC hiểu được quan điểm, chủ trương, đường lối cùa
Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, từ chỗ hiểu biết và làm theo
đúng định hướng đã được hoạch định. Điều này nhằm tạo sự chuyển biến
mạnh mẽ trong nhân thức và hành động của CB, CC trong mọi cấp, tạo cơ
sở phát triển và nâng cao chất lượng cán bộ. Vấn đề phát triển và nâng cao
chất lượng nguồn cán bộ là sự nghiệp chung không chỉ trong các đơn vị
hành chính Nhà nước, của các cấp quản lý mà còn là vấn đề của chính bản
thân đội ngũ cán bộ. Được đào tạo, bồi dưỡng trình độ LLCT như trình độ
các chuyên môn khác khiến năng lực giải quyết công việc của CB,CC đúng
theo chủ trương đường lối của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước.
CB, CC có trình độ LLCT nghĩa là được học tập nghiên cứu các vấn
đề chính trị, các vấn đề liên quan đến giành và giữ chính quyền cho nhân
dân. Đây chính là những kiến thức về quyền lực chính trị, đảng phái chính
trị, đấu tranh chính trị, đấu tranh chống diễn biến hòa bình và các thế lực
thù địch chống phá đất nước... Hệ thống kiến thức này trang bị và củng cố
vững chắc và kiên định lập trường quan điểm của Đảng. Mỗi CB,CC cấp
xã đều giữ được phẩm chất cách mạng và thực hiện nhiệm vụ theo tinh thần
phục vụ nhân dân sẽ là nền tảng cho sức mạnh, thống nhất và sự thành
công của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nền tảng này còn là niềm
tin của quần chúng nhân dân đối với đội ngũ CB,CC cấp cơ sở.
- Trình độ tin học, ngoại ngữ
Trong quá trình phát triển đất nước, con người luôn tiếp nhận những
kiến thức mới cho phù hợp với xu hướng phát triển và hội nhập trong mỗi

thời kỳ nhất định. Trong môi trường toàn cầu hóa hiện nay, CB,CC cấp cơ
sở phải có mức độ tiếp cận thường xuyên và hội nhập nhanh trên mọi


21

phương diện của cuộc sống. Đặc biệt, ở các khu vực có nhiều di tích lịch
sử, có những danh thắng thu hút nhiều khách trong nước cũng như khách
quốc tế thì yêu cầu CB,CC cập nhật kiến thức tin học và ngoại ngữ càng
cao hơn. Có thể nói, trình độ ngoại ngữ và tin học là không thể thiếu đối
với bất cứ một CB,CC tại bất cứ vị trí nào trong đơn vị hành chính cấp cơ
sở.
Trình độ tin học, ngoại ngữ là mức độ đạt được kiến thức về ngoại ngữ
và tin học tùy theo từng vị trí công việc nhất định của CB,CC. Mọi công
việc của CB,CC xã, thị trấn từ quản lý hồ sơ, tiếp nhận, xử lý văn bản... đều
sử dụng máy tính. Đặc biệt, Thủ tướng Chính phủ có văn bản quy định về
hình thành và sử dụng hệ thống thông tin điện tử từ cấp Trung ương đến
cấp cơ sở được áp dụng từ ngày 15/01/2012, mọi văn bản hành chính Nhà
nước được ban hành và tiếp nhận thông qua hệ thống máy tính và Internet
là phương tiện truyền tải thông tin hữu dụng nhất cho các cơ quan hành
chính Nhà nước. Chính phủ điện tử có vai trò đặc biệt quan trọng trong
việc nâng cao trình độ hiểu biết, kiến thức và kỹ năng ứng dụng công nghệ
cho CB,CC các cấp, chính một phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
làm công tác hành chính. Chính phủ điện tử đồng thời nâng cao hiêu quả
quản lý nhà nước các cấp, giúp công việc được xử lý nhanh chóng, đánh
giá đi của thông tin nhanh gọn, giảm bớt các công việc thủ công, tăng năng
suất lao động cho CB,CC. Việc áp dụng công nghệ thông tin trong quản lý
hành chính Nhà nước dẫn đến đội ngũ CB,CC xã, thị trấn phải có kiến thức
về nội dung này. Để sử dụng được máy tính, người dùng máy tính phải có
trình độ ngoại ngữ nhất định. Vì vậy, có trình độ ngoại ngữ và tin học ở

mức độ nhất định là điều kiện cần thiết của CB,CC xã, thị trấn.
- Kỹ năng giải quyết công việc
Nếu coi các kiến thức chuyên môn của nguồn nhân lực là “phần
cứng”, là những hiểu biết căn bản về một lĩnh vực hoạt động thì khả năng
giải quyết công việc được coi là “phần mềm” trong xử lý công việc. Việc


22

ứng dụng phần mềm và phần cứng thuần thục, linh hoạt chính là thể hiện
kỹ năng giải quyết công việc khéo léo và thành thạo, thể hiện việc vận
dụng kiến thức thực sự có hiệu quả trong thực tế.
Các đối tượng có trình độ như nhau, kiến thức như nhau nhưng có thể
khả năng giải quyết công việc khác nhau. Nếu các CB,CC có kỹ năng mềm
tốt thì khả năng giải quyết công việc vượt trội hơn so với CB,CC kém kỹ
năng.
Tinh thần cầu tiến, thái độ nghiêm túc không ngừng học tập và rèn
luyện là cơ sở nâng cao kỹ năng giải quyết công việc. Đặc biệt, sự trải
nghiệm thực tế trong công việc là môi trường rèn luyện kỹ năng tốt nhất.
Do đó, bố trí công việc hay thực hiện nhiệm vụ khác nhau sẽ hình thành
các kỹ năng khác nhau đối với mỗi CB,CC.
Sự trải nghiệm trong công việc có thể gọi là thâm niên trong công
việc. Người nhiều kinh nghiệm làm việc có thể giải quyết công việc thuần
thục và nhanh hơn người ít kinh nghiệm. Kinh nghiệm làm việc kết hợp với
trình độ và khả năng xử lý công việc tạo thành mức độ lành nghề, thạo
nghề. Điều đó còn thể hiện phương pháp làm việc, thể hiện phong cách và
thái độ ứng xử của CB,CC trong thực thi nhiệm vụ. Do đó, kỹ năng giải
quyết công việc là phần không thể thiếu đối với CB,CC nói riêng cũng như
đối với nguồn nhân lực nói chung.
Với đội ngũ CB,CC cấp xã, kỹ năng giải quyết công việc thể hiện việc

vận dụng thành thạo, khéo léo các kiến thức khoa học vào thực tế cuộc
sống để có các kỹ năng cụ thể như: kỹ năng sử dụng các thiết bị văn phòng;
kỹ năng xử lý văn bản hành chính; kỹ năng thu thập và xử lý thông tin; kỹ
năng tiếp cận, giao tiếp và trả lời nhân dân; kỹ năng tuyên truyền và vận
động quần chúng nhân dân trên địa bàn; kỹ năng phân tích và đánh giá tình
hình thực tế; kỹ năng xử lý sự vụ; kỹ năng lãnh đạo, quản lý. Với mỗi vị trí
công việc đòi hỏi cần có kỹ năng giải quyết ở nhiều mức độ và góc độ khác
nhau. Người CB,CC có kiến thức, có phương pháp giải quyết công việc tốt,


23

đạt kết quả công việc trong thời gian ngắn nhất, ít gây lãng phí cho tổ chức,
tạo được lòng tin không chỉ trong nội bộ tổ chức mà còn đem lại niềm tin
cho nhân dân, tạo nên trật tự và ổn định xã hội.
- Tình trạng sức khỏe và thái độ trong công việc
Tình trạng sức khỏe thể hiện thể lực của nguồn nhân lực. Đối với
CB,CC xã, thị trấn công việc không có yếu tố nặng nhọc, độc hại nên
không cần chú trọng quá đến chiều cao, cân nặng của CB,CC. Tuy nhiên,
nếu CB,CC có trình độ cao, có kỹ năng giải quyết công việc thành thạo
nhưng thể lực kém, thường xuyên đau ốm thì cũng không đủ khả năng thực
hiện công việc. Không đảm đương được công việc khiến cho tình trạng
công việc bê trễ, thậm chí còn ảnh hưởng nhiều đến các hoạt động khác của
tổ chức. Do đó, CB,CC xã, thị trấn cần có thể chất phát triển khỏe mạnh
theo mức trung bình trong nước đủ đảm bảo sức khỏe cho thực thi nhiệm
vụ và xử lý công việc của CB,CC xã, thị trấn.
Thái độ trong công việc của đội ngũ CB,CC xã, thị trấn rất quan trọng
trong việc giữ gìn, phát huy quyền lực Nhà nước cấp cơ sở. Một mặt, thái
độ thể hiện trình độ kiến thức, kỹ năng và quyền uy của cán bộ hành chính
cấp cơ sở. Mặt khác, còn thể hiện văn hóa, lòng tin vào chế độ, lòng trung

thành của đội ngũ CB,CC với Đảng, với nhân dân và giữa nhân dân với
chính quyền cơ sở. Đội ngũ CB,CC cấp cơ sở những người trực tiếp giao
dịch, đối thoại với nhân dân trên địa bàn nên cần có thái độ chân thành, cởi
mở nhưng cương quyết, loại bỏ yếu tố thân quen quan hệ gia đình, không
để mắc lỗi thiên vị trong xử lý tình huống. Nhận thức đúng là tiền đề, là
kim chỉ nam cho hành động đúng. Hành động chính là các hành vi thể hiện
thái độ đạo đức, nhận thức văn hóa, phong cách, tính khí của con người. Vì
thế, thái độ trong công việc là một tiêu chí không thể thiếu trong đánh giá
đội ngũ CB,CC hành chính nói chung và CB,CC xã, thị trấn nói riêng. Tuy
nhiên, thái độ này lại nhạy cảm, rất khó có thể lượng hóa thành các con số
định lượng dùng trong đánh giá CB,CC cũng như đánh giá về con người.


×