Tải bản đầy đủ (.doc) (103 trang)

Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở thị xã Kiến Tường, tỉnh Long An giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (465.91 KB, 103 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
-----------o0o-----------

NGUYỄN VĂN VŨ

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ
CHỐT CẤP CƠ SỞ Ở THỊ XÃ KIẾN TƯỜNG, TỈNH
LONG AN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

Long An, 2015


2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
-----------o0o-----------

NGUYỄN VĂN VŨ

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ
CHỐT CẤP CƠ SỞ Ở THỊ XÃ KIẾN TƯỜNG, TỈNH
LONG AN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 60.31.02.01


LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
Người hướng dẫn khoa học:
PGS. TS. GVCC Đoàn Minh Duệ

Long An, 2015


3
LỜI CẢM ƠN
Luận văn hoàn thành là do sự phấn đấu, nỗ lực của bản thân, đồng thời có
sự hướng dẫn, giúp đỡ tận tình của PGS. TS. GVCC ĐOÀN MINH DUỆ, cũng
như các Thầy, cô giáo khoa Giáo dục Chính trị và Phòng Đào tạo Sau đại học
thuộc Trường Đại học Vinh.
Tôi cũng chân thành cảm ơn sự quan tâm tạo điều kiện của gia đình, sự
giúp đỡ có hiệu quả của bạn bè và các đồng nghiệp tại Thị ủy, UBND Thị xã Kiến
Tường trong suốt quá trình học tập và viết Luận văn.
Cuối cùng, tôi xin gửi tới các Giáo sư, Tiến sĩ, các nhà khoa học, các bạn
đồng nghiệp lời cảm ơn sâu sắc nhất.
Tác giả

Nguyễn Văn Vũ


4

MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU

Trang
6


B. NỘI DUNG

11

Chương 1. Cơ sở lý luận về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ 11
chốt cấp cơ sở
1.1. Khái niệm đội ngũ cán bộ và cán bộ chủ chốt cấp cơ sở

11

1.2.Năng lực lãnh đạo và các yếu tố cấu thành năng lực lãnh đaọ của đội 14
ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã
1.3 Vai trò của nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở 16
Năng lực lãnh đạo và các yếu tố cấu thành năng lực lãnh đaọ của đội
ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã
Chương 2. Thực trạng năng lực lảnh đạo đội ngũ cán bộ chủ chốt 24
cấp cơ sở ở Thị xã Kiến Tường tỉnh Long An
2.1.Khái quát tình hình kinh tế - xã hội của thị xã Kiến Tường, Long An

24

2.2 Thực trạng năng lực lảnh đạo của ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở của 28
thị xã Kiến Tường, tỉnh Long An
Chương 3. Phương hướng và một số giải pháp nâng cao chất lượng 54
đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở thị xã kiến tường, tỉnh Long An
trong giai đoạn hiện nay
3.1. Phương hướng xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở có chất lượng về 54
chính trị, tư tưởng và chuyên môn, đáp ứng yều, nhiệm vụ đặt ra
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cơ sở ở 63

Thị xã Kiến Tường, Tỉnh Long An trong giai đoạn hiện nay
C. KẾT LUẬN

94

D. TÀI LIỆU THAM KHẢO

96


5
QUY ĐỊNH CHỮ VIẾT TẮT
1. BCT

: Bộ Chính trị

2. BCHTWĐCSVN: Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng Sản Việt
Nam

3. CNH, HĐH:

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

4. CHQS:

Chỉ huy quân sự

5. CNCS:

Chủ nghĩa cộng sản


6. CNXH:

Chủ nghĩa xã hội

7. CBCC:

Cán bộ chủ chốt

8. CCB:

Cựu chiến binh

9. ĐTNCSHCM:

Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh

10. HĐND:

Hội đồng nhân dân

11. HTCT:

Hệ thống chính trị

12. HLHPNVN:

Hội liện hiệp phụ nữ Việt Nam

13. MTTQ:


Mặt trận tổ quốc

14. XHCN:

Xã hội chủ nghĩa

15. UBND:

Ủy ban nhân dân


6

A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cán bộ là khâu then chốt, trọng yếu của công tác xây dựng Đảng. Vị trí
của công tác cán bộ gắn liền với vai trò của đội ngũ cán bộ. Chủ tịch Hồ Chí
Minh, người sáng lập, rèn luyện và lãnh đạo Đảng ta đã nhấn mạnh: "Cán bộ là
cái gốc của mọi công việc", "công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt
hay kém". Thấm nhuần tư tưởng của Người, trong suốt hơn 85 năm xây dựng và
phát triển, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi cán bộ và công tác cán bộ là những
nhân tố quyết định sự thành, bại của cách mạng. Mỗi thắng lợi của cách mạng
Việt Nam đều đánh dấu những bước trưởng thành, tiến bộ của đội ngũ cán bộ của
Đảng ta. Vì thế, Đảng ta luôn chú trọng tới yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ đồng
bộ, toàn diện, đặc biệt tập trung xây dựng và nâng cao năng lực lãnh đạo của đội
ngũ cán bộ chủ chốt (CBCC), coi đây là vấn đề mấu chốt, quyết định toàn bộ sự
nghiệp cách mạng.
Hệ thống chính trị (HTCT) và CBCC của HTCT ở các xã, phường, thị trấn
(gọi chung là cấp xã) giữ vai trò quyết định trong việc tổ chức và vận động nhân

dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tăng
cường đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, huy động
mọi khả năng phát triển kinh tế - xã hội, tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân cư.
Chính vì vậy, Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa IX về đổi mới và nâng cao chất lượng của HTCT ở cơ sở xã, phường, thị
trấn đã xác định: xây dựng đội ngũ cán bộ ở cơ sở xã, phường, thị trấn là một
trong ba vấn đề cơ bản và bức xúc cần tập trung giải quyết, trong đó yêu cầu xây
dựng đội ngũ cán bộ cơ sở có năng lực tổ chức vận động nhân dân thực hiện
đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, công tâm, thạo việc, tận tụy với
dân, biết phát huy sức dân, không tham nhũng, không ức hiếp dân, trẻ hóa đội
ngũ, chăm lo công tác đào tạo, bồi dưỡng, giải quyết hợp lý và đồng bộ chính
sách đối với cán bộ cơ sở.


7
Trong những năm gần đây, đội ngũ cán bộ ở xã nói chung đã có bước phát
triển về chất lượng. Tuy nhiên, đội ngũ này vẫn bộc lộ những yếu kém, bất cập về
kiến thức, năng lực, trình độ trước những yêu cầu của tình hình, nhiệm vụ mới. Vì
vậy, một số cán bộ gặp khó khăn, lúng túng, thậm chí va vấp, vi phạm trong thực thi
nhiệm vụ. Bên cạnh đó, trước tác động tiêu cực của cơ chế thị trường, một bộ phận
CBCC cấp xã có dấu hiệu suy thoái về phẩm chất đạo đức, quan liêu, hách dịch, cửa
quyền, vi phạm dân chủ, tham nhũng, lãng phí... bị kỷ luật. Điều đó đã làm ảnh
hưởng không nhỏ đến uy tín và hiệu quả lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, giảm sút
lòng tin của nhân dân đối với Đảng; đồng thời đặt ra đòi hỏi bức thiết phải đổi mới,
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đặc biệt năng lực lãnh đạo của đội ngũ CBCC
cấp xã.
Thị xã Kiến Tường là một Thị xã nằm về phía Tây bắc của Tỉnh Long An,
khu vực trung tâm vùng Đồng Tháp Mười của tỉnh. Là Thị Xã có truyền thống
cách mạng, có nền kinh tế phát triển. Trong tình hình hiện nay đã đặt ra hàng loạt
các nhiệm vụ nặng nề, phức tạp về xây dựng và quản lý qui hoạch, quản lý đất

đai, giải phóng mặt bằng, xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội, phát
triển kinh tế, văn hóa - xã hội, phòng chống các tệ nạn xã hội, đảm bảo an ninh
chính trị - trật tự an toàn xã hội ...
Để thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ nêu trên, Thị Xã Kiến Tường phải
có một đội ngũ CBCC nói chung, đội ngũ CBCC cấp xã, phường nói riêng vững
mạnh, có phẩm chất, năng lực, phương pháp, phong cách công tác tốt, nhạy bén,
năng động, đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao trong tình hình mới.
Vì vậy, chúng tôi chọn vấn đề: "Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cấp
cơ sở ở Thị xã Kiến Tường, tỉnh Long An trong giai đoạn hiện nay" làm đề tài luận
văn Thạc sĩ Khoa học chính trị, chuyên ngành Chính trị học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề cán bộ nói chung, CBCC nói riêng là nội dung được nhiều văn
kiện Đảng, nhiều nhà lãnh đạo, các cấp ủy Đảng và các nhà khoa học quan tâm
nghiên cứu. Trong số các bài viết đã đăng trên các tạp chí, các đề tài, công trình


8
nghiên cứu, các luận văn, luận án đã công bố, liên quan đến vấn đề cán bộ chúng
tôi đặc biệt chú ý các nhóm công trình sau:
- Nhóm đề tài về những yêu cầu đối với cán bộ cơ sở: Học viện Nguyễn
Ái Quốc: "Mẫu hình và con đường hình thành người cán bộ lãnh đạo chính trị
chủ chốt cấp cơ sở", 1992; Tiến sĩ Phan Văn Tích (chủ biên): "Xác định cơ cấu
và tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở (xã, xã, thị trấn)", Nhánh đề tài
KT-XH.05-11-06, 1993; Bùi Đình Phong: "Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của
đạo đức cách mạng và sự thống nhất giữa đức và tài", Tạp chí Lý luận chính trị,
số 1/2003; Trần Văn Phòng: "Tiêu chuẩn đạo đức của người cán bộ lãnh đạo
chính trị hiện nay", Tạp chí Lý luận chính trị, số 5/2003...
- Nhóm các công trình về nội dung, phương pháp, cách thức xây dựng
đội ngũ CBCC: Trần Duy Hưng: Bùi Khắc Hằng: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về
công tác cán bộ với việc nâng cao năng lực lãnh đạo của đội ngũ cán bộ chủ

chốt cấp cơ sở ở Thanh Hóa hiện nay”, Luận văn thạc sĩ khoa học chính trị,
2004; Phan Thị Thúy Vân: "Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở thành phố
Cần Thơ hiện nay - Thực trạng và giải pháp", Luận văn thạc sĩ khoa học chính trị,
2005... Ngoài ra, còn nhiều bài báo của nhiều nhà nghiên cứu đăng trên các báo,
tạp chí khoa học về vấn đề cán bộ và nâng cao chất lượng cán bộ trong hệ thống
chính trị.
Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có công trình nào nghiên cứu về đội ngũ
CBCC của HTCT cấp xã, phường ở Thị xã Kiến Tường. Vì vậy, chúng tôi tập
trung nghiên cứu đề tài này trên cơ sở kế thừa có chọn lọc các công trình đã liệt
kê, nhằm trước hết hệ thống những kiến thức đã học, mặt khác góp phần đáp ứng
đòi hỏi thực tiễn của sự nghiệp xây dựng và phát triển thị xã Kiến Tường trong
giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn về năng lực lãnh đạo cho đội ngũ CBCC
cấp cơ sở, từ đó, đề xuất phương hướng và một số giải pháp nhằm góp phần nâng


9
cao năng lực lãnh đạo của đội ngũ CBCC cấp cơ sở ở Thị xã Kiến Tường, tỉnh
Long An, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn mới.
3.2. Nhiệm vụ:
- Làm rõ cơ sở lý luận về năng lực lãnh đạo của đội ngũ CBCC cấp cơ sở
ở Thị xã Kiến Tường.
- Khảo sát, điều tra về thực trạng năng lực, hiệu quả lãnh đạo, quản lý của
đội ngũ CBCC cấp cơ sở ở Thị xã Kiến Tường, tỉnh Long An.
- Phương hướng và đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất
lượng đội ngũ CBCC cấp cơ sở ở Thị xã Kiến Tường, tỉnh Long An trong giai
đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Nghiên cứu năng lực lãnh đạo của đội ngũ CBCC cấp cơ sở ở Thị xã Kiến
Tường, tỉnh Long An.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn tập trung phân tích thực trạng đội ngũ CBCC và chất lượngđội
ngũ CBCC cấp cơ sở thuộc thị xã Kiến Tường trong giai đoạn hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử;
Đồng thời luận văn cũng vận dụng đồng bộ các phương pháp sau:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp;
- Phương pháp điều tra xã hội học;
- Phương pháp tổng kết thực tiễn.
6. Đóng góp của luận văn
- Góp phần làm rõ thêm cơ sở khoa học, quan điểm và quan niệm về nâng
cao chất lượng đội ngũ CBCC cấp cơ sở hiện nay.


10
- Đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu, thiết thực, khả thi
góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC cấp cơ sở ở thị xã Kiến Tường trong
những năm tiếp theo.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho
Thị ủy, UBND thị xã, các đoàn thể chính trị của thị xã; cho Đảng ủy, UBND, các
đoàn thể chính trị cấp xã ở thị xã Kiến Tường và các địa phương khác trong công
tác cán bộ, công tác xây dựng Đảng và xây dựng HTCT. Luận văn còn có thể sử
dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập liên quan
đến công tác cán bộ, công tác xây dựng Đảng và xây dựng HTCT cấp xã ở các
trường bồi dưỡng chính trị.
7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn được kết cấu trong 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở
Chương 2. Thực trạng năng lực lãnh đạo của đội ngũ cán bộ cấp cơ sở ở
Thị xã Kiến Tường, tỉnh Long An
Chương 3. Phương hướng và một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ cấp cơ sở ở thị xã kiến Tường, tỉnh Long An trong giai đoạn hiện
nay


11
B. NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
CHỦ CHỐT CẤP CỞ SỞ
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Cán bộ
Theo cuốn Đại từ điển tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên thì khẳng định
rằng cán bộ: Người làm việc trong cơ quan nhà nước - cán bộ nhà nước; người giữ
chức vụ, phân biệt với người bình thường, không giữ chức vụ trong các cơ quan,
tổ chức nhà nước. Còn Luật Cán bộ, công chức đề cặp: Cán bộ, công chức là công
dân Việt Nam, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách.
Từ những định nghĩa nêu trên, có thể hiểu "cán bộ" là khái niệm dùng để
chỉ những người ở trong cơ cấu của một tổ chức nhất định, có trọng trách hoàn
thành nhiệm vụ theo chức năng được tổ chức đó phân công.
Như vậy, có nhiều quan niệm về cán bộ, nhưng tựu chung lại, có hai cách
hiểu cơ bản:
Một là, cán bộ bao gồm những người trong biên chế nhà nước, làm việc
trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể chính trị, xã hội, các doanh nghiệp
nhà nước và các lực lượng vũ trang từ Trung ương đến địa phương và cơ sở.

Hai là, cán bộ là những người giữ chức vụ trong một cơ quan hay một tổ
chức để phân biệt với người không có chức vụ.
Từ những khái niệm về cán bộ nêu trên cho thấy, người cán bộ có bốn đặc
trưng cơ bản:
+ Cán bộ được sự ủy nhiệm của Đảng, Nhà nước và các tổ chức khác trong
HTCT... lấy danh nghĩa của các tổ chức đó để hoạt động.
+ Cán bộ giữ chức vụ, trọng trách nào đó trong một tổ chức của HTCT.
+ Cán bộ phải thông qua tuyển chọn hay phân công công tác sau khi hoàn
thành chương trình đào tạo tại các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên
nghiệp, dạy nghề; cán bộ được bổ nhiệm, đề bạt hoặc bầu cử.


12
+ Cán bộ được hưởng lương và chính sách đãi ngộ căn cứ vào nội dung,
chất lượng hoạt động và thời gian công tác của họ.
Như vậy, hiểu theo nghĩa chung nhất, cán bộ là người lãnh đạo, quản lý
hoặc người làm chuyên môn, nhà khoa học hay công chức, viên chức làm việc,
hưởng lương từ ngân sách nhà nước hoặc từ các nguồn khác. Họ được hình thành
từ tuyển dụng, phân công công tác sau khi tốt nghiệp ra trường, từ bổ nhiệm, đề
bạt hoặc bầu cử.
Theo chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói về cán bộ Người viết rằng : Cán bộ là
người đem chính sách của Đảng, Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và
thi hành, đồng thời đem tình hình dân chúng báo cáo cho Đảng, Chính phủ hiểu rõ
để đặt chính sách cho đúng.
1.1.2. Cán bộ chủ chốt
Theo Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, xuất bản năm 2002: Chủ
chốt là tính từ chỉ "quan trọng nhất, có tác dụng làm nòng cốt”. Như vậy, nói chủ
chốt là nói đến quan hệ trong một tập hợp nhất định có nhiều phần tử, nhiều đối
tượng và vị trí, tính chất của những phần tử, đối tượng trong tập hợp ấy.
- Quan niệm về cán bộ chủ chốt

Từ những nội dung trình bày nêu trên, có thể hiểu "Cán bộ chủ chốt" là
người có chức vụ, nắm giữ các vị trí quan trọng, có tác dụng làm nòng cốt trong
các tổ chức thuộc hệ thống bộ máy của một cấp nhất định; người được giao đảm
đương các nhiệm vụ quan trọng để lãnh đạo, quản lý, điều hành bộ máy thực hiện
chức năng, nhiệm vụ được giao; chịu trách nhiệm trước cấp trên và cấp mình về
lĩnh vực công tác được giao.
CBCC có những đặc trưng cơ bản như sau:
- CBCC là người có vị trí quan trọng, giữ vai trò quyết định trong việc xác
định phương hướng, mục tiêu, phương pháp công tác; đề ra các quyết định và tổ
chức thực hiện tốt các quyết định của cấp mình hoặc cấp trên giao. Kiểm tra, giám
sát, kịp thời chấn chỉnh, uốn nắn những biểu hiện lệch lạc; bổ sung, điều chỉnh kịp
thời những giải pháp mới khi cần thiết; đúc rút kinh nghiệm, tổng kết thực tiễn để bổ


13
sung, hoàn chỉnh lý luận. Đồng thời, CBCC còn là người giữ vai trò đoàn kết, tập
hợp, phát huy sức mạnh của quần chúng thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị và
xây dựng nội bộ tổ chức vững mạnh.
- CBCC là những người đại diện một tổ chức, một tập thể... chủ yếu do bổ
nhiệm hoặc bầu cử, giữ một chức vụ trọng yếu trong cơ quan Đảng, chính quyền
(cấp trưởng, cấp phó); trưởng các đoàn thể và là những người chịu trách nhiệm
trước cấp trên và cấp mình về mọi hoạt động của địa phương, đơn vị hoặc lĩnh
vực công tác được đảm nhận.
Từ nhận thức đó, đặc biệt theo quan điểm được khẳng định trong Nghị quyết
Hội nghị BCH Trung ương lần thứ 5 khóa IX “Về đổi mới và nâng cao chất lượng
HTCT ở cơ sở xã, phường, thị trấn” cũng như Nghị định 112/2011/NĐ-CP ngày
05/12/2011 của Chính phủ “Về công chức xã, phường, thị trấn” thì tác giả luận văn
đề cập đến đội ngũ CBCC của HTCT cấp xã ở thị xã Kiến Tường bao gồm các
chức danh: Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy xã; Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND xã; Chủ
tịch, Phó Chủ tịch UBND xã; Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc; Chủ tịch Hội

Liên hiệp Phụ nữ; Chủ tịch Hội Cựu chiến binh; Bí thư Đoàn Thanh niên; Chủ
tịch Hội Nông dân.
1.1.3. Cán bộ chủ chốt cấp xã
Chính quyền cấp xã (hay cấp cơ sở) là cấp cuối cùng trong hệ thống hành
chính. Là bộ máy lãnh đạo quản lý gần dân nhất, sát dân nhất, HTCT cấp xã là
nền tảng của HTCT, là nơi trực tiếp thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách pháp luật của Nhà nước.
Từ khái niệm CBCC có thể hiểu CBCC cấp xã là những người đứng đầu,
giữ vị trí quyết định trong các cơ quan Đảng, chính quyền, đoàn thể trong HTCT
cơ sở. Theo đó, đội ngũ CBCC được đề tài tiến hành khảo sát điều tra bao gồm:
Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch UBND, Chủ tịch HĐND, Phó Chủ tịch UBND, Phó
Chủ tịch HĐND, Chủ tịch UBMTTQVN, Chủ tịch Hội Phụ nữ, Bí thư
ĐTNCSHCM, Chủ tịch Hội CCB, Chủ tịch Hội nông dân cấp xã.


14
1.2. Vai trò, vị trí và tiêu chuẩn cơ bản của cán bộ chủ chốt cấp xã
1.2.1. Vai trò của cán bộ chủ chốt
V.I. Lênin khẳng định rằng: Trong lịch sử chưa hề có một giai cấp nào
dành được quyền thống trị nếu nó không tạo ra được trong hàng ngũ của mình,
những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiền phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh
đạo phong trào. Thấm nhuần quan điểm chủ nghĩa Mác- Lênin, Bác Hồ cho rằng
Cán bộ là cái gốc của mọi công việc; công việc thành công hay thất bại đều do
cán bộ tốt hay kém. Người khẳng định: Huấn luyện cán bộ là công việc gốc của
Đảng, không có đội ngũ cán bộ tốt thì dù có đường lối, chủ trương, chính sách
đúng, sự nghiệp nghiệp cách mạng khó mà thành công.
Người nói: “Khi đã có chính sách đúng thì sự thành công hoặc thất bại của
chính sách đó là do nơi cách tổ chức công việc, nơi lựa chọn cán bộ và nơi kiểm
tra. Nếu ba điều ấy sơ sài thì chính sách đúng mấy cũng vô ích”. Người cho rằng,
vai trò của người cán bộ như “chiếc cầu nối” giữa Đảng, chính phủ, với nhân dân.

Cán bộ là người đem chính sách của Đảng, Nhà nước vào quần chúng để tuyên
truyền, giáo dục vận động quần chúng thực hiện có hiệu quả mọi chủ trương,
đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước. Điều này lại càng đúng đối với đội
ngũ cán bộ cơ sở.
1.2.2. Những tiêu chuẩn cơ bản của cán bộ chủ chốt.
Sự nghiệp cách mạng nước ta do Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong
của giai cấp công nhân Việt Nam lãnh đạo, Đảng đại diện cho lợi ích của giai cấp
công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam. Vì vậy đội ngũ CBCC nói
chung phải có những tiêu chuẩn cơ bản như sau:
- Thứ nhất, Người CBCC phải có tri thức và văn hoá chính trị, có khả năng
lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa giàu mạnh. V.I. Lênin đã chỉ ra rằng: Đảng của giai cấp công nhân là trí
tuệ, lương tâm và thời đại. Hồ Chí Minh cũng khẳng định: “Đảng ta là đạo đức, là
văn minh” vì vậy, người cán bộ của Đảng phải biết làm giàu trí tuệ của mình bằng
kho tàng tri thức nhân loại đã tạo ra.


15
- Thứ hai, Người CBCC phải đặt lợi ích của giai cấp, của dân tộc của nhân
loại lên trên lợi ích cá nhân.
- Thứ ba, CBCC phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, trên cơ sở lập trường
của giai cấp công nhân tuyệt đối trung thành với lý tưởng cách mạng, với chủ
nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Kiên định con đường độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội. Có năng lực dự báo và định hướng sự phát triển, tổng kết
thực tiễn, tham gia xây dựng đường lối, chính sách, pháp luật; thuyết phục và tổ
chức nhân dân thực hiện nhiệm vụ cách mạng. Có ý thức và khả năng đấu tranh
bảo vệ quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.
- Thứ tư, Người CBCC phải có tinh thần yêu nước sâu sắc, tận tụy phục vụ
nhân dân, kiên định mục tiêu, lý tưởng của Đảng, cần kiệm liêm chính, chí công
vô tư, không tham nhũng và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, có ý thức tổ

chức kỷ luật, trung thực không cơ hội gắn bó mật thiết với nhân dân và được nhân
dân tín nhiệm.
- Thứ năm, Người CBCC phải có kinh nghiệm và nghệ thuật trong hoạt
động chính trị, linh hoạt nhạy bén, giải quyết kịp thời đúng đắn những tình huống
phức tạp xảy ra.
Như vậy, với vai trò vô cùng quan trọng và trách nhiệm nặng nề người
CBCC có những tiêu chuẩn cần phải có. Để luôn xứng đáng là người tiêu biểu,
đại diện và lãnh đạo nhân dân, được nhân dân tín nhiệm, tin cậy và uỷ thác.
Người cán bộ lãnh đạo phải không ngừng rèn luyện tu dưỡng mọi mặt, thống nhất
giữa đức và tài, thực hiện được mục tiêu to lớn là đưa sự nghiệp cách mạng đến
thắng lợi cuối cùng.
Trên cơ sở những quan điểm chung, CBCC cấp cơ sở thể hiện những đặc
trưng cơ bản sau:
- Là người được giao đảm đương các nhiệm vụ quan trọng để lãnh đạo,
điều hành, tổ chức thực hiện nhiệm vụ, chịu trách nhiệm trước tập thể và cấp trên
về nhiệm vụ được phân công.


16
- Là người có trách nhiệm tiếp nhận các chủ trương chính sách và sự lãnh
đạo từ cấp trên.
- Là người giữ vị trí quan trọng trong việc cụ thể hoá đường lối, chính sách
của Đảng, chính quyền cấp trên vào điều kiện ở cơ sở, chủ trì việc hoạch định
chiến lược mục tiêu, phương hướng, đề ra chủ trương, chính sách động viên, tổ
chức nhân dân thực hiện những nhiệm vụ phát triển KT- XH ổn định đời sống
nhân dân trên địa bàn xã.
- Có thẩm quyền giải quyết các mối quan hệ chính trị, kinh tế, xã hội, an
ninh quốc phòng trong phạm vi toàn xã, có khả năng tổ chức công việc và là trung
tâm đoàn kết của tổ chức.
Như vậy, cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã là những người đứng đầu quan

trọng nhất trong HTCT cấp xã, có ảnh hưởng quyết định đến việc chấp hành chủ
trương, đường lối, Nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước
thông qua việc lãnh đạo và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, chính trị, văn
hoá xã hội trên địa bàn cấp xã mà mình phụ trách.
1.3. Năng lực lãnh đạo và các yếu tố cấu thành năng lực lãnh đaọ của
đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã
1.3.1. Năng lực lãnh đạo
Theo từ điển tiếng Việt, năng lực là khả năng, điều kiện chủ quan sẳn có
để thực hiện một hoạt động nào đó.
Theo nhà Tâm lý học người Nga N.A. Cơvaliốp: năng lực là một tập hợp
hoặc tổng hợp những thuộc tính cá nhân con người đáp ứng những nhu cầu của
hoạt động và bảo đảm cho hoạt động có kết quả cao…
Như vậy, nói đến năng lực là nói đến khả năng đạt được kết quả hoạt động
nào đó. Năng lực không phải là những thuộc tính cá nhân riêng lẽ mà là một tổ
hợp các thuộc tính cá nhân đáp ứng yêu cầu cao của hoạt động. Các thuộc thuộc
tính ấy có quan hệ tác động lẫn nhau, thống nhất với nhau trong một chỉnh thể.
Mỗi con người có thể tích hợp nhiều năng lực tiềm ẩn, những năng lực đó được
bộc lộ ra hay không tùy thuộc vào những điều kiện chủ quan hay khách quan. Đối


17
với những người có tài năng đặc biệt và thiên tài, năng lực của họ được phát triển
và bộc lộ mạnh mẽ khiến họ đạt đến đỉnh cao ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Năng
lực vừa mang tính bẩm sinh có sẳn vừa là kết quả của quá trình học tập, rèn luyện,
hoạt động thực tiễn của con người.
Theo Hồ Chí Minh: Năng lực con người không phải hoàn toàn do tự nhiên
mà có, mà một phần lớn do công tác, do luyện tập mà có. Vì thế, năng lực không
chỉ là tư chất bẩm sinh thuần tuý vốn có của con người, mà là kết quả của sự phối
hợp những tư chất bẩm sinh vốn có với sự rèn luyện, tu dưỡng, học tập thông qua
hoạt động thực tiễn của con người.

Người cán bộ lãnh đạo nói chung, CBCC nói riêng dù ở cấp nào cũng phải
có năng lực nhất định. Trong đó, năng lực tư duy lý luận và năng lực tổ chức thực
tiễn là hai nhân tố quan trọng nhất. Hai yếu tố này có quan hệ chặt chẽ với nhau,
không tách rời nhau, cái này hỗ trợ cái kia phát triển. Không có năng lực tư duy lý
luận thì không có khả năng khái quát, sáng tạo và vận dụng đúng đắn linh hoạt
các qui luật khách quan. Ngược lại không có năng lực thực tiễn thì sa vào bệnh
giáo điều, chủ quan duy ý chí, quan liêu, mệnh lệnh xa rời thực tiễn, thoát ly cuộc
sống đầy sôi động đang cuộn chảy.
Cấp xã là cấp trực tiếp, cấp cuối cùng triển khai, tổ chức, vận động nhân
dân thực thi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước
đòi hỏi đội ngũ CBCC của HTCT phải có năng lực toàn diện, nhất định trên nhiều
lĩnh vực mới đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ được giao. Ngoài ra, cán bộ lãnh
đạo chủ chốt cấp xã còn phải có năng lực sáng tạo, tính quyết đoán và khả năng
làm việc với con người.
Từ những phân tích như trên có thể hiểu, năng lực CBCC cấp cơ sở là tổng
hợp khả năng lãnh đạo, quản lý điều hành hoạt động với chất lượng và hiệu quả
cao.
1.3.2. Những yếu tố cấu thành năng lực lãnh đạo của đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp xã
1.3.2.1. Năng lực tư duy lý luận


18
Là tổng thể tri thức trí tuệ, phương pháp luận của chủ thể đáp ứng yêu cầu
phát triển, nhận thức nhanh nhạy, đúng đắn về những vấn đề thực tiễn ở cấp độ lý
luận, giúp cho CBCC cơ sở có những phản ứng sắc bén, khả năng vận dụng sáng
tạo linh hoạt lý luận vào thực tiễn nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động lãnh đạo,
quản lý cơ sở. Nó được biểu hiện cụ thể:
Thứ nhất, đó là khả năng tiếp thu lý luận, đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách pháp luật của Nhà nước một cách đúng đắn, khả năng phát hiện những

mâu thuẫn, những vấn đề mới, khả năng tổng kết thực tiễn và khả năng vận dụng
sáng tạo lý luận, đường lối, chủ trương, chính sách để xây dựng chương trình, kế
hoach công tác, kế hoạch phát triển KT- XH phù hợp với thực tiễn ở cơ sở.
Thứ hai, năng lực tư duy lý luận mang tính khái quát, là khả năng liên kết
tri thức các lĩnh vực, các ngành nghề, các bộ phận phong phú đa dạng thành một
chỉnh thể ở mức độ khái quát cao. Đồng thời phân định được tính đặc thù, tính
riêng biệt của các loại lĩnh vực, bộ phận để khi lãnh đạo, chỉ đạo vừa mang tính
lịch sử cụ thể vừa mang tính khái quát tổng hợp.
Thứ ba, năng lực hiện thực hoá tri thức đó là khả năng biến những tri
thức đã lĩnh hội được thành các chủ trương, chương trình, kế hoạch hành động
làm biến đổi hiện thực trực tiếp. Nó thực hiện khả năng vận dụng lý luận vào
thực tiễn, liên hệ lý luận với thực tiễn, vận dụng cái chung một cách đúng đắn
vào từng tình huống cụ thể. Đó cũng là khả năng tổng hợp để có cái nhìn hệ
thống, nắm được cái chủ yếu, cái bản chất của sự vật hiện tượng trong sự vận
động của chúng, trên cơ sở đó đưa ra những quyết định đúng đắn phù hợp với
thực tiễn cơ sở.
Như vậy, năng lực tư duy lý luận của CBCC cấp xã có giá trị định hướng
đúng đắn hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của đội ngũ này. Cơ sở của
năng lực tư duy lý luận là tri thức lý luận chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, kho tàng tri thức của nhân loại, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng
và sự trải nghiệm thực tiễn địa phương trong phong trào cách mạng.
1.3.2.2. Năng lực tổ chức thực tiễn


19
Là năng lực tổ chức vận hành bộ máy HTCT cấp xã, có nhiệm vụ xác định
hoạt động nhịp nhàng cân đối có trật tự, có hiệu lực, hiệu quả nhằm hiện thực hoá
những mục tiêu đề ra. Biểu hiện cụ thể của năng lực tổ chức thực tiễn của đội ngũ
CBCC cấp xã như sau:
Một là, có khả năng thu nhập và xử lý thông tin liên quan đến mọi mặt

của đời sống xã hội: Chính trị, kinh tế, văn hoá, an ninh quốc phòng… ở cấp xã
một cách nhanh chóng và có hiệu quả cụ thể, thiết thực. Công tác lãnh đạo quản
lý là biểu hiện mối quan hệ giữa chủ thể lãnh đạo quản lý và khách thể bị lãnh
đạo, quản lý. Mối quan hệ này được phản ánh qua thông tin hai chiều giữa chủ
thể và khách thể. Thiếu thông tin hoặc xử lý thông tin không kịp thời, chính xác
người lãnh đạo quản lý dễ rơi vào tình trạng quan liêu, độc đoán, chuyên quyền
xa rời thực tiễn.
Đội ngũ CBCC cấp xã gắn liền với cơ sở, họ vừa phải tổ chức thực hiện
các chỉ thị, nghị quyết của cấp trên, vừa phải bám sát cơ sở, nắm chắc tình hình
cơ sở để triển khai thực hiện nhiệm vụ kế hoạch đúng đắn phù hợp với thực tiễn
cơ sở. Vì vậy, thu thập xử lý thông tin đầy đủ trước hết phải nắm vững chủ
truơng, chính sách của Đảng, Nhà nước, chỉ thị Nghị quyết của cấp trên. Đồng
thời phải xây dựng phương pháp làm việc khách quan, khoa học hình thành
mạng lưới cung cấp thông tin xác thực từ cơ sở kết hợp với việc đi sâu, đi sát cơ
sở nắm vững những diễn biến hoạt động KT- XH, an ninh-quốc phòng…từ nhân
dân. Sau khi có đầy đủ thông tin người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã lại phải
có khả năng tổng hợp, khái quát, phân tích để rút được những đặc điểm nguyên
nhân đề ra được những giải pháp, quyết định đúng đắn giải quyết có hiệu quả
những nhiệm vụ đặt ra.
Hai là, khả năng tổ chức bộ máy, phối hợp các lực lượng, các bộ phận, cá
nhân thực hiện nhiệm vụ đặt ra ở cấp xã. CBCC ở cấp xã phải có tư duy tổ chức
phối hợp các bộ phận trên cơ sở phát hiện ra những điểm mạnh, điểm yếu của đội
ngũ cán bộ dưới quyền để bố trí phù hợp với năng lực, sở trường. Phải là trung


20
tâm đoàn kết, thu hút cán bộ cấp dưới và nhân dân tạo nên sức mạnh tổng hợp
nhằm thực hiện những nhiệm vụ đang đặt ra.
Ba là, làm tốt công tác kiểm tra, giám sát để duy trì, điều chỉnh việc thực
hiện các quyết định quản lý. Phát hiện kịp thời những vấn đề mới nảy sinh để giải

quyết, tìm ra những lệch lạc sai sót để sửa chữa, điều chỉnh các vấn đề thực tế đặt
ra để các quyết định có hiệu lực, hiệu quả có ý nghĩa rất quan trọng. Lênin chỉ rõ:
“Khi mục tiêu và nhiệm vụ đã được xác định, quyết định được thông qua, bộ máy
con người đã được sắp xếp thì trọng tâm của sự lãnh đạo, quản lý phải chuyển
sang lĩnh vực kiểm tra và gắn với kiểm tra là đôn đốc, uốn nắn, tổ chức thực hiện
đến cùng quyết định”.
Công tác kiểm tra giám sát làm tăng hiệu quả các quyết định quản lý, đảm
bảo cho việc hoàn thành nhiệm vụ một cách triệt để, tránh được các căn bệnh vốn
có như qua loa, đại khái, hạn chế các tiêu cực có thể nảy sinh trong quá trình thực
hiện nhiệm vụ. Năng lực này còn thể hiện ở khả năng đánh giá hiệu quả việc thực
hiện các quyết định và khả năng đúc rút kinh nghiệm thực tiễn kịp thời vận dụng
nó vào cuộc sống.
1.3.2.3 Năng lực sáng tạo và tính quyết đoán
Năng lực sáng tạo là khả năng vận dụng tri thức lý luận và khoa học vào
thực tiễn không rập khuôn máy móc, tìm ra những con đường mới những phương
pháp mới, giải quyết những vấn đề mà thực tiễn đặt ra phù hợp với đòi hỏi khách
quan. Với tư duy năng động người CBCC cấp xã phải nắm bắt được sự vận động
biến đổi không ngừng ở cấp xã trên quan điểm khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ
thể và phát triển để đưa ra những quyết sách đúng.
Bên cạnh đó phải tìm ra cái mới, phân tích được nguyên nhân phát sinh, xu
hướng vận động của các vấn đề đặt ra ở cấp xã để có những giải pháp phù hợp.
Thực tiễn hết sức phong phú, vì vậy người CBCC cấp cơ sở phải có khả năng
phân loại, hệ thống hoá vấn đề, xác định được trọng tâm, mâu thuẫn cơ bản để có
phương án giải quyết sát đúng, ra những quyết định nhanh nhạy phát huy được
nguồn lực, tiềm năng của cơ sở, địa phương để ổn định chính trị xã hội, phát triển


21
kinh tế. Đi cùng với tính sáng tạo là tính quyết đoán, đó là khả năng nắm bắt được
vấn đề, ban hành những quyết định quả quyết, dứt khoát, không do dự, không rụt

rè, đùn đẩy, thoái thác trách nhiệm. Trên cơ sở nắm vững cơ sở khoa học của vấn
đề, nắm vững phương pháp luận trong giải quyết vấn đề, tính quyết đoán tăng
thêm hiệu lực, hiệu quả quản lý, tạo được niềm tin cho người thực hiện, bảo đảm
sự thống nhất, nhất quán trong việc ra quyết định lãnh đạo, chỉ đạo. Nó là sản
phẩm của tính kiên quyết, tính chủ động, tư duy sáng tạo, sự thận trọng và niềm
tin khoa học. Tính quyết đoán khác hẳn với bệnh hách dịch, cửa quyền, quan liêu,
mệnh lệnh, liều lĩnh và phiêu lưu. Tính quyết đoán thể hiện trước hết ở khả năng
phán đoán chính xác tình hình, đưa ra được quyết định chỉ đạo ngay lập tức, chính
xác trong những tình huống bất ngờ mà không đòi hỏi thời gian chờ đợi để phân
tích dự kiện hoặc chưa có đủ dự kiện cần thiết để phân tích. Quyết định này có
được do sự nhạy cảm của trực giác, khả năng phán đoán, phân tích, tổng hợp
nhanh nhạy trên cơ sở tri thức phong phú đã được tích lũy. Cấp xã là nơi diễn ra
mọi hoạt động của đời sống xã hội, nơi tổ chức và thực thi đường lối chính sách
của Đảng và Nhà nước, nơi hàng ngày, hàng giờ CBCC cấp cơ sở gắn bó, gần gủi
mật thiết với nhân dân. Vì vậy, những vấn đề xảy ra cũng hết sức phong phú,
phức tạp, nhạy cảm đòi hỏi người CBCC cấp cơ sở phải giải quyết kịp thời, đúng
đắn những vấn đề thực tiễn đặt ra. Nếu không giải quyết kịp thời sẽ không đạt
được hiệu quả công tác lãnh đạo quản lý; mất thời cơ, lúng túng, bị động, công
việc dồn ép, làm chậm, phát triển KT- XH, kìm hãm, cản trở… Nếu quyết định
sai, võ đoán, chậm trễ sẽ gây mất lòng tin, có thể là ngòi nổ bùng phát xung đột
hoặc tăng thêm bùng phát xung đột gây mất ổn định trật tự xã hội. Nếu không
quyết đoán, trông chờ ỷ lại cấp trên, dựa dẫm vào tập thể thì hiệu quả công tác
kém. Vì thế người CBCC cấp cơ sở phải không ngừng học tập, rèn luyện để có tri
thức nhận biết được sự vận động của thực tiễn, hiểu và nắm vững công việc mình
phụ trách, có phương pháp luận khoa học, rèn luyện tính quyết đoán để có khả
năng ra quyết định một cách dứt khoát và dám chịu trách nhiệm về quyết định của
mình.


22

1.3.2.4. Năng lực tạo không khí hài hòa trong các mối quan hệ
Môi trường hoạt động của CBCC cấp cơ sở luôn gắn liền với con người.
Công tác lãnh đạo quản lý của họ là sự tác động đến con người bằng nhiều
phương thức khác nhau. Vì thế khả năng giao tiếp vừa thể hiện năng lực lãnh đạo
vừa là một nghệ thuật để nâng cao năng lực lãnh đạo. Phần lớn thời gian làm việc
của CBCC cấp cơ sở là giao tiếp với cấp trên (để nhận chỉ đạo) với cấp dưới (để
triển khai công việc) và đặc biệt là giao tiếp với nhân dân. Chất lượng công tác
phụ thuộc rất nhiều vào khả năng giao tiếp, làm việc với con người.
Năng lực làm việc với con người là khả năng nắm bắt được tâm lý tư tưởng
của đối tượng thông qua giao tiếp để chuyển được chủ trương chính sách của
Đảng và Nhà nước vào cuộc sống thông qua con người. Người CBCC cấp cơ sở
phải xây dựng được các mối quan hệ, phải thu hút mọi người tham gia vào công
việc chung xuất phát từ lợi ích chung. Có thái độ điềm tĩnh, cư xử nhã nhặn, lịch
sự, tế nhị, khiêm tốn với nhân dân, tôn trọng hiểu rõ tâm tư tình cảm lợi ích của
nhân dân, thông cảm lắng nghe ý kiến nhân dân. Biết tự phê bình và phê bình,
phát huy sáng kiến nhân dân, nghiêm khắc với những tiêu cực. Do vậy, CBCC
cấp cơ sở phải có khả năng đoàn kết, phát huy sức mạnh của đội ngũ cán bộ cơ sở
trong HTCT, sức mạnh của toàn dân và phát huy quyền làm chủ của nhân dân để
thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương.

Kết luận chương 1
Sự phát triển KT- XH mạnh mẽ, đúng hướng của Long An nói chung, Kiến
Tường nói riêng trong những năm qua cũng như tình hình hình chính trị trong
nước và quốc tế có sự tác động mạnh mẽ đến địa phương là yếu tố khách quan
quy định việc xác định nội dung, biện pháp xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung,
nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC cấp cơ sở ở thị xã Kiến Tường nói riêng.
Cấp xã, thị xã Kiến Tường có vai trò rất quan trọng. CBCC cấp xã có nhiệm
vụ lãnh đạo, giám sát, quản lý và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ trên địa bàn, xây
dựng tổ chức cơ sở Đảng và HTCT vững mạnh. Năng lực lãnh đạo của đội ngũ



23
CBCC cấp cơ sở gồm tổng thể chất lượng các yếu tố hợp thành. Nâng cao chất
lượng đội ngũ CBCC cấp cơ sở là yêu cầu khách quan, là vấn đề cấp thiết hiện
nay. Đó là việc thực hiện các nội dung, hình thức, biện pháp về tư tưởng, tổ chức
và chính sách của các chủ thể, trực tiếp là thị ủy và Đảng ủy các xã, phường nhằm
nâng cao phẩm chất, năng lực lãnh đạo của mỗi CBCC, tạo ra chuyển biến chất
lượng cả đội ngũ, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ lãnh đạo, quản lý,
điều hành và tổ chức thực hiện nhiệm vụ của cấp xã ở thị xã Kiến Tường.


24
Chương 2
THỰC TRẠNG NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CỦA ĐỘI NGŨ CÁN
BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ Ở THỊ XÃ KIẾN TƯỜNG, TỈNH LONG AN
2.1. Khái quát đặc điểm địa lý, kinh tế, xã hội thị xã Kiến Tường
2.1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
2.1.1.1. Vị trí địa lý:
Kiến Tường là thị xã thuộc vùng Đồng Tháp Mười, nằm ở phía Tây bắc của
tỉnh Long An, có tọa độ địa lý 18o02’18” đến 18o20’51” vĩ độ bắc và từ 105o51’17” đến
106o09’13” kinh độ đông. Phía đông giáp huyện Mộc Hóa, phía bắc giáp huyện
Kôngpongrồ, tỉnh Vrâyriêng (Vương quốc Campuchia), phía tây giáp huyện Tân
Hưng, phía nam giáp huyện Tân Thạnh.
Toàn thị xã có 08 đơn vị hành chính cấp xã với tổng diện tích tự nhiên
20.428.9,20hecta, tổng dân số 42.952 người với cơ cấu kinh tế nông - lâm - ngư
nghiệp, công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp gắn với thương mại - du lịch. Những
năm gần đây nền kinh tế Kiến Tường có bước phát triển vượt bậc, quốc phòng
được củng cố, an ninh chính trị được giữ vững.
Thị xã Kiến Tường thuộc tiểu vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa. Nhiệt độ
trung bình hàng năm là 27,70C; nhiệt độ có lúc lên đến 29,40c (tháng 4), thấp nhất

có khi xuống 25,50C (tháng 12). Độ ẩm trung bình hàng năm là 81%. Lượng mưa
hàng năm vào loại trung bình phân bổ trong khoảng thời gian từ (tháng 4 đến
tháng 10).
Địa hình khá đa dạng: Sông- kênh - rạch - bàu chằng chịt, các con sông hầu
hết bắt nguồn từ sông Cửa long, sông Hậu, sông Vàm Cỏ tây và Vàm Cỏ đông, các
hệ thống kênh, rạch chằng chịt là hệ thống thoát nước rất tự nhiên, làm cho thị xã
bớt ngập úng khi mưa đồng thời là nguồn nước tự nhiên cho sinh hoạt, sản xuất
cũng như lợi thế để nuôi trồng thủy sản.
Đất đai: Diện tích đất tự nhiên của thị xã là 20.428,20 ha, chiếm 4,54%
tổng diện tích tự nhiên của tỉnh. Trong đó diện tích nông nghiệp 15.120,33 ha
chiếm 74,01%, đất lâm nghiệp 402,06 ha chiếm 1,96%.


25
Về du lịch: Hiện nay: Núi đất, Bờ kè sông Vàm Cỏ tây, cửa khẩu Quốc tế
Bình Hiệp và các di tích như khu di tích bắc chiêng, Bia tưởng niệm các anh hùng
liệt sĩ hy sinh trận Mậu thân xuân 1968, Đồn Ông Tờn, trận Mộc Hóa- tiểu đoàn
307... là những điểm du lịch lý tưởng, hấp dẫn với du khách.
2.1.1.2. Dân số, dân cư, nguồn nhân lực:
Theo số liệu điều tra, dân số của thị xã tính đến ngày 31/12/2014 là 42.920
người, với 11.042 hộ, bao gồm 18.549 người sống ở khu vực đô thị, chiếm
43,18% và 24.403 người sống ở khu vực nông thôn, chiếm 56,81%. Mật độ trung
bình: 210 người/km2. Dân số trong độ tuổi lao động toàn thị xã có 26.898 người,
chiếm tỷ lệ 17,08%. Lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật không
cao. Cơ cấu lao động so với cơ cấu kinh tế có sự chênh lệch lớn; số lao động trong
lĩnh vực công nghiệp, xây dựng, tiểu thủ công nghiệp có 2.190 người, chiếm
8,14%; lao động làm nông, lâm, ngư, nghiệp có 1997 người, chiếm tỷ lệ 7,42%;
lao động làm dịch vụ, thương mại có 2.780 người, chiếm 10,33%. Toàn thị xã có
11.452 người trong độ tuổi lao động đã qua đào tạo, chiếm tỷ lệ 39,32%, trong đó:
ĐH và trên ĐH có 232 người, chiếm tỷ lệ 2,02%, CĐ có 18. người, chiếm tỷ lệ

0,15%, Trung cấp có 83 người, chiếm tỷ lệ 0,72%, lực lượng này đang hoạt động
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống KT- XH, góp phần to lớn vào sự nghiệp
CNH- HĐH quê hương, đất nước [nguồn: tư liệu lưu trữ tại VP UBND Thị xã
Kiến Tường, tháng 2/2015].
2.1.2. Thành quả về Kinh tế - xã hội.
2.1.2.1. Về kinh tế:
Những năm qua, KT - XH của các xã, phường trên địa bàn thị xã có bước
tăng trưởng khá, đời sống nhân dân được cải thiện đáng kể. Tốc độ tăng trưởng
bình quân những năm gần đây đạt cao, riêng năm 2012 đạt 13,5%. Cơ cấu kinh tế
có sự chuyển biến tích cực.
a, Sản xuất nông- lâm - ngư nghiệp:
Năm 2014, tổng giá trị sản xuất ước đạt 1.176,0 tỷ đồng, tăng 5% so với
năm 2013. Trong đó: trồng trọt 585 tỷ đồng, chăn nuôi 480 tỷ đồng, lâm nghiệp


×