Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

Nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (426.89 KB, 93 trang )

-1-

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

THÁI PHÚC SƠN

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC
ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG CHO THANH NIÊN HÀ TĨNH
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 60. 31. 02. 01
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

Cán bộ hướng dẫn khoa học:
PGS. TS. ĐOÀN MINH DUỆ

Nghệ An - 2015


-2LỜI CẢM ƠN
Luận văn này hoàn thành, trước hết là do sự nỗ lực của bản thân, đồng
thời có sự hướng dẫn, giúp đỡ tận tình của PGS. TS. GVCC. Đoàn Minh Duệ,
cũng như các Thầy, cô giáo khoa Giáo dục Chính trị và Phòng Đào tạo Sau đại
học thuộc Trường Đại học Vinh.
Tôi cũng chân thành cảm ơn sự quan tâm tạo điều kiện của gia đình, sự
giúp đỡ có hiệu quả của bạn bè và các đồng nghiệp đang công tác tại Sở Ngoại
vụ và Tỉnh đoàn Hà Tĩnh trong suốt quá trình học tập và viết Luận văn.
Cuối cùng, tôi xin gửi tới các Giáo sư, Tiến sĩ, các nhà khoa, các bạn
đồng nghiệp lời cảm ơn sâu sắc nhất.
Tác giả



Thái Phúc Sơn


-3MỤC LỤC
Trang phụ bìa.......................................................................................................
Lời cảm ơn............................................................................................................
Mục lục .................................................................................................................
Quy định chữ cái viết tắt ....................................................................................
A. MỞ ĐẦU......6
B. NỘI DUNG.....................................................................................................
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CÔNG TÁC GIÁO DỤC ĐẠO
ĐỨC, LỐI SỐNG CHO THANH NIÊN..........................................................
1.1. Một số khái niệm.........................................12
1.2 Nội dung của công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên giai
đoạn hiện nay.......................................................................................................
1.3. Tầm quan trọng của công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên
giai đoạn hiện nay................................................................................................
Kết luận Chương 1...............................................................................................
Chương 2: THỰC TRẠNG ĐẠO ĐỨC LỐI SỐNG VÀ CHẤT
LƯỢNG CÔNG TÁC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG CHO
THANH NIÊN Ở TỈNH HÀ TĨNH GIAI ĐOẠN HIỆN NAY......................
2.1. Khái quát đặc điểm kinh tế - xã hội tỉnh Hà Tĩnh.........................................
2.2 Thực trạng đạo đức, lối sống và chất lượng công tác giáo dục đạo đức, lối
sống cho thanh niên Hà Tĩnh hiện nay.................................................................
Kết luận Chương 2...............................................................................................
Chương 3: QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC, LỐI
SỐNG CHO THANH NIÊN HÀ TĨNH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN
NAY.....................................................................................................................



-43.1. Quan điểm, mục tiêu công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên
tỉnh Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay..............................................................
..............................................................................................................................
3.1. Một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác giáo dục đạo đức, lối
sống cho thanh niên tỉnh Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay..............................
..............................................................................................................................
Kết luận Chương 3...............................................................................85
C. KẾT LUẬN....................................................................................................
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................


-5-

QUY ĐỊNH CHỮ CÁI VIẾT TẮT
1. CNH, HĐH

: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

2. CNXH

: Chủ nghĩa xã hội

3. ĐVTN

: Đoàn viên thanh niên

4. HĐND


: Hội đồng nhân dân

5. TNCS

: Thanh niên cộng sản

6. UBND

: Ủy ban nhân dân

7. XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


-6A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thanh niên là lực lượng hùng hậu, có tiềm năng to lớn, đóng góp quan
trọng trong quá trình xây dựng, phát triển đất nước. Đảng và nhân dân ta luôn
đặt niềm tin và kỳ vọng lớn vào thanh niên, xác định thanh niên là rường cột của
nước nhà, chủ nhân tương lai của đất nước, là một trong những nhân tố quyết
định tương lai, vận mệnh của dân tộc, công tác thanh niên là một trong những
yếu tố quyết định thành bại của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, hội nhập quốc tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thanh niên được đặt ở vị
trí trung tâm trong chiến lược bồi dưỡng, phát huy nhân tố và nguồn lực con
người. Chăm lo, phát triển thanh niên vừa là mục tiêu, vừa là động lực bảo đảm
cho sự ổn định và phát triển bền vững của đất nước.
Sau gần 30 năm đổi mới, nhiều chủ trương, đường lối về công tác thanh
niên được Đảng ban hành, Nhà nước cụ thể hóa thành chính sách pháp luật về
thanh niên và công tác thanh niên, qua đó đã tạo những điều kiện tốt nhất để thế

hệ tương lai của đất nước phấn đấu vươn lên.
Trong những năm qua cùng với thanh niên cả nước, các thế hệ thanh niên
Hà Tĩnh đã có bước trưởng thành nhanh chóng, phần lớn có lý tưởng, niềm tin
vào sự lãnh đạo của Đảng và sự phát triển của tỉnh nhà, không ngừng học tập,
rèn luyện, nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ, sẵn sàng đảm
nhận những việc mới, việc khó, biết sẻ chia, chung sức cùng cộng đồng xã hội,
phấn đấu vươn lên đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, một bộ phận thanh niên Hà Tĩnh có lối sống thực dụng, ích kỷ,
đua đòi, xa hoa, lãng phí, phai nhạt lý tưởng, giảm sút niềm tin, bản lĩnh non
kém, không có chí tiến thủ rõ ràng, suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối
sống, sa vào các tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật, có thái độ thờ ơ trước những


-7vấn đề thời sự của đất nước, của tỉnh, ít quan tâm đến cộng đồng và những
người xung quanh; thiếu hụt kiến thức về ngoại ngữ, tin học, lịch sử. Việc sử
dụng Internet của một bộ phận thanh niên theo hướng thiếu lành mạnh, nhất là
ảnh hưởng từ game online, trang mạng xã hội gây tác hại đến thể chất và nhân
cách của thanh niên; một bộ phận thanh niên lười lao động, lười học tập, ngại
khó, ngại khổ, chưa làm tròn trách nhiệm và nghĩa vụ của mình đối với gia đình
và xã hội. Một bộ phận thanh niên thiếu ý thức rèn luyện, ngại tham gia các hoạt
động Đoàn, Hội, Đội, các phong trào và hoạt động tập thể do nhà trường, địa
phương tổ chức.
Đứng trước những thời cơ, thách thức mới và phức tạp, đặc biệt đối với Hà
Tĩnh hiện nay đang có những bước phát triển nhanh, mạnh mẽ về kinh tế - xã
hội và hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, triển khai nhiều chương trình dự án
kinh tế - xã hội trọng điểm trên địa bàn, thu hút lực lượng lao động trẻ rất lớn
đến từ trong và ngoài nước sẽ kéo theo những vấn đề xã hội phức tạp tác động
đến thanh niên. Vì vậy việc tăng cường công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho
thanh niên góp phần xây dựng lớp thanh niên Hà Tĩnh giàu lòng yêu quê hương,

đất nước, có lý tưởng cách mạng, có bản lĩnh văn hóa là yêu cầu cấp thiết trong
giai đoạn hiện nay. Với những sự cần thiết đó, tác giả chọn vấn đề: “Nâng cao
chất lượng giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên Hà Tĩnh trong giai đoạn
hiện nay” làm đề tài luận văn Cao học Thạc sĩ.
Vấn đề thanh niên và giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên đã có nhiều
tác giả nghiên cứu với nhiều công trình khoa học có giá trị được công bố như:
Hồ Chí Minh: “Về giáo dục thanh niên” Nxb Sự thật Hà Nội 1980; Đạo
đức mới của GS. Vũ Khiêu, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 1974; Đỗ Mười, Lý
tưởng của Thanh niên Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới, NXB Thanh niên - Hà
Nội, 1995; Đỗ Mười (1995), Lý tưởng cách mạng của thanh niên trong thời kỳ
đổi mới, NXB Thanh niên, Hà Nội; sự biến đổi của thang giá trị đạo đức trong
nền kinh tế thị trường với việc xây dựng đạo đức mới cho cán bộ quản lý ở nước


-8ta hiện nay, Nguyễn Chí Mỳ chủ biên, Nxb chính trị quốc gia Hà Nội - 1999;
Giáo trình đạo đức học do GS. Nguyễn Ngọc Long chủ biên, Nxb Chính trị quốc
gia Hà Nội - 2000; Nguyễn Phương Hồng, Thanh niên, học sinh với sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997;
Phạm Đình Nghiệp, Giáo dục lý tưởng cách mạng cho thế hệ trẻ Việt Nam trong
tình hình mới, NXB Thanh niên, Hà Nội 2000; Thanh Duy, Tư tưởng Hồ Chí
Minh với sự nghiệp xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, NXB
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002; Đoàn Nam Đàn, Tư tưởng Hồ Chí Minh về
giáo dục thanh niên, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002; Trần Quy Nhơn,
Tư tưởng Hồ Chí Minh về bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau, NXB Giáo
dục, 2004; Võ Minh Tuấn với "Giáo dục ý thức đạo đức cho sinh viên hiện
nay”, NXB Thanh niên 2005; Dương Tự Đam (2008), Giáo dục thanh niên kế
thừa nhân cách Hồ Chí Minh để trưởng thành và phát triển, NXB Chính trị Quốc
gia, Hà Nội; nhóm tác giả Quang Vinh, Trần Kim Duyên, Văn Song với "Hồ
Chí Minh về giáo dục và tổ chức thanh niên”, NXB Thanh niên 2005; Văn
Tùng, Tư tưởng Hồ Chí Minh về thanh niên và công tác thanh niên, NXB Thanh

niên, Hà nội 2006...
Ngoài ra còn có nhiều luận án, đề tài khoa học nghiên cứu về thanh niên và
giáo dục thanh niên như: Luận án Tiến sỹ của Trần Sỹ Phán năm 1999 “Giáo
dục đạo đức đối với sự hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay”; Luận án Tiến sỹ của Lê Thị Hoài Thanh năm 2002
“Quan hệ biện chứng giữa truyền thống và hiện đại trong giáo dục đạo đức cho
thanh niên Việt Nam hiện nay”; Luận án Tiến sỹ năm 2002 của Trần Minh Đoàn
“Giáo dục đạo đức cho thanh niên học sinh theo tư tưởng Hồ Chí Minh hiện
nay”; Đoàn Minh Duệ và các cộng tác viên (2004), Những giải pháp nâng cao
chất lượng giáo dục truyền thống cho sinh viên Trường đại học Vinh, Đề tài
nghiên cứu khoa học cấp Bộ; Luận văn Thạc sỹ của Doãn Thị Chín năm 2004


-9“Vấn đề giáo dục đạo đức truyền thống cho sinh viên Việt Nam hiện nay”; Luận
văn Thạc sỹ của Nguyễn Đình Quế (2000) “Quan hệ kinh tế và đạo đức với việc
xây dựng đạo đức mới cho thế hệ trẻ Việt Nam; Nguyễn Thị Hà (2010) Vai trò
của Đoàn thanh niên đối với công tác định hướng giá trị cho thanh thiếu nhi giai
đoạn hiện nay; Đề án của Thủ tướng Chính phủ về “Tăng cường giáo dục lý
tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống cho thanh niên, thiếu niên, nhi đồng giai
đoạn 2015 – 2020; Nghị quyết 02 Hội nghị lần thứ ba BCH Trung ương Đoàn
khóa X về “Tăng cường giáo dục đạo đức lối sống, bồi dưỡng lý tưởng cách
mạng cho thanh thiếu niên giai đoạn 2013 - 2017”; Cuộc vận động của Trung
ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh về xây dựng giá trị hình mẫu thanh niên “Tâm
trong, trí sáng, hoài bão lớn”, .... Bên cạnh đó còn rất nhiều bài viết về đạo đức,
giáo dục đạo đức, lối sống cho thế hệ trẻ được công bố trên các tạp chí chuyên
ngành, các tạp chí lý luận tuyên truyền như: Nguyễn Phú Trọng (2005), về cuộc
đấu tranh tư tưởng trong tình hình hiện nay, Tạp chí Cộng sản số 774, tháng 11;
Truyền thống đạo đức trọng nhân nghĩa và ảnh hưởng của nó đối với sinh viên
hiện nay của TS. Nguyễn Lương Bằng, Tạp chí Giáo dục, số 4/2006; Đinh Thế
Định, “Giáo dục thanh niên “Trung với nước, hiếu với dân” theo tư tưởng tấm

gương đạo đức Hồ Chí Minh”, Tạp chí lý luận chính trị số 6, 2007; Lưu Thị
Hường (2014), Tăng cường công tác giáo dục bồi dưỡng thế hệ trẻ, Tạp chí
Thanh niên số 27, tháng 7/2014.
Những kết quả nghiên cứu trên là nguồn tư liệu quý giá để chúng tôi tham
khảo và kế thừa trong quá trình thực hiện đề tài luận văn của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn đạo đức, lối sống và việc giáo dục
đạo đức, lối sống cho thanh niên Hà Tĩnh, từ đó tác giả đề xuất một số giải pháp
nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên Hà
Tĩnh trong giai đoạn hiện nay.


-103. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích làm rõ cơ sở lý luận về công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho
thanh niên.
- Làm rõ thực trạng đạo đức, lối sống cho thanh niên Hà Tĩnh hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác giáo dục đạo đức,
lối sống cho thanh niên tỉnh Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng
Tình hình đạo đức, lối sống thanh niên và giáo dục đạo đức, lối sống cho
thanh niên Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay.
4.2. Phạm vi
Đề tài luận văn tập trung nghiên cứu công tác giáo dục đạo đức, lối sống
cho thanh niên tỉnh Hà Tĩnh trong thời gian qua, thực trạng, nguyên nhân và giải
pháp chủ yếu nhằm tăng cường công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh
niên trong giai đoạn hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Luận văn dựa trên những quan điểm lý luận của Chủ nghĩa Mác- Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam; nghị

quyết; chương trình hành động của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh về công tác giáo
dục đạo đức, lối sống cho thanh niên trong điều kiện hiện nay đồng thời sử dụng
kết quả nghiên cứu của các tác giả khác đã công bố liên quan đến nội dung của
đề tài luận văn.
- Đề tài luận văn sử dụng phối hợp các phương pháp nghiên cứu cơ bản
sau: Lịch sử - logic, phân tích - tổng hợp; so sánh - đối chiếu; phương pháp
thống kê; điều tra xã hội học để thực hiện mục đích và nhiệm vụ đề tài đặt ra.
6. Đóng góp mới của luận văn
- Luận văn hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác giáo
dục đạo đức, lối sống và vai trò của công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho


-11thanh niên; đánh giá thực trạng, nguyên nhân và đưa ra những giải pháp chủ yếu
nhằm nâng cao chất lượng công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên
trong tình hình mới ở tỉnh Hà Tĩnh.
- Luận văn là tài liệu tham khảo hữu ích cho đội ngũ cán bộ Đoàn - Hội
trong công tác giáo dục cho thanh niên Hà Tĩnh, cũng như trong nghiên cứu và
giảng dạy môn đạo đức học.
- Kết cấu luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn được kết cấu trong 3 chương, 7 tiết


-12B. NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CÔNG TÁC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC,
LỐI SỐNG CHO THANH NIÊN
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Thanh niên
Từ góc độ xã hội học, thanh niên được xem là một nhóm xã hội của những
người “mới lớn”. Từ góc độ tâm lý học, thanh niên là độ tuổi ở giữa lứa tuổi trẻ

em và tuổi trưởng thành. Ở giai đoạn này, sự phát triển về thể chất đạt đến đỉnh
cao, tuy nhiên, các yếu tố tâm lý mới được định hình và ổn định một cách tương
đối. Thanh niên có sự khác biệt lớn về nhiều mặt (tuổi, nơi sinh sống, nghề
nghiệp…), do đó, các đặc điểm tâm lý của thanh niên rất phong phú, đa dạng,
tuy nhiên, chúng có một tính chất chung, đó là tính trẻ. Tính trẻ được thể hiện ở
sự năng động, nhiệt huyết, chấp nhận mạo hiểm, giàu mơ ước và hoài bão lớn,
thích cái mới, thích giao lưu, học hỏi và mong muốn có những đóng góp cho xã
hội để khẳng định bản thân.
Luật Thanh niên được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
thông qua tại kỳ họp thứ 8, khóa XI nêu: “Thanh niên quy định trong Luật này là
công dân Việt Nam từ đủ mười sáu tuổi đến ba mươi tuổi” [27, tr.7].
Phạm vi tuổi của thanh niên khá rộng. Vì vậy, xét từ góc độ nghề nghiệp
của họ, trong thanh niên có nhiều nhóm nhỏ khác nhau. Nhóm trẻ tuổi nhất đang
chuẩn bị kết thúc những năm học phổ thông, mối quan tâm lớn nhất của họ là
lựa chọn nghề, chọn trường để tiếp tục học cao hơn, hoặc bước vào nghề; một
bộ phận khác đang ngồi trên ghế các trường cao đẳng, đại học, tiếp thu kiến thức
và kỹ năng chuyên môn ở trình độ cao để trở thành nguồn nhân lực chất lượng
cao của đất nước, một bộ phận khác mới bước vào hoạt động nghề nghiệp, đang
ứng phó với những khó khăn, thử thách ban đầu của hoạt động này; bên cạnh đó,
một bộ phận thanh niên đã khẳng định được vị trí nghề nghiệp của mình, có


-13những cống hiến nhất định cho xã hội. Ngày nay, nhờ sự phát triển nhanh của
công nghệ - một lĩnh vực có rất nhiều đặc điểm phù hợp với tâm lý thanh niên,
được thanh niên ưa thích và tích cực vận dụng vào chuyên môn, không ít thanh
niên đã sớm đạt được thành tựu lớn, nhanh chóng khẳng định bản thân. Với sự
nhanh nhạy, nhiệt huyết của tính trẻ, khỏe, dám nghĩ, dám làm, thanh niên được
xem là lực lượng lao động chủ chốt của xã hội. Hiện nay, thanh niên Việt Nam
chiếm 28,9% dân số cả nước và chiếm 36,4% lực lượng lao động của toàn xã
hội, là nguồn nhân lực dồi dào, có tiềm năng to lớn trong sự nghiệp đẩy mạnh

CNH, HĐH đất nước.
Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm: Thanh niên là công dân
Việt Nam từ đủ mười sáu tuổi đến ba mươi tuổi. Đây là thời kỳ sung sức nhất
của mỗi con người về thể chất, có sự phát triển mạnh về trí tuệ, nhạy bén, năng
động, sáng tạo, có nhiều ước mơ, hoài bão. Thanh niên nước ta là một tầng lớp
xã hội rộng lớn, luôn có những đóng góp quan trọng trong các giai đoạn lịch sử
phát triển của đất nước.
1.1.2. Đạo đức
Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đạo đức là xuất phát điểm của
người cách mạng, là cái gốc của mọi thành công. Người nói “Cũng như sông thì
phải có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn, cây thì phải có gốc,
cây không có gốc thì cây héo. Người cách mạng thì phải có đạo đức, không có
đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” [33, tr.252253]. Đạo đức cách mạng của người cán bộ theo tư tưởng Hồ Chí Minh gồm có
5 đức tính tốt là: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm. Người nhắc nhở thế hệ sau: “Đạo
đức cách mạng là bất kỳ ở cương vị nào, bất kỳ làm công việc gì đều không sợ
khó, không sợ khổ, đều một lòng, một dạ phục vụ lợi ích chung của giai cấp, của
nhân dân, đều nhằm mục đích xây dựng chủ nghĩa xã hội” [38,tr.306].
Theo Giáo trình đạo đức học: “Đạo đức thuộc hình thái ý thức xã hội, là tập
hợp những nguyên tắc, qui tắc nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con


-14người trong quan hệ với nhau, với xã hội, với tự nhiên trong hiện tại hoặc quá
khứ cũng như tương lai. Chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền
thống và sức mạnh của dư luận xã hội” [20, tr.816].
Đạo đức biến đổi và phát triển cùng với sự biến đổi và phát triển của các
điều kiện kinh tế - xã hội, cùng sự phát triển của xã hội. Khái niệm đạo đức ngày
càng được hoàn thiện hơn, đầy đủ hơn. Các giá trị đạo đức trong xã hội của
chúng ta hiện nay là thể hiện sự kết hợp sâu sắc truyền thống đạo đức tốt đẹp
của dân tộc, với xu thế tiến bộ của thời đại, của nhân loại. Lao động sáng tạo,
nguồn gốc của mọi giá trị là một nguyên tắc đạo đức có ý nghĩa chỉ đạo trong

giáo dục của con người hiện nay.
Đạo đức có 3 chức năng: Nhận thức, giáo dục và điều chỉnh hành vi. Trong
đó điều chỉnh hành vi hết sức quan trọng vì nó điều chỉnh hành vi con người
trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội.
Chức năng nhận thức: Nhận thức đạo đức đem lại tri thức đạo đức, ý thức
đạo đức cho chủ thể, các cá nhân nhờ tri thức đạo đức, ý thức đạo đức xã hội đã
nhận thức mà tạo thành đạo đức cá nhân. Cá nhân hiểu và tin những chuẩn mực,
lý tưởng, giá trị đạo đức xã hội trở thành cơ sở để cá nhân điều chỉnh hành vi
đạo đức.
Chức năng giáo dục: Trên cơ sở nhận thức đạo đức, chức năng giáo dục
giúp con người hình thành những phẩm chất nhân cách hình thành hệ thống định
hướng giá trị và các chuẩn mực đạo đức, điều chỉnh các hành vi đạo đức. Hiệu
quả giáo dục đạo đức phụ thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội, cách tổ chức, giáo
dục mức độ tự giác của chủ thể và mức độ giáo dục trong quá trình giáo dục.
Chức năng điều chỉnh hành vi: Sự điều chỉnh hành vi đạo đức làm cho cá
nhân và xã hội cùng tồn tại và phát triển, đảm bảo quan hệ lợi ích cá nhân và
cộng đồng. Chức năng này thể hiện bằng hai hình thức chủ yếu, trước hết là bản
thân chủ thể đạo đức phải tạo ra dư luận để khen ngợi, khuyến khích đánh giá
hoặc phê phán những biểu hiện cụ thể của hành vi đạo đức trên cơ sở những


-15chuẩn mực giá trị đạo đức. Đây là chức năng xã hội cơ bản hết sức quan trọng
của đạo đức.
Tóm lại: Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên
tắc, chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người
trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm
tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh dư luận xã hội.
1.1.3. Lối sống
Hiện nay, có rất nhiều định nghĩa khác nhau về phạm trù lối sống, cũng có
nhiều thuật ngữ khác nhau để diễn đạt cách hiểu về lối sống, tùy theo góc tiếp

cận của mỗi nhà nghiên cứu. Mặc dù cách hiểu về lối sống rất phong phú, nhưng
có thể quy các ý kiến thành hai khuynh hướng chính.
Khuynh hướng thứ nhất cho rằng: Không phải bất cứ hoạt động sống, bất cứ
phương thức tiến hành hoạt động sống nào của con người cũng đều được coi là lối
sống, mà chỉ những hoạt động sống và phương thức tiến hành các hoạt động sống
được lặp đi lặp lại, có tầm ảnh hưởng mạnh và độ phổ biến cao trong đa số cá thể
của một nhóm, một cộng đồng người hay trong toàn xã hội thì mới được coi là lối
sống và các biểu hiện của lối sống. Đương nhiên, khi một lối sống mới ra đời thì
tầm ảnh hưởng, tính phổ biến và tần suất lặp lại của nó sẽ không cao.
Khuynh hướng thứ hai quan niệm: Lối sống là tất cả những hoạt động sống
và phương thức tiến hành các hoạt động sống được một bộ phận lớn hoặc toàn
thể các nhóm, các cộng đồng người chấp nhận và thực hành trong một khoảng
thời gian tương đối ổn định, trong một môi trường cụ thể.
Lối sống của con người cũng được hiểu là các chiều cạnh chủ quan của văn
hóa, là quá trình hiện thực hóa các giá trị văn hóa thông qua hoạt động sống của
con người. Lối sống bao gồm tất cả những hoạt động sống và phương thức tiến
hành các hoạt động sống được một bộ phận lớn hoặc toàn thể nhóm hay cộng
đồng người chấp nhận và thực hành trong một khoảng thời gian tương đối ổn


-16định, đặt trong mối tương tác biện chứng của các điều kiện sống hiện hữu và
trong các mối liên hệ lịch sử của chúng.
Lối sống cũng không đồng nhất với hoạt động sống bởi thực chất giữa
chúng chỉ là mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, giữa cái đặc thù và cái phổ
biến. Lối sống hình thành và thể hiện ở mọi lĩnh vực của cuộc sống, dưới hai
hình thức: Lối sống cá nhân và lối sống tập thể.
Dưới tác động của kinh tế xã hội, của môi trường văn hóa và điều kiện tự
nhiên, lối sống không đứng yên mà luôn vận động và biến đổi, song không phải
lúc nào cũng biến đổi theo chiều hướng tích cực.
Theo Hồ Chí Minh, lối sống bộc lộ thông qua các hoạt động của con người

trong cách ăn, cách mặc, cách ở, cách đi lại, cách làm việc. Lối sống vừa có các
giá trị của văn minh nhân loại vừa có các giá trị văn hóa truyền thống của dân
tộc. Bên cạnh các giá trị vĩnh cửu, lối sống cũng chứa đựng các giá trị phù hợp
với điều kiện lịch sử cụ thể của từng thời kỳ nhất định; có các khía cạnh tiến bộ
và cả những khía cạnh tiêu cực. Có thể nói, lối sống bộc lộ nhân cách của con
người trong một điều kiện hoàn cảnh cụ thể, nhất định. Con người phản ánh qua
lối sống phần nào diện mạo văn hóa thời đại thông qua năng lực trí tuệ, quan hệ
ứng xử và khả năng đồng hóa thẩm mỹ hiện thực của mình trong nhiều phương
diện khác nhau.
Với Hồ Chí Minh, lối sống bao gồm lối sống riêng của từng cá nhân và lối
sống chung của từng nhóm người, rộng hơn là toàn xã hội. Lối sống cá nhân là
toàn bộ hình thức hoạt động sống của cá nhân trong một xã hội nhất định. Đồng
thời là sự phản ánh kết quả nhận thức của cá nhân về các điều kiện kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội. Vì thế, lối sống cá nhân luôn mang đậm dấu ấn cá
nhân và có tính phong phú, đa dạng. Mặt khác, được hình thành từ một điều kiện
kinh tế - xã hội nhất định nên lối sống của các cá nhân lại có những điểm chung
tương đồng, tạo nên lối sống chung của toàn xã hội.


-17Giữa lối sống riêng của từng cá nhân với lối sống chung của toàn xã hội
không có sự tách rời biệt lập mà trái lại luôn thống nhất, tác động qua lại lẫn nhau.
Hồ Chí Minh quan niệm xã hội là do nhiều cá nhân nhóm lại mà thành.
Chính vì thế, nếu mỗi cá nhân có lối sống tích cực thì góp phần hình thành nên
lối sống tiến bộ của xã hội. Lối sống văn minh, cao đẹp của Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã trở thành mẫu mực cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta học tập và
noi theo. Ngược lại, lối sống xã hội có tác dụng định hướng cho lối sống cá
nhân, giúp mỗi cá nhân điều chỉnh lối sống của bản thân.
Lối sống trong quan niệm của Hồ Chí Minh còn là tiêu chí, thước đo trình
độ văn minh, tiến bộ của mỗi dân tộc. Người cho rằng: “Một dân tộc biết cần,
kiệm, biết liêm sĩ, là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân

tộc văn minh tiến bộ” [33, tr.642]. Với nghĩa đó, xây dựng lối sống mới đã trở
thành một mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Phấn đấu thực hành lối sống mới giúp
mỗi cá nhân và cả xã hội từng bước vượt qua được những cái nhỏ bé, thấp hèn
để vươn tới những cái lớn lao, cao thượng làm cho mọi người phát triển toàn
diện cùng với sự phát triển của đất nước.
Tóm lại: Lối sống là một phạm trù xã hội khái quát toàn bộ hoạt động sống
của các dân tộc, giai cấp, các nhóm xã hội, các cá nhân trong một điều kiện của
một hình thức kinh tế - xã hội nhất định và biểu hiện trên các lĩnh vực của đời
sống: trong lao động và hưởng thụ, trong quan hệ giữa người với người, trong
sinh hoạt tinh thần và văn hóa tư tưởng (lối sống, đạo đức, chuẩn mực giá trị xã
hội và phong tục tập quán với phát triển văn hóa, xây dựng con người).
1.1.4. Giáo dục đạo đức, lối sống
* Khái niệm giáo dục
- Giáo dục là một hiện tượng xã hội, là quá trình tác động có mục đích, có
kế hoạch, ảnh hưởng tự giác, chủ động đến con người, đưa đến sự hình thành và
phát triển tâm lý, ý thức nhân cách.


-18- Theo nghĩa rộng: Giáo dục là toàn bộ tác động của gia đình, nhà trường,
xã hội bao gồm cả dạy học và các hoạt động giáo dục khác đến con người.
- Theo nghĩa hẹp: Giáo dục có thể xem như quá trình tác động đến tư
tưởng, đạo đức, hành vi của con người (giáo dục đạo đức, lao động, giáo dục lối
sống…).
* Khái niệm giáo dục đạo đức, lối sống
Quá trình hình thành và phát triển đạo đức, lối sống của con người là quá
trình tác động qua lại giữa xã hội và cá nhân để chuyển hóa những nguyên tắc,
yêu cầu, chuẩn mực, giá trị đạo đức - xã hội thành những phẩm chất cá nhân,
làm cho cá nhân đó trưởng thành về mặt đạo đức đáp ứng yêu cầu của xã hội.
Có thể hiểu quá trình giáo dục đạo đức, lối sống là một hoạt động có tổ chức, có
mục đích, có kế hoạch nhằm biến những nhu cầu chuẩn mực, giá trị đạo đức, lối

sống của cá nhân nhằm góp phần phát triển nhân cách của mỗi cá nhân và thúc
đẩy sự phát triển tiến bộ của toàn xã hội.
Xuất phát từ mục tiêu của giáo dục là đào tạo những con người mới vừa có
đức, vừa có tài, những công dân biết làm chủ để đóng góp tích cực vào sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Hồ Chí Minh chủ trương bồi dưỡng giáo
dục thế hệ trẻ một cách toàn diện: đức, trí, thể, mỹ. Người yêu cầu: “Trong việc
giáo dục và hoạc tập, phải chú trọng đủ các mặt: đạo đức cách mạng, giác ngộ
xã hội chủ nghĩa, văn hóa, kỹ thuật, lao động và sản xuất” [54, tr.190].
Đạo đức có quan hệ chặt chẽ với lối sống. Đạo đức là mặt nội dung, quy
định lối sống. Còn lối sống là mặt thể hiện của đạo đức. Đạo đức gắn liền với lối
sống và là nội dung của lối sống. Còn lối sống là thể hiện cụ thể quan niệm đạo
đức trong những hình thức hoạt động của con người trong xã hội. Một lối sống
được xem là cao đẹp trước hết phải là lối sống có đạo đức, luôn đề cao trách
nhiệm, bổn phận, nghĩa vụ của cá nhân đối với cộng đồng và toàn xã hội. Ngược
lại, lối sống chỉ biết hưởng thụ cho bản thân là lối sống ích kỷ, thấp hèn cần phải


-19lên án, đấu tranh vì trái với đạo đức của dân tộc. Đạo đức quyết định lối sống.
Do đó, muốn xây dựng lối sống mới trước hết phải bắt đầu từ việc xây dựng,
thực hành đạo đức mới. Chỉ có dựa trên cái nền đạo đức mới thì mới xây dựng
được lối sống mới, lành mạnh, vui tươi hướng con người tới tầm cao của văn
hóa, của một đất nước độc lập và CNXH.
Do đó, giáo dục đạo đức chính là giáo dục lối sống một cách gián tiếp, là
quá trình định hướng lối sống cho mỗi cá nhân. Bàn về lối sống, Hồ Chí Minh
luôn đặt nó trong mối quan hệ với đạo đức. Đạo đức và lối sống có quan hệ mật
thiết với nhau, trong đó đạo đức đóng vai trò chủ yếu.
Tóm lại: Giáo dục đạo đức, lối sống là quá trình tác động có mục đích, kế
hoạch tới tư tưởng, nhận thức và hành động nhằm đưa đến sự hình thành, phát
triển về đạo đức, lối sống, ý thức, nhân cách phù hợp với chuẩn mực của xã hội.
1.2. Nội dung của công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên

hiện nay
1.2.1. Giáo dục đạo đức cách mạng, tinh thần yêu
nước, lòng tự hào dân tộc
Khi nói tới giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên, vấn đề được Chủ
tịch Hồ Chí Minh quan tâm hàng đầu là làm cho thanh niên nhận thức được rằng
đạo đức cách mạng là “Nhận rõ phải, trái. Giữ vững lập trường. Tận trung với
nước. Tận hiếu với dân” [35, tr.480].
Trung với nước thì thanh niên phải luôn đặt lợi ích của Đảng, của Tổ quốc,
của cách mạng lên trên hết, trước hết là quyết tâm suốt đời phấn đấu cho mục
tiêu, lý tưởng của Đảng, của cách mạng, sẵn sàng hy sinh cả tính mạng mình cho
độc lập dân tộc và CNXH; là phấn đấu thực hiện tốt mọi chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước. Hiếu với dân, thanh niên phải biết yêu mến nhân dân,
quý trọng nhân dân học tập làm việc, chiến đấu vì nhân dân. Phải chăm lo và
bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, tích cực giúp đỡ nhân dân vượt qua mọi
khó khăn trong cuộc sống, để phát triển sản xuất, cải thiện đời sống, phải đấu


-20tranh chống lại mọi biểu hiện sách nhiễu, gây phiền hà cho nhân dân. Có như
vậy thanh niên mới được dân tin, dân mến, dân yêu. Đây là cơ sở để thanh niên
đoàn kết với dân nhằm tạo ra sức mạnh to lớn cho cách mạng. Tóm lại trung với
nước, hiếu với dân thì thanh niên phải có trách nhiệm đối với sự nghiệp dựng
nước và giữ nước, là suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì
CNXH, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào
cũng đánh thắng.
Giáo dục đạo đức cách mạng cho Thanh niên, Hồ Chí Minh còn chú trọng
đến việc giáo dục những phẩm chất cao quý như: Cần, kiệm, liêm, chính, chí
công vô tư.
Cần, kiệm, liêm, chính và chí công vô tư có quan hệ mật thiết với nhau.
Cần, kiệm, liêm, chính sẽ dẫn đến chí công vô tư và ngược lại đã chí công vô tư
một lòng một dạ vì nước, vì dân vì Đảng thì nhất định sẽ thực hiện được cần,

kiệm, liêm, chính. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là biểu hiện sinh động
của phẩm chất trung với nước, hiếu với dân.
Giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên còn là giáo dục tình thương
yêu con người. Theo Hồ Chí Minh, người cách mạng là người giàu tình cảm. Vì
yêu thương nhân dân, yêu thương con người nên mới đi làm cách mạng, chấp
nhận mọi gian khổ hi sinh để đem lại cơm no, áo ấm, độc lập tự do cho con
người. Con người mà Hồ Chí Minh nói đến là những con người cụ thể ở xung
quanh ta. Đó là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn, đồng chí, đồng bào cả nước
và toàn thể nhân loại. Người dạy thanh niên yêu thương con người trước hết là
tôn trọng nhân phẩm của con người, luôn luôn chặt chẽ, nghiêm khắc với mình,
rộng rãi, độ lượng với người khác; là đòi hỏi thái độ tôn trọng con người, phải
biết cách nâng cao con người lên chứ không phải hạ thấp, càng không phải vùi
dập con người, phải giáo dục, cải tạo con người nhằm làm cho phẩm chất tốt
trong con người nẩy nở như hoa mùa xuân và phần xấu mất dần đi. Yêu thương
con người không đồng nghĩa với việc bao che lỗi lầm cho nhau mà phải giúp


-21nhau sữa chữa khuyết điểm. Đạo đức cách mạng là đạo đức trong hành động, do
đó yêu thương con người không chỉ dừng lại ở lời nói mà phải biểu hiện thành
những việc làm cụ thể như mang lại cơm ăn, nước uống hằng ngày; là kiên
quyết đấu tranh chống lại mọi hành vi xúc phạm, chà đạp lên phẩm giá con
người; ra sức phấn đấu vì độc lập của tổ quốc, tự do, hạnh phúc của nhân dân.
Tình thương yêu đó không chỉ giới hạn trong phạm vi dân tộc mà vươn tới tầm
nhân loại.
Trong giáo dục đạo đức cho thanh niên, Hồ Chí Minh còn đặc biệt chú
trọng đến việc bồi dưỡng tình cảm đạo đức, Người khẳng định: "Cốt nhất là phải
dạy học trò biết yêu nước, thương nòi, phải dạy cho họ ý chí tự lập tự cường,
quyết không chịu thua kém ai, quyết không chịu làm nô lệ” [33, tr.102].
Theo Hồ Chí Minh cách tốt nhất để bồi dưỡng lòng yêu nước thương nòi
cho thanh niên là giáo dục truyền thống dân tộc và truyền thống cách mạng.

Thông qua giáo dục truyền thống, những giá trị tốt đẹp như: lòng tự hào dân tộc,
tinh thần sẵn sàng xả thân bảo vệ độc lập, chủ quyền, quốc gia…được củng cố
và nâng lên làm cho thanh niên thấy được giá trị lớn lao, ý nghĩa đích thực của
cuộc sống hòa bình, tự do, độc lập. Những giá trị ấy trở thành tình cảm động lực
thôi thúc Thanh niên vượt qua mọi khó khăn hy sinh gian khổ để bảo vệ độc lập,
chủ quyền quốc gia, vươn lên trong sự nghiệp xây dựng cuộc sống hòa bình, ấm
no, hạnh phúc. Đặc biệt Hà Tĩnh là vùng địa linh nhân kiệt, có truyền thống văn
hóa và cách mạng, là nơi có nhiều dấu ấn lịch sử, đỉnh cao là cao trào Xô Viết
Nghệ Tĩnh, nhiều danh nhân văn hóa, chiến sỹ cách mạng, tiêu biểu như: Đại thi
hào Nguyễn Du; Nguyễn Công Trứ - Nhà thơ, nhà quân sự, nhà kinh tế lỗi lạc,
danh nhân văn hóa lớn của Việt Nam; Chí sĩ yêu nước Phan Đình Phùng; Cố
Tổng Bí thư Trần Phú, Hà Huy Tập; 10 cô gái TNXP Ngã ba Đồng Lộc; Người
đoàn viên TNCS đầu tiên - Lý Tự Trọng.... Việc giáo dục để thanh niên Hà Tĩnh
biết phát huy truyền thống văn hóa, lịch sử, tình yêu quê hương, đất nước là nội
dung hết sức quan trọng trong giai đoạn hiện nay.


-22Trong các cuộc kháng chiến giữ nước trước đây, lòng yêu nước được thể
hiện tập trung cao nhất ở những hành động dũng cảm, sự hy sinh cho cuộc đấu
tranh giành độc lập dân tộc. Ngày nay, trong xây dựng và phát triển đất nước
thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, việc phát huy lòng yêu nước
chính là nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Yêu nước phải gắn liền với ý chí tự lực, tự cường, sự nỗ lực trong học tập, lao
động, sáng tạo trong tư duy và hành động nhằm phát huy mọi tiềm năng để
chiến thắng đói nghèo lạc hậu, nhân dân được ấm no, hạnh phúc, thực hiện
quyền bình đẳng và độc lập dân tộc, vươn lên ngang tầm thời đại.
Với đặc điểm tâm sinh lý của tuổi trẻ, cùng với những tác động tiêu cực
của mặt trái cơ chế thị trường, hội nhập, thanh niên dễ tiếp thu cái mới mà dễ
quên đi quá khứ. Đặc biệt có những thanh niên chạy theo tư tưởng sùng ngoại,
chạy theo lối sống thực dụng, lai căng, lãng quên giá trị truyền thống, coi trọng

lợi ích cá nhân hơn lợi ích Tổ quốc, tập thể, cộng đồng. Nhiều cách sống, ứng
xử trái với đạo lý truyền thống tốt đẹp, những phong tục, tập quán của quê
hương, của dân tộc. Trong bối cảnh bùng nổ thông tin hiện nay, sự đan xen giữa
giá trị thực, với các giá trị ảo đang làm nhiều thanh niên mất định hướng, sống
gấp, hưởng thụ mà không có ý thức và thời gian so sánh, nhận biết giá trị truyền
thống. Vì thế càng đi vào hiện đại, càng hội nhập với thế giới thì càng phải giáo
dục thanh niên phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, khơi dậy trong thanh niên lòng
tự hào dân tộc, biết chắt lọc những giá trị tốt đẹp và biết ơn sự hy sinh của các
thế hệ cha anh đi trước vì độc lập, tự do cho dân tộc, vì hạnh phúc và tương lai
của các thế hệ mai sau. Biết làm giàu tri thức của bản thân bằng trí tuệ, tinh hoa
văn hóa của nhân loại nhưng không bao giờ lãng quên cội nguồn, thờ ơ với
truyền thống.
1.2.2. Giáo dục tinh thần cần cù, say mê lao động, trách nhiệm, sáng tạo
Thanh niên là lực lượng lao động chủ yếu của xã hội. Xã hội có phát triển
hay không tùy thuộc thái độ của thanh niên đối với lao động. Từ nhận thức trên,


-23việc giáo dục thanh niên tình yêu đối với lao động là rất cần thiết. Muốn thanh
niên yêu lao động thì trước hết phải làm cho thanh niên nhận thức được lao động
là bổn phận trách nhiệm của mỗi công dân đối với Tổ quốc. Phải giúp cho thanh
niên bài trừ tư tưởng xem khinh lao động, thói lười biếng ỷ lại. “Trong xã hội ta,
không có nghề nào thấp kém, chỉ những kẻ lười biếng ỷ lại mới đáng xấu hổ” [38,
tr313]

và “Bất cứ làm nghề gì có ích cho nước nhà cho nhân dân, cho giai cấp đều

là vẻ vang. Bất cứ nấu bếp quét nhà hay làm chủ tịch đều phải lao động cả, bất
cứ làm gì ích nước, lợi dân đều là vẻ vang”[36, tr.296] . Yêu lao động, thanh
niên phải biết quý trọng thành quả lao động, phải biết bảo vệ của công, chi tiêu
hợp lý, không hoang phí, xa xỉ, phải hăng hái thi đua sản xuất thực hành tiết

kiệm, phải tự giác giữ vững kỷ luật lao động, phát huy tính sáng tạo của thanh
niên, phải có kế hoạch, chú trọng tính thiết thực, hiệu quả. Yêu lao động trong tư
tưởng Hồ Chí Minh còn là biểu hiện cụ thể của đạo đức cách mạng của phẩm
chất “trung với nước, hiếu với dân”. Trung với nước hiếu với dân thì thanh niên
phải tích cực tham gia lao động sản xuất, nỗ lực học tập để cống hiến nhiều hơn
nhằm làm cho dân giàu, nước mạnh. Nói yêu Tổ quốc, yêu nhân dân mà không
lao động thì chỉ là nói suông. Yêu lao động là nét đẹp của con người mới, lối
sống mới.
Trong nền kinh tế thị trường, năng suất, chất lượng và hiệu quả được xem
là tiêu chí để đánh giá năng lực của người lao động. Nhưng năng suất, chất
lượng, hiệu quả chỉ có được trên cơ sở sáng tạo. Vì thế, sáng tạo là phẩm chất
cần có của người lao động mới hiện nay, đặc biệt là tuổi trẻ. Sáng tạo không đơn
thuần là năng lực trí tuệ mà còn là một phẩm chất đạo đức. Nói cách khác, sáng
tạo là sự kết hợp giữa trí thức và đạo đức. Trong đó yếu tố đạo đức có ảnh
hưởng rất lớn đối với sức sáng tạo của con người. Sáng tạo cần có sự định
hướng của mục tiêu lý tưởng và phải dựa trên cơ sở của tinh thần cầu tiến, tính
dũng cảm, đức kiên trì, lòng nhẫn nại vượt qua mọi khó khăn, thất bại, mọi sự dị
nghị, châm biếm, chế giễu để tấn công, đột phá vào những phương thức xác định


-24của lối tư duy cũ. Sáng tạo là cơ sở phát triển của xã hội. Mọi hoạt động sáng
tạo hướng tới phục vụ lợi ích cộng đồng luôn được xã hội tôn vinh đề cao. Công
cuộc xây dựng đất nước ngày nay đòi hỏi phải phát huy tính sáng tạo của tất cả
mọi người trong cách nghĩ lẫn cách làm. Do đó rèn luyện tính sáng tạo trở thành
nghĩa vụ đạo đức của công dân đối với Tổ quốc. Là tương lai của đất nước,
thanh niên phải tiên phong đi đầu trong mọi hoạt động sáng tạo. Ra sức học tập,
nghiên cứu khoa học, tích cực trau dồi kiến thức, xây dựng cho mình một
phương pháp học tập có hiệu quả nhất, luôn nêu cao tác phong độc lập suy nghĩ,
biết đào sâu nhận thức, đưa ra những ý tưởng, phát minh, công trình mới trên cơ
sở kế thừa có chọn lọc, cách tân tri thức khoa học của các thế hệ đi trước để lại,

sáng tạo phải gắn liền với thực tiễn và từ việc nhỏ đến việc lớn.
1.2.3. Giáo dục tinh thần hiếu học, lạc quan, đoàn kết, ý thức gắn bó
cộng đồng, thái độ tận tụy phục vụ, cống hiến cho Tổ quốc, nhân dân
Hiếu học là tinh thần ham học hỏi, coi trọng học tập, đề cao tri thức, kĩ
năng sống, tôn vinh nghề dạy học...Từ ngàn xưa, cha ông ta đã luôn nhắc nhở
con cháu: Tôn sư, trọng đạo; nhất tự vi sư, bán tự vi sư...Hiếu học đã trở thành
một truyền thống quý báu của dân tộc ta. Mỗi Đoàn viên thanh niên Cộng sản
Hồ Chí Minh, những chủ nhân tương lai của đất nước, lực lượng lao động chính
của xã hội trong thời đại bùng nổ thông tin, toàn cầu hóa cần phải kế thừa và
phát huy mạnh mẽ truyền thống hiếu học của cha ông, của những thế hệ đi
trước. Phải học đều các môn chứ không giành sự ưu ái cho bất kỳ môn nào, tất
cả các môn khoa học tự nhiên và xã hội đều có tầm quan trọng của riêng nó. Học
mọi lúc, mọi nơi, mọi người. Thêm vào đó phải luôn tạo cho mình một lí tưởng
sống đúng đắn, cao đẹp để nó có thể làm ngọn đèn soi sáng con đường đi đến
thành công của bản thân, phải có ý chí, nghị lực vượt qua mọi khó khăn để biến
ước mơ thành hiện thực… Hiếu học là một quá trình tích luỹ lâu dài, không chỉ
giới hạn vào việc đạt kết quả cho riêng một giai đoạn nào. Không tự thoả mãn


-25với thành tích của mình mà hãy rèn luyện để có một tinh thần ham học hỏi, cầu
thị: học thầy cô, học anh chị, học bạn và học trong cuộc sống.
Giáo dục tinh thần đoàn kết, làm cho thanh niên nhận rõ được vai trò của
khối đại đoàn kết toàn dân tộc và đoàn kết quốc tế trong lịch sử dân tộc cũng
như trong công cuộc đổi mới đất nước. Đối với thanh niên phải luôn đoàn kết,
trong sáng, không gây bè phái, thống nhất cao ý chí và hành động, tất cả vì mục
tiêu chung, phải luôn đặt nghĩa vụ lên trên quyền lợi, phải ra sức lao động, học
tập để cống hiển chứ không phải chỉ biết có đòi hỏi. Trong mọi công việc thanh
niên cần phải nêu cao tinh thần đâu cần thanh niên có, việc khó có thanh niên,
gian khổ đi trước, hưởng thụ nhận sau. Công hiến cho Tổ quốc, phục vụ cho
nhân dân là nét đẹp của đạo đức cách mạng. Muốn hết lòng phụng sự Tổ quốc,

phục vụ nhân dân thì thanh niên cần phải đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân. Vì
chủ nghĩa cá nhân trái với đạo đức cách mạng, là mẹ đẻ ra mọi thói hư, tật xấu.
Dù ở bất kỳ thời điểm lịch sử nào, tinh thần tình nguyện của thanh niên luôn là
cơ sở cho những đóng góp tích cực, trách nhiệm và hiệu quả với đất nước. Tình
nguyện luôn là động lực, nguồn cổ vũ to lớn đối với thanh niên, là môi trường
thuận lợi để tuổi trẻ Việt Nam thấy rõ vinh dự, tự hào và trách nhiệm, ra sức
phấn đấu vì Tổ quốc Việt Nam. Trong mọi thời kỳ cách mạng dù bất cứ hoàn
cảnh nào, các thế hệ thanh niên nước ta đã không ngừng phấn đấu, rèn luyện
xung kích đi đầu trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong tình hình
mới, đội ngũ ĐVTN vẫn tiếp tục phát huy truyền thống, phấn đấu rèn luyện, mãi
xứng đáng là lực lượng hậu bị tin cậy của Đảng, xứng đáng với niềm tin yêu của
Đảng, Nhà nước và nhân dân.
1.2.4. Giáo dục về những chuẩn mực đạo đức làm người như: hiếu đạo,
trọng nghĩa, nhân ái, vị tha, khoan dung, lễ độ
Giáo dục về những chuẩn mực đạo đức làm người như: hiếu đạo, nhân ái,
vị tha, khoan dung, trung thực, lễ độ là làm cho thanh niên biết yêu Tổ quốc, yêu
nhân dân, biết làm những việc ích nước, lợi dân, biết kính trọng ông, bà, cha mẹ


×