Tải bản đầy đủ (.docx) (107 trang)

Một số giải pháp quản lý văn hóa nhà trường ở trường cao đẳng nghề kỹ thuật công nghiêp Việt Nam Hàn Quốc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (502.93 KB, 107 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

TRẦN THỊ XUÂN HƯƠNG

MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ VĂN HÓA
NHÀ TRƯỜNG Ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ KỸ THUẬT
CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM – HÀN QUỐC

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
LỜI CẢM ƠN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
Sau thời gian học tập, nghiên cứu và thực hiện đề tài "Một số giải pháp
quản lý văn hóa nhà trường ở trường Cao đẳng nghề Kỹ thuật công nghiệp
Việt Nam - Hàn Quốc”, đến nay đề tài đã được hoàn thành. Tôi thực sự thấu
hiểu câu nói: "Không có sự thành công nào mà không gắn liền với những nỗ
THỊ đỡ
XUÂN
lực của bản thân và sự TRẦN
hỗ trợ, giúp
dù ítHƯƠNG
hay nhiều, dù trực tiếp hay gián
tiếp của những người khác" là hoàn toàn chính xác.
Hôm nay, khi hoàn thành luận văn thạc sĩ Quản lý giáo dục này, tôi
muốn gửi lời cảm ơn chân thành và bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến lãnh đạo
nhà trường, khoa Sau đại học, khoa giáo dục trường Đại học Vinh, Ban giám
hiệu, cán bộ, giáo viên, học sinh, sinh viên trường Cao đẳng nghề Kỹ thuật
công nghiệp Việt Nam - Hàn Quốc đã tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để giúp


đỡ tôi hoàn thành tốt đề tài nghiên cứu này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo đã tận tình giảng dạy, giúp
đỡ tôi trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu tại trường. Đặc biệt, tôi xin
MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ VĂN HÓA
bày tỏ lòng biết ơn chân thành của mình đến PGS. TS Ngô Sỹ Tùng, người đã
NHÀ
Ở TRƯỜNG
CAOluận
ĐẲNG
NGHỀ
tận
tìnhTRƯỜNG
hướng dẫn, giúp
đỡ tôi hoàn thành
văn tốt
nghiệp KỸ
này. THUẬT

CÔNG
NGHIỆP
VIỆT
NAM
HÀNcứu
QUỐC
Do thời
gian nghiên
cứu có
hạn, kết
quả –nghiên
có thể còn những

điểm hạn chế và thiếu sót. Rất mong nhận được sự góp ý của quý thầy cô để
đề tài nghiên cứu được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Tác giả:
Trần
Thị Xuân Hương
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
GIÁO
DỤC

Chuyên ngành: Quản lý giáo dục
Mã số: 60.14.01.14

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS NGÔ SỸ TÙNG


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

1

1. Lý do chọn đề tài

3

2. Mục đích nghiên cứu

3

3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu


3

4. Giả thuyết khoa học

4

5. Nhiệm vụ nghiên cứu

4

6. Phương pháp nghiên cứu

4

7. Những đóng góp của luận văn

4

8. Cấu trúc luận văn

5

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ QUẢN LÝ VĂN HÓA NHÀ TRƯỜNG
1.1. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ VĂN HÓA NHÀ TRƯỜNG

6

1.2. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN CỦA ĐỀ TÀI


8

1.3. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ QUẢN LÝ VĂN HÓA NHÀ TRƯỜNG

19

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC XÂY DỰNG VĂN HÓA NHÀ TRƯỜNG
KTCN VIỆT NAM – HÀN QUỐC

38
Ở TRƯỜNG CĐN

2.1. GIỚI THIỆU VỀ TRƯỜNG CĐN KTCN VIỆT NAM - HÀN QUỐC
2.2. THỰC TRẠNG VỀ VĂN HÓA NHÀ TRƯỜNG Ở TRƯỜNG CĐN KTCN VIỆT NAM – HÀN
QUỐC

39
43

2.3. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ VĂN HÓA NHÀ TRƯỜNG Ở TRƯỜNG CĐN KTCN
VIỆT NAM – HÀN QUỐC

50

2.4. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ VHNT Ở TRƯỜNG CĐN
KTCN VIỆT NAM - HÀN QUỐC

57


KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

59

CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ VĂN HÓA NHÀ TRƯỜNG Ở TRƯỜNG CĐN KTCN
VIỆT NAM - HÀN QUỐC
3.1. NGUYÊN TẮC ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP

60

3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ VĂN HÓA NHÀ TRƯỜNG Ở TRƯỜNG CĐN KTCN VIỆT
NAM – HÀN QUỐC

62

3.2.1. Xây dựng tầm nhìn, sứ mệnh và phương châm hành động của nhà trường

62

3.2.2. Xây dựng ý thức tự giác chấp hành chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà
nước

67

3.2.3. Xây dựng môi trường sư phạm lành mạnh, tập thể đoàn kết, tác phong làm việc khoa học

69

3.2.4. Tổ chức cho cán bộ, giáo viên, nhân viên tham gia học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên
môn, lý luận chính trị và tham gia các hoạt động xã hội


72

3.2.5. Giáo dục học sinh sinh viên về truyền thống tốt đẹp của dân tộc, truyền thống tôn sư trọng
đạo, kỹ năng sống, hình thành và phát triển cho học sinh sinh viên lý tưởng sống cao đẹp

76

3.2.6. Xây dựng khuôn viên trường, phòng làm việc, phòng học ngăn nắp, sạch đẹp

81

3.2.7. Quản lý tốt khuôn viên xanh trong nhà trường

84

3.2.8. Thực hiện tốt an toàn trường học

87

3.3. THĂM DÒ SỰ CẦN THIẾT VÀ TÍNH KHẢ THI CỦA CÁC GIẢI PHÁP

89


3.3.1. Mức độ cần thiết

89

3.3.2. Tính khả thi


91

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

93

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

94

TÀI LIỆU THAM KHẢO

96


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
CB

Cán bộ

CĐN

Cao đẳng nghề

CNV

Công nhân viên

GD


Giáo dục

GV

Giáo viên

HSSV

Học sinh sinh viên

KTCN

Kỹ thuật công nghiệp

QL

Quản lý

QLGD

Quản lý giáo dục

VH

Văn hóa

VHNT

Văn hóa nhà trường



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục gắn liền với lịch sử loài người. Đối với nhân loại, giáo dục là
phương thức bảo tồn và bảo vệ kho tàng tri thức văn hoá xã hội. Nhân dân
Việt Nam vốn có truyền thống hiếu học và một nền giáo dục lâu đời. Trải qua
các thời kỳ lịch sử, chúng ta đã tiếp thu và chọn lọc, hình thành nên đạo đức,
tư tưởng văn hóa Việt Nam. Nền tảng văn hóa ấy đã tạo nên bản sắc về nhân
cách con người Việt Nam.
Giống với sự tồn tại của giáo dục, văn hoá xuất hiện từ khi có loài
người, có xã hội. Văn hoá tồn tại khách quan và tác động vào con người sống
trong nó. Nếu môi trường tự nhiên là cái nôi đầu tiên nuôi sống con người, để
loài người hình thành và sinh tồn, thì văn hóa là cái nôi thứ hai giúp con
người trở thành “người” theo đúng nghĩa, hoàn thiện con người, hướng con
người khát vọng vươn tới chân - thiện - mỹ.
Văn hóa nhà trường là cụm từ còn khá mới với nhiều người. Hiện nay,
các nhà nghiên cứu, tùy theo góc độ, mục đích nghiên cứu cụ thể đã đưa ra
nhiều khái niệm về văn hóa và văn hóa nhà trường: "Văn hóa nhà trường là hệ
các chuẩn mực, giá trị giúp các cán bộ quản lý nhà trường, các thầy cô, các vị
phụ huynh và các em học sinh, sinh viên có các cách thức suy nghĩ, tình cảm,
hành động tốt đẹp". Mục tiêu chung nhất của văn hóa nhà trường là xây dựng
trường học lành mạnh, là cơ sở quan trọng để đảm bảo chất lượng. Đồng thời,
văn hóa nhà trường cũng là môi trường rất quan trọng để rèn luyện nhân cách
và giáo dục thế hệ trẻ trở thành những con người sống có hoài bão, có lý
tưởng tốt đẹp.
Trong một nhà trường, văn hóa luôn tồn tại trong mọi hoạt động tổ chức
của nhà trường đó. Vấn đề là con người có ý thức được sự tồn tại của nó để
quản lý và sử dụng sức mạnh của nó hay không. Bản thân văn hóa rất đa dạng
và phức tạp, khi có những tiếp cận nghiên cứu khác nhau sẽ có nhiều quan niệm

về văn hóa, nhưng các nhà nghiên cứu đã có một nghĩa chung căn bản: văn hóa
là sự giáo hóa, vun trồng nhân cách con người, làm cho con người và cuộc sống
6


con người trở nên tốt đẹp hơn. Với cách tiếp cận cơ bản như vậy, thì khái niệm
văn hóa nhà trường được định nghĩa như sau: Văn hóa nhà trường là một tập
hợp các giá trị, niềm tin, hiểu biết, chuẩn mực cơ bản được các thành viên
trong nhà trường cùng chia sẻ và tạo nên bản sắc của nhà trường đó.
Về góc độ tổ chức, văn hóa nhà trường được coi như một mẫu thức cơ
bản, tạo ra một môi trường quản lý ổn định, giúp cho nhà trường thích nghi
với môi trường bên ngoài, tạo ra sự hoà hợp môi trường bên trong. Một nhà
trường có nền văn hóa mạnh sẽ hội tụ được cái tốt, cái đẹp cho xã hội. Văn
hóa nhà trường sẽ giúp cho nhà trường thực sự trở thành một trung tâm văn
hóa giáo dục, là nơi hội tụ sức mạnh của trí tuệ và lòng nhân ái trong xã hội,
góp phần quan trọng tạo nên sản phẩm giáo dục toàn diện.
Trong quá trình xây dựng và đổi mới đất nước, Việt Nam đã chuyển sang
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế,
cùng với sự nỗ lực tìm kiếm nhiều cơ hội, đạt được những thành tựu to lớn về
khoa học, kỹ thuật và công nghệ,... Nhưng chúng ta cũng gặp phải rất nhiều
mặt trái của nền kinh tế thị trường, sự suy thoái về phẩm chất đạo đức, lối sống
đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới bộ mặt văn hóa xã hội, để lại nhiều hậu quả
khôn lường cho giáo dục nước nhà.
Lâu nay trong giáo dục chúng ta luôn coi trọng dạy chữ, chưa quan tâm
nhiều đến việc dạy người, coi trọng số lượng hơn là chất lượng. Để tạo ra
được một sản phẩm lao động cho xã hội, quả thực là cần đến kiến thức và kỹ
năng của sinh viên đã được đào tạo. Tuy nhiên, vì chạy đua theo sản phẩm,
theo số lượng mà chúng ta chưa quan tâm đến phương thức tạo ra sản phẩm
đó một cách đầy đủ. Xã hội cần phải nhìn nhận lại, đánh giá giá trị sản phẩm
đó có tạo ra sản phẩm có văn hóa hay không. Một doanh nghiệp không thể

kiếm lợi nhuận bằng mọi cách bất chấp đạo lý, một Nhà trường không được
coi kinh tế làm mục tiêu hàng đầu, và một người lao động không thể tạo ra
sản phẩm cho xã hội một cách phi văn hóa.
Thế hệ trẻ là tương lai của đất nước, là trụ cột của nước nhà. Môi
trường giáo dục lành mạnh là điều kiện tiên quyết để đào tạo thế hệ trẻ trở
7


thành những công dân tốt có tài năng, có đạo đức. Trường học là nơi rèn đức,
luyện tài, trang bị kiến thức cho học sinh. Trong môi trường này, học sinh
phải biết về trách nhiệm và nghĩa vụ của bản thân đối với thầy cô, bạn bè và
các mối quan hệ khác.
Vậy thực trạng văn hoá nhà trường hiện nay như thế nào? Các nhà
trường đã thực sự quan tâm đến vấn đề văn hóa nhà trường hay chưa? Phần lớn
thế hệ trẻ trong nhà trường hiện nay có kiến thức rất rộng, nhanh nhạy trong
nắm bắt thông tin, có sức khoẻ tốt, tinh thần cầu thị trong học tập, khả năng
ứng dụng những kiến thức được học vào thực tiễn cao, quý trọng thầy cô, đoàn
kết với bạn bè, sống có kỷ cương, không ngừng phấn đấu vươn nên trong học
tập và trong cuộc sống. Nhưng cũng có một bộ phận không nhỏ thế hệ trẻ đang
ứng xử một cách vô văn hoá, suy thoái về phẩm chất đạo đức và lối sống.
Đã đến lúc chúng ta phải thấy được sự cần thiết của việc giáo dục tư
tưởng đạo đức và lối ứng xử có văn hoá cho thế hệ trẻ. Xây dựng một thế hệ trẻ
có sức khoẻ, có trí lực, lòng nhiệt huyết, luôn trau dồi về lý tưởng và đạo đức
cách mạng. Ngoài ra, trong cuộc sống luôn chấp hành nghiêm chỉnh các chủ
trương chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước, gương mẫu trong cộng
đồng, làm tròn bổn phận của người công dân.
Hiện nay, vấn đề văn hóa nhà trường ở trường Cao đẳng nghề Kỹ thuật
công nghiệp Việt Nam - Hàn Quốc còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu
cầu phát triển của xã hội trong công tác đào tạo nghề. Vì vậy, chúng tôi chọn
đề tài nghiên cứu “Một số giải pháp quản lý văn hóa nhà trường ở trường

Cao đẳng nghề Kỹ thuật công nghiệp Việt Nam - Hàn Quốc”
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn về văn hóa nhà trường, đề
xuất một số giải pháp quản lý văn hóa nhà trường có cơ sở khoa học và có
tính khả thi ở trường Cao đẳng nghề Kỹ thuật công nghiệp Việt Nam - Hàn
Quốc. Qua đó, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, nhân cách,
phẩm chất cho người học nghề hiện nay.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
8


3.1. Khách thể nghiên cứu
Công tác quản lý văn hóa nhà trường ở các trường cao đẳng nghề.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Giải pháp quản lý văn hóa nhà trường ở trường Cao đẳng nghề Kỹ
thuật công nghiệp Việt Nam - Hàn Quốc.
4. Giả thuyết khoa học
Nếu đề xuất và thực hiện được các giải pháp quản lý có cơ sở khoa học,
có tính thực tiễn thì văn hóa nhà trường ở trường Cao đẳng nghề Kỹ thuật
công nghiệp Việt Nam - Hàn Quốc sẽ được nâng cao, đáp ứng được yêu cầu
đổi mới, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục dạy nghề.
5. Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận của vấn đề quản lý văn hóa nhà trường.
5.2. Nghiên cứu thực trạng công tác quản lý văn hóa nhà trường ở trường Cao
đẳng nghề Kỹ thuật công nghiệp Việt Nam - Hàn Quốc.
5.3. Nghiên cứu một số giải pháp quản lý văn hóa nhà trường ở trường Cao
đẳng nghề Kỹ thuật công nghiệp Việt Nam - Hàn Quốc.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Nghiên cứu các văn bản chỉ đạo của những chủ trương, chính sách phát

triển văn hóa của Đảng và Nhà nước, và thực tế hoạt động quản lý đào tạo của nhà
trường ở trường Cao đẳng nghề Kỹ thuật công nghiệp Việt Nam - Hàn Quốc.
6.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phỏng vấn
- Điều tra bằng phiếu hỏi
- Quan sát
- Lấy ý kiến chuyên gia
- Xử lý số liệu
- Tổng kết kinh nghiệm
6.3. Phương pháp thống kê toán học
7. Những đóng góp của luận văn
9


- Về lý luận: Nghiên cứu đã làm sáng tỏ cơ sở lý luận về công tác quản
lý văn hóa nhà trường ở trường học.
- Về thực tiễn: Đề xuất những giải pháp quản lý văn hóa nhà trường có
giá trị thực tiễn, nhằm nâng cao chất lượng quản lý văn hóa nhà trường ở trường
CĐN KTCN Việt Nam - Hàn Quốc.

8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, phần nội
dung của luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của vấn đề quản lý văn hóa nhà trường.
Chương 2: Thực trạng công tác quản lý văn hóa nhà trường ở trường
Cao đẳng nghề Kỹ thuật công nghiệp Việt Nam - Hàn Quốc.
Chương 3: Một số giải pháp quản lý văn hóa nhà trường ở trường Cao
đẳng nghề Kỹ thuật công nghiệp Việt Nam - Hàn Quốc.

10



CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ QUẢN LÝ VĂN HÓA
NHÀ TRƯỜNG
1.1. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ VĂN HÓA NHÀ TRƯỜNG

Những năm gần đây, nhận thức về vai trò quyết định của VH ở nước ta
được nâng lên đúng với giá trị đích thực của nó. Ngay từ Nghị quyết Hội nghị
lần thứ IV của Ban chấp hành Trung ương khóa VII đã khẳng định: VH là nền
tảng tinh thần của xã hội, thể hiện tầm cao và chiều sâu về trình độ phát triển
của một dân tộc, là sự kết tinh những giá trị tốt đẹp nhất trong quan hệ giữa
người với người, với xã hội và với thiên nhiên. Các chính sách về VH của
Đảng ta thể hiện quan điểm: VH là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục
tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Chính vì vậy,
Đảng và nhà nước ta đang chủ trương xây dựng một nền VH tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc.
VH xuất hiện từ khi có loài người, có xã hội. VH tồn tại khách quan và
tác động vào con người sống trong nó. Nếu môi trường tự nhiên là cái nôi đầu
tiên nuôi sống con người, để loài người hình thành và sinh tồn, thì VH là cái
nôi thứ hai giúp con người trở thành “người” theo đúng nghĩa, hoàn thiện con
người, hướng con người khát vọng vươn tới chân - thiện - mỹ.
Đối với nhân loại, GD là phương thức bảo tồn và bảo vệ kho tàng tri
thức VH xã hội. Nhân dân Việt Nam vốn có truyền thống hiếu học và một nền
GD lâu đời, trải qua các thời kỳ lịch sử, cộng đồng người Việt đã tiếp thu và
chọn lọc, hình thành nên đạo đức, tư tưởng VH Việt Nam. Nền tảng VH ấy đã
tạo nên bản sắc về nhân cách con người Việt Nam. Trong cuộc sống, con người
chịu ảnh hưởng bởi môi trường VH mà họ sống và hoạt động. Mỗi dân tộc có
một nền VH riêng, nó là nhân tố quan trọng tạo nên sức mạnh và bản sắc của
dân tộc đó.
Khi bước vào một nhà trường, người ta thường cảm nhận được bầu

không khí đặc trưng của nhà trường đó qua hàng loạt các dấu hiệu: hoặc biểu
hiện dễ thấy, hoặc ngầm định khó thấy. Mỗi nhà trường đều tự mình biểu lộ ra
11


bên ngoài một hình ảnh tốt đẹp hoặc tầm thường nào đó. Hình ảnh này được
tạo nên bởi người dạy, người học, người QL trong nhà trường, được chuyển
tải và phản ánh bởi đồng nghiệp trong địa phương và phụ huynh cũng như
cộng đồng xã hội xung quanh, bởi cơ quan QL và người sử dụng sản phẩm
GD là những đối tượng phản ảnh chất lượng sản phẩm GD của nhà trường
một cách rõ nét và khách quan.
Một nước văn minh và tiến bộ thì mọi công dân đều cần phải sống có
VH, lao động, sinh hoạt, giao tiếp... cũng cần phải có VH. Vì vậy, hành nghề
cũng phải có VH và VH nghề cũng rất quan trọng trong xã hội hiện đại.
VHNT là một khái niệm mới xuất hiện trong những năm gần đây,
nhưng nội hàm của nó thì đã được đề cập đến từ lâu rồi, trong nhiều tình
huống của GD và đào tạo, nhất là ở thời kỳ đổi mới. VHNT đã được các nhà
nghiên cứu GD coi là một yếu tố rất cơ bản của cơ chế phát triển đối với từng
nhà trường cũng như của toàn hệ thống các trường học nói chung, nó làm nền
tảng và định hướng cho sự phát triển tiến bộ của nhà trường, là một động lực
quan trọng để thực hiện đổi mới QLGD ở từng nhà trường.
VHNT là một hệ thống phức hợp các giá trị, các chuẩn mực xung
quanh chức năng đào tạo con người của nhà trường, được chấp nhận tự
nguyện, được cam kết tôn trọng để theo đó mà các thành viên của nhà trường
cùng nhau thực thi các hoạt động dạy và học, nhằm hoàn thành ngày càng tốt
hơn sứ mệnh cao cả của mình.
VHNT không phải là vấn đề gì mới lạ của GD đào tạo, VHNT luôn ở
bên chúng ta, đồng hành với mỗi công việc chúng ta làm trong từng nhà
trường. Nhưng vì lâu nay chúng ta không để tâm nghiên cứu, ít dành thời gian
suy ngẫm về triết lý GD, triết lý VH ẩn phía sau những công việc chúng ta đã

làm nên chúng ta thấy có vẻ mới lạ.
VHNT được hình thành và phát triển trong quá trình xây dựng và phát
triển của nhà trường, không thể tự nhiên là có ngay, mà phải qua thời gian,
luôn chi phối trực tiếp đến sự phát triển tiến bộ của nhà trường, là một nhân tố
vô cùng quan trọng định hướng cho nhà trường, tạo ra nội lực cho nhà trường,
12


tác động trực tiếp đến chất lượng GD đào tạo của nhà trường. Sự phong phú,
sâu sắc và bền vững của VHNT sẽ được nhân lên cùng với sự trưởng thành
của nhà trường.
Để trả lời cho câu hỏi: Chúng ta đã có VHNT chưa?, thực trạng hiện
nay của VHNT ở Việt Nam như thế nào? thì chính các nhà giáo và các CB
QLGD đương chức mới có được câu trả lời đầy đủ nhất, cụ thể nhất và có lẽ
trung thực nhất.
Chúng ta hãy cùng suy ngẫm xem, lâu nay VHNT kiểu nào đang thống
trị các nhà trường của chúng ta, giá trị nào, chuẩn mực nào đang chi phối các
hoạt động dạy và học hiện nay?
Với vị trí đặc biệt của nhà trường và với vai trò quan trọng của VHNT
đối với sự phát triển tiến bộ của nhà trường, cũng như đối với yêu cầu đổi mới
QL nhà trường nói riêng và QL GD đào tạo nói chung, chúng ta cần phải tìm
ra cách phát huy để đưa VHNT vào thực tiễn hoạt động dạy - học và thực tiễn
hoạt động QL của GD đào tạo.
Tuy nhiên cho đến nay, lại có rất ít tác giả quan tâm đi sâu vào nghiên
cứu về lý luận một cách có hệ thống về việc xây dựng VHNT. Một số sách,
bài viết gần đây chủ yếu chỉ quan tâm tới công tác VH học đường ở trường
phổ thông, VH học, môi trường VH cơ sở…
Vì vậy, tôi chọn nghiên cứu đề tài này để làm sáng tỏ cơ sở lý luận về
QL VHNT ở trường học, đồng thời đề xuất những giải pháp QL VHNT có
hiệu quả, góp phần xây dựng một môi trường công tác tích cực cho CB, GV,

HSSV, trên cơ sở đó góp phần thực hiện tốt mục tiêu đào tạo của trường CĐN
KTCN Việt Nam - Hàn Quốc trong giai đoạn phát triển hiện nay.
1.2. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN CỦA ĐỀ TÀI

1.2.1. Văn hóa
Trong lịch sử, khái niệm VH xuất hiện rất sớm ở phương Đông cũng
như ở phương Tây. Trong thời kỳ Cổ đại ở Trung Quốc, VH được hiểu là cách
thức điều hành xã hội của tầng lớp thống trị dùng VH và giáo hóa, dùng cái
hay, cái đẹp để GD và cảm hóa con người. Ở phương Tây, từ VH bắt nguồn từ
13


tiếng La tinh "Culture", có nghĩa là vun trồng, tạo ra những sản phẩm phục vụ
cho nhu cầu của con người.
VH là khái niệm mang nội hàm rộng với rất nhiều cách hiểu khác nhau,
liên quan đến mọi mặt đời sống vật chất và tinh thần của con người, là một
lĩnh vực rộng lớn, rất phong phú và phức tạp. Trong cuộc sống hàng ngày, VH
thường được hiểu là văn học, nghệ thuật như thơ ca, mỹ thuật, sân khấu, điện
ảnh... Một cách hiểu thông thường khác: VH là cách sống bao gồm phong
cách ẩm thực, trang phục, cư xử và cả đức tin, tri thức được tiếp nhận...
Con người có khả năng hình thành VH, với tư cách là thành viên của
một xã hội, con người tiếp thu VH, bảo tồn nó đồng thời truyền đạt nó từ thế
hệ này sang thế hệ khác.
Việc xác định khái niệm VH không đơn giản, bởi vì mỗi một học giả
đều xuất phát từ những cứ liệu riêng, góc độ riêng, mục đích riêng phù hợp
với vấn đề mình cần nghiên cứu để đưa ra các khái niệm về VH. Khi tiếp cận
khái niệm VH, tùy từng mục tiêu, mục đích khác nhau của người nghiên cứu
mà dựa trên các cách tiếp cận khác nhau và từ đó hình thành các định nghĩa
khác nhau về khái niệm VH.
Với cách định nghĩa này thì nội hàm của khái niệm VH bao gồm: Thứ

nhất, đó là những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra nhằm
thỏa mãn các nhu cầu của con người và vì con người. Thứ hai, những giá trị mà
con người sáng tạo ra đó phải mang tính nhân tính, nghĩa là nó phải mang tính
người. Từ định nghĩa giá trị về VH này, chúng ta có thể sử dụng để nghiên cứu
lối sống, lối suy nghĩ, lối ứng xử của một dân tộc, một cộng đồng người, giúp
phân biệt được đâu là một giá trị VH, đâu không phải là giá trị VH.
Đến nay đã có rất nhiều định nghĩa khác nhau về VH, mỗi định nghĩa
phản ánh một cách nhìn nhận và đánh giá khác nhau.
Năm 1871, E.B. Tylor đưa ra định nghĩa “VH hay văn minh, theo nghĩa
rộng về tộc người học, nói chung gồm có tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo
đức, luật pháp, tập quán và một số năng lực và thói quen khác được con người
chiếm lĩnh với tư cách một thành viên của xã hội”.
14


F. Boas định nghĩa “VH là tổng thể các phản ứng tinh thần, thể chất và
những hoạt động định hình nên hành vi của cá nhân cấu thành nên một nhóm
người vừa có tính tập thể vừa có tính cá nhân trong mối quan hệ với môi
trường tự nhiên của họ, với những nhóm người khác, với những thành viên
trong nhóm và của chính các thành viên này với nhau”.
Một định nghĩa khác về VH mà A.L. Kroeber và Kluckhohn đưa ra là
“VH là những mô hình hành động minh thị và ám thị được truyền đạt dựa trên
những biểu trưng, là những yếu tố đặc trưng của từng nhóm người… Hệ
thống VH vừa là kết quả hành vi vừa là nguyên nhân tạo điều kiện cho hành
vi tiếp theo”…
Năm 2002, theo UNESCO, VH được hiểu theo hai nghĩa:
+ “VH theo nghĩa rộng là một tổng thể các đặc trưng diện mạo về tinh
thần, vật chất, tri thức, tinh cảm, khắc hoạ lên bản sắc của một cộng đồng, gia
đinh, xã hội. VH không chỉ bao gồm nghệ thuật văn chương mà cả những lối
sống, những quyền cơ bản của con người, những truyền thống tín ngưỡng”.

+ VH hiểu theo nghĩa hẹp: “VH là một tổng thể những hệ thống biểu
trưng (ký hiệu) chi phối cách ứng xử và giao tiếp trong một cộng đồng khiến
cộng đồng ấy có đặc thù riêng. VH bao gồm hệ thống những giá trị để đánh
giá một sự việc, một hiện tượng (đẹp hay xấu, có đạo đức hay vô đạo đức,
đúng hay sai…) theo cộng đồng ấy.
Ở Việt Nam, VH cũng được định nghĩa rất khác nhau:
Theo tài liệu Tìm hiểu Tư tưởng Hồ Chí Minh (Nhà xuất bản Lí luận
Chính trị) thì tháng 8-1943, khi còn trong nhà tù của Tưởng Giới Thạch, lần
đầu tiên, Hồ Chí Minh nêu ra một định nghĩa về VH: "Vì lẽ sinh tồn cũng như
mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ,
chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những
công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng.
Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là VH. VH là tổng hợp của mọi
phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra
nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn".
15


Phạm Văn Đồng cho rằng “Nói tới VH là nói tới một lĩnh vực vô cùng
phong phú và rộng lớn, bao gồm tất cả những gì không phải là thiên nhiên mà
có liên quan đến con người trong suốt quá trình tồn tại, phát triển, quá trình
con người làm nên lịch sử… VH bao gồm cả hệ thống giá trị: tư tưởng và tình
cảm, đạo đức với phẩm chất, trí tuệ và tài năng, sự nhạy cảm và sự tiếp thu
cái mới từ bên ngoài, ý thức bảo vệ tài sản và bản lĩnh của cộng đồng dân tộc,
sức đề kháng và sức chiến đấu bảo vệ mình và không ngừng lớn mạnh”.
Riêng Nguyễn Đức Từ Chi xem VH từ hai góc độ. Góc độ thứ nhất là
góc độ hẹp, mà ông gọi là “góc nhìn báo chí”. Theo góc nhìn này, VH sẽ là
kiến thức của con người và xã hội. Nhưng, ông không mặn mà với cách hiểu
này vì hiểu như thế thì người nông dân cày ruộng giỏi nhưng không biết chữ
vẫn bị xem là “không có VH” do tiêu chuẩn VH ở đây là tiêu chuẩn kiến thức

sách vở. Còn góc nhìn thứ hai là “góc nhìn dân tộc học”. Với góc nhìn này,
VH được xem là toàn bộ cuộc sống, cả vật chất, xã hội, tinh thần của từng
cộng đồng và VH của từng cộng đồng tộc người sẽ khác nhau nếu nó được
hình thành ở những tộc người khác nhau trong những môi trường sống khác
nhau. VH sẽ bị chi phối mạnh mẽ bởi sự kiểm soát của xã hội thông qua gia
đình và các tổ chức xã hội, trong đó có tôn giáo.
Trong cuốn Tìm về bản sắc VH Việt Nam, PGS.TSKH Trần Ngọc
Thêm cho rằng: VH là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do
con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự
tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình.
Theo Đại từ điển tiếng Việt (Trung tâm Ngôn ngữ và VH Việt Nam Bộ GD và đào tạo, do Nguyễn Như Ý chủ biên) thì: “VH là những giá trị vật
chất, tinh thần do con người sáng tạo ra trong lịch sử”.
Trong Từ điển tiếng Việt (của Viện Ngôn ngữ học, do NXB Đà Nẵng và
Trung tâm Từ điển học xuất bản năm 2004) đã đưa ra một loạt quan niệm về VH:
- VH là tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con
người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử.

16


- VH là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con
người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương
tác giữa con người với môi trường tự nhiên xã hội.
- VH là những hoạt động của con người nhằm thỏa mãn nhu cầu đời
sống tinh thần (nói tổng quát).
- VH là tri thức, kiến thức khoa học (nói khái quát).
- VH là trình độ cao trong sinh hoạt xã hội, biểu hiện của văn minh.
- VH còn là cụm từ để chỉ một nền VH của một thời kỳ lịch sử cổ xưa,
được xác định trên cơ sở một tổng thể những di vật có những đặc điểm giống
nhau, ví dụ VH Hòa Bình, VH Đông Sơn.

Tóm lại, VH là sản phẩm của loài người, VH được tạo ra và phát triển
trong quan hệ qua lại giữa con người và xã hội. Song, chính VH lại tham gia
vào việc tạo nên con người, duy trì sự bền vững và trật tự xã hội. VH được
truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua quá trình xã hội hóa. VH
được tái tạo và phát triển trong quá trình hành động và tương tác xã hội của
con người. VH là trình độ phát triển của con người và của xã hội được biểu
hiện trong các kiểu và hình thức tổ chức đời sống và hành động của con người
cũng như trong giá trị vật chất và tinh thần mà do con người tạo ra.
1.2.2. Văn hóa tổ chức
Khái niệm VH tổ chức được tích hợp từ hai khái niệm VH và tổ chức.
Sau đây là một số định nghĩa về VH tổ chức đã được công bố và sử dụng phổ
biến:
- Theo Eldrige và Crombie, (1974): Khi nói đến VH tổ chức hay VH
của một tổ chức là nói đến các tiêu chuẩn, giá trị, tín ngưỡng, cách đối xử...
được thể hiện qua việc các thành viên liên kết với nhau để làm việc.
- Theo Louis (1980): VH tổ chức là tập hợp hệ thống các quan niệm
chung của các thành viên trong tổ chức. Những quan niệm này phần lớn được
các thành viên ngầm định trong nhận thức, hành vi ứng xử và chỉ thích hợp cho
tổ chức riêng của họ. Các quan niệm này được truyền cho các thành viên mới.
17


- Theo Tunstall (1983): VH tổ chức có thể được mô tả như một tập hợp
chung các tín ngưỡng, thông lệ, hệ thống giá trị, quy chuẩn hành vi ứng xử và
cách thức hoạt động riêng của từng tổ chức. Các mặt đó quy định mô hình
hoạt động của tổ chức và cách ứng xử của các thành viên trong tổ chức đó.
- Theo Farmar (1990): VH tổ chức được hiểu là tổng của các quan
niệm, niềm tin, giá trị, những yếu tố mà các thành viên của tổ chức chia sẻ,
chuyển tải thông qua: "Làm cái gì ? Làm như thế nào ? và Ai làm ?".
- Trong tác phẩm QL hành chính – Lý thuyết và thực hành (NXB.

Chính trị quốc gia Hà Nội – 2000), các tác giả Michel Amiel, Francis Bonnet
và Joseph Jacobs đã cho rằng VH tổ chức là toàn bộ các giá trị, niềm tin,
truyền thống và thói quen có khả năng quy định hành vi của mỗi thành viên
trong tổ chức, ngày càng phong phú thêm và có thể thay đổi theo thời gian,
mang lại cho tổ chức một bản sắc riêng.
- Trong quyển sách “Quản trị nhân sự”, Th.S Nguyễn Hữu Thân định
nghĩa: VH của tổ chức hay bầu không khí VH của công ty là một hệ thống các
giá trị, các lập luận, các niềm tin, và các chuẩn mực được chia sẻ, nó thống
nhất các thành viên của một tổ chức.
Như vậy, có thể khái quát như sau:
VH tổ chức là toàn bộ các yếu tố VH được chủ thể (tổ chức) chọn lọc,
tạo ra, sử dụng và biểu hiện trong quá trình hoạt động, từ đó tạo nên bản sắc
riêng của một tổ chức.
VH tổ chức là một tập hợp các chuẩn mực, các giá trị, niềm tin và hành
vi ứng xử của một tổ chức tạo nên sự khác biệt của các thành viên của tổ chức
này với các thành viên của tổ chức khác.
VH tổ chức liên quan đến toàn bộ đời sống vật chất, tinh thần của một
tổ chức. Nó biểu hiện trước hết trong tầm nhìn, sứ mạng, mục tiêu, triết lý,
các giá trị, phong cách lãnh đạo, QL, bầu không khí tâm lý. Thể hiện thành
một hệ thống các chuẩn mực, các giá trị, niềm tin, quy tắc ứng xử được xem
là tốt đẹp và được mỗi người trong tổ chức chấp nhận.
1.2.3. Văn hóa nhà trường
18


VHNT là một tập hợp các giá trị, niềm tin, hiểu biết, chuẩn mực cơ
bản, thói quen và truyền thống hình thành trong quá trình phát triển của nhà
trường, được các thành viên trong nhà trường thừa nhận, làm theo, chia sẻ,
được thể hiện trong các hình thái vật chất và tinh thần, tạo nên bản sắc của
nhà trường đó. Căn cứ theo hình thức biểu hiện thì VHNT gồm phần nổi có

thể nhìn thấy như: không gian cảnh quan nhà trường, lôgô, khẩu hiệu, đồng
phục, hành vi giao tiếp... và phần chìm không quan sát được như: niềm tin,
cảm xúc, thái độ, thương hiệu, các giá trị...
Giá trị trong tổ chức nhà trường được phân chia thành 2 loại: Loại thứ
nhất là các giá trị mà nhà trường đã hình thành và vun đắp trong cả quá trình
xây dựng và trưởng thành. Loại thứ hai là những giá trị mới mà CB QL hoặc
tập thể GV, HSSV mong muốn nhà trường mình có và tạo lập từng bước
nhằm đem đến sự phát triển mới phù hợp với yêu cầu của xã hội.
Kent.D.Peterson cho rằng: “VHNT là tập hợp các chuẩn mực, giá trị và
niềm tin, các lễ nghi và nghi thức, các biểu tượng và truyền thống tạo ra vẻ bề
ngoài của nhà trường”.
Stephen Stolp cho rằng: VHNT như là “một cấu trúc, một quá trình và
bầu không khí của các giá trị và chuẩn mực dẫn dắt GV và HS đến việc giảng
dạy và học tập có hiệu quả” .
Elizabeth R. Hinde cho rằng VHNT không phải là một thực thể tĩnh.
Nó luôn được hình thành và định hình thông qua các tương tác với người khác
và thông qua những hành động đáp lại trong cuộc sống nói chung (Finnanm
2000). VHNT phát triển ngay khi các thành viên tương tác với nhau, với HS
và với cộng đồng. Nó trở thành chỉ dẫn cho hành vi giữa các thành viên của
nhà trường. VH được định hình bởi những tương tác với con người và hành
động của họ được chỉ đạo bởi VH. Đó là một vòng tròn tự lặp đi lặp lại.
VHNT theo Frank Gonzales và Clive Dimmock có những phần nổi và
phần chìm của nó: Trong một tổ chức nói chung và một nhà trường nói riêng
các giá trị VH có những biểu hiện rõ ràng, dễ quan sát được và dễ thay đổi
(VH chung của tổ chức) nhưng cũng có những giá trị VH ẩn chìm trong mỗi
19


cá nhân (là các giá trị, niềm tin và các ý nghĩ của con người…) mà chúng ta
khó quan sát được hoặc khó thay đổi, tạo nên những sự khác biệt về VH của

các thành viên trong nhà trường. Những sự khác biệt này được ví như tảng
băng có phần nổi và phần chìm:
Phần nổi của tảng băng:
* Tầm nhìn, sứ mệnh, chính sách, mục đích, mục tiêu
* Khung cảnh, cách bài trí lớp học
* Logo, khẩu hiệu, đồng phục
* Các hoạt động VH, học tập của trường,...
Phần chìm của tảng băng:
* Nhu cầu, cảm xúc, mong muốn cá nhân
* Quyền lực và cách thức ảnh hưởng
* Thương hiệu
* Sự cạnh tranh và hợp tác,...
Tóm lại, từ những định nghĩa trên chúng ta dễ dàng nhận thấy:
- Khái niệm VHNT được các tác giả phương Tây hiểu rộng hơn nhiều
so với việc chỉ đạo ra một môi trường học tập hiệu quả. Chúng tập trung
nhiều đến các giá trị cốt lõi cần thiết cho dạy học và ảnh hưởng đến đời sống
tinh thần của GV và HSSV. Nó liên quan đến mọi đối tác trong trường từ Ban
giám hiệu đến GV, HSSV, cha mẹ HSSV và CB cộng đồng, đến mọi khía
cạnh của nhà trường.
- VHNT là một hệ thống phức hợp các giá trị, các chuẩn mực xung
quanh chức năng đào tạo con người của nhà trường, được chấp nhận tự
nguyện, được cam kết tôn trọng để theo đó mà các thành viên của nhà trường
cùng nhau thực thi các hoạt động dạy và học, nhằm hoàn thành ngày càng tốt
hơn sứ mệnh cao cả của mình.
1.2.4. Quản lý và Quản lý giáo dục.
1.2.4.1. Quản lý

20



QL là hoạt động xuất hiện từ khi xã hội loài người xuất hiện, khi con
người phải và biết hợp tác cùng nhau vì một mục đích chung. Ở đâu con
người tập hợp thành nhóm xã hội, ở đó có QL. QL là một việc làm bao trùm
lên mọi mặt đời sống xã hội và đã được mọi người quan tâm khá lâu trong
lịch sử, nhưng cho đến mãi thế kỷ 20, lý luận QL một cách khoa học mới thực
sự ra đời và hiện nay vấn đề này ngày càng được nghiên cứu hoàn thiện.
* Quan niệm của các nhà nghiên cứu nước ngoài về QL:
Theo F.W. Taylor cho rằng: “QL là nghệ thuật, biết rõ ràng, chính xác
cái gì cần làm và làm cái đó như thế nào, bằng phương pháp tốt nhất, rẻ nhất”.
Theo Harold Koontz, Cril Odonnell và Heinz Weihrich cho rằng: “QL
là hoạt động bảo đảm sự phối hợp giữa nỗ lực các cá nhân nhằm bảo đảm
mục tiêu QL trong điều kiện chi phí thời gian, công sức, tài lực, vật lực ít nhất
đạt kết quả cao nhất”.
Theo F.F. Aunpu: “QL là một khoa học và nghệ thuật tác động vào một
hệ thống nhằm mục tiêu biến đổi hệ thống đó.”
P. Baranger khẳng định: “QL là sự cai trị một tổ chức bằng cách đặt ra
những mục tiêu và hoàn chỉnh các mục tiêu cần phải đạt, là lựa chọn, sử dụng
các phương tiện nhằm đạt được mục tiêu đã định”.
Paul Hersey, Ken Blane Heard trong cuốn “QL nguồn nhân lực” (NXB
Chính trị quốc gia, 1995): “QL là quá trình cùng làm việc giữa nhà QL với
các cá nhân, các nhóm để hướng vào việc thực hiện mục tiêu QL”.
* Quan niệm của các nhà nghiên cứu trong nước về QL:
Theo Vũ Ngọc Hải: “QL là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của
chủ thể QL tới đối tượng QL nhằm đạt mục tiêu đề ra”.
Đặng Quốc Bảo cho rằng: “QL là một quá trình tác động gây ảnh hưởng
của chủ thể QL đến khách thể QL nhằm đạt được một mục tiêu chung”.
Theo Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc: “QL là hoạt động có
định hướng, có chủ đích của chủ thể QL đến khách thể QL trong một tổ chức
làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức”.


21


Theo Trần Quốc Thành: “QL là sự tác động có ý thức của chủ thể QL
để chỉ huy, điều khiển, hướng dẫn các quá trình xã hội của nhà QL, phù hợp
với quy luật của khách quan”.
Theo Nguyễn Ngọc Quang: “QL là tác động có mục đích, có kế hoạch
của chủ thể QL đến tập thể của những người lao động nói chung là khách thể
QL nhằm thực hiện những mục tiêu đã dự kiến”.
Từ các khái niệm về QL nêu trên của các tác giả trong và ngoài nước,
chúng ta có thể thấy được nội dung cơ bản của khái niệm QL như sau:
- QL là một hoạt động được tổ chức một cách có mục đích, có kế hoạch.
- QL được tiến hành trong một tổ chức hay một nhóm xã hội.
- QL luôn đặt ra trong mối quan hệ tác động qua lại giữa chủ thể QL và
khách thể QL.
- QL vừa là khoa học vừa là nghệ thuật. QL là một khoa học sử dụng tri
thức tổng hợp của khoa học tư nhiên, khoa học xã hội và nhân văn. QL đồng thời
cũng là một nghệ thuật đòi hỏi sự khôn ngoan và tinh tế để đạt được mục đích.
1.2.4.2. Quản lý giáo dục.
Khái niệm QLGD cũng có nhiều cách hiểu. Do GD là một lĩnh vực hoạt
động xã hội nên QLGD được xem là QL xã hội. QLGD luôn bám sát việc
thực hiện nhiệm vụ chính trị - xã hội, phát triển kinh tế trong từng thời kỳ,
giai đoạn lịch sử của mỗi quốc gia. Phạm Minh Hạc quan niệm rằng: “QLGD
là hệ thống tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể QL
nhằm làm cho hệ GD vận hành theo đường lối và nguyên lý GD của Đảng,
thực hiện được các tính chất của nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mà
tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy học, GD thế hệ trẻ, đưa GD tới mục tiêu dự
kiến tiến lên trạng thái mới về chất” .
Có thể hiểu khái niệm QLGD là QL những tác động có hệ thống, khoa
học, có ý thức và có mục đích của chủ thể QL lên đối tượng QL, là quá trình

dạy học và GD diễn ra ở các cơ sở GD như các trường học, trung tâm khoa
học kỹ thuật, hướng nghiệp dạy nghề hay một tập hợp các cơ sở phân bố trên
đại bàn dân cư.
22


QLGD có thể hiểu theo nghĩa hẹp là QL các hoạt động GD trong ngành
GD, QL một số cơ sở GD đào tạo ở một địa phương hành chính nào đó.
QLGD có thể hiểu theo nghĩa rộng là QL các hoạt động GD diễn ra trong nhà
trường hay ngoài xã hội. QL xã hội có hệ thống nguyên tắc, chức năng và các
giai đoạn của chu trình QLGD cụ thể. Song cần hiểu khái niệm QLGD một
cách toàn diện bao gồm cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp, bởi vì suy đến cùng dù
được hiểu theo nghĩa nào thì đích cuối cùng của QLGD vẫn là vận dụng các
quy luật khách quan để nâng cao chất lượng GD.
Đã có nhiều nhà nghiên cứu đưa ra định nghĩa về QLGD:
- Theo M.I Kônđacốp: “QLGD là tập hợp các biện pháp tổ chức CB,
GD, kế hoạch hoá, tài chính… nhằm đảm bảo sự vận hành bình thường của
các cơ quan trong hệ thống GD để tiếp tục phát triển và mở rộng hệ thống cả
về mặt số lượng cũng như chất lượng” .
- Tác giả Phạm Minh Hạc cho rằng: “Việc QL nhà trường phổ thông (có
thể mở rộng ra là việc QLGD nói chung) là QL hoạt động dạy học, tức là làm
sao đưa hoạt động dạy học từ trạng thái này sang trạng thái khác để dần tiến
tới mục tiêu GD” .
- Tác giả Nguyễn Minh Đường: QLGD được biểu hiện ở hai cấp độ:
Theo nghĩa rộng: QLGD theo nghĩa tổng quát là hoạt động điều hành, phối
hợp các lực lượng xã hội nhằm đẩy mạnh hoạt động đào tạo thế hệ trẻ theo
yêu cầu xã hội hiện nay. Theo nghĩa hẹp: QLGD, QL trường học cụ thể là một
chuỗi tác động hợp lý, (có mục đích tự giác, có kế hoạch, có hệ thống) mang
tính tổ chức sư phạm của chủ thể QL đến tập thể GV, HSSV, đến những lực
lượng GD trong và ngoài trường, nhằm huy động họ cùng cộng tác, phối hợp

tham gia vào hoạt động của nhà trường, nhằm làm cho quy trình này vận hành
tới việc hoàn thành những mục đích dự kiến.
Từ đó, có thể thấy: Bản chất của QLGD là quá trình tác động có ý thức
(có mục đích, có tổ chức) của chủ thể QL tới khách thể QL và các thành tố
tham gia vào quá trình hoạt động GD nhằm đưa hoạt động sư phạm của hệ
thống GD đạt các mục tiêu GD với hiệu quả mong muốn.
23


- QLGD hiểu theo cấp vĩ mô: là những tác động có hệ thống của chủ
thể QL ở các cấp khác nhau đến tất cả các mắt xích của hệ thống QLGD (Bộ,
Trung ương đến địa phương… tới trường) nhằm đạt tới mục tiêu của QL là
nâng cao chất lượng và hiệu quả của hoạt động GD.
- QLGD hiểu theo cấp vi mô: Là những tác động có mục đích, kế
hoạch, có hệ thống của lãnh đạo nhà trường, đơn vị đến tập thể CB, GV, CNV,
HSSV, cha mẹ HSSV, các lực lượng GD trong và ngoài nhà trường nhằm thực
hiện có chất lượng, hiệu quả đến mục tiêu GD của nhà trường.
1.2.5. Giải pháp quản lý văn hóa nhà trường
Giải pháp:
Theo “Từ Điển Tiếng Việt” do Hoàng Phê chủ biên thì: “Giải pháp là
cách làm, cách giải quyết một vấn đề cụ thể.” Nói đến giải pháp là nói đến
những cách thức tác động nhằm thay đổi chuyển biến một quá trình, một
trạng thái hoặc hệ thống… nhằm đạt được mục đích. Giải pháp thích hợp sẽ
giúp cho vấn đề được giải quyết nhanh hơn, mang lại hiệu quả cao hơn.
Theo “Từ điển Tiếng Việt tường giải và liên tưởng” của tác giả Nguyễn
Văn Đạm: “Giải pháp là cách làm, cách hành động đối phó để đi đến một mục
đích nhất định”.
Như vậy, nghĩa chung nhất của giải pháp là cách làm, cách thực hiện
một công việc nào đó nhằm đạt được mục đích đề ra.
Giải pháp quản lý

Giải pháp QL là phương pháp QL một loại đối tượng hay một lĩnh vực
nào đó. Giải pháp QL là cách thức chủ thể QL sử dụng các công cụ QL tác
động vào thực hiện từng khâu của chức năng QL trong mỗi quá trình QL
nhằm tạo thêm sức mạnh, tạo ra năng lực thực hiện mục tiêu QL.
Giải pháp quản lý văn hóa nhà trường
Giải pháp QL VHNT là những cách thức tác động hướng vào việc tạo
ra những thay đổi về chất lượng công tác xây dựng môi trường VH của tổ
chức nhà trường nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của nhà trường.
1.3. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ QUẢN LÝ VĂN HÓA NHÀ TRƯỜNG
24


1.3.1. Sự cần thiết phải quản lý văn hóa nhà trường
VH là một thứ tài sản lớn của bất kỳ một tổ chức nào, nó quyết định
trường tồn của một tổ chức. Đó là ý nghĩa và tầm quan trọng lớn nhất của VH.
Nó càng có ý nghĩa và tầm quan trọng đặc biệt đối với nhà trường, bởi lẽ, tính
VH là một tính chất đặc thù của nhà trường, hơn bất kỳ một tổ chức nào.
Trong mỗi nhà trường, VH tồn tại một cách tự nhiên, khách quan. Do
vậy, nhà trường nào cũng có VH của riêng mình, chỉ có điều bản chất của thứ
VH đó là gì? các giá trị của nó ra sao? VH đó được hình thành tự phát hay là
kết quả của cả một quá trình xây dựng có chủ đích rõ ràng của QL nhà trường
cũng như sự thống nhất của tập thể sư phạm? Nhà trường đó có ý thức rõ
những điểm mạnh để phát huy và điểm chưa mạnh để khắc phục hay không?
Phát triển và QL nhà trường không phải chuyện ngày một ngày hai mà cần có
những bước đi phù hợp.
Ví dụ như: VH giao tiếp trong trường học hiện nay có hai điểm cần lưu ý:
+ Thứ nhất, là truyền thống và hiện đại. Ở đây, vai trò của nhà trường là
rất quan trọng, chính nhà trường sẽ quyết định vấn đề này. Chào như thế nào,
thưa như thế nào, xưng hô ra sao… nhà trường sẽ lựa chọn và quy định. Quy
định này không phải do hiệu trưởng quy định mà phải dựa trên cơ sở khoa

học, trên các nghiên cứu, tham vấn… Ông cha ta ngày xưa đã có truyền thống
“Tôn sư trọng đạo”, truyền thống VH tốt đẹp đó đã được tiếp nối đến tận ngày
nay trong các nhà trường. Tuy nhiên, trong VH trường học lại có hiện tượng
lễ phép thái quá như HSSV gặp thầy cô giáo trong lớp và chào, ra đến sân
trường gặp lại thầy cô cũng chào, gặp ở cổng lại chào… hiện tượng này ít gặp
trong các trường Đại học nhưng lại diễn ra rất thường xuyên ở các trường tiểu
học, trung học cơ sở. Điều đó không hề xấu nhưng cũng không phải là một
nét VH đẹp. Có thể do các em HSSV chưa đủ nhận thức để biết được khi nào
thì chào đúng lúc, đúng chỗ và đúng cách thức chào.
Ở Hàn Quốc khi HSSV gặp GV thì đứng lại nghiêm túc, cúi đầu xuống
và nói lời chào,... Còn ở Việt Nam, khi HSSV chào GV cũng đứng lại, vòng
tay và nói lời chào. Thế nhưng, hiện nay có những thể hiện cách chào của
25


×