Tải bản đầy đủ (.doc) (116 trang)

Mặc cảm ngoại biên trong sáng tác của Franz Kafka

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (566.93 KB, 116 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

PHAN THỊ HÀ

MẶC CẢM NGOẠI BIÊN TRONG SÁNG TÁC
CỦA FRANZ KAFKA

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN

NGHỆ AN - 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

PHAN THỊ HÀ

MẶC CẢM NGOẠI BIÊN TRONG SÁNG TÁC
CỦA FRANZ KAFKA
Chuyên ngành: Lý luận văn học
Mã số: 60.22.01.20

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học:

TS. LÊ THANH NGA

NGHỆ AN - 2015



MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU................................................................................................................................5
1. Lí do chọn đề tài.............................................................................................................5
2. Lịch sử vấn đề................................................................................................................6
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi khảo sát..................................................................15
4. Nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu...............................................................................15
5. Phương pháp nghiên cứu..............................................................................................16
6. Cấu trúc của luận văn...................................................................................................16
Chương 1 CƠ SỞ ĐỂ NGHIÊN CỨU MẶC CẢM NGOẠI BIÊN TRONG SÁNG TÁC
CỦA FRANZ KAFKA.........................................................................................................16
1.1. Về khái niệm ngoại biên - trung tâm.........................................................................16
1.1.1. Khái niệm ngoại biên - trung tâm trong nghiên cứu chính trị - xã hội và
văn hóa.............................................................................................................
1.1.2. Khái niệm ngoại biên - trung tâm trong nghiên cứu văn học.............................
1.2.3. Tình hình vận dụng lí thuyết ngoại biên - trung tâm để nghiên cứu văn
học ở Việt Nam................................................................................................
1.2. Franz Kafka - một thân phận “bên lề”.......................................................................28
1.2.1. Tiểu sử Franz Kafka - vấn đề quê hương...........................................................
1.2.2. Franz Kafka - những mặc cảm trong gia đình....................................................
1.2.3. Những bi kịch của khát vọng, dự định và nghề nghiệp......................................
1.3. Ý thức về thân phận "bên lề" thể hiện trong thư từ, nhật ký của Franz Kafka..........36
1.3.1. Trong nhật ký.....................................................................................................
1.3.2. Trong thư từ........................................................................................................
1.3.3. Ý thức về sự sáng tạo văn học qua những tâm sự “bên lề”................................
Chương 2 MẶC CẢM NGOẠI BIÊN TRONG SÁNG TÁC CỦA FRANZKAFKA NHÌN
TỪ Ý THỨC VỀ THÂN PHẬN CON NGƯỜI...................................................................46
2.1. Con người cô đơn......................................................................................................46
2.1.1. Con người cô đơn trong gia đình........................................................................

2.1.2. Con người cô đơn trong thế giới........................................................................
2.1.3. Con người cô đơn ngay trong bản thể................................................................
2.2. Con người tồn tại trong sự phi lí...............................................................................57
2.2.1. Cái nhìn phi lí về thế giới...................................................................................
2.2.2. Cái nhìn phi lí về trật tự xã hội...........................................................................
2.2.3. Con người tuyệt vọng về sự phi lí của chính mình............................................
2.3. Con người trên hành trình bi kịch.............................................................................67
2.3.1. Con người lưu đày..............................................................................................
2.3.2. Con người bị “đá văng ra khỏi thế giới”............................................................
2.3.3. Con người tìm kiếm chỗ đứng cho mình ở trung tâm........................................
Chương 3 MẶC CẢM NGOẠI BIÊN VÀ NỖ LỰC KIẾM TÌM NHỮNG PHƯƠNG
THỨC THỂ HIỆN MỚI.......................................................................................................74
3.1. Phương thức huyền thoại hóa....................................................................................74
3.1.1. Huyền thoại hóa cốt truyện................................................................................


4
3.1.2. Huyền thoại hóa nhân vật...................................................................................
3.1.3. Huyền thoại hóa chi tiết......................................................................................
3.2. Sử dụng cái phi lí.......................................................................................................84
3.2.1. Phi logic hóa sự vật............................................................................................
3.2.2. Phi logic hóa tâm lí nhân vật..............................................................................
3.2.3. Phi logic hóa tình huống truyện.........................................................................
3.3. Nghệ thuật miêu tả cái vắng mặt, sự di động điểm nhìn, sự đổi mới trong kết cấu tác
phẩm.................................................................................................................................92
3.3.1. Nghệ thuật miêu tả cái vắng mặt........................................................................
3.3.2. Sự di động điểm nhìn.........................................................................................
3.3.3. Sự đổi mới kết cấu tác phẩm..............................................................................
3.4. Hành trình chiếm trung tâm của kiểu sáng tác Franz Kafka...................................101
3.4.1. Trên hành trình khám phá Franz Kafka............................................................

3.4.2. Tiếp nhận di sản Franz Kafka trong sáng tạo văn học - nghệ thuật.................
KẾT LUẬN........................................................................................................................108
TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................................112


5
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Franz Kafka là nhà văn Tiệp Khắc gốc Do Thái, viết tiếng Đức, sinh
năm 1883, tại Praha và mất năm 1924 ở thủ đô nước Áo. Trong khoảng 20 năm
sáng tác, ông đã để lại một khối lượng tác phẩm khiêm tốn nhưng vô cùng giá trị
đối với di sản văn học thế giới. Tên tuổi Kafka gắn liền với những tác phẩm nối
tiếng như Châu Mĩ, Biến dạng, Hang ổ, Vụ án, Lâu đài và một số truyện ngắn, thư
từ, nhật kí khác. Chính sự độc đáo và khác biệt trong cách nhìn đời sống của nhà
văn đã tạo nên những trang văn khác lạ, trở thành vấn đề nghiên cứu sâu rộng
không chỉ trong lĩnh vực lí luận văn học. Cho đến thời điểm hiện tại, sáng tác của
Kafka đang từng bước được nghiên cứu một cách hệ thống, xứng đáng với vị trí của
một nhà văn lớn trên thế giới và ngày càng được nhiều bạn đọc biết đến.
1.2. Một trong những lí do mà thế giới không ngừng nghiên cứu về Kafka là
trong sáng tác của ông hiện thực được phản ánh một cách sâu rộng, chân thực.
Người đọc thường bị ám ảnh mỗi khi đọc tác phẩm của nhà văn bởi cách miêu tả
chính xác đến “nghiệt ngã” về thân phận con người trong xã hội hiện đại. Đó là
những con người cô đơn, lạc loài ngay trong cuộc sống của chính mình; con người
hoàn toàn mơ hồ, tuyệt vọng trước những mối quan hệ của cuộc sống; con người
phải mang trên đôi vai ghánh nặng bi kịch cuộc đời. Sự mổ xẻ hiện thực của Kafka
khác hẳn với những nhà văn hiện thực trước đó. Ở chỗ ông nhìn thấy trước thảm
trạng của thế giới bằng con mắt “tinh đời” và bằng một trái tim thương yêu nhân
loại không bờ bến. Cho nên tiếp tục nghiên cứu về Kafka là chúng ta tiếp tục được
khám phá những vấn đề nóng bỏng của thời đại đã từng xuất hiện trong nhiều tác
phẩm của ông cách đây hơn một thế kỉ. Đó cũng là một minh chứng sống về sự

vượt trội của chủ nghĩa hiện đại so với chủ nghĩa hiện thực truyền thống trên
phương diện phản ánh hiện thực.
1.3. Khi đọc sáng tác của Kafka, người đọc không chỉ ngỡ ngàng trước cách
phản ánh hiện thực sâu rộng, mới mẻ mà còn ngỡ ngàng bởi sự cách tân trong thế
giới nghệ thuật đầy “ma lực” của một nhà văn hết sức cá tính. Việc sử dụng phương


6
thức huyền thoại hóa, sử dụng cái phi lí, mô tả cái vắng mặt… không phải đến
Kafka mới có. Nhưng cách xử lí của nhà văn trên phương diện này thực sự đã tạo ra
một thế giới nghệ thuật hoàn toàn mới lạ. Và đó là yếu tố làm nên nét khác biệt
trong cách miêu tả thân phận con người của nhà văn Kafka. Ông đã sử dụng một
hình thức nghệ thuật dị biệt để phủ lên những thân phận con người nhỏ bé tầng tầng
lớp lớp ý nghĩa mà chúng ta không thể hiểu hết trong một vài tác phẩm đơn lẻ. Sự
thay đổi trong cách viết ấy của Kafka xuất phát từ sức nặng ghê gớm của mặc cảm
về một nền văn chương “ngoại biên”, một thân phận “bên lề”, và ý thức về thân
phận con người trong một thế giới mà ở đó bóng tối bao trùm tất cả. Đó chính là nét
độc đáo, riêng biệt trong thế giới nghệ thuật của nhà văn người Séc này.
1.4. Những sáng tác của Kafka ngày càng được tỏa sáng và có sức ảnh
hưởng mạnh mẽ đến văn học thế giới. Chúng ta có thể nhận thấy dấu ấn sáng tạo của
nhà văn Kafka trong tác phẩm của nhiều nhà văn, từ Camus, Beckett, Ionesco,
Durrenmatt, Marqnez, Cao Hành Kiện… đến các nhà văn Việt Nam như Phạm Thị
Hoài, Nguyễn Huy Thiệp… Sự ảnh hưởng rộng lớn này đã tạo nên những bứt phá
đáng kể trong cách đánh giá còn dè dặt của văn học Việt Nam đầu thế kỉ XXI, nhất
là những nghiên cứu mang tính chất đổi mới, khám phá. Cho nên nghiên cứu về
Kafka cũng là một cách thúc đẩy quá trình thay đổi, hướng tới những quan niệm và
cách đánh giá hợp lí về mối quan hệ giữa nghệ thuật với hiện thực.
Với những lí do trên, việc lựa chọn đề tài Mặc cảm ngoại biên trong sáng
tác của Kakfa không ngoài mục đích làm rõ hơn thế giới nghệ thuật của một nhà
văn thiên tài luôn nung nấu về thân phận con người.

2. Lịch sử vấn đề
2.1. Tình hình nghiên cứu Kafka
2.1.1. Trên thế giới
Sáng tác của Kafka là sự quy tụ đa dạng lối viết và nhiều hệ tư tưởng, thu hút
được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, phê bình văn học trên thế giới. Theo
sự tổng kết của Yve Zilili, hiện nay trên đã có hơn 5000 công trình nghiên cứu lớn
nhỏ về Kafka. Ngoài ra còn có hàng chục luận án tiến sĩ ở Mĩ, Cộng hòa dân chủ
Đức, Cộng hòa liên bang Đức, hai cuộc hội thảo quốc tế về Kafka được tổ chức ở
Liblice (Tiệp Khắc, 1963) và ở Tây Berlin (Cộng hòa Liên bang Đức, 1966). Đó là


7
minh chứng cho một tài năng văn học với những tác phẩm thực sự có giá trị, mang
tầm vóc thời đại. Tuy vậy trong khuôn khổ của luận văn và cách tiếp cận tài liệu ít
nhiều còn khó khăn nên chúng tôi chỉ dừng lại ở việc khảo sát, tìm hiểu những tài
liệu liên quan.
Tại Liblice (Tiệp Khắc, 1963) đã từng diễn ra hội nghị Quốc tế về Franz
Kafka. Ở đây, R. Graudy đã kiên quyết bảo vệ ý kiến cho rằng Franz Kafka chính là
đại diện tiêu biểu của phương pháp sáng tác hiện thực chủ nghĩa; nhiều học giả của
nhiều trường phái đã nhận Kafka là người tiền bối hay ông tổ xa xôi của mình.
Trong tác phẩm Chủ nghĩa hiện thực không bờ bến, R. Graudy khẳng định
Franz Kafka chính là mẫu mực của chủ nghĩa hiện thực của thế kỉ XX - thế kỉ của
những huyền thoại. Graudy cũng nhận thấy, Kafka đã xây dựng được một thế giới
riêng, mà những vật liệu của thế giới đó được tổ chức theo một quy luật khác.
Ngoài ra, Graudy còn phát hiện hình thức sáng tạo huyền ảo và chức năng dự báo
ở những sáng tác của Franz Kafka. Theo ông cái độc đáo của Kafka là ở chỗ
những thế giới quái dị mà ông sáng tạo ra đều có từ hiện thực, có khả năng dự báo
hiện thực
Vào những năm 60 của thế kỉ XX, trong cuộc chiến chống lại các nhà văn
hiện sinh, chống lại những khuynh hướng nghệ thuật mà ta quen gọi là suy đồi, các

nhà phê bình mác xít, trong nỗ lực bảo vệ chủ nghĩa hiện thực theo quan niệm của
mình, đã chống lại hiện tượng “huyền thoại hóa” Kafka và nhìn thấy ở ông có cái
gọi là thế giới quan “sao chép từ chủ nghĩa phi lí” [27; 646]. Tuy nhiên với thời
gian, với những đổi mới ở mọi lĩnh vực, trong đó có văn học, người ta đã có cái
nhìn công bằng hơn về Kafka. Một số nhà nghiên cứu Xô viết đã nhìn thấy ở Kafka
“vẫn vang vọng những vấn đề sôi nổi của thế kỉ” [27; 646].
Năm 1977, Gilles Deleuze và Félix Guattari xuất bản một trong những
nghiên cứu kinh điển về Kafka: Kafka - Vì một nền văn học thiểu số. Cuốn sách khổ
nhỏ, dày khoảng 127 trang, có nguyên một chương để bàn về vấn đề quyền lực.
Trong đó, các tác giả đưa ra quan điểm cho rằng: “Không có một ham muốn quyền
lực mà chính quyền lực là ham muốn… Vì là một kết chuỗi nên ham muốn và các
thành phần, các bộ phận của cỗ máy hoàn toàn chỉ là một, ham muốn và quyền lực
của cỗ máy hoàn toàn chỉ là một” [91; 166].


8
A.Karelski trong Về sáng tác của Franz Kafka, do Nguyễn Văn Thảo dịch, in
trên tạp chí Văn học nước ngoài, số 4 năm 1996, cũng đã khẳng định các tiểu thuyết
của Kafka là “bức tranh ấn tượng được thực hiện đầy sáng tạo về sự bất lực của con
người, của nhân cách đối diện với quyền lực nặc danh và chế ngự tất cả” [50; 194].
Trong bài viết này, ông còn bày tỏ “Ở Kafka, thế lực nào đã gây ra tính bi kịch của
các nhân vật? Kafka đã chú ý tới vấn đề nguyên nhân, vấn đề thế lực quyết định kết
quả cuối cùng ấy trong các tác phẩm lớn của mình - trong các tiểu thuyết Vụ án và
Lâu đài… Ở đây hình thành rõ nét hai mặt của mối xung đột, xuất hiện cái thế lực
quyết định đến số phận của con người, thế lực ấy - là một kiểu hệ thống các định
chế xã hội chằng chịt và phức tạp, quan liêu đến cùng cực, vô tâm đến cùng cực,
cấu kết với nhau bởi cơ chế cùng chịu trách nhiệm, cái thế lực mà sau nó không còn
nhìn thấy một mục đích hợp lí nào nữa, ngoại trừ có một: đè bẹp cá thể K. này, khơi
lên trong anh ta cảm giác có tội.
Nghiên cứu gia Hecman Brotso, tác giả của bài "Phong cách và thời đại

huyền thoại" trong tập tiểu luận Sáng tạo văn học và nhận thức lại nhấn mạnh đến
“vũ trụ luận”, đến triết lý huyền thoại của Franz Kafka. Ông cũng khẳng định sự
quay về của đương thời đối với huyền thoại “Theo gương của Jenijoix và Franz
Kafka” [69; 32]. Lấy hình thức huyền thoại để đả phá thế giới hiện thực là cách làm
mang lại nhiều hiệu quả thẩm mỹ mới mẻ và sâu sắc.
Năm 2001, Nhà xuất bản văn hoá thông tin xuất bản tập Tiểu luận Nghệ
thuật tiểu thuyết - những di chúc bị phản bội của Milan Kundera. Trong tập tiểu
luận dài 462 trang này, Milan Kundera đã trình bày những nhận định mới mẻ về các
đặc trưng phản ánh nghệ thuật của Kafka, đó là sự kết hợp tuyệt vời giữa cái siêu
thực và cái bình thường trên cơ sở của một trí tưởng tượng phong phú “sự tưởng
tượng bị ngủ quên trong thế kỉ XX được Kafka thình lình đánh thức dậy, và ông đã
thành công trong cái việc mà những nhà siêu thực sau ông đã cố sức nhưng không
thực sự làm được: trộn lẫn cái mơ và cái thật” [54; 23]. Tính chất phi lí của hiện
thực của thủ pháp huyền thoại hóa trong sáng tác của Kafka được Kundera gọi với
những cái tên “tiếng gọi của giấc mơ”, “trộn lẫn cái mơ và cái thật”, “lôgic bị đảo
ngược”… Ông đánh giá Kafka đã là người đã mang đến những khám phá vĩ đại


9
“Kafka, ấy trước hết là một cuộc cách mạng mĩ học mênh mông. Một kì diệu nghệ
thuật…”[54; 85]. Kundera còn đưa ra một vài luận kiến và luận chứng để so sánh
giữa những sáng tác của những nhà văn hiện thực chủ nghĩa thế kỉ XIX với Kafka,
với mục đích gợi mở cho những nhà nghiên cứu sau ông.
Dẫu không được chứng kiến “sự sống” của những tác phẩm văn học do mình
sáng tạo ra nhưng Kafka và các sáng tác của ông vẫn được thế giới chú ý từ rất sớm.
Các công trình nghiên cứu kể trên đã cho chúng ta thấy được sự đánh giá rất cao
của các nhà nghiên cứu đối với Kafka và tác phẩm của ông.
2.1.2. Ở Việt Nam
Những giới hạn về ngôn ngữ, thời đại, lịch sử, tầm đón đợi… khiến Kafka và
tác phẩm của ông đến Việt Nam có phần “lặng” hơn. Vào những năm đầu của thập

kỉ 60, bắt đầu xuất hiện các bài dịch thuật và nhiều công trình nghiên cứu của các
nhà lí luận, phê bình về Kafka.
Năm 1965, trên tạp chí Văn, Sài Gòn số 39 đã có một chuyên khảo về Kafka.
Trong số này, đã có những bài viết giới thiệu tiểu sử, cuộc đời, đặc điểm thế giới
nghệ thuật Kafka (Vũ Đình Lưu), dịch và giới thiệu truyện ngắn của Kafka (Hoàng
Hưng, Nguyễn Mạnh Côn).
Ở miền Bắc, việc tiếp cận Kafka và các tác phẩm của ông diễn ra vào khoảng
cuối những năm 1960 và thực sự nở rộ vào đầu thập kỉ 1970. Trong một thời gian
dài, Kafka chỉ được nghiên cứu một cách sơ lược qua những cuốn như: Phương Tây
- văn học và con người (1971) của Hoàng Trinh; Phê phán văn học hiện sinh chủ
nghĩa của Đỗ Đức Hiểu (1978); Về tư tưởng và văn học phương Tây hiện đại của
Phạm Văn Sĩ (1986)… Những tác phẩm này được coi như những nỗ lực đầu tiên
đưa Kafka đến với bạn đọc Việt Nam. Tuy nhiên, do hoàn cảnh lịch sử, các nhà
nghiên cứu này đều chỉ chú ý tới mặt tiêu cực trong sáng tác của Kafka, coi những
sáng tác của ông là sản phẩm của nghệ thuật tư sản suy đồi.
Bước sang thời kì đổi mới, nghiên cứu về Kafka được mở rộng hơn với sự
đóng góp tích cực của Đặng Anh Đào, Trương Đăng Dung, Đỗ Ngoạn, Phùng Văn
Tửu, Nguyễn Văn Dân, Hoàng Ngọc Tuấn, Lê Huy Bắc… Về cơ bản, những vấn đề
nghệ thuật và nội dung trong sáng tác của Franz Kafka được nghiên cứu một cách
chuyên sâu và tập trung, tiêu biểu nhất là trong ba mảng đề tài: tính huyền thoại,


10
tính phi lý và sự tha hóa.
Trong Phương Tây - văn học và con người, Hoàng Trinh đã chọn Franz
Kafka là đối tượng quan trọng cho công trình nghiên cứu của mình. Giáo sư đã tìm
hiểu về con người tha hoá cũng như thế giới huyền thoại trong sáng tác của Franz
Kafka, bằng cách phân tích một cách khái lược các tiểu thuyết Vụ án, Lâu đài, Hoá
thân. Ông đã khẳng định thế giới hiện thực của Franz Kafka chính là: “thế giới
huyền thoại”, “thế giới ảo ảnh”, đối lập với hiện thực và cuộc sống” [64; 30].

Trong giáo trình Văn học phương Tây (in 1992), Đặng Anh Đào đã cung cấp
một cái nhìn tương đối toàn diện về nội dung xã hội và thân phận con người trong
sáng tác của Kafka. Qua việc khảo sát lần lượt các tác phẩm tiêu biểu của ông như:
Hóa thân, Nước Mĩ, Vụ án, bà đã đề cập tới ám ảnh về quyền lực trong những trang
viết của thiên tài nghịch dị này: “Kafka giữa lại ấn tượng rất sâu về sự đánh giá
khắc nghiệt của cha đối với mình và về quyền lực của người cha. Bởi thế sau này,
những nhà phê bình phân tâm học thường giải thích nhiều mô típ quan trọng trong
tác phẩm của ông (như: đứa trẻ bị kết tội, hình ảnh kẻ ăn bám, lời phán quyết…)
như những chấn thương (trauma) của tuổi thơ hằn lại trong tác phẩm” [15; 643].
Nguyễn Văn Dân trong "Franz Kafka và cuộc chiến chống phi lí", tiếp tục
khẳng định yếu tố có khả năng tác động lớn nhất đến thân phận của con người: “Cái
quyền lực vô hình và phi lí trong Vụ án và Lâu đài đã được ông biểu đạt thực sự tài
tình và đấy ấn tượng… Trong tác phẩm của Kafka, cái quyền lực vô hình và phi lí
tồn tại như một bóng ma, nó lờ mờ ẩn hiện và được vây bọc bởi một mê cung không
thể vượt qua” [9; 9].
Trong "Thế giới nghệ thuật Franz Kafka", Trương Đăng Dung dành nhiều
sự quan tâm tới những băn khoăn của Kafka về số phận con người: “Các tác phẩm
của Franz Kafka là sự lí giải những ấn tượng nghiệt ngã về thế giới phi lí, về sự
tha hóa của con người trong vòng vây của những thiết chế quyền lực vô hình” [14;
939]. Với cái nhìn khái quát hoá và đa diện, trong bài viết này, Trương Đăng
Dung, còn có những cách kiến giải sắc bén và hệ thống đối với phương diện nghệ
thuật của Franz Kafka. Ở đây, tác giả đã trình bày một loạt các thủ pháp nghệ
thuật của nhà văn: huyền thoại hoá, phi lôgic hoá... Theo nhà nghiên cứu, các tác
phẩm của Franz Kafka luôn lơ lửng, khó nắm bắt bởi hệ ẩn ý sâu của nó: “người


11
đọc khó có thể giải mã một cách nhất quán nội dung nào đó của một tác phẩm của
Franz Kafka” [14; 255].
Năm 2006, Lê Huy Bắc xuất bản cuốn Nghệ thuật Phran-dơ Káp-ka, ca ngợi

Kafka là “người khai sinh ra thi pháp mới của kỉ nguyên hiện đại” [6; 974]. Cuốn
sách cũng tái hiện được toàn bộ cuộc đời, sự nghiệp và những đề tài phản ánh của
Kafka. Các vấn đề như: huyền thoại hoá, nghệ thuật xây dựng nhân vật, hay các chi
tiết ở mức độ so sánh ngầm... Nhìn chung là đã có nhiều quan điểm gặp gỡ với quan
điểm của các nhà nghiên cứu trước. Lê Huy Bắc cũng chú ý tới ngôn từ nghệ thuật
của Franz Kafka : “Kafka còn đề xuất một lối viết chứa đựng trong nó sự bí hiểm
khó có thể cắt nghĩa và hầu như không thể bắt chước”.
Cũng năm 2006, Lê Thanh Nga trong bài "Huyền thoại hóa - một phương thức
khái quát hiện thực của Franz Kafka" đã có những phân tích, lí giải khá độc đáo về
một phương diện nghệ thuật quan trọng trong sáng tác của Kafka. Theo tác giả, tư
duy huyền thoại nhân loại đã được Kafka tiếp nối, thể hiện trong các tác phẩm của
mình. Chỉ có điều, nó “không còn nguyên vẹn, mà đã bị đứt đoạn hoặc biến dạng, và
tất nhiên là gửi gắm một ý thức thẩm mĩ hoàn toàn khác” [66; 150]. Và cũng theo
quan điểm của bài viết, đặc thù trong thế giới nghệ thuật của Franz Kafka đó là việc
vận dụng trong một động thái tích cực những mẫu tự của huyền thoại cổ, huyền thoại
tôn giáo để xây dựng một cách sáng tạo huyền thoại của mình, huyền thoại hóa không
gian, huyền thoại hóa thời gian và huyền thoại hóa nhân vật” [66; 172].
Trong luận án Tiến sĩ ngữ văn (tháng 12 năm 2007), một trong những công
trình nghiên cứu quy mô, hệ thống về Kafka, Lê Thanh Nga đi sâu phân tích các
sáng tác của F. Kafka nhằm "phát hiện những vấn đề của chủ nghĩa hiện thực bộc
lộ, xem xét những đóng góp của F.Kafka cho việc giải quyết những vấn đề đó". Tác
giả nhấn mạnh: các sáng tác của F. Kafka không mang đến cho người đọc thứ hiện
thực như nó tồn tại một cách vật chất mà với phương thức khái quát hiện thực mới
mẻ, độc đáo "hiện thực mà F. Kafka mang đến cho người đọc luôn ở dạng khả năng,
luôn kêu gọi, bắt buộc những nỗ lực giải mã, chiếm lĩnh của người đọc". Trên cơ sở
nghiên cứu các sáng tác của Kafka, luận án cũng đưa ra một số kết luận về mối
quan hệ thẩm mĩ của nghệ thuật đối với hiện thực. Sự trưởng thành của quan niệm
về mối quan hệ này thể hiện trong từng bước trưởng thành của lịch sử



12
Kafka còn được nhắc tới trong một số công trình khác như một đối tượng so
sánh, đối chiếu, như: Tiểu thuyết Pháp hiện đại những tìm tòi đổi mới của Phùng
Văn Tửu, Ernest Hemingway - Núi băng và hiệp sĩ của Lê Huy Bắc, Truyện ngắn Những vấn đề lí thuyết và thực tiễn thể loại của Bùi Việt Thắng, Cái kì ảo trong tác
phẩm của Balzac của Lê Nguyên Cẩn … Hầu hết các công trình này đều tiếp tục
khẳng định vai trò tiên phong của Kafka trong việc đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết.
Nhìn chung, cho đến nay, nghiên cứu sáng tác của Kafka cũng không còn là
câu chuyện mới mẻ, nhất là nhìn ra thế giới. Có điều, do hạn chế về tư liệu nên
chúng tôi chưa thể thống kê hay mô tả một cách đầy đủ, trọn vẹn về vấn đề này.
Một cách khái quát, có thể thấy, do không khí chính trị, do nhận thức của bản thân
văn học, nhận thức, đánh giá về sáng tác của nhà văn này có sự khác nhau, thậm chí
xung đột trong một số thời điểm nhất định. Tuy nhiên, theo dòng thời gian, giới
nghiên cứu cũng như bạn đọc sẽ dần dần tìm được tiếng nói chung.
2.2. Tình hình nghiên cứu vấn đề ngoại biên - trung tâm trong sáng tác của
Kafka
Hiện nay việc nghiên cứu vấn đề ngoại biên - trung tâm trong sáng tác của
Kafka rất ít được cập đến. Nếu có thì chủ yếu được trình bày gián tiếp thông qua
việc khẳng định đóng góp cơ bản của Kafka với một thế giới nghệ thuật đầy mới
mẻ, sáng tạo. Ở đó, hiện thực của xã hội hiện đại được tiên cảm bằng tài năng của
một nhà văn luôn mang cảm giác mất mát, cô đơn.
2.2.1. Trên thế giới
Trong công trình Viết về nghệ thuật của mình, nhà viết kịch Becton Brecht
đã có những nhận xét xác đáng về thế giới nghệ thuật của Kafka, thừa nhận khả
năng tiên cảm tuyệt vời của ông, đó là: đằng sau những hóa trang rất kì cục là
những linh cảm mà vào thời những cuốn sách của ông xuất hiện chỉ một vài người
nhận thấy được mà thôi. Tác giả không chỉ khẳng định Kafka là một thiên tài mà
còn là một nhà tiên tri báo trước cho chúng ta biết kỉ nguyên của con người phi lí,
con người không có sự sống. Có thể do hạn chế về mặt lịch sử và đặc điểm thẩm mĩ
tiếp nhận, Kafka như một hiện tượng đơn lẻ, bên lề, nên khó được chấp nhận. Nói
cách khác, những gì mà Kafka phát hiện và tiên tri không phải ai cũng có thể thấy

và chấp nhận nó. Thế giới hiện thực cùng với cảm quan nhạy bén của nhà văn lúc


13
ấy được xem như một vùng “ngoại biên” chưa đến được với “trung tâm”, chưa được
“trung tâm” nắm bắt.
Cho nên, thông qua việc khẳng định sự thất thế của phương pháp hiện thực
cũ, Becton Brecht kêu gọi nhà văn phải theo gót Kafka để phát hiện cho được “con
người phi lí” trong thời đại ngày nay.
E. Fischer trong Kafka đã nhìn thấy thế giới nghệ thuật của Kafka tính chất
tiêu cực, sự tha hóa của con người, đồng thời cũng khẳng định khả năng tái hiện
hiện thực của nhà văn đó là việc khẳng định không có nhà văn nào có thể tái hiện
cái tiêu cực và sự tha hóa bằng một thứ ngôn từ sinh động, chính xác như thế. Ngoài
ra Fischer cũng cho rằng các chi tiết trong sáng tác của Kafka có khả năng thể hiện
“hiện thực không thể hiểu nhầm của thời đại chúng ta, cái hiện thực đang phơi bày
ra giữa những điểm cố định của các chi tiết cụ thể” [31; 185].
M. Melentinski trong Thi pháp của huyền thoại dành nhiều tâm huyết cho việc
nghiên cứu thế giới huyền thoại trong sáng tác của Kafka. Trong công trình này, tác
giả đã có cái nhìn thấu suốt về huyền thoại trên nhiều phương diện. Tác giả cho rằng
thế giới nghệ thuật của nhà văn là sự cải biến siêu tưởng thế giới đời thường.
Cơ bản những công trình trên đều tập trung làm rõ đóng góp của Kafka trên
nhiều phương diện. Trong đó rõ nhất vẫn là bức tranh hiện thực mà ở đó con người
bị đè nén, bị máy móc hóa, tâm trạng bất an, cô đơn, mất mát với thân phận bên lề,
ngoại biên… được phản ảnh bằng các thủ pháp nghệ thuật đặc trưng như huyền
thoại hóa hoặc phi lôgic hóa…
2.2.2. Ở Việt Nam
Ở Việt Nam cũng xuất hiện một số công trình đề cập đến Kafka trên nhiều
phương diện, trong đó có đi vào phân tích mặc cảm, cô đơn và sự hoài nghi trong
sáng tác gắn liền với những thủ pháp nghệ thuật đặc trưng.
Với cái nhìn khái quát hoá và đa diện, bài viết Thế giới nghệ thuật của Franz

Kafka, Trương Đăng Dung đã có những cách kiến giải sắc bén và hệ thống đối với
phương diện nghệ thuật của Franz Kafka. Tác giả bài viết đã trình bày một loạt các
thủ pháp nghệ thuật của nhà văn Kafka như huyền thoại hoá, phi lôgic hoá... một
cách khéo léo, trên cơ sở đó người đọc cảm nhận được nỗi mặc cảm của nhà văn
trong việc xây dựng những hình tượng nghệ thuật được huyền thoại hóa, phi lôgic


14
hóa để lí giải về sự tồn tại của con người trong thế giới. Theo nhà nghiên cứu, các
tác phẩm của Kafka luôn lơ lửng, khó nắm bắt bởi hệ ẩn ý sâu của nó: “người đọc
khó có thể giải mã một cách nhất quán nội dung nào đó trong một tác phẩm của
Franz Kafka...”
Lê Huy Bắc trong chuyên luận Nghệ thuật Phran-đơ Káp-ka một mặt tái
hiện được toàn bộ cuộc đời, sự nghiệp và những đề tài phản ánh trong sáng tác của
Kafka, mặt khác, giúp người đọc thấy được nỗi “mặc cảm” ngoại biên trong cuộc
đời, sự nghiệp sáng tác của nhà văn Kafka. Từ đó có sự phân tích thấu đáo các tác
phẩm nhật kí, thư từ của Kafka dưới góc nhìn của sự hoài nghi, mất mát, cô đơn.
Đối với Kafka viết là cả một sự nỗ lực lớn bởi ông luôn sống trong mặc cảm “thiệt
thòi” về quê hương, gia đình và bản thân. Tác giả còn đi sâu phân tích nhiều tác
phẩm của Kafka mà ở đó người đọc có thể thấy được thân phận ngoại biên, bên lề
của con người trong xã hội hiện tại. Đó là hình ảnh con người bị biến dạng như một
bi kịch về nỗi lo âu vì công việc; đó là hình ảnh những kẻ độc tài, quan liêu, tham
nhũng xuất hiện như những kẻ vắng mặt mà có sức mạnh quyền uy rất lớn; hay đó
là những con rối tạp chủng xuất hiện như một vở kịch đầy phi lí, nghịch lí và kéo
theo biết bao thân phận con người đi vào “ngõ cụt” của cuộc đời chính mình…
Chúng chỉ là những khái niệm mà bất kì ai nghe đến cũng đều run sợ. Đó là kẻ đã
kết tội Jozep K. trong Vụ án, ông chủ lâu đài trong Lâu đài…Chúng đã làm cho
cuộc sống của con người trở thành địa ngục, thành nỗi lo sợ lớn.
Trong bài viết "Franz Kafka, nỗi lo âu mang tên ngoại biên" Lê Thanh Nga,
đã trực tiếp bàn về vấn đề mặc cảm ngoại biên trong sáng tác của Kafka.

Tác giả bài viết cho rằng, Kafka không có nhiều điểm tương đồng với Balzac
và phần lớn các nhà văn hiện thực chủ nghĩa. Sự khác biệt lớn nhất, có tính chất
quyết định đổi với những thành công của Kafka chính là một thân phận bên lề - yếu
tố tạo nên những mặc cảm bệnh hoạn để ông có thể trở thành thiên tài với những cảm
nhận của mình về con người và thế giới, và nó hối thúc ông phải thay đổi cách viết.
Có thể nhìn thấy phía sau những nỗ lực của Kafka một thái độ tự ti vượt ngưỡng một thứ tự ti có thể biến thành những xung năng mãnh liệt khiến người ta vượt lên
trước - một sự vượt trội xuất phát từ ý đồ trốn chạy khỏi trung tâm để xác lập một


15
trung tâm mới. Hoặc giả, đấy là một hờn dỗi cá nhân, nhưng với sự quá ngưỡng của
nó, đã trở thành những hờn dỗi mang tính lịch sử. Điều này hoàn toàn có thể kiểm
chứng, một khi chúng ta nhận ra rằng, dường như những ai có khả năng thiết lập một
trung tâm mới trong văn học nghệ thuật thế kỉ XX lại là những người chịu đựng nỗi
tủi hổ thân phận của kẻ bên lề: Franz Kafka, Guillaume Apollinaire, Pablo Picasso,
Gertrude Stein, Gabriel García Marquez, Cao Hành Kiện..."[68; 188].
Đặc biệt bài viết đề cập tới vấn đề trung tâm - ngoại biên trong thế giới biểu
tượng của Kafka. Tác giả đã nêu ra những vấn đề liên quan đến trung tâm - ngoại
biên như sự nhận thức về thân phận ngoại biên, khát vọng chinh phục bất thành, sự
đầu hàng hay trốn chạy - sự thỏa hiệp trước tình thế, bằng việc phân tích các tác
phẩm Hóa thân, Người cưỡi xô, Làng gần nhất, Vụ án, Trước cửa pháp luật và
v.v... Từ sự phân tích, tác giả đã phát hiện ra hệ quả bất ngờ của nỗi tủi hổ, đó là
những khả năng mới của tiểu thuyết hiện đại: sự bất đắc dĩ trong sáng tạo cốt truyện
và hiện thực, sự thủ tiêu nhân vật. Đó là cơ sở để nhìn thấy khả năng mới của tiểu
thuyết hiện đại trong sáng tác của Kafka.
Có thể nói, việc đặt vấn đề nghiên cứu trung tâm - ngoại biên trong sáng tác
của Kafka như một đối tượng chuyên biệt, độc lập cho đến nay vẫn chưa thực sự
được quan tâm, và còn nhiều điều mở ngỏ. Tuy vậy, những gì mà người đi trước đã
làm đều sẽ là những tài liệu bổ ích cho chúng tôi trong quá trình hoàn thành luận
văn này.

3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi khảo sát
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Như tên đề tài đã xác định, đối tượng nghiên cứu của luận văn là mặc cảm
ngoại biên trong sáng tác của Franz Kafka
3.2. Phạm vi khảo sát
Phạm vi khảo sát, nghiên cứu của luận văn giới hạn trong: Franz Kafka
tuyển tập tác phẩm, Nxb hội nhà văn - Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây,
2003. Bao gồm: Hoá thân (Đức Tài dịch); Vụ án (Phùng Văn Tửu dịch); Lâu đài
(Trương Đăng Dung dịch); và một số truyện ngắn, nhật ký, thư từ.
4. Nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích, lí giải những yếu tố liên quan đến cuộc đời và sự


16
nghiệp sáng tác của Franz Kafka, luận văn sẽ làm rõ mặc cảm ngoại biên đã chi
phối đến quá trình và những thành tựu trong sáng tác của Franz Kafka.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành luận văn này, chúng tôi sử dụng phối kết hợp các phương pháp:
phương pháp khảo sát - thống kê, phương pháp loại hình, phương pháp so sánh...
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và thư mục tham khảo, luận văn của có
ba chương:
Chương 1.

Cơ sở đề nghiên cứu mặc cảm ngoại biên trong sáng tác của

Chương 2.

Franz Kafka
Mặc cảm ngoại biên trong sáng tác của Franz Kafka nhìn từ ý thức


Chương 3.

về thân phận con người
Mặc cảm ngoại biên và niềm thôi thúc kiếm tìm những phương thức
thể hiện mới của Franz Kafka
Chương 1

CƠ SỞ ĐỂ NGHIÊN CỨU MẶC CẢM NGOẠI BIÊN
TRONG SÁNG TÁC CỦA FRANZ KAFKA
1.1. Về khái niệm ngoại biên - trung tâm
1.1.1. Khái niệm ngoại biên - trung tâm trong nghiên cứu chính trị - xã
hội và văn hóa
Theo Từ điển tiếng Việt, khái niệm trung tâm được hiểu là nơi tập trung
những hoạt động trong lĩnh vực nào đó, có ảnh hưởng lớn đối với những nơi khác
[44; 1050]. Còn ngoại biên (hay ngoại vi) là những thành phố (nơi) xa trung tâm
[44; 684]. Khái niệm này đã giúp người đọc thâu tóm được vấn đề ngoại biên trung tâm một cách đơn giản nhất. Song đó chỉ là cơ sở ban đầu để hiểu khái niệm
một cách hệ thống trên nhiều phương diện. Sau đây xin trình bày một số khái niệm
ngoại biên - trung tâm của các nhà nghiên cứu trên các phương diện kinh tế, chính
trị, xã hội, văn hóa…
Về mặt kinh tế, chính trị, nhà xã hội học đương đại người Mỹ Immanuel
Wallerstein quan niệm trung tâm là các vùng rộng lớn, được hưởng lợi nhiều nhất


17
từ hệ thống kinh tế thế giới tư bản ngay từ giai đoạn đầu. Theo Immanuel
Wallerstein trong thời kỳ này hầu hết ở Tây Bắc Âu (Anh, Pháp, Hà Lan) đã phát
triển trở thành vùng trung tâm đầu tiên. Về phương diện chính trị, các nhà nước
châu Âu vùng này đã phát triển thành các nhà nước trung ương mạnh, tăng cường
các thể chế quan liêu, và các đội quân đánh thuê. Còn ngoại vi là các vùng không có

nhà nước trung ương mạnh hoặc bị kiểm soát bởi các nhà nước kiểu khác, xuất khẩu
nguyên vật liệu cho vùng trung tâm, và cuộc sống chủ yếu dựa vào các loại hình lao
động cưỡng bức. Các vùng trung tâm này tước đoạt giá trị thặng dư tư bản do vùng
ngoại vi tạo ra thông qua mối quan hệ thương mại bất bình đẳng. Hai vùng, Đông
Âu (đặc biệt là Ba Lan) và Mỹ Latin thể hiện rất rõ các đặc trưng của vùng ngoại vi.
Tại Ba Lan, quyền lực của vua chúa rơi vào tay quý tộc khi vùng này trở thành nơi
xuất khẩu chủ yếu lúa mì cho các vùng khác của châu Âu.
Về mặt xã hội học, khái niệm ngoại biên (tức là marginal - phần lề, biên so
với phần trung tâm) lần đầu tiên được học giả Mĩ Robert Erza Part (1864 – 1944)
nêu ra vào năm 1928 khi nghiên cứu những người nhập cư ở các thành phố Mĩ. Họ
là người thiểu số, nằm giữa hai văn hóa, phụ thuộc vào văn hóa trung tâm nước sở
tại. Sau đó thuật ngữ marginal có khi được dùng để chỉ người ở vùng biên, có khi
chỉ nhóm người từ bỏ truyền thống cũ của mình mà tiếp nhận hệ giá trị mới.
Về mặt văn hóa, khái niệm ngoại biên chỉ bộ phận cộng sinh cùng văn hóa
chính thống. Nó có cội nguồn sinh học. Khái niệm cộng sinh (symbiosis) chỉ các
loài sinh vật sống cùng nhau, bên cạnh nhau, cùng hưởng lợi của nhau. Nhà thực vật
học Đức Beechar năm 1942 nêu ra khái niệm “hiệu ứng ngoại biên” (edge effect)
dùng làm căn cứ cho khái niệm văn hóa ngoại biên (marginal culture). Ông cho thấy
hiệu ứng đó là tại các vùng giáp ranh giữa hai vùng địa mạo khác nhau, do quy luật
cộng sinh mà các chủng loại sinh vật phát triển vô cùng đa dạng và mạnh mẽ. Đó là
đặc trưng sinh thái của các vùng trung gian, quá độ. Từ đó khái niệm văn hóa ngoại
biên chỉ vùng văn hóa đa nguyên, cộng sinh, tạp giao [81; 1].
Đi sâu vào khái niệm ngoại biên xét về mặt văn hóa, M. Bakhtin quan niệm
rằng bản chất văn hóa nằm ở ngoại biên. Trong tiếng Nga, ngoại biên là granitxa
(граница), có nghĩa là ranh giới, biên giới, giáp ranh, đường biên, sự tiếp giáp, giáp


18
giới. Bakhtin cho rằng một lĩnh vực văn hóa nào đó (như nhận thức, luân lí, đạo
đức, nghệ thuật…) với tư cách là vấn đề do chỉnh thể tạo thành, có thể hiểu là vấn

đề biên giới của lĩnh vực đó. Không nên coi lĩnh vực văn hóa là một chỉnh thể
không gian nào đó vừa có biên giới, vừa có nội địa. Lĩnh vực văn hóa không có nội
địa, bởi vì toàn bộ văn hóa đều phân bố trên đường biên, các đường biên ngang dọc
chồng chéo giao cắt nhau, nằm ở khắp nơi, xuyên thấm vào mỗi yếu tố của văn
hóa… Mỗi hành vi văn hóa đều chỉ tỏ ra có sức sống đầy đủ ở trên đường biên, bởi
vì ở đây hành vi văn hóa mới tỏ ra tính nghiêm túc và tính quan trọng, xa rời đường
biên thì nó đánh mất vùng đất sinh tồn của mình, sẽ biến thành sự ngạo mạn trống
rỗng, bị thoái hóa và đi đến tiêu vong. `Điều này có nghĩa là một nền văn hóa sống
động thì nó phải đa nguyên, giao tiếp, đối thoại, mỗi yếu tố văn hóa đều là sự đan
bện của nhiều nguyên tố văn hóa, là đa ngữ, đa thanh. Thế là các lĩnh vực văn hóa
do đa nguyên mà căn bản không có vùng nội địa, chúng tiếp xúc nhau, giao lưu
ngay trên đường biên, cộng sinh, xung đột, đối thoại, trao đổi, giao lưu, tạo thành
sức sống sôi động của văn hóa. Trên cơ sở đó Trần Đình Sử đã khẳng định “nếu văn
hóa mà có nội địa thì nó sẽ vì sự đơn nhất mà không có mâu thuẫn nội bộ, mất đi
nguồn động lực, ngừng hoạt động biến hóa và bắt đầu xơ cứng, thoái hóa và tiêu
vong”. Bởi vì vùng biên là nơi tiếp giáp, giao tiếp của nhiều thế giới, các nền văn
hóa khác nhau, các nhân tố khác nhau, cho nên đó là nơi sôi động nhất, phong phú
nhất [81; 2].
Quan niệm này thống nhất với thuật ngữ marginal vừa nhắc đến trên kia.
Văn hóa hoạt động ở ngoại biên, rồi từ đó hình thành bản sắc, một bản sắc thay đổi
theo thời gian. Như thế cũng có nghĩa là không có đường biên, thì không có văn
hóa, cũng không có bản sắc.
Vậy, từ ngoại biên đến trung tâm có phải là một quá trình mang tính biện
chứng?
Từ góc nhìn văn hóa, biên giới không phải là vùng khép kin, bất biến, mà là
nơi mở ra, tạo thành tính chất chưa hoàn thành của đời sống và văn hóa. Chẳng hạn
như cách chúng ta đánh giá bản thân. Rõ ràng chúng ta không thế đánh giá đúng bản
thân mình bằng người khác đánh giá, bởi lẽ mỗi người là một cái tôi cụ thể, duy nhất,



19
có giới hạn, có thể thấy, có thể hiểu cái mà người khác không nhìn thấy, cảm thấy,
hoặc không hiểu, nhưng bản thân ta không tự nhìn thấy được chính mình một cách
khách quan. Vị trí đó là một giá trị. Xuất phát từ vị trí sinh tồn ấy mỗi người có mục
tiêu, lí tưởng riêng không lặp lại, có khả năng hành động để tự thực hiện tồn tại của
mình và trở thành một trung tâm giá trị, mà xung quanh anh ta là những Người Khác
(như cha, mẹ, anh chị em, bạn bè, đồng nghiệp, người lạ..) vốn cũng là những trung
tâm giá trị như thế. Các trung tâm giá trị tự hoạt động và tự chịu trách nhiệm.
Trong xã hội không có con người trừu tượng vì nó phải có biên giới, mà có
biên giới thì không thể trừu tượng. Cách tư duy về sự tồn tại xuất phát từ ranh giới,
biên giới, đường biên. Biên giới của mỗi con người trước hết là thân thể, thể hiện ở
các giác quan, nhờ đó mà tiếp xúc với Người Khác và Thế Giới, bao gồm cả chính
mình. Biên giới còn là lời nói, nhờ đó mà con người biểu hiện và giao tiếp với nhau.
Biên giới ấy là hành động mà con người tác động tới Người Khác và ngoại giới.
Biên giới là ranh giới phân biệt, nhưng cũng là vùng tiếp giáp, nối liền Tôi với
Người Khác. Không có biên thì không có Tôi và không có Người Khác. Mỗi cái Tôi
có ý thức, có mục tiêu cuộc sống, nhưng toàn bộ cuộc sống con người là nằm ở
đường biên, luôn ý thức về ngoại biên. Con người thực hiện sự sống bằng hành
động tác động ngoại giới. Nó tiếp xúc thế giới bằng tất cả các giác quan (nhìn, nghe
ngửi, sờ, nếm…), nó giao tiếp với người khác bằng lời nói. Xuất hiện trước người
khác bằng trang phục, ngoại hình. Toàn bộ ngoại biên làm nên đời sống cảm xúc,
tình cảm, suy nghĩ của Tôi. Toàn bộ ngoại biên cũng làm nên hoạt động thẩm mĩ
của Tôi. Nếu xóa bỏ biên giới thì Tôi là con số không, không có gì hết [81; 4].
Nói như thế cũng có nghĩa là ngoại biên làm nên trung tâm, không có ngoại
biên sẽ không có trung tâm. Bởi vì Con người có biên giới để phân biệt với Người
khác thì xã hội, quốc gia cũng có biên giới riêng. Xã hội cũng không tồn tại một ý
thức thống nhất phổ biến, mà chỉ có các ý thức khác nhau tham gia vào cuộc sống
chung ở đường biên, từ đó tạo thành ý thức chung, một ý thức nằm ở đường biên
của giao lưu, đối thoại. Một ý thức đơn nhất là không thể tồn tại. Chỉ có giao lưu,
đối thoại thì mới có tư duy, có ý thức. Lí tính mà không tham gia hành động, không

do thực tiễn kiểm nghiệm thì chỉ là phiến diện. Tôi nếu chỉ tư duy thì tôi không thể


20
tồn tại, muốn tồn tại thì phải hành động tham dự đời sống. Như vậy con người hay
quốc gia phải có ý thức về biên giới thì mới có thể tồn tại.
Như vậy trong mọi hệ thống của sự sống, ban đầu chỉ có ngoại biên, dưới
dạng các đơn bào, về sau sự sống phát triển mới hình thành trung tâm thần kinh,
đầu não. Sự sống xã hội cũng vậy. Từ thời cổ đại các bộ lạc đã có thần linh, tôtem,
nghi lễ, tù trưởng. Ngoại biên là nền tảng, hạ tầng cơ sở, trung tâm là thượng tầng
kiến trúc. Mọi hệ thống sự sống đều có chức năng là duy trì và phát triển hạ tầng cơ
sở, tức là ngoại biên. Sự trung tâm hóa và ngoại biên hóa là hai quá trình đan xen
làm nên sự sống với các mâu thuẫn thống nhất, tập trung và ngoại biên. Tập trung
hóa là để tổ chức cuộc sống ngoại biên tốt đẹp hơn. Ngoại biên do trung tâm điều
hành, song ngoại biên cũng có sự sống riêng của nó. Điều hành không thích hợp có
thể khiến bộ phận bị hư hỏng, không thể phục hồi. Để hao tổn ngoại biên thì trung
tâm thượng tầng cũng sẽ lung lay, dặt dẹo.
Như vậy bản chất sự sống là ở ngoại biên. Từ ngoại biên đến trung tâm là
một quá trình biện chứng. Quan niệm về ranh giới, biên giới ấy giúp chúng ta hiểu
rằng, toàn bộ sức sống văn học, nghệ thuật nằm ở đường biên. Kìm giữ văn học,
nghệ thuật ở trung tâm là kìm hãm sự phát triển, sinh sôi của chúng. Quan niệm này
cũng cho thấy ngoại biên hóa là quy luật khách quan của nghệ thuật và lí thuyết,
phê bình.
1.1.2. Khái niệm ngoại biên - trung tâm trong nghiên cứu văn học
Trong nghiên cứu lí luận văn học, khái niệm ngoại biên - trung tâm được
hiểu theo nhiều cách khác nhau, nhất là vấn đề ngoại biên trong văn học.
Có ý kiến cho rằng ngoại biên trong văn học tức là bản thân nội hàm văn học
thay đổi, nhưng có người lại cho rằng “tính văn học” thay đổi. Có người hiểu là tác
giả đã chết, người đọc cũng chết, các giá trị thiêng liêng của văn học đang mất đi.
Có người lại cho là trong xã hội hiện đại với văn hóa hình ảnh, văn học mất vị trí

trung tâm của văn hóa và của các loại hình nghệ thuật. Có người hiểu ngoại biên
hóa có nghĩa là văn học nghiêm túc, tinh anh mất địa vị chủ lưu. Có người nói văn
học ngoại biên hóa là do chức năng văn học thay đổi, chức năng nhận thức, giáo
dục không còn ở vị trí hàng đầu nữa. Có người nói văn học ngoại biên hóa là do văn


21
học không còn gắn với chính trị… Nhưng theo Trần Đình Sử thì “văn học ngoại
biên hóa chủ yếu là phương thức tồn tại thông thường của văn học” [81; 6].
Vì sao Trần Đình Sử lại cho rằng ngoại biên hóa chủ yếu là phương thức tồn
tại thông thường của văn học? Ở nước ta thời trung đại các học thuyết Nho, Phật
Đạo tồn tại đa nguyên, cộng sinh, gọi là “tam giáo đồng nguyên”. Thơ của Nguyễn
Trãi là sản phẩm ngoại biên hóa của các thuyết cộng sinh, tạp giao ấy. Ở nhiều nước
trên thế giới, chủ nghĩa Mác đã và đang cộng sinh với các thứ lí luận khác như phân
tâm, hiện sinh, cấu trúc… Sự cộng sinh, tạp giao, vượt biên đã làm cho chủ nghĩa
Mác phương Tây phát triển phong phú. Thực ra, mác xít của Liên Xô, Trung Quốc,
Việt Nam vốn đều là ngoại biên hóa của mác xít chính gốc. Ở Trung Quốc, sự cộng
sinh làm xuất hiện mĩ học của Lí Trạch Hậu, trong đó kết hợp mác xít với phân tâm
học và mĩ học hình thức. Toàn bộ lí luận văn học Trung Quốc hiện nay cũng là một
sự tạp giao.
Như vậy sự tồn tại của các yếu tố cộng sinh, tạp giao, vượt đường biên là sự
tồn tại thông thường trong từng giai đoạn lịch sử. Đó là một thực tế để chứng minh
rằng trung tâm đều được bắt nguồn từ ngoại biên. Trong văn học cũng vậy, mọi
sáng tác ở trung tâm đều bắt nguồn từ ngoại biên, văn học Trung Quốc là một ví dụ.
Ở Trung Quốc, Kinh Thi ban đầu là dân ca của các nước trên lãnh thổ Trung Hoa cổ
đại, qua sự san định, chỉnh lí, sắp xếp của Khổng Tử mà sau này trở thành Kinh Thi.
Khi đang đi du thuyết các nước, Nho gia vốn cũng chỉ là một trong mười học phái
thuộc ngoại biên, phải đến đời Hán mới độc tôn nho thuật, trở thành trung tâm.
Nhưng đến thời Ngụy Tấn thì huyền học nổi lên thành trung tâm, nó ra ngoại biên.
Đến Minh Thanh lại vào trung tâm, nhưng đến thời Ngũ Tứ lại bị đẩy ra ngoại biên.

Tiểu thuyết Trung Quốc ban đầu cũng là thể loại ngoại biên, không có vị trí nào
trong hệ thống phân loại của văn học chính thống Trung Quốc. Mãi đến cuối thế kỉ
XIX, với khẩu hiệu “Tiểu thuyết cứu nước” của Lương Khải Siêu, và đầu thế kỷ
XX với cách mạng văn hóa thời Ngũ Tứ, được Hồ Thích, Lỗ Tấn, Trịnh Chấn Đạc
nghiên cứu tiểu thuyết mới chuyển thành thể loại trung tâm của văn học.
Ở Việt Nam, dòng văn học cách mạng trước năm 1945 chỉ là ngoại biên,
sau cách mạng tháng Tám liền trở thành dòng văn học trung tâm. Thơ ca lãng mạn


22
Việt Nam trước cách mạng là trung tâm nhưng đến sau cách mạng nó lại trở thành
ngoại biên.
Từ đó cho thấy trong văn học, ở thời điểm này nó là ngoại biên, nhưng ở một
thời điểm khác nó là trung tâm. Và đó chính là phương thức tồn tại thông thường
của văn học.
Cũng bàn về vấn đề ấy, Nguyễn Văn Dân cho rằng "xu hướng ngoại biên hóa
văn học" được xem như là một quy luật để khẳng định giá trị của văn học chứ
không phải là “văn chương bên lề”, đối lập với dòng văn chương chính thống. Xu
hướng lựa chọn những cái giống nhau của mọi người vẫn là xu hướng tất nhiên và
mang tính chủ đạo. Vì vậy, trong mối quan hệ giữa trung tâm và ngoại biên, thì vectơ chủ đạo vẫn là hướng vận động từ ngoại biên đến trung tâm; mặt khác đó còn là
sự vận động của ngoại biên để tiến tới trở thành các trung tâm mới, bổ sung cho một
trung tâm gốc.
Ở Việt Nam, vấn đề ngoại biên - trung tâm trong nghiên cứu văn học được
hiểu khá đơn giản như thế. Nước ta có truyền thống văn học lâu đời và trung tâm
của truyền thống là thơ. Thơ là trung tâm, kéo dài từ thuở mới lập nước cho đến tận
ngày văn hóa phương Tây xâm nhập vào Việt Nam. Đến khi truyện hiện đại xuất
hiện, thơ bắt đầu mất dần vị trí trung tâm, dẫu rằng vào thời đó, thành tựu thơ Mới
đạt được là vô cùng diệu kì nhưng nó vẫn không độc chiếm trung tâm bởi tiểu
thuyết của Tự lực văn đoàn, tiểu thuyết của các cây bút hiện thực vẫn chi phối mạnh
người đọc. Từ khi dành được độc lập và trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp,

chống Mỹ, thơ và truyện kể vẫn là trung tâm. Kịch hầu như không xuất hiện.
Văn học Việt Nam ở thế kỉ XXI, thể loại văn học trung tâm lại vẫn là tiểu
thuyết, và chừng mực nào đó là truyện ngắn. Thơ tuy được in nhiều nhưng thành
tựu chẳng có là bao và quan trọng hơn là không có nhiều người đọc. Trong khi đó,
lợi thế của tiểu thuyết và truyện kể nói chung là tập quán thưởng thức văn xuôi của
dân tộc và những cách tân của chúng có “kinh dị” đến chừng nào thì vẫn cứ dễ đọc
hơn là đọc một bài thơ hậu hiện đại.
Tuy nhiên, theo Lê Huy Bắc có hai quan niệm về “trung tâm” cùng song
song tồn tại. Theo quan niệm chính thống (thể hiện qua các giải thưởng của hội nhà
văn và các đoàn thể nhà nước) là những tác phẩm mang đậm chất sử thi của lối viết


23
cũ, thiên hẳn sang văn xuôi mà ta quen gọi là văn xuôi cách mạng. Và quan niệm
“trung tâm” của những “ngoại biên” (đang dần dịch chuyển vào trung tâm) dành
cho những tác phẩm (đa số chẳng được giải thưởng gì) khước từ tính sử thi, đề cao
tính trò chơi và những chuyện vặt vãnh đời thường. Đó là những sáng tạo nghệ
thuật của Nguyễn Minh Châu (giai đoạn sau), Bảo Ninh, Nguyễn Huy Thiệp,
Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Việt Hà, Cao Duy Sơn, Đặng Thân, Vi Thùy Linh,
Phong Điệp, Nguyễn Ngọc Tư,... Theo Lê Huy Bắc những cây bút ngoại biên này ở
trong tư thế “sãi làm vua”. Sự dịch chuyển “ngoại biên” này là tất yếu. Bởi họ đang
viết theo phong cách hậu hiện đại, lấy tính chất chơi tự do và suy tôn vai trò người
đọc làm tiêu chí để sáng tạo và đang được đông đảo công chúng học thức yêu thích.
Tác phẩm hậu hiện đại tiêu biểu tại thời điểm này chính là 3.3.3.9 [những mảnh
hồn trần] của Đặng Thân. Người đọc có thể tìm thấy ở đây vô vàn điều “khác biệt”
với tư duy tiểu thuyết Việt Nam đương thời và trước đó. Với lối tư duy trác tuyệt
của mình, Đặng Thân đã biến ngôn ngữ thành phi ngôn ngữ, biến khả năng giao tiếp
thành thảm họa, biến lịch sử thành hư cấu và hư cấu thành lịch sử, biến khoa học
thành trò chơi, biến chuyện tình yêu thành xác thịt và xác thịt thành tình yêu, biến
bạn thành thù và thù thành bạn, biến nhà thông thái thành kẻ ngốc và kẻ ngốc thành

thông thái, biến tri thức thành phản tri thức, biến vĩ nhân thành thành cuồng nhân
ngay trong chính “cái vĩ” của mình... Một cái nhìn đa diện, đầy chất chơi về cuộc
đời như thế đã cho thấy sự bất an về bản thể, về hành trình sống của nhân loại. Một
bất an ngẫu nhiên, không xuất phát từ thực tại mà dường như tự khi cái được gọi là
trái đất hình thành và khi cái được gọi là con người ra đời.
Như thế ở mỗi giai đoạn “biến cố” của lịch sử, trong văn học đều xuất hiện
một hậu hiện đại. Nhiệm vụ của nó là phá vỡ trật tự đã đông cứng của một lối viết
nào đó, mở đường đưa văn chương tiến lên. Chính nhờ sự xuất hiện của các cây bút
ngoại biên này mà những tiêu chí trung tâm dần lung lay và ở mức độ nào đó có sự
giao thoa giữa ngoại biên và trung tâm, dẫn đến một trạng thái hỗn độn nhất định
trong văn chương đương đại. Do đó việc đánh giá một tác phẩm văn học có giá trị
sẽ tùy theo quan điểm chủ quan của một nhóm người. Đây được xem là giai đoạn
cách tân văn chương và cách tân cách tiếp nhận và tinh thần dân chủ ắt hẳn được đề


24
cao hơn bao giờ hết.
Văn học ngoại biên là nguyên sinh, văn học trung tâm là thứ sinh do điều
kiện chính trị, kinh tế, văn hóa quy định. Hai quá trình trung tâm hóa và ngoại biên
hóa song song, chuyển hóa, thay đổi làm nên quá trình phát triển của văn học.
1.2.3. Tình hình vận dụng lí thuyết ngoại biên - trung tâm để nghiên cứu
văn học ở Việt Nam
Ở Việt Nam vấn đề ngoại biên - trung tâm trong văn học được khá nhiều nhà
nghiên cứu đề cập đến. Họ đã vận dụng lí thuyết ngoại biên - trung tâm để nghiên
cứu sự phát triển của văn học Việt Nam trong các thời điểm khác nhau của lịch sử.
Tiêu biểu là Ngô Đức Thịnh với Lý thuyết trung tâm và ngoại vi trong không gian
văn hóa, Lê Huy Bắc với Trung tâm - ngoại biên: Vua thất thế sãi làm vua, Lại
Nguyên Ân với Từ trung tâm ra ngoại biên và từ ngoại biên vào trung tâm, Trở lại
vấn đề trung tâm - ngoại vi, Nguyễn Văn Dân với Văn học nhìn từ lí thuyết trung
tâm - ngoại vi, và Văn học trung tâm - ngoại vi, nhìn từ góc độ văn hóa, Trần Đình

Sử với Ngoại biên hóa trong tiến trình văn học Việt Nam đương đại, Lê Nguyên
Long với Trung tâm và ngoại biên: từ hệ hình cấu trúc luận đến hệ hình hậu cấu
trúc luận, Hà Hữu Nga với Nhân học hóa và mối quan hệ trung tâm - ngoại vi…
Điểm chung của các công trình nghiên cứu trên là đi vào lí giải khái niệm
trung tâm - ngoại biên, trên cơ sở đó làm rõ bản chất của khái niệm trung tâm ngoại biên trong văn học nói chung và văn học Việt Nam nói riêng. Dẫu các quan
điểm vẫn còn có chỗ chưa thống nhất (như công trình của Nguyễn Văn Dân Văn
học nhìn từ lí thuyết trung tâm - ngoại vi, và bài viết Trở lại vấn đề trung tâm ngoại vi của Lại Nguyên Ân) nhưng cơ bản các nhà nghiên cứu đã làm rõ được vấn
đề trung tâm - ngoại biên trong quá trình nghiên cứu lí luận văn học. Họ đã có
những đánh giá thỏa đáng về vai trò, vị trí của các thể loại văn học, các dòng văn
học lúc thì ở vị trí trung tâm, lúc lại ở vị trí ngoại biên, góp phần thúc đẩy sự phát
triển của nền lí luận, phê bình.
Trong khuôn khổ của luận văn, chúng tôi xin bàn đến một số công trình
nghiên cứu tiêu biểu.
Trước hết là bài viết Trung tâm - ngoại biên: Vua thất thế sãi làm vua của
tác giả Lê Huy Bắc. Trong bài viết này, tác giả đã từ góc nhìn của lí thuyết về sự


25
thay đổi của Hỗn độn và Trật tự để có cái nhìn rõ hơn về vấn đề trung tâm – ngoại
biên trong văn học. Hỗn độn vốn là cái có trước, là bản chất của tự nhiên. Còn Trật
tự là cái có sau, là bản chất của xã hội. Nhưng trật tự ấy vốn không thể giữ mãi như
vậy, bởi cái hỗn độn luôn can thiệp vào cái trật tự xã hội hòng tạo nên một hỗn độn
mới để thiết lập một trật tự mới. Trên cơ sở đó tác giả khái quát hai vai này bằng
khái niệm “vua” và “sãi”: vua là biểu tượng của trung tâm, của trật tự, của quyền
lực tối thượng, của đặc quyền đặc lợi; sãi là biểu tượng của ngoại biên, của hỗn độn,
của những cái nhỏ bé, bị trị, đứng bên lề cuộc đời. Trật tự chỉ là trật tự khi sãi là sãi
và vua là vua. Nhưng một ngày nào đó, một hỗn độn xuất hiện, vua không còn là
vua và sãi không cam tâm làm sãi nên có sự dịch chuyển, sãi vào trung tâm, vua ra
ngoại vi. Trong văn học cũng đã chịu cảnh dịch chuyển trung tâm - ngoại vi như
thế. Có thể xem sự dịch chuyển do động lực tiến bộ tự nó và cũng có thể nó chịu

một lực tác động bên ngoài mà không thể khác. Trong bài viết tác giả đã phân tích
khá sâu và cụ thể về sự dịch chuyển vị trí ngoại biên - trung tâm trong văn học trên
thế giới và ở Việt Nam. Đặc biệt, tác giả đi sâu phân tích vấn đề ngoại biên - trung
tâm trong tiến trình phát triển của văn học Việt Nam một cách sâu sắc và dễ hiểu.
Đó là sự dịch chuyển của các thể loại văn học ở các giai đoạn khác nhau của lịch sử
mà chúng tôi đã lấy ví dụ ở phần trước.
Theo bài viết, khái niệm ngoại biên - trung tâm trong văn học được hiểu như
là sự mất đi, yếu thế hoặc sự độc tôn, lên ngôi của một thể loại văn học nào đó mà
cơ bản là do tập quán, thói quen thưởng thức của người đọc trong từng giai đoạn
lịch sử khác nhau.
Trong Văn hóa trung tâm - ngoại vi, nhìn từ góc độ văn hóa, tác giả Nguyễn
Văn Dân đề cập vấn đề trung tâm - ngoại biên trên hai phương diện: phương diện
chuyên ngành và phương diện không gian văn hóa. Với phương diện chuyên ngành,
vấn đề trung tâm - ngoại biên được hiểu như sự ưu thế hay không ưu thế của các thể
loại văn học trong từng giai đoạn. Và các thể loại văn học luôn có xu hướng trung
tâm hóa, còn gọi là xu hướng hướng tâm. Tức là các loại hình sáng tác luôn có xu
hướng tiến tới để được công nhận là thành viên chính thức của một hình thái nghệ
thuật. Và do đó, xu hướng ngoại biên hóa là điều khó có thể hình dung. Còn trên


×