Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

Hình tượng giới trẻ trong tiểu thuyết của Nguyễn Đình Tú

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (440.19 KB, 87 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN KIM TOẠI

HÌNH TƯỢNG GIỚI TRẺ
TRONG TIỂU THUYẾT CỦA NGUYỄN ĐÌNH TÚ

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN

NGHỆ AN, 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN KIM TOẠI

HÌNH TƯỢNG GIỚI TRẺ
TRONG TIỂU THUYẾT CỦA NGUYỄN ĐÌNH TÚ
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VĂN HỌC

Mã số: 60.22.01.20

Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. ĐINH TRÍ DŨNG

NGHỆ AN, 2015



MỤC LỤC


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Sau năm 1986, văn học Việt Nam bước vào giai đoạn đổi mới và
hội nhập. Tiểu thuyết phát triển rực rỡ cả về số lượng và chất lượng. Hiện
thực được đào xới ở bề sâu, số phận con người được nhìn nhận trong cái
nhìn đa chiều, nhân văn. Nhiều cây bút tiểu thuyết gây được tiếng vang trong
dư luận bạn đọc: Phạm Thị Hoài, Bảo Ninh, Dương Hướng, Nguyễn Bình
Phương, Nguyễn Việt Hà, Hồ Anh Thái, Tạ Duy Anh… Đặc biệt là sự xuất
hiện của một số cây bút trẻ, tạo nên những ấn tượng tốt đẹp như Nguyễn
Ngọc Tư, Lê Thị Thẩm Vân…, trong đó nổi trội lên là cây bút quân đội
Nguyễn Đình Tú. Với tính chất là thể loại tự sự cỡ lớn, có thế mạnh trong
việc thể hiện số phận con người, tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 đã được
quan tâm nghiên cứu nhiều. Đi sâu nghiên cứu tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú
sẽ giúp chúng tôi hiểu hơn quy luật vận động và những thành tựu của văn
học Việt Nam sau 1986.
1.2. Nguyễn Đình Tú là nhà văn trẻ. Sức viết của anh khá dồi dào. Cho
đến nay anh đã cho ra đời ba tập truyện ngắn: Bên bờ những dòng chảy
(2001); Không thể nào khác được (2002), Nỗi ám ảnh khôn nguôi (2003). Và
bảy tiểu thuyết: Hồ Sơ một tử tù (2002), Bên dòng Sầu Diện (2005), Nháp
(2008), Phiên Bản (2009), Kín (2010), Hoang tâm (2013), Xác phàm (2014).
Anh là một nhà văn từng học trường luật và đã từng công tác trong ngành
tư pháp, anh có sự am hiểu và cái nhìn hiện thực về đời sống, đặc biệt rất
am hiểu về tính cách, tâm hồn của những người trẻ tuổi, cả những lỗi lầm,
khuyết điểm của họ. Tiểu thuyết của Nguyễn Đình Tú đã tạo được những
dấu ấn đối với bạn đọc, nhất là bạn đọc trẻ. Nghiên cứu tiểu thuyết
Nguyễn Đình Tú, chúng tôi muốn tìm hiểu sâu hơn về một thế hệ những

người viết trẻ, những người đang tạo nên những trang mới của lịch sử văn
học đương đại.


2
1.3. Nhân vật người trẻ tuổi là đối tượng được đặc biệt quan tâm trong
tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú. Nhà văn tập trung khai thác mối quan hệ giữa
con người và hoàn cảnh sống, sự thiếu hụt về văn hóa, tri thức của một bộ
phận giới trẻ, những lỗi lầm và khát vọng hướng thiện của họ. Khảo sát thế
giới nhân vật người trẻ tuổi sẽ cho chúng ta cái nhìn sâu hơn, khách quan
hơn về cảm quan nghệ thuật và tài năng của nhà văn.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Các bài viết về Nguyễn Đình Tú và tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú
Phê bình văn học là thành phần không thể thiếu của đời sống văn học.
Khi một hiện tượng văn học ra đời thì thường kéo theo những nhận xét,
đánh giá. Người ta đi tìm lời giải thích thoả đáng về sự thành công và những
hạn chế của tác giả. Không nằm ngoài quy luật đó, mặc dù còn rất trẻ và đến
với làng văn Việt Nam tương đối muộn nhưng cái tên Nguyễn Đình Tú đã
gây được tiếng vang khá lớn. Cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên
cứu, bài viết về tác phẩm của Nguyễn Đình Tú.
Trong luận văn thạc sỹ của Hoàng Thị Thêu (Đại Học Đà Nẵng) đã
tập trung nghiên cứu Đặc điểm tiểu thuyết của Nguyễn Đình Tú. Tác giả đã
nêu các đặc điểm nổi bật về đề tài và các kiểu nhân vật đặc thù. Hoàng Thị
Thêu cho rằng Nguyễn Đình Tú quan tâm đến hai loại đề tài đó là thế giới tội
phạm và tình yêu, tình dục. Cùng với hệ đề tài đó là các kiểu nhân vật đặc
thù: Nhân vật với đời sống bản năng; Nhân vật bị chấn thương; Nhân vật tự
ý thức. Đoàn Minh Tâm trong Từ Hồ sơ một tử tù đến “Nháp” - một chặng
đường tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú đã vận dụng lý thuyết liên văn bản để
nghiên cứu và đưa ra nhận định: “Đọc Nháp trong mối so sánh liên văn bản
với hai tiểu thuyết Hồ sơ một tử tù và Bên dòng sầu diện chúng tôi cho rằng

đây là tác phẩm đánh dấu một chặng đường sáng tác của anh. Sau Nháp,
chúng ta sẽ gặp một Nguyễn Đình Tú với phong cách sáng tác hoàn toàn
khác trước đây”. Từ suy nghĩ đó tác giả Đoàn Minh Tâm đã nghiên cứu đặc
trưng chung có tính ổn định và đặc trưng riêng khác biệt ở tiểu thuyết Nháp.


3
Tác giả cũng phát hiện ra đặc điểm ngôn ngữ tiểu thuyết của Nguyễn Đình
Tú: “Ngôn ngữ trong Nháp có tiết tấu nhanh, thăng bằng, nhiều trường đoạn
tạo cho người đọc “ảo giác” tác giả đang “nháp”, đang trong quá trình phôi
thai đứa con tinh thần chứ chưa phải là sản phẩm hoàn chỉnh”. Đó là những
gợi ý vô cùng quý báu cho chúng tôi. Nhà văn Khuất Quang Thụỵ đã đưa ra
một sự định danh tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú là tiểu thuyết “tội phạm học”.
Ông nhận định: “Nguyễn Đình Tú đã thành công khi tạo ra được cho mình
một cách tiếp cận hiện thực khá mới mẻ và một lối kể chuyện có sức cuốn
hút. Ít nhất khi đọc cuốn sách này, chúng ta cũng bị lay động và buộc phải
suy nghĩ một cách nghiêm túc hơn, ít phiến diện hơn về một số vấn đề đặt ra
trong cuộc sống hôm nay. Đó chính là sự khởi đầu tốt đối với một tiểu
thuyết”. Trong bài giới thiệu Nháp - Tiểu thuyết mới của Nguyễn Đình Tú,
nhà văn Chu Lai cũng cho rằng: “Đó là bút pháp táo tợn và dịu dàng. Và hơi
giật mình. Mới ngày nào giọng văn hơi văn còn hiền hoà, nền nã, lãng mạn
đường kia mà giờ đây đã phá phách, đáo để, không tránh né bất cứ thứ gì mà
cuộc sống khuất lấp và ngổn ngang phơi bày ra kia…”. Từ những nhận định
chính xác đó nhà văn Chu Lai cho rằng: “với cuốn sách này, Nguyễn Đình
Tú hoàn toàn đã có thể ngẩng cao đầu bước tiếp trên con đường tiểu thuyết
mênh mang nắng gió nhưng cũng quá đỗi chông gai, nhọc nhằn”. Trong
công trình nghiên cứu Phản biện Sex trong Nháp của Nguyễn Đình Tú, tác
giả Lê Nhật Tăng cho rằng trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú có hai sự phản
biện đáng chú ý đó là: “Sự phản biện thứ nhất chính là nỗi khát khao tìm cái
đẹp thánh thiện hoàn mỹ của Đại để rồi sa vào bi kịch và thức tình”, tác giả

bài viết đã lý giải rất rõ ràng: “Sự phản biện thứ hai xuất hiện song song
cùng sự phản biện thứ nhất mới là điều đáng nói ở cuốn tiểu thuyết này. Đó
là sự phản biện tính giao khác chủng tộc”. Trong bài viết Điểm nhìn nghệ
thuật trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú, Trần Tố Loan, đã nói rõ: “Bên cạnh
việc xây dựng một cốt truyện hoàn chỉnh, sử dụng ngôn từ phù hợp, nhà văn
đã dụng công trong việc tổ chức kết cấu tác phẩm một cách sinh động và hấp


4
dẫn”. Trên trang mạng Express ở bài phỏng vấn của Diệu Linh đối với tác
giả Nguyễn Đình Tú, Tác giả đã nói rõ: “Thực ra cái gọi là “đương đại” chỉ
là tâm thế sáng tác thôi, chứ tác phẩm của tôi có một diện đề tài khá rộng.
Các cuốn tiểu thuyết của tôi về bề nổi có vẻ là những ngổn ngang của hiện
thực cuộc sống hôm nay đang hắt vào. Nhưng cái hiện thực đó luôn có
những gốc rễ sâu xa và đặt trong nhiều chiều liên tưởng khác nhau”. Rõ ràng
nhà văn luôn ý thức về nội dung và ý đồ nghệ thuật của riêng mình.
Trong luận văn thạc sĩ của Dương Thị Hương cùng đề tài Đặc điểm
tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú, (Trường Đại học KHXH&NV), tác giả chủ yếu
nghiên cứu các phương diện nghệ thuật của tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú
như: kết cấu song song, đa tuyến, dòng ý thức; tổ chức cốt truyện phân mảnh
và truyện lồng trong truyện; điểm nhìn trần thuật không - thời gian và điểm
nhìn nhân vật; một số thủ pháp nghệ thuật khác… Đóng góp lớn nhất chính
là phát hiện ra điểm nhìn trần thuật trong tiểu thuyết của nhà văn trẻ này.
Luận văn thạc sĩ của Phạm Anh Hào, (Đại học Vinh), nghiên cứu đề
tài Hiện thực đương đại trong tiểu thuyết của Nguyễn Đình Tú. Tác giả chỉ
rõ các yếu tố nghệ thuật làm nên sức sống mãnh liệt và hấp dẫn của tiểu
thuyết Nguyễn Đình Tú. Các nét nghệ thuật đương đại được khảo sát qua
những va chạm của các bảng giá trị.
2.2. Các bài viết về người trẻ tuổi trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú
Trong thế giới nhân vật của tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú, đối tượng

được thể hiện chủ yếu là giới trẻ. Hầu hết các nhân vật trẻ tuổi được tác giả
nhìn nhận đánh giá trong sự thành công, sự thất bại, những suy nghĩ, tâm sự
và cả những lỗi lầm ghê rợn. Tất cả những gì có trong cuộc sống trần trụi
cũng bước vào trang sách của Nguyễn Đình Tú như những gì nó vốn có. Có
khá nhiều nhà nghiên cứu đã phát hiện ra thế giới nhân vật này của nhà văn.
Tiểu thuyết Kín xuất bản và được đón nhận một cách nồng nhiệt của độc giả.
Nguyễn Xuân Diện trong bài viết “Kín”- một dòng tiểu thuyết miên man, đã
nhấn mạnh rằng: “Cuộc sống nhân vật tiểu thuyết của Nguyễn Đình Tú, phải


5
chăng như đoá sen đầu mùa hạ còn phong kín nhuỵ hương? Hay là cuộc viết
tiểu thuyết của Tú, phải chăng đến cuốn thứ năm vẫn là một dòng mải miết
miên man nhằm xâm nhập thám hiểm vào tận ngóc ngách thế giới bên trong
đầy hoang vu rợn ngợp, đầy khắc khoải đan cài vô số chuyển động ngược
chiều: các nhân vật trẻ tuổi của Tú vừa tự đập tan nát mình vỡ vụn, vừa ráng
chịu đau đớn, tự tay “khâu vá” lại những mảnh vụn nát cho lành lặn ?”.
Trong luận văn thạc sỹ của Nguyễn Thị Phương Nhi mang tên Yếu tố tính
dục trong tiểu thuyết của Nguyễn Đình Tú, người nghiên cứu đã chỉ ra các
dạng thức biểu hiện của tính dục, từ đó khái quát quan niệm về tính dục của
nhà văn. Đối với Nguyễn Đình Tú, “yếu tố sex không chỉ mang tính bản
năng mà còn chi phối các giá trị chuẩn mực xã hội”, nên việc đưa sex vào
văn học đơn thuần như một sản phẩm tinh thần của đời sống, chứ không có
gì to tát để bàn cãi. Về tiểu thuyết Nháp, nhà văn Chu Lai nhận xét: Đó là
quả đấm của nhịp điệu nhanh, mạnh, hiện đại, cuồng nộ, nhịp điệu của giới
trẻ toàn cầu mà trong đó ta thấy cả bóng dáng của hiphop, của blog, của thủ
thuật cắt dán tinh xảo, ẩn chìm, của các pha tình dục thẳng căng, của những
cảnh đời dưới đáy gai góc rợn người, kinh khủng.
Trước khi nghiên cứu về tiểu thuyết của Nguyễn Đình Tú chúng tôi
cũng đã theo dõi những bài phỏng vấn tác giả: “Nháp không chỉ có Sex và

giết người” (e Van.com); “Tác phẩm của tôi không chỉ có bạo lực và Sex”
(e Van.com); “Nguyễn Đình Tú: Văn học lặn vào trông ồn ã” (An Ninh thế
giớ); “Bạn đọc sẽ không chết chìm trong Kín” (e Van.com)… với các bài
phỏng vấn này chúng tôi thấy được quan điểm thể hiện giới trẻ của nhà văn.
Cũng thông qua những bài phỏng vấn này, phần nào chúng ta hiểu được
quan điểm nhìn nhận và tái hiện hiện thực của tác giả.
Có thể thấy, cho đến nay, đã có những bài viết, luận văn về tiểu thuyết
Nguyễn Đình Tú. Tuy nhiên, chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu toàn
diện, hệ thống về nhân vật người trẻ tuổi trong tiểu thuyết của nhà văn. Đó


6
cũng là lý do để chúng tôi lựa chọn đề tài Hình tượng giới trẻ trong tiểu
thuyết của Nguyễn Đình Tú làm đề tài Luận văn của mình.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là:
Hình tượng giới trẻ trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú
3.2. Phạm vi nghiên cứu: Các tiểu thuyết của Nguyễn Đình Tú
- Hồ sơ một tử tù, Nxb Văn học, Hà Nội, 2011
- Nháp, Nxb Văn học, Hà Nội, 2011.
- Kín, Nxb Tri thức trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2013
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu nhân vật người trẻ tuổi trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú
để hiểu hơn cá tính sáng tạo, cái nhìn hiện thực và mặt mạnh của cây bút tiểu
thuyết Nguyễn Đình Tú.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nhận diện đặc điểm tính cách, tâm hồn nhân vật người trẻ tuổi trong
tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú.
- Khảo sát các biện pháp nghệ thuật thể hiện nhân vật người trẻ tuổi

của nhà văn.
- Bước đầu chỉ ra những đóng góp của Nguyễn Đình Tú trên đề tài
viết về giới trẻ.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu thuộc chuyên ngành
nghiên cứu văn học như: Phương pháp cấu trúc - hệ thống, phương pháp
phân tích - tổng hợp, phương pháp so sánh - đối chiếu.
6. Đóng góp của luận văn.
Luận văn thể hiện một cái nhìn toàn diện, hệ thống về hình tượng giới
trẻ trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú, từ đó góp phần khẳng định đóng góp
riêng của nhà văn trong tiến trình phát triển tiểu thuyết Việt Nam đương đại.


7
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chính
của luận văn được triển khai trong ba chương:
Chương 1: Tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú trong bức tranh chung của
tiểu thuyết Việt Nam đương đại.
Chương 2: Giới trẻ - Hình tượng nổi bật trong tiểu thuyết Nguyễn
Đình Tú.
Chương 3: Các biện pháp nghệ thuật thể hiện nhân vật người trẻ tuổi


8
Chương 1
TIỂU THUYẾT NGUYỄN ĐÌNH TÚ TRONG BỨC TRANH
CHUNG
CỦA TIỂU THUYẾT VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI
1.1. Bức tranh tiểu thuyết Việt Nam đương đại

1.1.1. Bối cảnh xã hội-lịch sử
Năm 1975 chiến tranh kết thúc, Việt Nam trở thành quốc gia độc lập
và thống nhất. Chúng ta đã dành chiến thắng trong cuộc chiến đấu bảo vệ đất
nước. Sau 30 năm sống chung với tiếng súng và bom đạn, đất nước bước
sang một trang sử mới. Từ đời sống bất bình thường của “ngày có giặc” (chữ
dùng của nhà thơ Hữu Thỉnh) chuyển sang cuộc sống bình thường. Cả dân
tộc bắt đầu một giai đoạn lịch sử mới. Có thể nói bối cảnh lịch sử xã hội
Việt Nam từ sau 1975 đến nay chia thành hai giai đoạn khá rõ nét.
Giai đoạn thứ nhất (1975 - 1986) được xem là giai đoạn hậu chiến và
là quá trình chuẩn bị cho Đổi mới, thời kì đất nước gặp muôn vàn khó khăn,
rơi vào khủng hoảng. Chiến tranh chống Pháp và Mỹ chấm dứt nhưng xung
đột biên giới với Trung Quốc lại nổ ra.Khi đất nước hoàn toàn chấm dứt
tiếng súng,chúng ta đã có nhiều cố gắng trong quyết sách mạnh mẽ, đời sống
nhân dân khởi sắc, sống trong những ngày yên ả, thanh bình... Đáng tiếc là
chúng ta đã duy trì chế độ quan liêu bao cấp quá dài nên đất nước vốn đã kiệt
quệ nay càng kiệt quệ hơn,một đời sống bế tắc, lạc hậu.
Con người Việt Nam bước ra khỏi chiến tranh với tư cách là người
thắng trận. Niềm vui, niềm tự hào kiêu hãnh luôn có ở trong chúng ta. Người
ta có lẽ đã quá “say sưa” với chiến thắng oanh liệt đó. Hiện thực đời sống
như thế các nhà văn muốn tái hiện, phản anh nhưng ngặt nỗi còn nhiều rào
cản ý thức. Nhà văn Nguyên Ngọc đã từng bộc lộ tâm trạng của mình
“Trong khi các nhà văn chúng ta say sưa, bây giờ hoà bình vốn sống tích
luỹ bao nhiêu năm như “cá tức trứng” muốn đẻ lắm rồi, thừa nứa ra đó,


9
bom đạn cũng thẳng hết rồi, vật chất cũng khốn đốn hơn nhiều, tha hồ mà
viết, viết cho hết cho đã…” thì đột nhiên cái mối quan hệ vốn rất máu thịt
giữa công chúng và văn học bỗng dưng lạnh nhạt hẳn đi, hụt hẫng hẳn đi,
người đọc mới hôm qua còn đồng hành bây giờ chỉ có mình anh trơ trọi.

Nói như thế để thấy rằng bối cảnh xã hội thay đổi nhưng con người chưa kịp
thay đổi.
Giai đoạn thứ hai (1986 đến nay) - giai đoạn đổi mới và hội nhập, với
cơ chế quan liêu, bao cấp đất nước chìm sâu trong đói nghèo và lạc hậu.
Tình hình thế giới có nhiều chuyển biến phức tạp, sự thụ động trong chính
sách phát triển kinh tế xã hội thực sự không ổn. Trước tình thế như vậy,
Đảng ta đã quyết định Đổi mới để tồn tại và phát triển. Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VI diễn ra với nhiều quyết sách mà sau một khoảng thời gian
nhìn lại ta thấy là sáng suốt.
Chúng ta đã từng bước thực hiện xoá bỏ chế độ quan liêu bao cấp,
chuyển sang nền kinh tế thị trường. Các chính sách kinh tế được thực hiện và
thực sự đã cải thiện được đời sống nhân dân. Không còn độc quyền phân
phát, không còn độc quyền mô hình sản xuất, cả nước hăng say lao động sản
xuất. Trong thời gian này, sự sụp đổ của Liên Xô đã tác động đến đời sồng
kinh tế - xã hội thế giới. Việt Nam chịu sự tác động nhất định đó nhưng nhờ
chính sách Đổi mới mà ta vẫn giữ được thể chế và ổn định phát triển. Tất
nhiên khi ý thức hệ có sự biến động lớn như vậy thì xã hội nước nhà không
tránh khỏi những xao động. Xuất hiện những sự hoài nghi về sự ổn định xã
hội, con người bị chấn thương, hoang mang trước biến cố lớn của lịch sử…
Đây cũng là thời kì đổi mới sâu sắc và toàn diện về văn hoá, tư tưởng.
Đời sống hội nhập giao lưu với các nước đã làm phong phú đa dạng văn hoá
Việt Nam. Các trào lưu, tư tưởng văn hoá phương Tây đã đến với Việt Nam
qua nhiều con đường. Các tác phẩm dịch có một vị trí, vai trò quan trọng
trong đời sống văn học dân tộc. Đặc biệt Đại hội Đảng lần thức VI (1986)
đã làm thay đổi cơ bản nhận thức về hiện thực đời sống. Một nhiệm vụ


10
mới của văn học được đặt ra: “Bảo đảm tự do dân chủ cho mọi sáng tạo
của văn học nghệ thuật, tạo điều kiện làm việc thuận lợi để phát huy hiệu

quả của lao động nghệ thuật”. Văn nghệ phải biết cổ vũ cho cái tốt, phê
phán cái xấu và đặc biệt phải đấu tranh với các khuynh hướng trái với
đường lối của Đảng.Từ tư tưởng tiến bộ này mà văn học Việt Nam đã
bước vào giai đoạn khởi sắc nhất, không chỉ về số lượng mà còn cả chất
lượng, đặc biệt là sự đa dạng trong thể loại, phong phú về đề tài. Hiện
thực cuộc sống không chỉ được khai thác ở bề rộng mà còn cả bề sâu.
1.1.2. Sơ lược về bức tranh tiểu thuyết Việt Nam đương đại (sau 1975)
Văn học thời đại nào thì phản ánh trung thực lịch sử xã hội thời đại ấy.
Trong sự vận động của thể loại, nhìn lại những năm đầu sau giải phóng
(1975-1985) không thể không ghi nhận sự xuất hiện của một loạt tiểu thuyết
gây tiếng vang một thời, như những tín hiệu mở ra một thời kỳ mới trong
văn học. Từ Đất trắng (Nguyễn Trọng Oánh), Năm 1975 họ đã sống như thế
(Nguyễn Trí Huân), Trong cơn gió lốc (Khuất Quang Thụy)... đến Đứng
trước biển, Cù lao tràm (Nguyễn Mạnh Tuấn), Gặp gỡ cuối năm, Thời gian
của người (Nguyễn Khải), Mưa mùa hạ, Mùa lá rụng trong vườn (Ma Văn
Kháng)… Đây là những bằng chứng đầy đủ nhất cho thấy sự chuyển đổi tư
duy sáng tạo và quan niệm nghệ thuật của nhà văn. Những tác phẩm kể trên
là những tác phẩm mang tính nền móng dẫn tới sự đổi mới triệt để và quyết
liệt hơn trong cách nhìn hiện thực và thi pháp thể loại. Đây được xem là
những viên gạch đầu tiên cho nền văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới. Đã có
những chuyển biến đáng ghi nhận ở hầu hết các thể loại, trong đó có tiểu
thuyết. Trong sự vận động chung của nền văn học, tiểu thuyết - một loại hình
tự sự cỡ lớn đã và đang nỗ lực chuyển mình, nhằm đáp ứng yêu cầu của thời
đại, của đời sống văn học và của đông đảo độc giả đương đại...
Nền văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới từ 1986 đến nay đã có những
chuyển biến đáng ghi nhận ở hầu hết các thể loại, trong đó tiểu thuyết được
xem là tiên phong trong đóng góp cho nền văn học . Không khí dân chủ của


11

môi trường sáng tạo đã giúp nhà văn ý thức sâu sắc hơn về tư cách nghệ sĩ
của mình, vượt lên trên những, khuôn khổ truyền thống đã thành áp lực với
ngòi bút của người viết lâu nay. Chưa bao giờ những quan niệm mới về văn
chương, về nhà văn, về hiện thực và con người, về đổi mới tư duy nghệ thuật
lại cởi mở, dân chủ như lúc này. Nhiều cây bút tiểu thuyết đã có ý thức cách
tân trong cách nhìn và trong lối viết, có những tác phẩm thành công hoặc
đang trên đường tìm tòi, thể nghiệm, song điều đáng nói ở đây là tất cả đều
hướng tới mục đích: làm mới, làm hấp dẫn văn chương nói chung và tiểu
thuyết nói riêng. Có thể nói trong quá trình vận động và đổi mới, tiểu thuyết
đã trải qua “những bước thăng trầm”. So với những loại hình văn xuôi khác,
tiểu thuyết với những thành tựu và hạn chế của nó luôn là vấn đề “nóng” lôi
cuốn sự quan tâm và kích thích cảm hứng “đối thoại” của cả giới sáng tác, lý
luận, phê bình và công chúng. Trên diễn đàn văn học Việt Nam những năm
đổi mới, không ít lần đã xuất hiện các ý kiến tỏ ra băn khoăn, lo lắng cho sự
dẫm chân tại chỗ hoặc đang mầy mò của tiểu thuyết mà thực chất là sự mong
muốn có những tác phẩm hay, những tác phẩm đạt chất lượng nghệ thuật,
mang tính nhân loại. Gần đây nhất, câu hỏi tiểu thuyết Việt Nam đang ở đâu,
đã ít nhiều thu hút sự chú ý của dư luận đối với thực trạng tiểu thuyết, đồng
thời cũng thể hiện khát vọng của công chúng về sự đổi mới tiểu thuyết,
những cách tân về nội dung cũng như hình thức thể loại, sao cho tiểu thuyết
không chỉ được đón nhận ở trong nước mà còn được giới thiệu ra nước
ngoài, hoà nhập vào quỹ đạo của văn chương thế giới.
Vào thời điểm 1986 và những năm tiếp theo, trong cao trào đổi mới,
tiểu thuyết đã thật sự bộc lộ ưu thế của mình trên con đường dân chủ hoá thể
loại. Với xu hướng nhìn thẳng vào sự thật, các nhà tiểu thuyết đã dấn thân
vào hiện thực ở thời hiện tại, đang hình thành, chưa ổn định; ở chính “tiêu
điểm” của đời sống. Trong tác phẩm của họ ý thức “lột trần mặt nhau, lột
trần mặt mình, lột trần mặt đời” và cao hơn là “bóc trần thế giới”, đồng thời
với ý thức hướng tới “chất lượng cuộc sống”, sống sao cho đúng với cuộc



12
sống của con người đã thẩm thấu các tầng ngữ nghĩa. Thành tựu về tiểu
thuyết có thể kể đến: Thời xa vắng, Hai nhà (Lê Lựu), Đám cưới không có
giấy giá thú, Ngược dòng nước lũ (Ma Văn Kháng), Một cõi nhân gian bé tý
(Nguyễn Khải), Những mảnh đời đen trắng (Nguyễn Quang Lập, Ngoài khơi
miền đất hứa (Nguyễn Quang Thân), Thiên sứ (Phạm Thị Hoài), Trả giá,
Sóng lừng, Cõi mê (Triệu Xuân), Chim én bay (Nguyễn Trí Huân), Nỗi buồn
chiến tranh (Bảo Ninh), Bến không chồng (Dương Hướng), Mảnh đất lắm
người nhiều ma (Nguyễn Khắc Trường), Ăn mày dĩ vãng, (Chu Lai), Ngày
hoàng đạo (Nguyễn Đình Chính), Một ngày và một đời (Lê Văn Thảo), Lạc
rừng (Trung Trung Đỉnh), Cuốn gia phả để lại (Đoàn Lê), Thời của thánh
thần (Hoàng Minh Tường), Trùng tu (Thái Bá Lợi), Luật đời và cha con
(Nguyễn Bắc Sơn), Cánh đồng lưu lạc (Hoàng Đình Quang), Gia đình bé
mọn (Dạ Ngân)... Trong số đó có nhiều tác phẩm nổi lên là những “dự báo
của lương tri” trước một xã hội hiện đại còn nhiều bất an và khiếm khuyết.
Như trên đã nói, dù có những thời điểm nhất định tiểu thuyết rơi vào
thoái trào, nhưng theo quy luật tự thân của sáng tạo văn học, các tiểu thuyết
vẫn liên tục ra đời. Chưa bao giờ như bây giờ, mỗi ngày không chỉ “một
cuốn sách” mà nhiều cuốn sách đã hiện diện trên các giá sách với “bao bì”
bắt mắt. Các thế hệ nhà văn từ U70 đến @ vẫn mải miết sáng tác và không
phải ngẫu nhiên mà người ta đã cảm nhận thời bây giờ là “thời của tiểu
thuyết” (Nguyễn Huy Thiệp), thời của dân chủ hoá trong sáng tạo và tiếp
nhận. Những nhà văn lão thành như Nguyễn Xuân Khánh, Nguyễn Khải,
Mạc Can, Ma Văn Kháng… Những cây bút của thế hệ kế tiếp luôn ý thức về
sự đổi mới trong sáng tạo, sẵn sàng thể nghiệm, cách tân, chấp nhận hệ số
mạo hiểm cao. Người đọc bắt gặp và nhớ đến hàng loạt tiểu thuyết: Vào cõi,
Những đứa trẻ chết già, Trí nhớ suy tàn (Nguyễn Bình Phương), Người đàn
bà trên đảo, Cõi người rung chuông tận thế, Mười lẻ một đêm (Hồ Anh
Thái), Cơ hội của chúa, Khải huyền muộn (Nguyễn Việt Hà), Đi tìm nhân

vật, Thiên thần sám hối (Tạ Duy Anh), Giàn thiêu (Võ Thị Hảo),)... Trong


13
bối cảnh giao lưu và hội nhập văn hoá quốc tế, sáng tác của các cây bút hải
ngoại đã xuất hiện ở Việt Nam và hầu hết đều được giới thiệu với bạn đọc
trong nước: Sông Côn mùa lũ (Nguyễn Mộng Giác), Phố Tầu, Paris 11
tháng 8 (Thuận), Tìm trong nỗi nhớ, Trên đỉnh dốc (Lê Ngọc Mai), Thảo
(Võ Hoàng Hoa), Và khi tro bụi (Đoàn Minh Phương), Gió từ thời khuất mặt
(Lê Minh Hà). Sự đóng góp của các cây bút sống ở những quốc gia khác
nhau đã góp phần làm cho diện mạo tiểu thuyết phong phú và đa dạng hơn,
đồng thời tiếng nói về cuộc đời và con người trong tiểu thuyết cũng giàu sắc
điệu và đa nghĩa hơn.
Trong không khí phóng khoáng, cởi mở của đời sống văn học cho thấy
tiểu thuyết đã vận động và đổi mới nhanh chóng. Những người cầm bút
trong nước cũng như đang sống ở nước ngoài bằng các tác phẩm của mình
đã ít nhiều chứng minh được tiềm năng sáng tạo cùng với nỗ lực đổi mới và
hiện đại hoá ngòi bút của chính họ. Điều đáng nói ở đây là trong bối cảnh
gợi lên cái “thời của tiểu thuyết”, độc giả đã trở lại với văn hoá đọc. Độc giả
đã được nhìn nhận như những người đồng sáng tạo ra tác phẩm. Việc coi
trọng độc giả cũng chính là làm tăng thêm trách nhiệm của người cầm bút.
Hơn thế nữa tôn trọng vai trò của người đọc sẽ khêu gợi ở họ những suy
ngẫm, liên tưởng...
Trên phương diện đề tài, tiểu thuyết thời kỳ đổi mới đã tiếp cận và
khai thác sâu hơn vào cái hiện thực hàng ngày, cái đời thường của đời sống
cá nhân. Các nhà tiểu thuyết đã nhìn thẳng vào những “mảnh vỡ”, những bi
kịch nhân sinh, mổ xẻ, phơi bày nó bằng cái nhìn trung thực, táo bạo. Các đề
tài truyền thống hay hiện đại đều được đưa vào trường nhìn mới, hướng tới
những gấp khúc trong đường đời và thân phận con người, thấm đẫm cảm
hứng nhân văn. Nhìn từ góc độ thể loại, trong những năm đổi mới, tiểu

thuyết đã có những tìm tòi, cách tân thể hiện ở một số phương diện: cốt
truyện, nhân vật, ngôn ngữ.


14

1.1.3. Ba thế hệ tác giả trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại
Khi nói đến thành công của bất kì thể loại văn học nào người ta cũng
thường xem xét đến lực lượng sáng tác của nó. Nhìn vào thực tế lực lượng
sáng tác văn học Việt Nam sau 1975 ở thể loại tiểu thuyết ta có thể thấy có
ba thế hệ tác giả trong giai đoạn này.
Thế hệ thứ nhất: Gồm các nhà văn tiêu biểu: Nguyễn Minh Châu, Ma
Văn Kháng, Nguyễn Mạnh Tuấn, Lê Lựu… Được xác định trong khoảng
thời gian từ 1975 đến 1985, đây là thời kì manh nha của đổi mới. Số đông
các nhà văn vẫn còn “mê mải” với hiện thực chiến tranh, người ta hoài niệm
chiến tranh như là niềm vui niềm tự hào duy nhất. Trong số những nhà văn
trở về sau chiến tranh cũng có một số nhà văn đã có cái nhìn thẳng thắn vào
cuộc sống, họ xem hiện thực đời thường với những vấn đề nổi cộm cần được
đề cập, tái hiện. Thế hệ này tiếp tục sáng tác và có những đóng góp cho giai
đoạn sau. Nguyễn Minh Châu đã đọc “lời ai điếu cho một giai đoạn văn học
minh hoạ” được xem như một sự thay đổi trong nhân thức về vai trò nhà văn
trong thời đại mới.
Thế hệ thứ hai: Hàng loạt tên tuổi ra đời và phát triển tạo nên một thời
kì tiểu thuyết phát triển rực rỡ: Phạm Thị Hoài, Bảo Ninh, Hồ Anh Thái,
Nguyễn Quang Lập, , Dương Hướng, Tạ Duy Anh… Giai đoạn mở đầu cho
thời kì đổi mới (1986-1992), nhà văn được “cởi trói”, được nói những điều
mình thấy, được viết những điều mình nghĩ. Muôn mặt con người được thể
hiện, hiện thực cuộc sống đa chiều, đa diện hơn, nằm trong quy luật ấy tiểu
thuyết phát triển rầm rộ. các tiểu thuyết thời kì này đã có cái nhìn khá đổi
mới về hiện thực đời sống. Đặc biệt cái nhìn về chiến tranh đã thay đổi,

người ta nói về chiến tranh không còn một chiều, không còn ranh giới ta địch rõ ràng như trước nữa. Chiến tranh là đổ máu, là hi sinh nhưng không
chỉ một phía, một bên. Cái chết thì dù ở đâu cũng cần nhìn nhận là tang
thương, mất mát. Có thể nói đây là cái nhìn nhân văn mà các nhà tiểu thuyết
Việt Nam đã vươn tới.


15
Thế hệ thứ ba: Làn gió mới của tiểu thuyết Việt Nam với những tên
tuổi như: Nguyễn Ngọc Tư, Lê Thị Thẩm Vân, Nguyễn Ngọc Thuần, Nguyễn
Lê My Hoàn… Cùng với các thế hệ nhà văn lão luyện thì các nhà văn trẻ
xuất hiện như một sự kế nghiệp vững vàng. Các nhà văn thuộc thế hệ trẻ đã
tạo nên những tiếng vang, những mốc son chói lọi trong thể loại tiểu thuyết.
Hiện thực được đào xới đa chiều, con người được khám phá không chỉ ý
thức, vô thức mà còn cả tiềm thức nữa. Tiếp bước thế hệ đi trước, các cây
bút tiểu thuyết hàng ngày vẫn không ngừng thể nghiệm, khám phá, tìm tòi
những hướng đi mới cho tiểu thuyết. Năm 2002, văn đàn Việt Nam chứng
kiến sự ra mắt của cây bút trẻ Nguyễn Đình Tú với tiểu thuyết đầu tay Hồ sơ
một tử tù gây được không ít tiếng vang. Những tiểu thuyết tiếp theo như Bên
dòng Sầu Diện (2005), đặc biệt là qua ba cuốn tiểu thuyết được trình làng
liên tiếp trong ba năm: Nháp (2008), Phiên bản (2009), Kín (2010), rồi tiếp
theo như một định kì với sự ra đời của Hoang tâm (2013) và Xác phàm
(2014), tác giả đã thực sự khẳng định được tên tuổi của mình trong nền tiểu
thuyết đương đại Việt Nam. Cùng thế hệ với Nguyễn Đình Tú còn phải kể
đến những tên tuổi nổi bật như
1.2. Vài nét về tác giả và tác phẩm Nguyễn Đình Tú
1.2.1. Con người
Nhà văn Nguyễn Đình Tú sinh năm 1974 tại Kiến An, Hải Phòng, tốt
nghiệp Đại học Luật Hà Nội (1996), tu nghiệp sĩ quan tại Trường Quân
chính Quân khu 3 (1996-1997). Từ năm 1997 đến 2001 anh công tác tại
Viện Kiểm sát quân sự Quân khu 3. Từ năm 2001 anh về tạp chí Văn nghệ

quân đội, hiện là Phó Tổng biên tập Tạp chí Văn nghệ quân đội, Hội viên
Hội Nhà văn Việt Nam (2014). Nguyễn Đình Tú khởi nghiệp viết văn khi
còn là sinh viên trường Luật và bước đầu đã gặt hái thành công, anh được
tặng giải thưởng truyện ngắn của Báo Tiền Phong vào năm 1995. Sau đó là
các giải thưởng: Giải thưởng truyện ngắn Tạp chí Văn nghệ quân đội, 1999;
Giải thưởng tiểu thuyết Nxb Công an nhân dân phối hợp với Hội Nhà văn


16
Việt Nam, 2002; Giải thưởng văn học 10 năm Bộ Công an; Giải thưởng văn
học 5 năm Bộ Quốc phòng. Tên tuổi của Nguyễn Đình Tú trên văn đàn thực
sự được khẳng định với ba tập truyện: Bên bờ những dòng chảy (2001);
Không thể nào khác được (2002) và Nỗi ám ảnh khôn nguôi (2003). Hơn thế
dấu ấn nhà văn trẻ này còn thể hiện trong quá trình sáng tác tiểu thuyết: Hồ
Sơ một tử tù (2002), Bên dòng Sầu Diện (2005), Nháp (2008), Phiên Bản
(2009), Kín (2010), Hoang tâm (2013), Xác phàm (2014)… Sự ra đời một
cách đều đặn tác phẩm của mình có thể thấy anh là con người sung lực, cần
mẫn và nhiệt huyết. So với các nhà văn cùng thế hệ 7X thì thấy rõ Nguyễn
Đình Tú là nhà văn đi theo văn nghiệp từ rất sớm và nhanh chóng khẳng
định được chỗ đứng của mình. Điều mà với nghề văn không phải ai cũng có
được may mắn đó.
Nhìn vào quá trình sáng tác cho thấy, Nguyễn Đình Tú nổi tiếng ban
đầu nhờ vào truyện ngắn nhưng anh lại không thỏa mãn với thể loại này. Có
thể là sự tác động mang tính thời sự khi có một nhà văn đã thành danh nhờ
viết truyện ngắn, nay quay lại khẩn thiết kêu gọi các nhà văn trẻ nhất quyết
phải viết tiểu thuyết, vì truyện ngắn chỉ là một “lát cắt” của cuộc sống trong
lúc tiểu thuyết là một “trường thiên” đầy đủ về cuộc đời. Người ta có lí hơn
khi thấy thể loại này đủ sức, đủ tầm để thể hiện sự ngổn ngang, đa chiều của
cuộc sống đương đại xô bồ. Đó là sự thôi thúc từ bên trong của người cầm
bút - tiểu thuyết là hình thức nghệ thuật hữu hiệu nhất để khái quát hóa nghệ

thuật đời sống. Nhìn ra cái tố chất tiểu thuyết trong văn Nguyễn Đình Tú là
một đồng nghiệp văn chương đi trước, người có nhiều kinh nghiệm viết tiểu
thuyết - nhà văn Chu Lai. Ông nhận định: “Viết thành công nhiều cảnh đời,
viết thành công về nhiều nhân vật, đó cũng là yếu tố cấu thành năng lực tiểu
thuyết, ở Tú, qua một vài truyện đã le lói hơi thở của tiểu thuyết cụ cựa bên
trong. Tú hoàn toàn có đủ năng lực đi dài hơi vào những mảng sống nóng
nhất với một bút pháp trần trụi nhất ngoài những tứ văn huyền ảo, cổ xưa
nhuốm màu phonclore đã đạt được những khoái cảm thẩm mĩ nhất định”.


17
Nhìn vào chặng đường hoạt động và sáng tác của nhà văn, chúng ta dễ nhận
thấy hai yếu tố khá rõ trong con người của Nguyễn Đình Tú đó là chất luật
và chất lính. Biểu hiện rõ nét nhất đó là tính kỉ luật và chặt chẽ trong tiểu
thuyết của anh. Với một phông nền văn hoá khá rộng đã làm nên một con
người nhà văn Nguyễn Đình Tú, hiểu biết sâu rộng nhiều lĩnh vực.
Nguyễn Đình Tú là nhà văn trẻ nên anh luôn có cái nhìn hiện đại, trẻ
trung. Tác phẩm của anh luôn phảng phất dấu ấn của một người trẻ tuổi. Đó
là cái nhìn đầy chiêm nghiệm xen lẫn trải nghiệm của chính nhà văn trong
cuộc sống đương đại. Giới trẻ thường được khám phá dưới nhiều góc độ,
nhiều tâm trạng, bằng chính cái nhìn của những người “trong cuộc”, cảm
thông chia sẻ cũng như phơi bày những thói hư tật xấu, những thành công
hay thất bại và cả những nghĩ suy lệch lạc về cuộc đời của họ. Đọc các tác
phẩm của Nguyễn Đình Tú, người đọc luôn nhận thấy tính chất khách quan,
cái nhìn nghiêm túc về cuộc đời. Những trang văn của anh luôn toát lên cái
nhìn chỉn chu, chín chắn của một người trưởng thành vượt ra khỏi suy nghĩ
thông thường của một người thuộc thế hệ 7X.
1.2.2. Tác phẩm
Nguyễn Đình Tú, xuất hiện trên văn đàn nước nhà chưa lâu, nhưng
sớm khẳng định được tên tuổi của mình trên nhiều lĩnh vực văn học. Anh là

một trong những nhà văn hiếm hoi thành công ở nhiều thể loại: truyện ngắn,
tiểu thuyết, báo chí, truyện thiếu nhi… ở mỗi thể loại anh đều để lại những
dấu ấn riêng biệt cho mình.
Truyện ngắn Nguyễn Đình Tú được biết đến qua những truyện tiêu
biểu như: Những chàng trai sống cùng hoa săng đắng; Qua sông; Bên bờ
những dòng chảy; Chuông ngăn cửa phủ; Tiếng thở thời gian; Điệu mambo
hư ảo; Mong manh cuộc đời…Nhìn chung truyện ngắn của Nguyễn Đình Tú
luôn có “hơi hướng tiểu thuyết ngọ nguậy bên trong” (Chu Lai). Cốt truyện
luôn tiềm ẩn trong mình những dấu hiệu cho phép chúng vùng vẫy, phá
toang “khuôn mẫu” của truyện ngắn với dung lương như “lát cắt cuộc sống”.


18
Dấu hiệu đầu tiên chúng ta nhận thấy điều này là ở đề tài. Các mảng đề tài
được anh đặc biệt khai thác là chiến tranh và người lính, đây là mảng đề tài
có biên độ lớn. Các truyện ngắn nổi tiếng với các đề tài này như Cánh rừng
không yên ả; Đất quê cha; Câu chuyện ngày chủ nhật; Võ công binh nhì…
Sự giao thoa giữa truyện ngắn và tiểu thuyết của Nguyễn Đình Tú còn bộc lộ
ở cấu trúc tác phẩm. Cách thể hiện truyện trong truyện với nhiều mảnh đời,
cảnh ngộ phối hợp, xen lẫn nhau. Người ta đã bàn về mô hình xương cá
trong truyện ngắn của anh đó là cách sắp xếp, bám dựa vào một tư tưởng
chính đóng vai trò trục xương và sắp xếp các câu chuyện khác tương đối độc
lập. Các truyện liên kết với nhau để làm sáng tỏ tư tưởng của cốt truyện và
thực hiện ý đồ nghệ thuật của tác giả. Cánh rừng không yên ả là một tập hợp
gồm bốn câu chuyện ngắn kể về bốn con người họ mãi mãi là đồng đội của
nhau. Chiến tranh dù đã đi qua và bốn người họ có bốn số phận khác nhau,
người nằm dưới lớp cỏ xanh, người đã xuất gia quy y, người thành doanh
nhân thành đạt, người nguyện gắn bó cả đời với quân ngũ. Cuộc đời họ cứ
thế trôi nổi theo những năm tháng dài. Để rồi khi đã luống tuổi về già, họ
gặp lại nhau ở chiến trường xưa - công trường ngày nay với bao buồn, vui,

hạnh phúc, bất hạnh, nước mắt, nụ cười... Thông qua cuộc đời các nhân vật,
toàn câu chuyện toát lên chân lý: Đã là đồng đội của nhau thì ở bất kì địa vị
nào họ vẫn là đồng đội. Truyện ngắn là một lát cắt cuộc sống điều đó thể
hiện ở nhân vật chỉ xuất hiện ở một thời điểm nhất định trong cuộc đời dài
dằng dặc của mình.Tuy nhiên nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Đình
Tú lại có độ trường từa tựa tiểu thuyết. Tức là những nhân vật được thể hiện
có chiều sâu, có độ dài cuộc đời và ở nhiều thời điểm khác nhau. Những
nhân vật như những nhân chứng của cuộc đời, ở họ có những tư tưởng lớn
mà mới tiếp cận ta thường nhầm tưởng ở trong tiểu thuyết. Nói như vậy để
thấy nhà văn trẻ của chúng ta có một tư duy truyện ngắn khá dày dặn về bố
cục và tầm suy tưởng. Lẽ dĩ nhiên một thể loại này phạm sang địa hạt của thể
loại khác là điều khó tránh khỏi hạn chế. Khi tiếp cận nhân vật truyện ngắn


19
có dáng dấp của tiểu thuyết nhiều khi ta có cảm giác tác giả chưa đủ sức
“gói những vấn đề lớn trong thể loại nhỏ”. Người ta dễ nhận thấy sự chới với
của nhân vật trong trường độ quá rộng chức năng của nó. Nhà phê bình
Nguyễn Thanh Tú đã chỉ ra: “Nhân vật chức năng khi được nhà văn khoác
thêm cho tấm áo tư tưởng quá rộng (bằng chứng là nhiều nhân vật “phát
ngôn” những điều to tát hay có hành động vượt quá thân phận, địa vị, vượt
quá giới hạn “chức năng” làm cho nhân vật như bơi trong tấm áo tư tưởng
ấy…” (Tạp chí Văn nghệ quân đội số 631). Đây là một trong những cái nhìn
thẳng thắn, khách quan về truyện ngắn của nhà văn trẻ Nguyễn Đình Tú.
Đóng góp được xem là đầy đủ, mang tính đột phá của truyện ngắn Nguyễn
Đình Tú là ở bút pháp. Sự ảnh hưởng của những yếu tố con người ngoài đời
đã đưa đến điều này. Đó là “chất Luật” và “Lính” vốn có trong con người
làm trong quân ngũ và tốt nghiệp đại học Luật. Điều này Bùi Việt Thắng đã
từng phân tích: “truyện ngắn của Nguyễn Đình Tú có cái gì thẳng băng gọn
ghẽ quá” [48; 26]. Cũng chính nhà nghiên cứu này đã chỉ ra hai đặc điểm lớn

của Nguyễn Đình Tú: Thứ nhất là miêu tả thiên nhiên tả cảnh nhưng không
gợi, không sinh động, uyển chuyển, những câu văn của Nguyễn Đình Tú chỉ
ở mức “trung bình” theo kiểu câu kể hoặc câu tường thuật đơn thuần. Hai là
tác giả thường rơi vào trạng thái “bất ổn” mỗi lần miêu tả trạng thái tâm linh
huyền bí. Độ “huyền ảo” cần thiết thì tác giả không đạt đến. Ba là thủ pháp
độc thoại nội tâm không được nhà văn đẩy lên đến tận cùng dù anh rất hay
sử dụng. Như vậy, truyện ngắn của Nguyễn Đình Tú bên cạnh những thành
tựu về đề tài, bút pháp hay biên độ câu chuyện thì vẫn còn nhiều hạn chế bộc
lộ. Điều quan trọng là chúng ta luôn nhận thấy sự chân thành, nghiêm túc
trong nghiệp cầm bút của nhà văn thật đáng trân trọng.
Tiểu thuyết được xem là thành công nhất của Nguyễn Đình Tú. Cho
đến nay, nhà văn trẻ này đã kịp để lại dấu ấn của mình trong tiểu thuyết
đương đại ở hai lĩnh vực đó là số lượng tác phẩm đồ sộ và đề tài độc đáo.
Năm 26 tuổi, anh trình làng cuốn tiểu thuyết đầu tay Hồ sơ một tử tù. Từ đó


20
đến nay, bên cạnh các tập truyện ngắn xuất hiện khá ấn tượng, anh đã lần
lượt mang đến cho bạn đọc bảy cuốn tiểu thuyết. Nhìn chung tiểu thuyết của
Nguyễn Đình Tú xoay quanh hai đề tài chủ yếu đó là chiến tranh và giới
trẻ tội phạm. Cách nhìn chiến tranh của tác giả đã có nhiều sự đổi thay so
với thế hệ tiền bối. Hiện thực chiến tranh được nhìn nhận đa chiều, đa
diện hơn, đó là cái nhìn về hậu quả chiến tranh. Đặc biệt là suy nghĩ của
những người trong cuộc của cả hai phía, sự gặp gỡ của các tư tưởng nhân
văn trong nhìn nhận những mất mát đau thương trong cuộc chiến. Chiến
tranh không chỉ có những điều lớn lao, kì vĩ được lựa chọn, không chỉ
những anh hùng nơi chiến trận được thể hiện mà là những suy nghĩ rất đời
thường nhỏ nhặt cũng cần được nhìn nhận đề có cái nhìn tổng quát nhất về
nó. Nét độc đáo ở các tiểu thuyết này là cách khai thác đề tài của tác giả.
Tác giả thường đặt nhân vật của mình ở thời hiện tai quay về tìm lại quá

khứ, ở đó những chuyện huyền ảo, những dòng tâm linh đồng hiện. Câu
chuyện cứ thế hấp dẫn người đọc, từ Hoang tâm đến Xác phàm là những
cái nhìn đầy tính nhân văn về chiến tranh. Những suy nghĩ, trăn trở của
nhân vật về chiến tranh lột tả những mất mát quá lớn của con người về
một thời đã qua. Khi viết về giới trẻ, nhà văn thường khai thác ở yếu tố con
người thời đương đại với những khát vọng lớn lao, những thất bại đầu đời và
cả con đường tha hoá của họ.
Bên cạnh sáng tác truyện ngắn, tiểu thuyết thì Nguyễn Đình Tú còn
tham gia viết “những ám ảnh ngoài văn chương” với tựa đề Trong tù ngoài
tội. Với hai tập sách được xuất bản, có gần 50 câu chuyện được bóc tách, thể
hiện. Bên cạnh hiện thực về những người lầm lỗi, những số phận trớ trêu
được thể hiện thì ẩn sau đó là cái nhìn nhân văn, thái độ chua xót của nhà
văn trước hiện thực này. Lời giới thiệu thật ngắn ngủi nhưng cũng đủ làm
lương tri người đọc chân chính giật mình: “Những ghi chép đẫm máu và
nước mắt của nhà văn Nguyễn Đình Tú, tác giả các tiểu thuyết nổi tiếng: Hồ
sơ một tử tù, Nháp, Phiên bản, Kín”. Hai cuốn sách như hai cuốn nhật kí của


21
người làm luật, tác giả đi sâu khai thác tâm lí tội phạm, những gấp khúc cuộc
đời, hoàn cảnh dẫn đến nhà tù của từng con người cụ thể. Ẩn sau những ghi
chép của một luật sư là cái nhìn của nhà văn, đi sâu khám phá, phát hiện nội
tâm của những con người tội phạm đó. Lý giải cắt nghĩa con đường đến song
sắt mà ít người ngờ tới, con đường phạm tội của họ mỗi người một lý do
nhưng họ gặp nhau ở nhận thức ngờ nghệch về pháp luật. Đó là những con
người còn trẻ, vừa mới bước vào đời họ ngây thơ bộc lộ bản tính của mình
mà không suy nghĩ đến hậu quả.
1.3. Nhìn chung về dấu ấn của Nguyễn Đình Tú trong tiểu thuyết Việt
Nam đương đại
1.3.1. Ngòi bút sung sức, có cá tính sáng tạo riêng

Nhìn vào số lượng tác phẩm của nhà văn Nguyễn Đình Tú thì những
người yêu mến văn học không khỏi ngạc nhiên. Tuổi đời của Nguyễn
Đình Tú còn khá trẻ , anh thuộc thế hệ 7X nhưng một số lượng tác phẩm
đồ sộ và đều đặn được ra đời. Gia sản mà văn học Việt Nam có được từ
nhà văn Nguyễn Đình Tú là ba tập truyện ngắn: Bên bờ những dòng chảy
(2001), Không thể nào khác được (2002) và Nỗi ám ảnh khôn nguôi
(2003); bảy tiểu thuyết: Hồ Sơ một tử tù (2002), Bên dòng Sầu Diện
(2005), Nháp(2008), Phiên bản (2009), Kín (2010), Hoang tâm (2013),
Xác phàm (2014). Ngòi bút của Nguyễn Đình Tú, có những sáng tạo riêng,
mặc dầu chưa đạt đến phong cách điển hình nhưng vẫn có những cá tính
cần ghi nhận. Điều đầu tiên chúng tôi nhận thấy ở phương pháp sáng tạo
tiểu thuyết của anh là sự tạo ra đa tuyến kể chuyện. Các tuyến kể chuyện
song hành, lắp ghép tạo nên sự đứt mạch gây hấp dẫn, tò mò cho người
đọc. Tiểu thuyết Kín được viết theo một cấu trúc khá lạ hai tuyến quá khứ
và hiện tại của Quỳnh song song thể hiện. Quá trình Quỳnh sinh ra và lớn
lên trong quan hệ với tín ngưỡng thờ Mẫu, những biến đổi lớn trong xã
hội mà bố mẹ Quỳnh đang sống cùng những hiểm hoạ khôn lường của
cuộc đời. Cháy chợ, bụi đời, tranh dành lãnh địa của bọn đầu gấu đã đẩy


22
những con người lương thiện, ngây thơ đến bước đường cùng. Bên cạnh
tuyến truyện này là dòng kí ức, sự hồi tưởng quá khứ của Quỳnh. Đứng từ
góc nhìn của một tiểu thư con nhà đài các, giàu sang, Quỳnh đã bế tắc
trong hướng bước tiếp cuộc đời. Nguyễn Đình Tú đã tạo dấu ấn của mình
thông qua cấu trúc tiểu thuyết lạ và độc này. Kết cấu truyện theo hướng
đương đại có sự kết hợp của hiện thực và huyền ảo, giữa quá khứ và hiện
tại. Tất cả đồng hiện ở cuối tác phẩm là một con người méo mó về nhân
cách và khát khao tìm hướng đi mới cho bản thân.Với nhà văn Nguyễn
Đình Tú mỗi tác phẩm là một kết cấu mang đậm phong cách của một con

người học “luật”, đó là tính chặt chẽ. Điều đặc biệt là khả năng tìm tòi kết
cấu không bao giờ trùng lặp của tác giả là sức thu hút độc giả riêng biệt.
Từ Hồ sơ một tử tù có dòng hồi cố đặc biệt của tên cướp Phạm Bạch Đàn
trên đường bước đến đoạn đầu đài. Bao nhiêu dữ liệu cuộc đời tuôn chảy
trở về trong hắn, bóc tách dần các câu chuyện là cuộc đời tên cướp hiện
ra. Tính logic của câu chuyện có độ chính xác cao bởi cách kể chuyện đó.
Đến Nháp lại là một dòng hồi cố khác, là độc thoại nội tâm của Thạch
bằng những kĩ thuật hiện đại hơn như entry, chat…, dòng tự sự của Thạch
cho thấy sự già dặn của ngòi bút trẻ Nguyễn Đình Tú, bởi tính khách
quan, bởi niềm tin mà anh gửi gắm.
Dấu ấn của Nguyễn Đình Tú đem đến cho tiểu thuyết đương đại có lẽ
là biên độ của tiểu thuyết. Trong mỗi tiểu thuyết anh thường đề cập đến
nhiều câu chuyện, nhiều vấn đề nổi cộm của đời sống hiện thực. Từ chiến
tranh, tín ngưỡng, tôn giáo, chính trị… cho đến cuộc sống đời thường với
vấn đề tình dục của giới trẻ. Từ chuyện cũ cải cách ruộng đất đến thế giới
thời @.Từ tình yêu trong sáng, mộng mơ lý tưởng đến cuộc sống bầy đàn
nhớp nhúa… Tất cả được nhìn nhận, đánh giá đa chiều, đa diện hơn. Mặc
dù là nhà văn trẻ bước vào nghiệp văn bằng thể loại truyện ngắn nhưng
với cái nhìn nghiêm túc và sáng tạo thì dấu ấn của anh ở thể loại tiểu
thuyết là hơn cả.


×