Tải bản đầy đủ (.doc) (98 trang)

Giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho đoàn viên, thanh niên huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (471.29 KB, 98 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN THỊ ÁNH TUYẾT

GIÁO DỤC CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC CHO ĐOÀN
VIÊN, THANH NIÊN HUYỆN CAN LỘC, TỈNH HÀ
TĨNH
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ


2

NGHỆ AN - 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN THỊ ÁNH TUYẾT

GIÁO DỤC CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC CHO ĐOÀN
VIÊN, THANH NIÊN HUYỆN CAN LỘC, TỈNH HÀ
TĨNH
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 60 31 02 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ



Người hướng dẫn khoa học:

PGS. TS TRẦN VIẾT QUANG


2

NGHỆ AN - 2015


3
LỜI CẢM ƠN
Để thực hiện đề tài “Giáo dục chủ nghĩa yêu nước Việt Nam cho Đoàn
viên, thanh niên Huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay”, tác giả
đã nhận được sự quan tâm, giúp đỡ tận tình của các cơ quan, đơn vị và các nhà
khoa học. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến quý thầy cô giáo Khoa
giáo dục Chính trị của Trường Đại học Vinh, Ban Tuyên giáo Huyện ủy Can
Lộc, tỉnh Hà Tĩnh, Huyện đoàn Can Lộc và đặc biệt là sự giúp đỡ tận tâm, tận
tình của PGS. TS Trần Viết Quang, người đã hướng dẫn tôi thực hiện đề tài
khoa học này.
Cuối cùng tôi xin cảm ơn gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã luôn động
viên giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu khoa học.
Mặc dù đã rất cố gắng trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành đề tài
khoa học này nhưng không thể tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Tác giả rất
mong nhận được những góp ý của quý thầy cô và các bạn đồng nghiệp.
Trân trọng cảm ơn!
Vinh, ngày

tháng 10 năm 2015

Tác giả

NGUYỄN THỊ ÁNH TUYẾT


4
MỤC LỤC
Trang
TRANG PHỤ BÌA............................................................................................................

NGHỆ AN - 2015..................................................................................................2
LỜI CẢM ƠN........................................................................................................3
MỤC LỤC.............................................................................................................4
BẢNG KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT.............................................................5
MỞ ĐẦU...............................................................................................................6
NỘI DUNG.........................................................................................................12
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC GIÁO DỤC CHỦ NGHĨA YÊU
NƯỚC CHO ĐOÀN VIÊN, THANH NIÊN......................................................12
1.1. Khái quát chung về chủ nghĩa yêu nước và giáo dục chủ nghĩa yêu
nước.........................................................................................................
1.2. Sự cần thiết giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho đoàn viên, thanh niên
hiện nay...................................................................................................
Chương 2 THỰC TRẠNG GIÁO DỤC CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC CHO
ĐOÀN VIÊN, THANH NIÊN TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN CAN LỘC, TỈNH HÀ
TĨNH....................................................................................................................41
2.1. Khái quát đặc điểm tình hình tự nhiên, tình hình kinh tế - xã hội
huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh..................................................................
2.2. Công tác giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho đoàn viên, thanh niên
huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh trong thời gian qua...................................
Chương 3 PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU

QUẢ GIÁO DỤC CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC CHO ĐOÀN VIÊN, THANH
NIÊN HUYỆN CAN LỘC TỈNH HÀ TĨNH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
.............................................................................................................................66
3.1. Phương hướng giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho đoàn viên, thanh
niên huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay..................
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục chủ nghĩa yêu
nước cho đoàn viên, thanh niên huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh trong
giai đoạn hiện nay....................................................................................
KẾT LUẬN.........................................................................................................87
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................91


5
BẢNG KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BCH
BTV
CNH, HĐH
CNXH
ĐVTN
HĐND
HTX
GTNT
GPMB
KKT
LHTN
MTTQ
TNCS
THPT
TDTT
UBND

XHCH

Ban chấp hành
Ban thường vụ
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Chủ nghĩa xã hội
Đoàn viên thanh niên
Hội đồng nhân dân
Hợp tác xã
Giao thông nông thôn
Giải phóng mặt bằng
Khu kinh tế
Liên hiệp thanh niên
Mặt trận Tổ quốc
Thanh niên cộng sản
Trung học phổ thông
Thể dục thể thao
Ủy ban nhân dân
Xã hội chủ nghĩa


6
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc là động lực mạnh mẽ của dân tộc
Việt Nam trong đấu tranh giành và bảo vệ nền độc lập. Trong lịch sử hàng ngàn
năm của dân tộc ta, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam luôn được phát huy cao độ,
lòng yêu nước đã được khắc sâu vào tâm khảm của bao thế hệ con người Việt
Nam. Lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Dân ta có một lòng
nồng nàn yêu nước. Đó là truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi

Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi. Nó kết thành một làn sóng vô
cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm
tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước” .
Dân tộc Việt Nam trải qua hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước
đã tạo lập cho mình một nền văn hóa riêng, phong phú và bền vững với những
giá trị truyền thống tốt đẹp và cao quý. Trước hết, đó là lòng yêu nước thương
nòi, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, là tình yêu quê
hương, đất nước, yêu giếng nước sân đình, gắn bó với thiên nhiên, với cộng
đồng, đoàn kết thủy chung, quý trọng nghĩa tình, cần cù, yêu lao động, hiếu học,
sáng tạo, dũng cảm, kiên cường bất khuất, nhân ái, khoan dung, v.v..
Trong quá trình cách mạng Việt Nam, chúng ta luôn kiên định mục, lý
tưởng mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn, đó là độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội; kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; tích cực đổi mới toàn
diện và hội nhập quốc tế sâu rộng. Để bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, vững bước đi lên theo con đường xã hội chủ
nghĩa, để xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh, đòi hỏi phải nâng cao tinh thần yêu nước, tăng cường giáo dục chủ nghĩa
yêu nước cho con người Việt Nam. Giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho các thế hệ
người Việt Nam, đặc biệt cho đoàn viên, thanh niên là việc làm cấp bách và có ý
nghĩa rất quan trọng.


7
Thời gian qua, việc giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho đoàn viên, thanh
niên ở nước ta nói chung và ở huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh nói chung có những
chuyển biến tích cực, với những nội dung thiết thực và nhiều hình thức đa dạng,
phong phú, sinh động, phù hợp với từng đối tượng cụ thể. Tuy nhiên, những
chuyển biến phức tạp của tình hình thế giới, sự công kích, chống phá của các thế
lực thù địch và cùng với đó là những tác động của mặt trái cơ chế thị trường, sự
suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên đã

ảnh hưởng tiêu cực đến mục tiêu, lý tưởng, niềm tin của đoàn viên, than niên. Vì
vậy, cần phải tăng cường công tác giáo dục thế hệ trẻ, chú trọng và nâng cao
hiệu quả giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho đoàn viên, thanh niên, giúp họ thấm
nhuần mục tiêu, lý tưởng cách mạng, từ đó động viên, khích lệ, làm cho họ có ý
thức và trách nhiệm hơn nữa đối với vận mệnh của đất nước, góp phần vào sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, xây dựng xây dựng quê hương Can Lộc,
quê hương của mười cô gái Đồng Lộc ngày càng giàu đẹp, văn minh.
Yêu nước một truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam và là một đề
tài có sức thu hút lớn đối với các nhà nghiên cứu. Những năm qua, đã có nhiều
tài liệu, công trình nghiên cứu ở dưới những góc độ khác nhau được công bố.
Đó là những văn kiện của Đảng, những bài viết, bài nói của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, các nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước, các nhà nghiên cứu khoa học. Trên
cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, để tìm ra những giải pháp khả thi, góp
phần hữu hiệu vào việc nâng cao chất lượng giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho
đoàn viên, thanh niên, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá; hướng tới mục
tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”, thực hiện lý
tưởng của Đảng “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”. Các công trình
tiêu biểu sau:
Tác phẩm: “Chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa xã hội” (1959) của cố Thủ
tướng Phạm Văn Đồng, Nxb Sự thật. Đây là tác phẩm đã khẳng định thời đại


8
của chúng ta là thời đại của chủ nghĩa yêu nước gặp chủ nghĩa xã hội. Đi sâu
nghiên cứu về chủ nghĩa yêu nước phải kể đến tác phẩm: “Mấy vấn đề về chủ
nghĩa yêu nước xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” (1981) của tác giả Trần Xuân
Trường, Nxb. Quân đội nhân dân Việt Nam - Hà Nội. Tác phẩm đã tập trung
phát họa mối quan hệ biện chứng giữa chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ
nghĩa quốc tế vô sản là không tách rời mà gắn liền với nhau, cùng sự thống nhất

giữa chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô sản trong cách mạng Việt
Nam; GS.Trần Văn Giàu “Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam”
(2011), Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội. Tác phẩm này đã cho chúng
ta cái nhìn khái quát về các giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam,
trong đó truyền thống yêu nước là giá trị cao nhất trong hệ giá trị tinh thần của
dân tộc Việt Nam.
“Chủ nghĩa yêu nước trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa” của
Tiến sỹ Lương Gia Ban, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội (1999), “Giữ gìn và
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, một nhu cầu phát triển của xã hội hiện đại”
của Lương Quỳnh Khuê, Tạp chí Triết học, số 4, (1992); “Từ chủ nghĩa yêu
nước truyền thống đến chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh” do Phó Giáo sư - Tiến
sỹ Nguyễn Hùng Hậu chủ biên, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội (2008). Trong
các công trình nghiên này, các tác giả đã đi sâu nghiên cứu phân tích, làm rõ
khái niệm, những truyền thống tốt đẹp của con người Việt Nam, về lý tưởng
cách mạng, về truyền thống yêu nước, giáo dục chủ nghĩa yêu nước và vai trò
của việc giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho thế hệ trẻ Việt Nam.
Liên quan đến vấn đề giáo dục chủ nghĩa yêu nước đã có nhiều đề tài,
nhiều công trình nghiên cứu, tiêu biểu như: “Tài liệu giáo dục chủ nghĩa yêu
nước Việt Nam” do Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương biên soạn (2008);
“Những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục truyền thống cho thanh
thiếu niên tỉnh Nghệ An”, Nxb Nghệ An, PGS. TS. Đoàn Minh Duệ, Nxb Nghệ
An (2004); “Nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho sinh viên Trường Đại


9
học Vinh”, TS. Đinh Thế Định; “Giáo dục lý tưởng cách mạng cho sinh viên
hiện nay” của Phạm Đình Nghiệp (2004), Nxb Thanh Niên; “Giáo dục đạo đức
cho thanh niên học sinh theo tư tưởng Hồ Chí Minh ở nước ta hiện nay” của
Trần Minh Đoàn, v.v..
Nhìn chung, những công trình nghiên cứu trên đều có ý nghĩa quan trọng

về mặt lý luận và thực tiễn, là nguồn tư liệu rất phong phú, thiết thực để nghiên
cứu vấn giáo dục đoàn viên, thanh niên. Tuy nhiên, chưa có công trình nào đề
cập một cách trực tiếp, chuyên sâu đến việc giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho
đoàn viên, thanh niên huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh.
Từ những lý do nêu trên và với cương vị là một cán bộ làm công tác văn
hóa, tác giả chọn vấn đề:“Giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho đoàn viên, thanh
niên huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài luận
văn Thạc sĩ Khoa học Chính trị, chuyên ngành Chính trị học.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nhằm nâng cao chất lượng giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho đoàn
viên, thanh niên huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh, góp phần đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục, đào tạo theo tinh thần Nghị quyết 29 - NQ/TW, đào tạo nguồn
nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế
quốc tế trong giai đoạn hiện nay và xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt
Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.
Nâng cao hiệu quả giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho đoàn viên, thanh niên
huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc trong giai đoạn hiện nay.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích làm rõ cơ sở lý luận về chủ nghĩa yêu nước và giáo dục của
chủ nghĩa yêu nước cho đoàn viên, thanh niên hiện nay.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho đoàn
viên, thanh niên huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh.


10
- Đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục
chủ nghĩa yêu nước cho đoàn viên, thanh niên huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh
trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu vấn đề chủ nghĩa yêu nước và giáo dục chủ nghĩa
yêu nước cho đoàn viên, thanh niên.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Công tác giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho đoàn viên, thanh niên rất
rộng, đa dạng và phong phú. Song, trong giới hạn một luận văn Thạc sĩ, đề tài
chỉ tập trung đi sâu nghiên cứu vấn đề giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho đối
tượng là đoàn viên, thanh niên.
- Luận văn khảo sát, đánh giá thực trạng giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho
đoàn viên, thanh niên trên địa bàn huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng các
phương pháp sau đây:
- Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về giáo dục
chủ nghĩa yêu nước.
- Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng các phương pháp như: điều
tra xã hội học, phân tích, thống kê, lịch sử, lôgíc, so sánh, v.v..
6. Những đóng góp của đề tài
Với những nội dung được tác giả nghiên cứu trong đề tài này có ý nghĩa về
mặt lý luận cũng như thực tiễn trong công tác giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho
đoàn viên, thanh niên huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh,trong giai đoạn hiện nay.
Thông qua luận văn này có thể làm tài liệu phục vụ cho cán bộ nghiên
cứu, giáo viên giảng dạy, cho các cấp ủy Đảng, Đoàn thanh niên, Mặt trận và


11
các tổ chức đoàn thể từ huyện đến cơ sở trong công tác vận động tuyên truyền
giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Từ đó góp
phần nâng cao chất lượng giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho cán bộ, đảng viên và

nhân dân, nhất là thế hệ trẻ.
7. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận
văn được kết cấu gồm 3 chương, 6 tiết.


12
NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC GIÁO DỤC CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC
CHO ĐOÀN VIÊN, THANH NIÊN
1.1. Khái quát chung về chủ nghĩa yêu nước và giáo dục chủ nghĩa
yêu nước
1.1.1. Khái niệm yêu nước và chủ nghĩa yêu nước
Yêu nước là một trong những tình cảm sâu sắc nhất, đã được củng cố qua
hàng trăm năm, hàng nghìn năm tồn tại của các quốc gia biệt lập. Yêu nước là
trạng thái tình cảm xã hội mang tính phổ biến của nhân dân các quốc gia, của
các dân tộc trên thế giới. Tình cảm yêu nước bắt nguồn từ yêu nhà, yêu quê
hương xứ sở, nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Cùng với sự phát triển của ý thức
xã hội, tình cảm đó được nâng lên thành tư tưởng yêu nước, chi phối hành động
của mỗi con người. Trải qua quá trình phát triển lâu dài của lịch sử, gắn liền với
sự nghiệp dựng nước và giữ nước, tư tưởng yêu nước có thể phát triển thành chủ
nghĩa yêu nước, là cơ sở lý luận, chi phối quan niệm sống, tồn tại và phát triển
của cả dân tộc.
Đã có rất nhiều nhà nghiên cứu đưa ra khái niệm khoa học, đúng đắn và
logic về khái niệm “yêu nước”. Theo tác giả Trần Văn Giàu thì “yêu nước được
hình thành từ hai khái niệm “yêu” và “nước”. “Yêu” theo nghĩa chung nhất, là
trạng thái tình cảm của chủ thể này đối với một chủ thể khác ở mức cao và được
gắn kết với chủ thể đó ở một khía cạnh hay mức độ nhất định. “Nước” ở đây có
nghĩa là đất nước, quê hương, Tổ quốc, quốc gia, non sông” [22, tr 38].

Mặt khác, khái niệm “nước” khi gắn với khái niệm “yêu” thì nó không chỉ
dừng lại ở khía cạnh thiên nhiên, địa lý, lãnh thổ nữa mà nó bao hàm cả con
người, cộng đồng và cả phong tục tập quán, văn hóa của các dân tộc sinh sống
trên lãnh thổ đó. “Yêu nước là một khái niệm thuộc về phạm trù đạo đức, tình


13
cảm của nhân dân ở mỗi quốc gia. Tinh thần yêu nước là sự kết hợp chặt chẽ
giữa lý trí với tình cảm cách mạng, tinh thần yêu nước không phải là tình cảm
bình thường mà tình cảm đó đã đạt đến trình độ, giá trị cao về tư tưởng cũng
như lý luận chính trị, nó mang tính tự giác và bền vững” [22, tr 23].
Yêu nước là trạng thái tình cảm xã hội mang tính phổ biến ở mọi dân tộc.
Tùy theo những điều kiện địa lý tự nhiên, truyền thống lịch sử, bản sắc văn hóa,
sự phát triển kinh tế - xã hội, tâm lý dân tộc,… mà tư tưởng, tình cảm yêu nước
có những đặc điểm khác nhau, đối với mỗi dân tộc cũng khác nhau.
Yêu nước Việt Nam không phải chỉ là khái niệm trừu tượng mà có nội
dung rất cụ thể, vì nước là tập hợp của làng, làng là cộng đồng của dân. Do đó,
yêu nước là yêu làng, tình yêu đó được hình thành và phát triển trong quá trình
lịch sử và văn hoá chung. Đó là mẫu số chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Điều này được thể hiện sâu sắc trong các câu truyện huyền thoại Việt Nam,
trong lễ hội và phong tục tập quán Việt Nam. Văn hoá có vị trí quan trọng trong
sự phát triển của dân tộc Việt Nam, trong đó yêu nước là bậc thang giá trị cao
nhất của văn hoá. Vì vậy, bảo vệ văn hoá dân tộc chủ yếu là bảo vệ bản sắc dân
tộc gắn với bảo vệ độc lập chủ quyền quốc gia. Ý thức bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ
quốc gia cũng là một nội dung quan trọng của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam.
Tinh thần yêu nước là nguyên tắc đạo đức và chính trị, một tình cảm xã
hội mà nội dung là tình yêu và lòng trung thành đối với Tổ quốc, là lòng tự hào
về quá khứ và hiện tại của Tổ quốc, ý chí bảo vệ những lợi ích của Tổ quốc. Trải
qua quá trình phát triển lâu dài của lịch sử, gắn liền với sự nghiệp dựng nước và
giữ nước, tư tưởng yêu nước có thể phát triển thành chủ nghĩa yêu nước và nó

cũng là cơ sở lý luận chi phối quan niệm sống, tồn tại và phát triển của cả dân
tộc. Hay nói cách khác “yêu nước” là nguyên tắc đạo đức chính trị, một tình cảm
xã hội mà nội dung bao trùm của nó là tình yêu và lòng trung thành với Tổ quốc,
là sự tự hào về quá khứ và hiện tại về Tổ quốc, đất nước mình, là sự quyết tâm
và ý chí bảo vệ tổ quốc, bảo vệ non sông đất nước.


14
Yêu nước là truyền thống văn hóa đứng đầu trong bảng giá trị văn hóa
tinh thần của dân tộc ta. Nó ăn sâu vào máu, vào tâm tư, tình cảm, vào tiềm thức
của mỗi con người Việt Nam. Mỗi khi có giặc ngoại xâm, tinh thần yêu nước
của dân tộc ta lại trỗi dậy thành làn sóng mạnh mẽ, nhấn chìm bè lũ cướp nước
và bán nước để bảo vệ nền độc lập dân tộc. Để minh chứng về vấn đề này, một
viên tướng quân sự của Mỹ đã từng thú nhận rằng: Mặc dù đã đẩy chiến tranh
lên mức độ cao nhất, với sự hỗ trợ đắc lực của vũ khí chiến đấu hiện đại nhưng
vẫn bị chủ nghĩa yêu nước Việt Nam đánh bại. Chúng phải thốt lên: Đây là vùng
đất ma quỷ, Việt Cộng không phải là người, Việt Cộng không phải cấu tạo bằng
da bằng thịt. Và đây cũng chính là nguyên nhân giúp quân và dân ta dành thắng
lợi trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc.
Chủ nghĩa yêu nước là nguyên tắc đạo đức và chính trị, một tình cảm xã
hội, là một phạm trù thuộc lĩnh vực ý thức xã hội bao gồm tư tưởng và tình cảm
của một dân tộc. Nội dung chính của chủ nghĩa yêu nước là tình yêu và lòng
trung thành với Tổ quốc. Tùy theo điều kiện kinh tế - xã hội, hoàn cảnh lịch sử,
tự nhiên của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc mà quá trình phát triển từ tình cảm yêu
nước, tư tưởng yêu nước thành chủ nghĩa yêu nước xuất hiện có khác nhau và
nội dung, đặc điểm của chúng cũng không giống nhau. Đó là thể hiện mối quan
hệ giữa tính phổ biến và tính đặc thù của chủ nghĩa yêu nước. Yêu nước là
truyền thống cực kì quý báu của dân tộc ta được hình thành trong quá trình lịch
sử lâu dài dựng nước và giữ nước, là tư tưởng, tình cảm thiêng liêng nhất trong
mỗi con người Việt Nam.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, đã là người Việt Nam, đã là con Lạc
cháu Hồng thì ít hay nhiều, ai cũng có lòng yêu nước. Đây là truyền thống mang
tính chất nhân đạo và nhân văn cao cả. Theo Hồ Chí Minh, yêu nước là truyền
thống quý báu của dân tộc ta. Người viết: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu
nước, đó là truyền thống quý báu của dân tộc ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ
quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành làn sóng vô cùng


15
mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả
lũ bán nước và lũ cướp nước” [28, tr 247]. Lịch sử nghìn năm của dân tộc Việt
Nam đã ghi nhận những trang oanh liệt của nhân dân đấu tranh để xây dựng
nước nhà và bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc mình.
Chủ nghĩa yêu nước là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử Việt Nam từ
thời cổ đại đến hiện đại. Tinh thần yêu nước luôn giữ vị trí chuẩn mực cao nhất
của đạo lý và đứng đầu trong bậc thang giá trị văn hóa tinh thần của dân tộc Việt
Nam, là động lực nội sinh to lớn của cộng đồng dân tộc Việt Nam, tạo nên sức
mạnh vô địch trong cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm và trong công cuộc
xây dựng đất nước. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam trở thành giá trị truyền thống
quý báu được hình thành qua hàng ngàn năm lịch sử, là nguyên khí quốc gia và
là giá trị văn hóa tinh thần vô giá, là sức mạnh phi thường cho dân tộc ta vượt
qua nhiều khó khăn, thử thách.
Chủ nghĩa yêu nước là giá trị thiêng liêng chung của toàn dân tộc Việt
Nam bao gồm người sống ở trong nước và người đang sống ở nước ngoài, là sức
mạnh tiềm tàng trong lòng dân tộc, là nguồn lực không bao giờ cạn trong suốt
chiều dài lịch sử đất nước và là đặc trưng tiêu biểu của tính cách con người Việt
Nam. Tiềm năng tinh thần dù to lớn bao nhiêu muốn biến thành sức mạnh vật
chất đều cần phải biết thường xuyên khơi dậy, phát huy.
Ngày nay, truyền thống đó đang là động lực to lớn đưa công cuộc xây
dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa đi đến bến bờ thắng lợi. Trong

tình hình mới, điều kiện mới, với khẩu hiệu “Tất cả vì dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng và văn minh”. Nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản
Việt Nam đang phát huy bản chất tốt đẹp của chủ nghĩa yêu nước để xây dựng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam là một phạm trù thuộc lĩnh vực tư
tưởng và tình cảm của nhân dân Việt Nam đối với Tổ quốc. Nội dung chính của
chủ nghĩa yêu nước là tình yêu và lòng trung thành với Tổ quốc. Trong thời kỳ


16
hòa bình ngày nay, chủ nghĩa yêu nước cũng có sự khác biệt so với thời chiến.
Nó không còn là hình ảnh cầm súng xông pha ngoài chiến trường để tiêu diệt
địch mà lại vô cùng gần gũi và thân quen. Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu
nước có khi rõ ràng, dễ thấy, nhưng cũng có khi ẩn giấu kín đáo rất khó nhận ra.
Yêu nước trở thành sức mạnh tiềm tàng thường trực trong lòng dân tộc, là nguồn
lực không bao giờ cạn trong suốt chiều dài lịch sử đất nước và là đặc trưng tiêu
biểu của tính cách con người Việt Nam. Vì thế, chúng ta cần phải thường xuyên
khơi dậy, giáo dục, bồi dưỡng và phát huy chủ nghĩa yêu nước. Hiện nay, nước
ta đang trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm thực hiện
thắng lợi sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh, vững
bước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đây là sự nghiệp hết sức vẻ vang nhưng đầy khó
khăn gian khổ, phức tạp và chưa có tiền lệ. Để hoàn thành sự nghiệp này, một
động lực quan trọng hàng đầu là phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước trong mỗi
con người Việt Nam, trong đó tầng lớp thanh niên là người chủ tương lai của đất
nước để thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới do Đảng đề ra.
1.1.2. Cơ sở hình thành, phát triển chủ nghĩa yêu nước Việt Nam
Lý luận và thực tiễn đã chỉ ra rằng không có cái gì ra đời từ mảnh đất
trông không, mà phải dựa trên những cơ sở nhất định. Chủ nghĩa yêu nước Việt
Nam được hình thành và phát triển trên nguyên lý đó.
Thứ nhất: đó là sự gắn bó giữa con người với thiên nhiên, với quê hương

xứ sở và cộng đồng.
Lòng yêu nước thường bắt đầu từ tình yêu quê hương xứ sở, nơi sinh ra
và lớn lên của mỗi người, từ sự gắn bó giữa những thành viên của gia đình, cộng
đồng, làng xã rồi đến quốc gia, dân tộc. Đây là cơ sở chung hình thành chủ
nghĩa yêu nước. Tuy nhiên, cơ sở này không hoàn toàn giống nhau đối với các
quốc gia, các dân tộc do điều kiện tự nhiên, xã hội và lịch sử cụ thể khác nhau
quy định. Đất nước Việt Nam nằm ở vị trí trung tâm khu vực Đông Nam Á, với
bờ biển kéo dài, nằm trên các tuyến giao thông đường biển huyết mạch, khí hậu


17
và tài nguyên thiên nhiên ưu đãi: khí hậu nhiệt đới gió mùa, độ ẩm cao và môi
trường sinh thái phong phú rất thuận lợi cho việc phát triển nền nông nghiệp.
Song, bên cạnh những điều kiện tự nhiên thuận lợi ấy thì cũng có những khó
khăn nhất định, thậm chí còn khắc nghiệt, như: bão tố, hạn hán, lũ lụt, dịch
bệnh... đầy thử thách đối với con người. Vì vậy, trong quá trình tổ tiên ta trụ lại
khai phá mảnh đất này, đã phải đấu tranh quyết liệt với thiên nhiên. Điều đó làm
cho sự cố kết cộng đồng, sự gắn bó giữa các thành viên lại với nhau trở thành
yêu cầu tự nguyện, tất yếu để tồn tại và phát triển. Tất cả những thành tựu trong
quá trình xây dựng quê hương xứ sở đều thấm đượm mồ hôi, nước mắt và
xương máu của bao thế hệ cha ông. Từ đó, mọi người dân Việt Nam đều nặng
tình, nặng nghĩa với quê hương, xứ sở. Đó là một cơ sở bền chắc cho tình yêu
quê hương đất nước.
Bên cạnh đó, nền kinh tế của Việt Nam chủ yếu là nền kinh tế nông
nghiệp trồng lúa nước, phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên. Điều đó tự nó
tạo nên sự gắn bó rất chặt chẽ giữa con người với nhau, cùng nhau chung tay
góp sức khai thác thiên nhiên, làm công trình thủy lợi để dẫn thủy nhập điền,
đắp đê phòng lũ lụt, xây dựng xóm làng đất nước. Từ những đặc điểm đó đã tạo
nên sự cố kết của cộng đồng người Việt từ rất sớm. Tình yêu bắt nguồn một
cách tự nhiên, giản dị từ tình yêu làng xóm, quê hương. Từ những xúc cảm với

cây đa, bến nước, sân đình, với lũy tre làng, với những mái nhà đơn sơ, với
những con đường thân thuộc, đó chính là tình yêu Tổ quốc, tình yêu đối với non
sông, đất nước.
Thứ hai: Quá trình lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta.
Đất nước ta có vị trí địa lí rất quan trọng, do đó lịch sử nước ta là lịch sử
của dựng nước luôn luôn gắn liền với giữ nước. Chống giặc ngoại xâm là đặc
điểm của nhiều dân tộc trên thế giới để tồn tại và phát triển. Mỗi nước có một
kiểu đấu tranh chống giặc ngoại xâm khác nhau, riêng đối với nước ta việc
chống giặc ngoại xâm có những đặc điểm sau đây:


18
- Hiếm có một dân tộc nào như dân tộc ta phải chống ngoại xâm nhiều
lần. Kể từ kháng chiến chống Tần thế kỷ III trước Công nguyên đến cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước thắng lợi, trong hơn 22 thế kỷ ấy thì có hơn 12 thế kỷ
dân tộc ta phải tiến hành cuộc kháng chiến giữ nước và đấu tranh chống ách đô
hộ của nước ngoài. Độ dài thời gian, tần số xuất hiện, số lượng các cuộc kháng
chiến và khởi nghĩa, chiến tranh giải phóng dân tộc Việt Nam lớn hơn nhiều so
với các nước trong khu vực cũng như các nước trên thế giới.
- Trong các cuộc chống giặc ngoại xâm, dân tộc ta phải đương đầu với
những kẻ thù mạnh hơn ta rất nhiều. Đó là các cuộc đấu tranh lịch sử giữa dân
tộc ta với nhiều đế chế phong kiến hùng mạnh bậc nhất ở phương Đông thời cổ trung đại và với các cường quốc tư bản chủ nghĩa thời cận - hiện đại. Các cuộc
chiến đấu rất không cân sức đó đã diễn ra hết sức ác liệt nhưng cuối cùng dân
tộc ta đều giành được thắng lợi. Như vậy, có thể nói rằng sự sống còn và con
đường chiến thắng kẻ thù của dân tộc ta là do biết huy động sức mạnh đại đoàn
kết của toàn dân tộc.
- Việc bảo vệ đất nước và bảo vệ giống nòi, bảo vệ bản sắc dân tộc có
quan hệ gắn bó rất mật thiết với nhau, hỗ trợ tác động qua lại lẫn nhau cùng phát
triển. Qua hàng ngàn năm đô hộ nước ta, các triều đại phong kiến phương Bắc
đã ra sức thực hiện ý đồ thâm độc đồng hóa dân tộc ta, hàng trăm năm nô dịch

nhân dân ta, bọn thực dân, đế quốc phương Tây đã ráo riết thực hiện chính sách
chia rẽ dân tộc ta, đồng hóa văn hóa với chiêu bài “khai hóa văn minh”. Song,
tất cả các âm mưu, thủ đoạn đó của chúng đều thất bại hoàn toàn.
Từ những đặc điểm trên đây đã tác động rất sâu sắc đến toàn bộ tiến trình
lịch sử của dân tộc Việt Nam, ảnh hưởng sâu sắc đến nền văn hóa Việt Nam và
các sản phẩm tinh thần của dân tộc. Nó rèn giũa, hun đúc chủ nghĩa yêu nước
của dân tộc, truyền thống đoàn kết, ý chí thống nhất đấu tranh, thống nhất dân
tộc; tạo nên khí phách anh hùng, quật cường của dân tộc Việt Nam, sẵn sàng
chịu đựng mọi hy sinh gian khổ bảo vệ nền độc lập dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ và


19
chủ quyền quốc gia, dân tộc. Đó là cơ sở vững chắc, là nội dung quan trọng của
chủ nghĩa yêu nước Việt Nam.
Ba là: Nền văn hoá thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc
Việt Nam.
Nét tiêu biểu, đặc sắc của nền văn hoá dân tộc Việt Nam là sự phong phú,
đa dạng và thống nhất cao. Đặc điểm này được thể hiện trong quá trình hình
thành và phát triển của nền văn hoá Việt Nam:
Văn hóa Việt Nam là sự hòa nhập của ba trung tâm văn hóa trong thời kỳ
cổ đại: Đó là văn hóa Đông Sơn với nhà nước Văn Lang Âu Lạc ở miền Bắc;
văn hóa Sa Huỳnh với Vương quốc Chăm Pa ở miền Trung và văn hóa Óc Eo
với Vương quốc Phù Nam ở Nam Bộ. Trải qua nhiều biến cố của lịch sử, các
nền văn hóa đó đã nhập vào dòng chảy chung của văn hóa Việt Nam. Trong đó
văn hoá Đông Sơn giữ vai trò chủ yếu qua các thời: Đại Cồ Việt, Đại Việt, Đại
Nam tới Việt Nam ngày nay. Đó là tính đa dạng và thống nhất của lịch sử văn
hoá Việt Nam. Hiện nay, Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, có 54 dân tộc
anh em cùng sinh sống, làm ăn trên lãnh thổ. Trong đó, dân tộc Kinh (Việt)
chiếm khoảng 87% dân số, sống tập trung ở đồng bằng, đô thị và rải rác ở miền
núi, trung du. Các dân tộc thiểu số còn lại chiếm khoảng 13%, chủ yếu sống ở

miền núi, trung du. Mỗi dân tộc có bản sắc văn hóa riêng tạo nên bức tranh đầy
màu sắc, đa dạng và phong phú của nền văn hóa Việt Nam.
Mặt khác, tuy có nhiều dân tộc sinh sống nhưng có một tộc người đa số
(người Kinh) tạo thành một trung tâm phát triển của lịch sử - văn hóa. Đồng
thời, các tộc người đó lại sống gắn bó với nhau trong một quốc gia thống nhất
lâu đời dưới sự quản lý của Nhà nước Trung ương thống nhất. Trong quá trình
dựng nước và giữ nước càng gắn bó các tộc người lại trong một vận mệnh
chung, cả cộng đồng có một cơ sở chung, một nền văn hoá thống nhất trong tính
đa dạng, một ý thức chung về vận mệnh cộng đồng dân tộc Việt Nam. Quá trình
dựng nước và giữ nước càng làm gắn bó các tộc người lại trong một vận mệnh


20
chung, cả cộng đồng có một nền văn hóa thống nhất trong tính đa dạng, một ý
thức chung về vận mệnh cộng đồng và về một tổ tiên chung là vua Hùng.
Như vậy, sự hình thành mang tính đa dạng và phong phú nhưng thống
nhất cao của nền văn hóa gắn liền với sự thống nhất của cộng đồng trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chủ nghĩa yêu nước, ý thức cộng đồng trên
nền tảng gắn kết từng thành viên với gia đình; gia đình - làng, xã - dân tộc, Tổ
quốc, là một bộ phận tạo thành nền văn hóa Việt Nam, vừa kết tinh những giá trị
tiêu biểu, vừa chi phối sự phát triển của nền văn hóa Việt Nam.
Bốn là: Quá trình hình thành và thống nhất sớm của quốc gia, dân tộc
Việt Nam.
Quá trình hình thành và thống nhất sớm của quốc gia dân tộc Việt Nam
cũng là một cơ sở của chủ nghĩa yêu nước. Sự phát triển của xã hội loài người
diễn ra qua các hình thái kinh tế xã hội kế tiếp nhau. Từ hình thái kinh tế xã hội
Cộng sản nguyên thủy -> Chiếm hữu nô lệ -> Phong kiến -> Tư bản chủ nghĩa
và cuối cùng là Chủ nghĩa Cộng sản mà giai đoạn đầu là Chủ nghĩa xã hội. Hình
thái kinh tế xã hội sau bao giờ cũng kế thừa các giá trị của hình thái kinh tế xã
hội trước. Trong quy luật vận động chung đó, do những điều kiện, đặc điểm

riêng của mình mà mỗi quốc gia có thể phát triển, bỏ qua hình thái kinh tế xã hội
này hay hình thái kinh tế xã hội khác. Những điều kiện, đặc điểm riêng đó của
mỗi nước trong các nấc thang phát triển đều có ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát
triển văn hóa, trong đó có chủ nghĩa yêu nước.
Quá trình hình thành và thống nhất dân tộc Việt Nam có những đặc điểm
sau đây:
Việt Nam không trải qua chế độ Chiếm hữu nô lệ, chế độ Phong kiến
cũng mang những đặc điểm của phương Đông của Việt Nam, khác xa với chế độ
phong kiến phương Tây. Ở nước ta không có thời kì tồn tại của chế độ lãnh địa
với quan hệ lãnh chúa và nông nô, không trải qua thời kì phân quyền cát cứ lâu
dài. Nhà nước tập quyền ra đời sớm và phát triển mạnh, chi phối toàn bộ sự phát
triển của xã hội.


21
Quá trình thống nhất quốc gia và hình thành dân tộc sớm ở Việt Nam
cũng tác động sâu sắc đến sự phát triển của chủ nghĩa yêu nước, ý thức cộng
đồng, tạo nên tinh thần đoàn kết, sự cố kết cộng đồng. Đây là cơ sở quan trọng
của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam.
Cùng với quá trình thống nhất quốc gia là quá trình hình thành và thống
nhất dân tộc, tức là quá trình các cộng đồng dân cư gắn bó với nhau trên một cơ
sở của tư tưởng, tình cảm chung trong một nền văn hóa chung.
Trong quá trình hình thành dân tộc Việt Nam, sự cố kết cộng đồng dân tộc
được xây dựng và phát triển trên nền tảng của các hình thái kinh tế xã hội với
đặc điểm riêng nói trên và trên cơ sở kết cấu xã hội cụ thể của Việt Nam mà nền
tảng dựa trên cơ sở chính là trục Nhà (gia đình) - Làng (công xã nông thôn) Nước (quốc gia dân tộc). Đây là quan niệm tổng quát, toàn diện về đất nước, dân
tộc và quốc gia, nó bao quát những yếu tố cơ bản về lịch sử văn hóa lãnh thổ và
thể chế văn hóa nhà nước. Sự tự nhận thức này đạt tới trình độ khá toàn diện về
quốc gia dân tộc và là cơ sở hình thành chủ nghĩa yêu nước Việt Nam.
1.1.3. Nội dung cơ bản của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam

1.1.3.1. Dân tộc Việt Nam đoàn kết, cần cù, dũng cảm, hiếu
học, yêu lao động
Truyền thống đoàn kết, cần cù, dũng cảm, hiếu học, yêu lao động là một
trong những nội dung cơ bản của chủ nghĩa yêu nước. Nó được hình thành và
phát triển trong điều kiện, hoàn cảnh tự nhiên và xã hội không ít những khó
khăn, khắc nghiệt ngay từ những buổi đầu dựng nước và giữ nước.
Việt Nam, về mặt tự nhiên, là quốc gia có nhiều thiên tai, đặc biệt là bão
lụt và hạn hán, áp thấp nhiệt đới và gió mùa đông bắc, gây không ít khó khăn
cho sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh đó, về mặt xã hội, nước ta liên tục phải đấu
tranh chống giặc ngoại xâm. Nhưng trong suốt tiến trình lịch sử của dân tộc,
người dân Việt Nam vẫn kiên trì bám đất, bám làng, vừa sản xuất vừa đánh giặc
để tồn tại và bảo vệ đất nước. Sống trong hoàn cảnh khó khăn gian khổ như vậy,


22
nhưng nhờ có đức tính cần cù, đoàn kết, dũng cảm mà nhân dân ta đã vượt qua
mọi gian lao khó khăn thử thách ấy để phát triển, từng bước tự khẳng định mình
trên con đường phát triển của dân tộc.
- Đoàn kết: Lịch sử Việt Nam cho chúng ta thấy rằng lòng yêu nước và sự
đoàn kết của nhân dân là một lực lượng vô cùng to lớn, không ai thắng nổi. Nhờ
sức mạnh ấy mà tổ tiên ta đã đánh thắng các thế lực phong kiến phương Bắc
xâm lược và giữ vững quyền tự do, dân chủ. Nhờ lực lượng ấy mà chúng ta đã
giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống đế quốc, thực dân và ngày nay
đang thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới đất nước.
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Nếu không giác ngộ, tổ chức
quần chúng lại thì không có sức mạnh. Bài học lớn rút ra từ việc đoàn kết như
một chân lý của thời đại. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Một dân tộc dù nhỏ yếu,
nhưng đoàn kết chặt chẽ dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân và Đảng của
nó, đi đúng đường lối của Chủ nghĩa Mác - Lênin, thì nhất định đánh thắng được
đế quốc xâm lược” [26, tr 208]. Vì đoàn kết đưa cách mạng đến thành công, nên

Bác Hồ đã nêu ra một nguyên lý nổi tiếng:
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công, thành công, đại thành công”.
Đại đoàn kết dân tộc trở thành một động lực chủ yếu để xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.
- Cần cù, yêu lao động: Để có bát cơm thơm ngon, người nông dân của
chúng ta đã phải “một nắng hai sương”, quanh năm suốt tháng’ bán mặt cho đất
bán lưng cho trời’. Hình ảnh người nông dân trong những câu ca dao, tục ngữ
Việt Nam còn đó: “Trên đồng cạn dưới đồng sâu; chồng cày, vợ cấy, con trâu đi
bừa”. Ông cha ta thường dạy con cháu phải biết quý trọng thành quả lao động của
con người: “Ai ơi bưng bát cơm đầy, dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần”.
Đức tính cần cù, chịu khó, chịu khổ trong lao động cũng như trong cuộc
sống thường ngày. Đối với mỗi người, lao động là điều phải làm, vì có lao động
mới có lúa, ngô, khoai và tất cả mọi thứ cần thiết cho cuộc sống. Không thể ở


23
không bởi “nhàn cư vi bất thiện”. Vì thế, người xưa nhắc nhở “Có làm thì mới
có ăn, không dưng ai dễ đem phần đến cho” hoặc “Thế gian chuộng của, chuộng
công, nào ai có chuộng người không bao giờ”.
Đức tính cần cù được đúc kết bằng câu tục ngữ ngắn gọn, trải mấy ngàn
năm vẫn còn giá trị với thời gian “Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống”. Bốn
yếu tố này luôn đi liền với nhau thì mùa màng sẽ bội thu, no ấm… “Ai ơi chớ bỏ
ruộng hoang, bao nhiêu tấc đất tấc vàng bấy nhiêu”.
Ngày nay, cần cù sáng tạo được biểu hiện càng rõ nét trong lao động sản
xuất, trong khoa học - kỹ thuật, trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Các phong
trào thi đua rộng rãi và thường xuyên trên mọi lĩnh vực: ở biên cương, nơi đồng
ruộng, trong nhà máy xí nghiệp, trong nhà trường... Tại Đại hội Thi đua yêu
nước lần thứ VIII và tổng kết phong trào thi đua “Giỏi việc nước, đảm việc nhà”
lần thứ IV do Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam tổ chức, Phó Chủ tịch nước
Nguyễn Thị Doan đã phát biểu toàn thể nhân dân hăng hái thi đua lao động cần

cù, sáng tạo và tiết kiệm, tích cực ủng hộ và tham gia vào việc sắp xếp lại doanh
nghiệp Nhà nước, tiến hành cổ phần hóa doanh nghiệp, cải cách thủ tục hành
chính, khai thác cao nội lực, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, có nhiều mô
hình, điển hình làm ăn giỏi, nhiều sản phẩm có sức cạnh tranh để chiếm lĩnh thị
trường trong nước và xuất khẩu.
Đặc biệt trong quá trình đổi mới đất nước, với mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh”, hơn bao giờ hết truyền thống cần cù,
sáng tạo càng được phát huy cao độ.
- Dũng cảm: Lòng dũng cảm là một trong những đức tính vô cùng cần
thiết và đáng quý trọng ở mỗi con người. Dù ở nơi đâu, khi làm bất cứ một việc
gì, con người đều cần lòng dũng cảm. Trong những cuộc kháng chiến chống kẻ
thù xâm lược “Trăm năm đô hộ giặc Tây, ngàn năm đô họ giặc Tàu”, lúc nào
chúng ta cũng có rất nhiều những tấm gương dũng cảm, vì nước quên thân, luôn
sẵn sàng đối mặt với kẻ thù, với khó khăn gian khổ, thậm chí cả hy sinh mất


×