Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho sinh viên các trường dạy nghề trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (874.99 KB, 101 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



VŨ THỊ NHUNG



GIÁO DỤC CHỦ NGHĨA YÊU NƢỚC CHO SINH VIÊN
CÁC TRƢỜNG DẠY NGHỀ TRONG THỜI KỲ ĐẨY MẠNH
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƢỚC THEO
TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH





LUẬN VĂN THẠC SĨ HỒ CHÍ MINH HỌC







Hà Nội- 2013

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





VŨ THỊ NHUNG



GIÁO DỤC CHỦ NGHĨA YÊU NƢỚC CHO SINH VIÊN
CÁC TRƢỜNG DẠY NGHỀ TRONG THỜI KỲ ĐẨY MẠNH
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƢỚC THEO
TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH



Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Hồ Chí Minh học
Mã số: 60.31.02.04



Người hướng dẫn khoa học: TS. Văn Thị Thanh Mai




Hà Nội- 2013
LỜI CẢM ƠN

Trong hơn hai năm học tập, nghiên cứu chương trình cao học tại trường
Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội)
chúng tôi

đã tiếp thu được nhiều kiến thức mới, những kinh
nghiệm quý báu, là hành
trang cho chúng tôi tiếp tục thực hiện tốt hơn nhiệm vụ của mình.
Luận văn này là một phần kết quả quan trọng trong quá trình đào tạo
cao học. Với tất cả tình cảm của mình, tôi xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Ban
giám hiệu, các thầy cô trong Khoa Khoa học chính trị cũng như các thầy, cô
giáo trong và ngoài trường đã tận tình giảng dạy, giúp đỡ và tạo điều kiện
thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin cảm ơn cô giáo, TS. Văn Thị Thanh Mai - người đã hướng dẫn
tôi trong suốt quá trình làm luận văn. Cô đã cho tôi thêm nhiều kiến thức
chuyên ngành cũng như giúp tôi rèn luyện kỹ năng nghiên cứu khoa học.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn tới những người thân trong gia đình
và bạn bè đã luôn quan tâm, động viên, giúp đỡ để tôi có thể hoàn thành tốt
nhiệm vụ học tập trong suốt thời gian qua.
Mặc dù tôi đã cố gắng rất nhiều trong quá trình làm luận văn, song không
thể tránh khỏi những hạn chế nhất định, rất mong nhận được sự chỉ dẫn, góp ý và
giúp đỡ quý báu của các quý thầy, cô giáo và các bạn đồng nghiệp.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN



Vũ Thị Nhung

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Tình hình nghiên cứu vấn đề 3
2.1. Nhóm các công trình nghiên cứu tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa yêu
nƣớc 3

2.2. Những bài nghiên cứu về chủ nghĩa yêu nƣớc theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh
đăng trên các báo, tạp chí chuyên ngành 6
2.3. Một số đề tài khoa học, luận văn thạc sĩ đề cập vấn đề giáo dục chủ nghĩa yêu
nƣớc 7
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 8
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu 8
3.2. Phạm vi nghiên cứu 9
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 9
4.1. Mục đích nghiên cứu 9
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 9
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu 9
5.1. Cơ sở lý luận 9
5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu 10
6. Đóng góp của luận văn 10
7. Kết cấu của luận văn 10
Chƣơng 1 TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA YÊU NƢỚC 11
1.1. Chủ nghĩa yêu nƣớc truyền thống 11
1.1.1. Một số khái niệm 11
1.1.2. Chủ nghĩa yêu nƣớc truyền thống 13
1.2. Một số nội dung cơ bản của tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa yêu nƣớc . 18
1.2.1. Quá trình hình thành tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa yêu nƣớc 18
1.2.2. Một số nội dung cơ bản 27
Chƣơng 2 GIÁO DỤC CHỦ NGHĨA YÊU NƢỚC CHO SINH VIÊN CÁC
TRƢỜNG DẠY NGHỀ Ở VIỆT NAM THEO TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH . 45
2.1. Thực trạng hoạt động giáo dục chủ nghĩa yêu nƣớc ở các trƣờng dạy nghề . 45
2.1.1. Sự cần thiết phải giáo dục chủ nghĩa yêu nƣớc cho sinh viên các trƣờng dạy
nghề 45
2.1.2. Một số kết quả 52
2.1.3. Một số hạn chế 61
2.2. Những quan điểm, phƣơng hƣớng và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất

lƣợng giáo dục chủ nghĩa yêu nƣớc cho sinh viên các trƣờng dạy nghề………65
2.2.1. Những quan điểm cơ bản 65
2.2.2. Phƣơng hƣớng cơ bản 71
2.2.3. Nhóm giải pháp 74
KẾT LUẬN 84
TÀI LIỆU THAM KHẢO 86
PHỤ LỤC 91










DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Kết quả khảo sát về nội dung: “Yêu nước đối với sinh viên nói chung
và sinh viên các trường dạy nghề nói riêng”
56
Bảng 2.2: Kết quả khảo sát về nội dung: “Em hiểu thế nào là chủ nghĩa xã hội?”
58
Bảng 2.3: Kết quả khảo sát về nội dung: “Một trong những nội dung cơ bản
của yêu nước ”
59
Bảng 2.4: Kết quả khảo sát về nội dung: “Học tập và rèn luyện đạo đức là
mục tiêu phấn đấu quan trọng nhất?”
60












1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam truyền thống là tài sản quý giá của dân tộc.
Trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, hệ giá
trị truyền thống của dân tộc, trong đó có chủ nghĩa yêu nước là một trong những
giá trị hàng đầu, đóng vai trò trung tâm, làm nền tảng cho mọi hoạt động tinh thần
của nhân dân và trở thành điểm tựa cho sự trường tồn của dân tộc. Cùng với thời
gian, chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam mang đậm tính chất nhân văn, vì
lợi ích chung của dân tộc luôn được gìn giữ và phát huy. Trên cơ sở của truyền
thống tốt đẹp đó, tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa yêu nước hình thành và phát
triển, góp phần khơi dậy, cổ vũ, động viên nhân dân đoàn kết, đấu tranh giải
phóng dân tộc thoát khỏi ách xâm chiếm của giặc ngoại xâm, xây dựng một đất
nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh và phát triển.
Sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo yêu nước, chứng kiến cảnh nước
mất, người dân sống cuộc đời nô lệ lầm than, tư tưởng yêu nước và khát khao
giải phóng Tổ quốc đã sớm hình thành trong người thanh niên Nguyễn Tất
Thành - Nguyễn Ái Quốc. Sau đó, rời Tổ quốc bôn ba tìm đường cứu nước,
Người đã đến với chủ nghĩa Mác- Lênin, đến với con đường giải phóng dân tộc
theo quỹ đạo của cách mạng vô sản. Được ánh sáng chủ nghĩa Mác- Lênin - học

thuyết cách mạng, khoa học của thời đại soi đường, chủ nghĩa yêu nước truyền
thống chân chính đã được kế thừa, phát huy, được nâng lên một tầm cao mới,
mang đậm dấu ấn Hồ Chí Minh. Vị trí, vai trò, sức mạnh của chủ nghĩa yêu
nước Việt Nam - sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử dân tộc từ cổ đại đến hiện
đại đã được Hồ Chí Minh khẳng định: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước.
Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị
xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một nàn sóng vô cùng mạnh
mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán
nước và lũ cướp nước” [47, tr.171].

2
Phát huy chủ nghĩa yêu nước truyền thống, tinh thần đoàn kết của
mọi người dân Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh đứng
đầu, với một đường lối chính trị đúng đắn, phương thức tiến hành cuộc đấu
tranh cách mạng phù hợp, đã lãnh đạo nhân dân làm nên thắng lợi của cuộc
cách mạng Tháng Tám năm 1945, giành lại độc lập, tự do sau hơn 80 năm
trời nô lệ. Tiếp đó, phát huy chủ nghĩa yêu nước, ý chí quyết tâm “thà hy
sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”, dưới
ngọn cờ độc lập, tự do của Đảng do Hồ Chí Minh đứng đầu, hai cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-1954) và đế quốc Mỹ (1954-1975)
đã giành thắng lợi. Hành trình 30 năm đấu tranh gian khổ, không quản ngại
hy sinh, vì một nước Việt Nam độc lập, hòa bình, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ của nhân dân ta là một biểu tượng sáng ngời nhất của chủ nghĩa
yêu nước Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh lịch sử.
Tiến hành đổi mới và hội nhập quốc tế, bên cạnh những vận hội lớn,
chúng ta cũng phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức, trong đó có sự
chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, chiến lược “diễn biến hoà
bình”, âm mưu “tự diễn biến” trên lĩnh vực tư tưởng diễn ra ngày càng tinh
vi, phức tạp. Phát huy vai trò, sức mạnh tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ
nghĩa yêu nước trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, sau 27 năm

đổi mới, một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất đang bước vào thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với cả những thuận lợi và
không ít khó khăn. Trên tinh thần đó, Đảng ta đã chỉ rõ: “Con đường công
nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta cần phát huy những lợi thế của đất
nước, tận dụng mọi khả năng phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh
thần của người Việt Nam làm nền tảng và động lực của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa” [12, tr.91]. Theo đó, phát huy sức mạnh tổng hợp của
toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, trong đó, việc
khơi dậy và phát huy cao độ sức mạnh tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa yêu
nước, “tăng cường tuyên truyền, giáo dục tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc,

3
trách nhiệm và nghĩa vụ… cho mọi người” [15, tr.234], nhất là trong thế hệ trẻ
nước nhà càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Theo đó, vấn đề giáo dục
cho thế hệ trẻ nói chung, cho sinh viên các trường dạy nghề nói riêng về chủ
nghĩa yêu nước, nhằm giữ gìn, kế thừa, phát huy các giá trị của tư tưởng Hồ
Chí Minh về chủ nghĩa yêu nước; khắc phục một số biểu hiện: lãng quên quá
khứ, phai nhạt lý tưởng, thiếu hiểu biết lịch sử truyền thống dân tộc, sống
thực dụng, thờ ơ với đất nước, ít quan tâm đến lợi ích chung… là vấn đề có
ý nghĩa đặc biệt quan trọng và cấp bách. Với ý nghĩa đó, tôi chọn vấn đề:
“Giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho sinh viên các trường dạy nghề trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo tư tưởng Hồ
Chí Minh” làm đề tài luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Hồ Chí Minh học.
2. Tình hình nghiên cứu vấn đề
Những năm gần đây đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về tư
tưởng Hồ Chí Minh, trong đó có tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa yêu nước.
Tuy chưa có công trình nào nghiên cứu riêng, chuyên sâu về vấn đề giáo dục chủ
nghĩa yêu nước cho sinh viên các trường dạy nghề trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh như đề tài tôi lựa
chọn, song có nhiều công trình liên quan đến đề tài, có thể đưa về 3 nhóm sau:

2.1. Nhóm các công trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa yêu nước
Cuốn sách Hồ Chí Minh và con người Việt Nam trên đường dân giàu
nước mạnh của Phạm Văn Đồng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993,
nghiên cứu tư tưởng và con người Hồ Chí Minh với công cuộc đổi mới.
Tác phẩm đã khẳng định: Hồ Chí Minh là một nhà yêu nước, đồng thời là
một chiến sĩ cộng sản, với thông điệp nổi tiếng của Người: “Không có gì
quý hơn độc lập tự do”.
Cuốn sách Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam
do Đại tướng Võ Nguyên Giáp chủ biên, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1997, khẳng định truyền thống yêu nước của dân tộc đã phát triển thành
chủ nghĩa yêu nước. Chính chủ nghĩa yêu nước đã thúc đẩy Hồ Chí Minh

4
ra đi tìm đường cứu nước và trở thành một trong những nguồn gốc chủ yếu
của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Cuốn sách Nhận thức cơ bản về tư tưởng Hồ Chí Minh của cố Thủ
tướng Phạm Văn Đồng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, cũng khẳng
định hành trang ra đi tìm đường cứu nước của Nguyễn Tất Thành là truyền
thống lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, với sức sống mãnh liệt
của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam. Đó là một nhận thức cơ bản trong tư
tưởng Hồ Chí Minh, giúp ích cho mỗi người khi nghiên cứu chủ nghĩa yêu
nước Hồ Chí Minh trong tình hình hiện nay.
Cuốn sách Chủ nghĩa yêu nước thời đại Hồ Chí Minh của Trần Xuân
Trường, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001. Với 6 chương, tác giả đi từ
nghiên cứu chủ nghĩa yêu nước truyền thống đến chủ nghĩa yêu nước Việt
Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Chủ nghĩa yêu nước được tác giả lý giải
qua việc nêu và phân tích những nội dung về lao động, bảo vệ Tổ quốc,
chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa quốc tế.
Cuốn sách Chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh của Nguyễn Mạnh
Tường, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, được hình thành trên cơ sở

luận án tiến sĩ của tác giả. Qua kết cấu ba chương, tác giả chủ yếu tập trung
nghiên cứu chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh. Theo tác giả thì chủ nghĩa yêu
nước Hồ Chí Minh là lý tưởng “Không có gì quý hơn độc lập tự do”; là quan
niệm về nước và dân; là quan niệm về độc lập, tự do, hạnh phúc; là quan niệm
về thi đua yêu nước và mẫu người yêu nước mới gắn liền với nhiệm vụ xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc. Với những nội dung trên, tác phẩm đã mang đến một giá trị
to lớn không chỉ cho hiện tại mà cả tương lai mai sau. Theo đó, Việt Nam muốn
tồn tại và giữ vững được bản sắc văn hóa của mình trong tình hình và nhiệm vụ
của đất nước hôm nay thì cần phải phát huy cao độ tinh thần yêu nước, lòng tự
hào dân tộc để đoàn kết, tập hợp lực lượng của toàn dân, tạo nên sức mạnh nội
sinh trong sự nghiệp xây dựng đất nước, nhanh chóng đưa đất nước vượt qua
nghèo nàn, lạc hậu, tiến lên công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhằm mục tiêu dân

5
giàu, nước mạnh. Đó còn là bảo vệ Tổ quốc gắn liền với giữ vững độc lập, chủ
quyền và chế độ xã hội chủ nghĩa; là xây dựng đất nước gắn liền với kiên định
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
Cuốn sách Đến với tư tưởng Hồ Chí Minh của Trần Bạch Đằng, Nxb.
Trẻ, Hà Nội, 2004, trong đó khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh được ấp ủ lâu
dài trong cái nôi chủ nghĩa yêu nước, tắm mình sâu sắc trong tâm hồn dân tộc,
là kết tinh truyền thống hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của nhân dân
Việt Nam.
Cuốn sách Góp phần tìm hiểu cuộc đời và tư tưởng Hồ Chí Minh của
Đinh Xuân Lâm, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, là một tập hợp
nhiều bài nghiên cứu về một số chủ đề, trong đó, có một số bài gần với
hướng nghiên cứu của đề tài như “Chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh- sự kết
hợp biện chứng giữa truyền thống và thời đại”, “Về con đường cứu nước của
Hồ Chí Minh”…
Cuốn sách Từ chủ nghĩa yêu nước truyền thống đến chủ nghĩa yêu
nước Hồ Chí Minh của Nguyễn Hùng Hậu, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà

Nội, 2008. Trong cuốn sách này, tác giả khẳng định: Chủ nghĩa yêu nước
Hồ Chí Minh là sự kế thừa, phát triển tất cả mọi giá trị truyền thống tốt đẹp
của dân tộc, trong đó chủ nghĩa yêu nước đóng vai trò nòng cốt. Bên cạnh
đó, chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh còn là kết quả của sự tiếp thu tinh
hoa văn hóa nhân loại và dân tộc, sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác -
Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam… Trong tất cả các yếu tố đó, chủ
nghĩa yêu nước truyền thống là cơ sở trực tiếp nhất, cốt lõi nhất.
Cuốn sách Chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh thời kỳ mở cửa, hội nhập
quốc tế là kết quả nghiên cứu đề tài khoa học cấp bộ, gồm hai chương, theo đó,
Chương I: “Chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh”, chương II: “Phát huy chủ
nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh trong thời kỳ mở cửa, hội nhập quốc tế”. Trong
đó, tác giả đã làm rõ một số khái niệm: Tình cảm yêu nước, chủ nghĩa yêu
nước, chủ nghĩa yêu nước truyền thống, chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh…;

6
hệ thống hóa nội dung cơ bản của chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam;
phân tích nội dung cơ bản và vai trò của chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh;
phân tích cơ hội và thách thức khi Việt Nam gia nhập tổ chức Thương mại thế
giới WTO; làm rõ nội dung trong việc phát huy chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí
Minh trong thời kỳ mở cửa hội nhập quốc tế…
Dù tiếp cận ở những góc độ khác nhau, nhưng kết quả nghiên cứu của
các tác giả đi trước trong những nghiên cứu nêu trên đã giúp tôi một cách
nhìn tổng quan về chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh…
để tôi tham khảo và kế thừa có chọn lọc trong quá trình thực hiện đề tài luận
văn của mình.
2.2. Những bài nghiên cứu về chủ nghĩa yêu nước theo tư tưởng Hồ
Chí Minh đăng trên các báo, tạp chí chuyên ngành
Nhóm các bài viết: Võ Nguyên Giáp,“Văn hóa Việt Nam - Truyền
thống cốt cách dân tộc”, Tạp chí Cộng sản, số 15, 1998; Phan Huy Lê, “Chủ
nghĩa yêu nước nội lực tinh thần nền tảng của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam”,

Tạp chí Xưa và nay, số 9, 1999; Nguyễn Mạnh Hưởng, “Giáo dục chủ nghĩa
yêu nước truyền thống trong giai đoạn hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu lý luận,
số 6, 2000; Dương Tùng, “Bác Hồ với thế hệ mai sau”, Tạp chí Tư tưởng - Văn
hóa, số 11, tháng 11-2000; Dương Trung Quốc, “Tổ tiên rực rỡ- anh em hòa
thuận”, Tạp chí Cộng sản, số 8, 2004; Vũ Oanh, “Học, làm, sống theo tư tưởng
và tấm gương Hồ Chí Minh”, Báo Nhân dân, ngày 29- 04- 2005; Lâm Quốc
Tuấn, Trần Văn Toàn, “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức vừa hồng
vừa chuyên cho thanh niên trí thức”, Tạp chí Lý luận chính trị, tháng 10-2005;
Nguyễn Thế Kiệt, “Một số giá trị đạo đức Việt Nam từ truyền thống đến Hồ Chí
Minh”, Tạp chí Lý luận chính trị, tháng 7-2006; Lê Hữu Ái, Trần Quang Ánh,
“Vấn đề giáo dục giá trị văn hóa truyền thống cho sinh viên trong bối cảnh hiện
nay ở nước ta”, Tạp chí Khoa học và công nghệ, Đại học Đà Nẵng, số 5 (28),
2008; Hoàng Đình Tỉnh, “Giáo dục bồi dưỡng thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay theo
Di chúc của Hồ Chí Minh”, Tạp chí Lý luận chính trị, tháng 7-2009; Trịnh Tố

7
Long, “Bác Hồ triết lý sống là yêu thương”, Báo Người cao tuổi, số 167 + 168,
tháng 1+ 2-2011; Mai Mộng Tưởng, “Vấn đề giáo dục và đào tạo hiện nay - suy
ngẫm từ quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh”, Tạp chí Tuyên giáo, số 10,
tháng 10-2011; Phạm Minh Hạc, “Triết lý giáo dục Hồ Chí Minh”, Tạp chí Cộng
sản, số 828, tháng 10-2011; Nguyễn Lân Dũng, “Hồ Chí Minh- Một dân tộc dốt
là một dân tộc yếu”, Tạp chí Mặt trận, tháng 11-2011; Nguyễn Đình Bắc, “Tư
tưởng Hồ Chí Minh về phương pháp nêu gương trong giáo dục đạo đức cho
thanh niên hiện nay”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, tháng 1- 2012…
Nhóm các bài viết này đã đi sâu, phân tích, đánh giá, làm sáng tỏ giá
trị một số nội dung cơ bản của chủ nghĩa yêu nước theo tư tưởng Hồ Chí
Minh. Đồng thời, trong một số công trình, các tác giả đã khẳng định giáo dục
chủ nghĩa yêu nước, góp phần xây dựng và rèn luyện đạo đức cách mạng là
yêu cầu cần thiết. Từ đó, đưa ra các giải pháp nhằm xây dựng, bồi dưỡng chủ
nghĩa yêu nước, để từ đó giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho các giai tầng trong

xã hội nói chung và tầng lớp thanh niên, sinh viên các trường đại học, cao
đẳng, trung học chuyên nghiệp nói riêng. Những kết quả nghiên cứu này giúp
tôi cách tiếp cận những vấn đề có liên quan đến nội dung của luận văn.
2.3. Một số đề tài khoa học, luận văn thạc sĩ đề cập vấn đề giáo dục
chủ nghĩa yêu nước
Luận văn thạc sĩ: “Tìm hiểu quan điểm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa
yêu nước” của Nguyễn Mạnh Tường (2000- Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh), với những nội dung về chủ nghĩa yêu nước theo tư tưởng Hồ Chí
Minh… Luận văn thạc sĩ: “Giáo dục chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh cho
thanh niên tỉnh Thanh Hóa trong thời kỳ đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước” của Hoàng Văn Lực (2007- Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh). Qua luận văn, tác giả góp phần làm sáng tỏ thêm những vấn đề cơ bản
trong nghiên cứu chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh, làm rõ vai trò của chủ
nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh trong hình thành nhân cách cho thanh niên tỉnh
Thanh Hóa hiện nay. Luận văn tốt nghiệp: “Giáo dục chủ nghĩa yêu nước Hồ

8
Chí Minh cho học sinh trung học phổ thông tỉnh Bắc Ninh trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” của Ngô Xuân Dương (2009-
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh ). Trong luận văn, tác giả góp phần
làm rõ khái niệm, nội dung chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh và thực trạng
của công tác giáo dục chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh cho học sinh trung
học phổ thông tỉnh Bắc Ninh hiện nay. Trên cơ sở đó, đề xuất phương hướng
và những giải pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả công tác giáo dục chủ nghĩa
yêu nước Hồ Chí Minh cho học sinh trung học phổ thông tỉnh Bắc Ninh nói
riêng và góp phần đối với công tác giáo dục chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh
cho học sinh trung học phổ thông cả nước.
Những luận văn trên đã góp phần giúp tôi hiểu rõ hơn về đặc điểm, nội
dung và ý nghĩa của chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh, cũng như thực trạng
và việc cần thiết phải đẩy mạnh công tác giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho

học sinh, sinh viên và thanh thiếu niên trong cả nước hiện nay
Khảo sát các nhóm nghiên cứu chúng tôi thấy, những công trình này đã
đưa ra, phân tích bản chất khái niệm “chủ nghĩa yêu nước”, chỉ ra những lĩnh
vực biểu hiện của nó, những đặc điểm và nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về
chủ nghĩa yêu nước Trong đó, có công trình còn phân tích chủ nghĩa yêu
nước của những nhóm xã hội cụ thể; chủ nghĩa yêu nước theo tư tưởng Hồ
Chí Minh trong thời kỳ đổi mới và hội nhập… từ đó, nhấn mạnh việc cần
thiết phải giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho sinh viên Việt Nam theo tư tưởng
và tấm gương đạo đức của Người. Tuy nhiên, chưa có công trình chuyên biệt
nào giải quyết những nội dung như đề tài tôi đã lựa chọn, song những kết quả
nghiên cứu đó là cơ sở, tư liệu quan trọng giúp tôi giải quyết những vấn đề
liên quan của luận văn.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa yêu nước và ể giáo dục chủ
nghĩa yêu nước cho sinh viên các trường dạy nghề ở Việt Nam trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

9
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa yêu nước thể hiện qua những bài
nói, bài viết và hoạt động thực tiễn của Người
- Thực trạng công tác giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho sinh viên các
trường dạy nghề qua khảo sát, nghiên cứu ở trường Cao đẳng nghề kỹ thuật Mỹ
nghệ Việt Nam và Cao đẳng nghề Long Biên.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
- Chủ nghĩa yêu nước truyền thống và nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí
Minh về chủ nghĩa yêu nước.
- Đánh giá thực trạng và đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm giáo

dục chủ nghĩa yêu nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh cho sinh viên các
trường dạy nghề ở Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Trình bày khái niệm, nội dung chủ nghĩa yêu nước từ truyền thống
đến tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Đánh giá thực trạng công tác giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho sinh
viên các trường dạy nghề qua khảo sát thực tế ở hai trường nêu trên.
- Nội dung, phương hướng và những giải pháp chủ yếu để nâng cao chất
lượng giáo dục chủ nghĩa yêu nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh cho sinh viên các
trường dạy nghề ở Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được triển khai trên nền tảng của lý luận chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về chủ nghĩa yêu nước,
giáo dục chủ nghĩa yêu nước.

10
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử;
- Phương pháp lôgic, thống kê, phương pháp so sánh tổng hợp;
- Phương pháp điều tra xã hội học, phương pháp thu nhập, phân tích số liệu;
- Kết hợp các phương pháp nêu trên.
6. Đóng góp của luận văn
- Kết quả của luận văn góp phần làm rõ lý luận của Hồ Chí Minh về chủ
nghĩa yêu nước; góp phần đánh giá thực trạng công tác giáo dục chủ nghĩa yêu
nước của sinh viên các trường dạy nghề ở Việt Nam; đề xuất nội dung, phương
hướng và những giải pháp có tính khả thi để nâng cao chất lượng giáo dục chủ
nghĩa yêu nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh cho sinh viên các trường dạy nghề ở

Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc tuyên truyền,
giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho thanh thiếu niên, học sinh, sinh viên Việt
Nam trong hệ thống nhà trường, hệ thống Đoàn, Hội thanh niên cấp cơ sở và
hệ thống Ban Tuyên giáo các cấp.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, luận văn gồm 2 chương, 4 tiết.










11
Chƣơng 1
TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA YÊU NƢỚC
1.1. Chủ nghĩa yêu nƣớc truyền thống
1.1.1. Một số khái niệm
* Nước
Một trong những khái niệm đầu tiên khi nói về chủ nghĩa yêu nước là khái
niệm “nước”. “Nước” theo Từ điển Tiếng Việt là “vùng đất trong đó những
người thuộc một hay nhiều dân tộc cùng sống chung dưới một chế độ chính
trị - xã hội và cùng thuộc một nhà nước nhất định” [77, tr.959].
Còn “nước” được luận giải trong cuốn sách Từ chủ nghĩa yêu nước
truyền thống đến chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh như sau:

Thứ nhất, ở khía cạnh thiên nhiên, địa lý, nước chỉ non sông, giang sơn
gấm vóc, lãnh thổ với biên giới cương vực rạch ròi (chỉ đất nước).
Thứ hai, nếu chỉ có thiên nhiên, mảnh đất thuần túy không thôi, thì
cũng chưa thể gọi là “nước”, muốn có nước phải có những tộc người sống
trên đó và quan hệ giữa họ với nhau. Bởi vậy nước còn chỉ tộc người, dân tộc
và sự đoàn kết giữa các dân tộc.
Thứ ba, cụ thể hơn nữa, phải có những con người - chủ nhân đứng
trên mảnh đất này, nên “nước” còn bao gồm những con người, người dân…,
nhân dân, cái mà ở nước Việt Nam gọi là đồng bào, con người nắm chủ
quyền trên lãnh thổ của mình.
Thứ tư, từ con người hình thành nên gia đình, xã hội với những thiết
chế chính trị của mình, bởi vậy, “nước” còn bao gồm cả làng, xã, quê hương,
quốc gia, Tổ quốc, các tầng lớp, giai cấp với những chế độ chính trị xã hội
nhất định trong mỗi thời kỳ.
Thứ năm, một trong những yếu tố không thể thiếu để tạo nên một
diện mạo đất nước, đó là văn hóa, bởi vậy, “nước” còn bao gồm cả những
phong tục tập quán, truyền thống, lịch sử…

12
Năm yếu tố trên liên hệ mật thiết với nhau, nếu thiếu một trong năm
yếu tố thì khó có thể gọi là “nước” [27, tr.10].
Như vậy, “nước” bao gồm tổng hòa những yếu tố đất nước, dân tộc,
con người, nhân dân, quê hương, quốc gia, Tổ quốc, văn hóa (ngôn ngữ,
phong tục, tập quán, lịch sử, truyền thống).
* Yêu nước
Nếu nước là tổng hòa các mối quan hệ về dân tộc, con người, quê hương,
Tổ quốc… luôn gắn tình yêu của mỗi con người với quê hương, Tổ quốc, thì “yêu
nước” theo V.I.Lênin là “một trong những tình cảm sâu sắc nhất được củng cố
qua hàng trăm năm, hàng nghìn năm tồn tại của các Tổ quốc biệt lập” [80, tr.226].
Như vậy, yêu nước mang tính phổ biến của nhân dân các quốc gia, các dân tộc

trên thế giới. Yêu nước là tình cảm yêu quý, gắn bó, tự hào về quê hương, đất
nước và tinh thần sẵn sàng đem hết tài năng, trí tuệ của mình phục vụ lợi ích của
Tổ quốc, biểu hiện cụ thể là: Tình cảm gắn bó với quê hương đất nước; tình
thương yêu đối với đồng bào, giống nòi, dân tộc; niềm tự hào dân tộc chính đáng;
đoàn kết, kiên cường, bất khuất chống giặc ngoại xâm, để bảo vệ chủ quyền dân
tộc và nền độc lập tự do của Tổ quốc; cần cù và sáng tạo trong lao động để xây
dựng, phát triển nền văn hóa dân tộc và xây dựng đất nước ngày càng giàu đẹp.
Với ý nghĩa đó, ở Việt Nam, nói đến yêu nước đồng nghĩa với yêu tổng
hòa những yếu tố nói trên, hòa thành một khối thống nhất: “Yêu nước là yêu
non sông; yêu con người, dân tộc, nhân dân, đồng bào; yêu quê hương, Tổ
quốc; yêu những truyền thống quý giá của cha ông. Yêu nước không chỉ trên
lời nói mà phải bằng hành động để bảo vệ, phát huy, phát triển chúng lên
thành một tầm cao mới, không chỉ bằng tình cảm nồng nàn mà còn bằng lý trí
sáng suốt trong bảo vệ và phát triển giá trị, tình cảm yêu nước” [27, tr.13].
* Chủ nghĩa yêu nước
Cao hơn khái niệm “nước” và “yêu nước”, đó là “chủ nghĩa yêu nước”.
Từ điển Tiếng Việt giải thích: “Chủ nghĩa yêu nước là lòng yêu tha thiết đối với
Tổ quốc của mình thường được biểu hiện ở tinh thần sẵn sàng hy sinh vì Tổ

13
quốc” [77, tr.241]. Cách giải nghĩa này mới chỉ đề cập đến khía cạnh tình cảm.
Còn trong Từ điển Triết học: “Chủ nghĩa yêu nước” là nguyên tắc đạo đức và
chính trị, một tình cảm xã hội mà nội dung là tình yêu và lòng trung thành đối
với Tổ quốc, là lòng tự hào về quá khứ và hiện tại của Tổ quốc, ý chí bảo vệ
những lợi ích của Tổ quốc [74, tr.172]. Cách giải thích này có sự tương đồng với
khái niệm Từ điển Bách khoa Việt Nam nêu: “Chủ nghĩa yêu nước là nguyên tắc
đạo đức và chính trị mà nội dung là tình yêu, lòng trung thành, ý thức phục vụ
Tổ quốc… cùng với sự hình thành dân tộc và nhà nước, chủ nghĩa yêu nước từ
chỗ chủ yếu là một trong những tâm lý xã hội, đã trở thành hệ tư tưởng. Nó trở
thành lực lượng tinh thần vô cùng mạnh mẽ, động viên mọi người đứng lên bảo

vệ Tổ quốc chống lại mọi cuộc xâm lược. Chủ nghĩa yêu nước chân chính thể
hiện lòng trung thành với Tổ quốc vì lợi ích của dân tộc, của nhân dân, bảo vệ sự
sinh tồn của dân tộc và đấu tranh cho sự phồn vinh của đất nước” [28, tr.518].
Như vậy cũng có thể hiểu: “Chủ nghĩa yêu nước là sự phát triển đến
đỉnh cao của lòng yêu nước, là sự kết hợp chặt chẽ giữa tình cảm yêu nước
nhiệt thành và một hệ thống các tư tưởng về tình yêu, lòng trung thành với Tổ
quốc, ý thức phục vụ Tổ quốc [57, tr.21].
Những nội dung nêu trên cho thấy, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam lấy
đạo lý (đạo nghĩa) yêu nước làm đầu (chủ yếu, cốt yếu, chính yếu, trụ cột).
Đối với nhân dân Việt Nam, nó thể hiện ở tinh thần và hành động sẵn sàng
hy sinh vì nước, vì dân tộc, giống nòi, bảo vệ đất nước… chủ nghĩa yêu
nước đích thực là đạo Việt Nam [20, tr.101].
1.1.2. Chủ nghĩa yêu nước truyền thống
Chủ nghĩa yêu nước truyền thống là sản phẩm tinh thần cao quý nhất
của dân tộc Việt Nam, là tư tưởng và tình cảm thiêng liêng, giữ vị trí chuẩn
mực cao nhất của đạo lý và đứng đầu bậc thang giá trị của dân tộc. Nhưng
một trong những đặc trưng nổi bật nhất của lòng yêu nước mang bản sắc
Việt Nam chính là yêu nước gắn liền với yêu hòa bình, hòa hiếu. Chỉ đến khi

14
kẻ thù hung bạo quyết phá vỡ nền hòa bình, hòa hiếu ấy thì cả dân tộc mới
buộc phải đứng lên đấu tranh để bảo vệ giang sơn của mình. Tinh thần đó đã
phát huy sức mạnh trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm và là mẫu số
chung, là lực nội sinh của cộng đồng dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ đất nước. Chủ nghĩa yêu nước truyền thống trong lịch sử của dân tộc Việt
Nam thể hiện ở một số nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, chủ nghĩa yêu nước truyền thống được hun đúc trong quá
trình dựng nước và giữ nước của dân tộc ta qua hàng nghìn năm lịch sử.
Theo đó, dựng nước là quá trình xác lập địa bàn lãnh thổ, tổ chức các
hình thức chính trị, kinh tế - xã hội, là xây dựng văn hóa, phong tục, lối sống,

tôn giáo, đạo đức, khoa học - kỹ thuật, để đảm bảo sự sinh tồn, phát triển của
cộng đồng… mà mục đích cuối cùng là làm cho đất nước cường thịnh, nhân
dân hạnh phúc. Còn giữ nước là sự đảm bảo toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, Tổ
quốc không bị xâm lăng, nhân dân được hưởng thái bình; là tổ chức, chiến
đấu đánh đuổi kẻ thù xâm lược đất nước, giành lại độc lập, tự do cho nước,
cho dân; là xây dựng và phát triển đất nước.
Thứ hai, đó là tình yêu quê hương, đất nước và sự gắn kết cộng đồng.
Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam với nền văn minh
lúa nước, lấy nhà (gia đình) làm đơn vị kinh tế và làng làm cộng đồng cơ sở.
Làng được coi là tập hợp của nhiều làng và vùng liên làng. Nước gắn liền với
làng và nhà. Việc nhà, việc làng, việc nước là công việc chung của mọi người.
Do vậy, con người Việt Nam từ cổ xưa đã sẵn có truyền thống yêu nước gắn
liền với yêu nhà và yêu làng. Nước hay quốc gia, dân tộc là một cộng đồng gắn
bó với nhau trong lịch sử, trong cuộc sống và vận mạng chung. Truyền thuyết
Lạc Long Quân và Âu Cơ, Thánh Gióng… cùng với những câu ca dao “Nhiễu
điều phủ lấy giá gương; Người trong một nước phải thương nhau cùng” và
“Bầu ơi thương lấy bí cùng; Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”… in
sâu trong trái tim và tâm hồn mỗi người dân đất Việt, đã nói lên truyền thống
gắn bó và cố kết cộng đồng của con người Việt Nam.

15
Thứ ba, là sự khẳng định chủ quyền quốc gia, lãnh thổ.
Lãnh thổ Việt Nam là nơi con người Việt Nam sinh sống, do bàn tay
khối óc của bao thế hệ người Việt Nam tạo dựng nên. Mọi thế lực ngoại bang
đến xâm lược đều bị chống trả quyết liệt. Trong hơn 900 năm (938-1858), dân
tộc Việt Nam đã chiến đấu không ngừng nghỉ nhằm bảo vệ chủ quyền, chống
lại sự xâm lăng của ngoại bang. Chủ nghĩa yêu nước trong mỗi người dân
Việt Nam được khơi dậy và phát huy, trở thành lực lượng vật chất to lớn, góp
phần đánh tan các đội quân xâm lược to lớn từ phương Bắc, bảo vệ được nền
độc lập dân tộc. Từ trong đấu tranh giữ nước và xây dựng đất nước, nhân dân

ta thấy rõ rằng, chỉ có đoàn kết và gắn bó thành một khối thống nhất dưới một
sự chỉ huy chung mới đánh bại được kẻ thù, giữ vững độc lập và xây dựng xã
hội phồn vinh. Đó là bài học sâu sắc của lịch sử. Có thể nói, đây là giai đoạn
chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam phát triển mạnh mẽ. Ở thế kỷ XI,
biểu hiện sinh động của chủ nghĩa yêu nước là lời tuyên bố “Nam quốc sơn
hà, Nam đế cư” (Lý Thường Kiệt), và đến đầu thế kỷ XV, đó lại chính là lời
khẳng định nguyên lý ngang hàng với phương Bắc về văn hiến, lãnh thổ,
phong tục, lịch sử, nhân tài…trong Bình Ngô Đại cáo của Nguyễn Trãi:
“Xét như nước Đại Việt ta,
Thật là một nước văn hiến,
Bờ cõi sông núi đã riêng,
Phong tục Bắc Nam cũng khác,
Trải Triệu, Đinh, Lý, Trần nối đời dựng nước,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên đều chủ một phương,
Tuy từng lúc mạnh yếu khác nhau,
Mà hào kiệt không bao giờ thiếu” [69, tr.63].
Không chỉ có vậy, lời Quang Trung khích lệ tướng sĩ ở Tam Điệp
trước khi tiến công tiêu diệt quân Thanh cũng thể hiện rõ tinh thần và lòng
yêu nước của nhân dân ta thời kỳ đó:
“Đánh cho để dài tóc,
Đánh cho để đen răng,

16
Đánh cho nó chích luân bất phản,
Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn,
Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ” [37, tr.353].
Thứ tư, là thái độ kiên cường bất khuất trước kẻ thù.
Cùng đó, tiếng thét hiên ngang “Ta thà làm ma nước Nam còn hơn làm
vương đất Bắc” của Trần Bình Trọng (thế kỷ XIII) trước quân Nguyên; câu
nói nổi tiếng “đầu có thể chặt nhưng tóc không thể cắt” của Lê Quýnh (thế kỷ

thứ XVIII) trước quân Thanh; đó là Yết Kiêu một mình cắm thuyền đợi chủ
tướng Trần Hưng Đạo mặc dù quân giặc đã đuổi đến nơi; là Lê Lai liều mình
cứu chủ soái Lê Lợi và biết bao những anh hùng đã hi sinh tính mạng cá nhân,
vì nghĩa lớn của dân tộc đã không chỉ là tình cảm, bổn phận và trách nhiệm
của mỗi con người Việt Nam trước vận mệnh dân tộc, mà còn là hành động xả
thân vì nghĩa lớn. Chính lòng yêu nước của mỗi người dân Việt Nam, tinh
thần yêu nước của dân tộc trong cuộc chiến đấu chống ngoại xâm là lời đáp
cho những thắng lợi của quân dân ta trong tình thế so sánh lực lượng vô cùng
chênh lệch.
Thứ năm, đó là đường lối chính trị thân dân, hướng vào dân, lấy dân làm gốc.
Yêu nước, thương dân là nét đặc sắc của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam
truyền thống. Trước họa xâm lăng, yêu nước là giành độc lập cho nước và cứu
dân thoát khỏi lầm than, cơ cực. Khi đất nước thanh bình, yêu nước được thể
hiện trong đường lối chính trị “thân dân” của các triều đại từ Khúc Hạo đến
Ngô Quyền trở về sau. Với Khúc Hạo, việc phục vụ, chăm lo sao cho dân có
được đời sống yên vui là đường lối chính trị có mục đích cao đẹp, đúng đắn
hợp lòng dân; với Hưng Đạo Vương - Trần Quốc Tuấn, thì “khoan thư sức
dân để làm kế sâu rễ, đó là thượng sách giữ nước”; với “Đại Cáo Bình Ngô”
của Nguyễn Trãi, thì “việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”, “lấy đại nghĩa để thắng
hung tàn”, “lấy khoan hồng để bụng hiếu sinh”, “lấy toàn dân, cốt cho dân
được yên nghỉ”…

17
Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam. Sự thống trị của chủ
nghĩa thực dân Pháp với chính sách cai trị hà khắc về chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội đã dẫn đến sự phân hóa giai cấp và các tầng lớp khác trong xã hội.
Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam tiếp tục được thử thách và trải nghiệm thông
qua những phong trào đấu tranh yêu nước. Đó là, phong trào Cần Vương với
mục tiêu “phò vua, cứu nước”, đánh đuổi ngoại xâm, khôi phục chế độ cũ,
song đã thất bại, bởi chế độ phong kiến đã suy tàn, lỗi thời về mặt lịch sử.

Con đường “Đông Du” dựa vào Nhật đánh Pháp của Phan Bội Châu, cũng
không giải phóng được dân tộc, vì đó chẳng khác gì “đưa hổ cửa trước, rước
beo cửa sau”. Con đường giành độc lập cho dân tộc theo xu hướng cải lương
của Phan Châu Trinh (dựa vào Pháp đánh đổ nền quân chủ, xây dựng nền dân
chủ) chẳng khác gì “đến xin giặc rủ lòng thương” cũng không thu được kết
quả. Con đường cứu nước có ý thức tư sản rõ rệt theo Việt Nam Quốc dân
Đảng của Nguyễn Thái Học không triệt để, không chú ý xây dựng lực lượng
cách mạng trong quần chúng, tổ chức thiếu chặt chẽ, hoạt động theo phương
châm “không thành công cũng thành nhân” đã thất bại. Cuộc khởi nghĩa nông
dân Yên Thế của người anh hùng Hoàng Hoa Thám kéo dài trong vòng 30
năm, mang tính tự phát, tính thiếu triệt để, chưa thoát khỏi sự chật hẹp của
một cuộc khởi nghĩa phong kiến, chỉ giới hạn trong phạm vi địa phương, chưa
phát động được lòng yêu nước và sức ủng hộ nhiệt liệt của nhân dân cả nước
cũng bị dìm trong tan tác… Sau này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định
rằng: phong trào khởi nghĩa Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo mang
“cốt cách phong kiến” và chính vì hạn chế ấy, đặt trong bối cảnh Việt Nam
lúc đó, phong trào khởi nghĩa không thể không thất bại trước sức tấn công
dồn dập và ác liệt của kẻ thù là thực dân Pháp đang ở trong thế áp đảo.
Những minh chứng nêu trên cho thấy, cho đến trước khi Đảng Cộng sản
Việt Nam ra đời, cha ông ta đã phát huy cao độ tinh thần yêu nước, ý thức dân

18
tộc và chủ nghĩa yêu nước truyền thống, đấu tranh bảo vệ giang sơn, xây dựng
và phát triển đất nước. Chúng ta có quyền tự hào về di sản tư tưởng của dân tộc
ta, trong đó có chủ nghĩa yêu nước truyền thống. Song, những minh chứng ấy,
nhất là các phong trào đấu tranh yêu nước chống Pháp những năm cuối thế kỷ
XIX đầu thế kỷ XX cũng cho thấy rằng, các phong trào đấu tranh yêu nước của
nhân dân ta tuy có khác nhau về hình thức, mức độ chống thực dân Pháp, nhưng
cũng không thoát khỏi những sai lầm, hạn chế cơ bản, đó là: (1) Không nhận
thức rõ kẻ thù dân tộc là chủ nghĩa thực dân, bản chất thời đại quốc tế là chủ

nghĩa tư bản và những đặc trưng của nó. (2) Khi thời đại thay đổi nhưng mục
tiêu cách mạng vẫn hướng theo con đường cách mạng dân chủ tư sản kiểu
phương Tây, không đáp ứng được lợi ích căn bản và nguyện vọng của quần
chúng nhân dân. (3) Không nhận thức rõ được lực lượng và động lực cách mạng
đông đảo nhất là công nhân, nông dân…do đó, phong trào không lôi cuốn, phát
huy được sức mạnh của lực lượng cơ bản này.
Diễn ra rất sôi nổi, nhiệt huyết, các phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX,
đầu thế kỷ XX chứng tỏ tinh thần yêu nước mãnh liệt và khát khao giải phóng dân
tộc của nhân dân Việt Nam đã được khơi dậy, phát huy, song vì thiếu một đường
lối cách mạng đúng đắn, cho nên các phong trào đó thất bại. Sự xuất hiện của
Nguyễn Ái Quốc, việc Người đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, lựa chọn con đường
giải phóng dân tộc theo quỹ đạo cách mạng vô sản đã đưa lịch sử dân tộc, chủ
nghĩa yêu nước truyền thống bước sang một trang mới.
1.2. Một số nội dung cơ bản của tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa yêu nƣớc
1.2.1. Quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa yêu nước
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa yêu nước bắt nguồn từ lòng yêu
nước, tinh thần cần cù lao động, anh dũng chiến đấu trong dựng nước và giữ
nước, truyền thống đoàn kết, sống có tình, có nghĩa, nhân ái Việt Nam, trong đó
chủ nghĩa yêu nước truyền thống là dòng chủ lưu. Đó là mỗi khi Tổ quốc bị xâm

19
lăng, tinh thần yêu nước của mỗi người dân việt Nam lại sôi nổi, nó kết thành
một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, “nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó
khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước” [47, tr.171].
Mang trong mình truyền thống nồng nàn yêu nước của người dân Việt
Nam, khát khao muốn tìm con đường giải phóng đất nước khỏi ách thống trị của
ngoại xâm, người thanh niên Nguyễn Tất Thành đã rời Tổ quốc, bôn ba tìm
đường cứu nước. Mối quan tâm đầu tiên và chủ yếu của Hồ Chí Minh khi ra đi
tìm đường cứu nước cũng như trong suốt quá trình hoạt động về sau này
chính là “độc lập cho Tổ quốc tôi, tự do, hạnh phúc cho đồng bào tôi, đó là tất

cả những điều tôi hiểu, đó là tất cả những điều tôi muốn” như Người từng nói.
Trong những năm tháng gian nan ấy, lòng yêu nước chi phối suy nghĩ, hành
động của Người, giúp Người vượt qua mọi khó khăn, đồng thời là cơ sở tư
tưởng dẫn Người đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Sau này, Hồ Chí Minh khẳng
định: “Lúc đầu, chính chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải là chủ nghĩa cộng sản
đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba” [51, tr.128].
Với Hồ Chí Minh, tư tưởng yêu nước sớm được hình thành không phải là
một ý niệm mơ hồ, trừu tượng, mà bắt nguồn từ tình thương yêu nhân dân sâu
sắc, niềm tự hào về truyền thống yêu nước, quật cường của dân tộc. Ở Người,
yêu nước gắn liền với thương dân, nghĩa nước gắn chặt với tình dân, tình dân là
cái gốc của nghĩa nước. Ở Người, trung với nước, hiếu với dân, là hai mặt không
thể tách rời nhau. Người không chỉ thông cảm sâu sắc với đời sống lầm than,
khổ cực của quần chúng nhân dân trên đất nước mình mà là tất cả những người
nghèo khổ, những người lao động bị bóc lột ở tất cả những nơi mà Người đã đi
qua: “Chính do sự cảm thông, yêu thương những người cùng khổ và lòng căm
ghét bọn tư bản, đế quốc, thực dân mà tình cảm và ý thức giai cấp ở Người từng
bước được nảy nở. Người đau xót trước nỗi thống khổ của nhân dân lao động
trên khắp thế giới, kể cả nhân dân lao động Pháp” [73, tr.48]. Người đau nỗi đau
của họ, đứng về phía họ, tìm cách giúp họ thoát khỏi bị bóc lột, thoát khỏi nghèo
nàn, lạc hậu và mọi nỗi khổ đau do chủ nghĩa thực dân, đế quốc gây nên. Tinh

×