Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG VÀ KIẾN THỨC-THÁI ĐỘ -THỰC HÀNH VỀ BỆNH RĂNG MIỆNG CỦA HỌC SINH TIỂU HỌC TẠI HUYỆN VĂN CHẤN -TỈNH YÊN BÁI NĂM 2009

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (971.72 KB, 85 trang )


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC Y DƢỢC






NGUYỄN NGỌC NGHĨA




NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG
VÀ KIẾN THỨC-THÁI ĐỘ -THỰC HÀNH VỀ
BỆNH RĂNG MIỆNG CỦA HỌC SINH TIỂU HỌC
TẠI HUYỆN VĂN CHẤN -TỈNH YÊN BÁI NĂM 2009



LUẬN VĂN THẠC SỸ Y HỌC










Thái nguyên – Năm 2009


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC Y DƢỢC





NGUYỄN NGỌC NGHĨA



NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG
VÀ KIẾN THỨC-THÁI ĐỘ -THỰC HÀNH VỀ
BỆNH RĂNG MIỆNG CỦA HỌC SINH TIỂU HỌC
TẠI HUYỆN VĂN CHẤN -TỈNH YÊN BÁI NĂM 2009


LUẬN VĂN THẠC SỸ Y HỌC
Chuyên ngành Y học dự phòng

M· sè: 60 72 73






Hƣớng dẫn khoa học : TS ĐÀO THỊ NGỌC LAN





Thái Nguyên, 11 - 2009


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3

Lêi c¶m ¬n


Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới Đảng uỷ, Ban giám hiệu, khoa
đào tạo sau đại học, phòng đào tạo – khoa học – quan hệ quốc tế, Bộ môn Vệ
sinh - Môi trường - Dịch tễ học trường Đại học Y Dược Thái Nguyên, đã tạo
điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập, tiến hành nghiên cứu và
hoàn thành luận văn.
Để hoàn thành nghiên cứu này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới
Tiến sĩ Đào Thị Ngọc Lan, PGS-TS Nguyễn Văn Tư đã giành nhiều thời gian
chỉ bảo, giúp đỡ và tận tình hướng dẫn tôi trong quá trình tiến hành và hoàn

thiện đề tài nghiên cứu .
Tôi xin trân trọng cảm ơn tới:
Lãnh đạo sở Y tế tỉnh Yên Bái, Trung tâm Y tế huyện Văn Chấn đã tạo
mọi điều kiện thuận lợi giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Ban giám hiệu, các thầy cô giáo trường tiểu học Nghĩa Lộ và Nậm Búng
và các đồng chí lãnh đạo địa phương tại 2 nơi tôi đã tiến hành nghiên cứu này.
Các anh, chị và các bạn đồng nghiệp đã giúp đỡ, động viên cũng như
chia sẻ những khó khăn, vướng mắc cùng tôi đồng hành trong suốt quá trình
học tập và nghiên cứu để hoàn thành bản luận văn này./.

Ngày 28 tháng 10 năm 2009
Tác giả


Nguyễn Ngọc Nghĩa




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa i
Lời cảm ơn ii
Mục lục iii
Các chữ viết tắt iv
Danh mục các bảng, biểu đồ, ảnh chụp. v

Đặt vấn đề ......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: Tổng quan .................................................................................... 3


1.1 Bệnh RM vấn đề sức khoẻ toàn cầu ............................................................ 3
1.1.1 Tình hình bệnh răng miệng thế giới ………………………………….3
1.1.2. Tình hình bệnh răng miệng tại Việt Nam ……………………….......8
1.2. Tình hình phòng bệnh RM và dự phòng biến chứng bệnh SR .................. 10
1.2.1. Tình hình phòng bệnh RM trên thế giới ……………………………..10
1.2.2. Tình hình phòng bệnh RM tại Việt Nam……………………………..13
1.2.3. Dự phòng biến chứng bệnh sâu răng …...............................................14
1.3. Vai trò, chức năng và sự cần thiết phải triển khai CT NHĐ ........................17
Chƣơng 2: Đối tƣợng và phƣơng pháp nghiên cứu .................................... 28
2.1. Đối tượng, địa điểm và thời gian nghiên cứu ........................................... 28
2.2. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................... 28
2.3. Các chỉ tiêu nghiên cứu ............................................................................ 29
2.4. Phương pháp thu thập thông tin .............................................................. 31
2.5. Phương pháp khống chế sai số ................................................................ 31
2.6. Các vấn đề đạo đức trong nghiên cứu ..................................................... 31
2.7. Phương pháp xử lý số liệu ....................................................................... 32
Chƣơng 3: Kết quả nghiên cứu .................................................................... 33

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5

3.1. Một số đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu ............................................... 33
3.2. Tình hình bệnh lý răng miệng của học sinh .............................................. 35
3.3. Đánh giá về kiến thức, thái độ, thực hành của học sinh về CSRM ............ 39
3.4. Một số yếu tố liên quan đến bệnh răng miệng ............................................44
Chƣơng 4: Bàn luận ...................................................................................... 48

4.1. Tình hình thực trạng bệnh lý RM, của HS trường tiểu học ……........…………....48
4.2. Thực trạng về kiến thức, thái độ và thực hành của HS ............................. 54
4.3.Các yếu tố liên quan đến bệnh răng miệng ................................................ 59
KẾT LUẬN ............................................................................................ 65
KHUYẾN NGHỊ ..................................................................................... 67
TÀI LIỆU THAM KHẢO
BÀI BÁO KHOA HỌC
PHỤ LỤC

















Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6

DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ


Nội dung Trang

Bảng 1.1: Phân bố đối tượng nghiên cứu theo lớp, địa điểm. 35
Bảng 1.2: Phân bố đối tượng nghiên cứu theo tuổi , địa điểm ............................. 35
Bảng 1.3: Phân bố đối tượng nghiên cứu theo lớp, giới ..................................... 36
Bảng 1.4: Đối tượng nghiên cứu phân bố theo dân tộc. ...................................... 36
Bảng 1.5: Đối tượng phân bố theo nghề nghiệp hiện tại của bố mẹ .................... 37

Bảng 2.6: Tỷ lệ bệnh sâu răng giữa 2 trường .................................................... 37
Bảng 2.7: Tỷ lệ bệnh viêm lợi giữa 2 trường.................................................... 37
Bảng 2.8: Phân bố tỷ lệ bệnh răng miệng theo tuổi …………….……......…….38
Bảng 2.9: Phân bố tỷ lệ răng miệng theo giới..................................................39
Bảng 2.10: Phân bố tỷ lệ bệnh theo răng sữa và răng vĩnh viễn ........................ 39
Bảng 2.11: Chỉ số sâu mất trám và cơ cấu sâu mất trám răng…………....……40
Bảng 2.12: Phân tích tình trạng tổn thương bệnh lý răng sâu .............................. 40
Bảng 3.13: Mức độ kiến thức chung của học sinh về bệnh răng miệng ............... 41
Bảng 3.14. Kiến thức của học sinh về bệnh răng.............................................. 41
Bảng 3.15. Mức độ thái độ chung của học sinh về bệnh răng miệng …………..42
Bảng 3.16. Thái độ của học sinh về phòng bệnh răng miệng………….. ……… .42
Bảng 3.17. Mức độ thực hành chung về vệ sinh răng miệng ............................... 43
Bảng 3.18. Thực hành về vệ sinh răng miệng sau ăn, số lần chải răng ................ 44
Bảng 3.19. Thực hành chải răng hằng ngày, thói quen ăn vặt ............................ 45
Bảng 3.20. Thói quen ăn vặt của học sinh theo địa phương ............................. 46

Bảng 4.21. Liên quan giữa kiến thức với bệnh răng miệng ................................ 46
Bảng 4.22. Liên quan giữa thái độ với bệnh răng miệng ................................... 47
Bảng 4.23. Liên quan giữa thái độ với bệnh sâu răng ......................................... 47
Bảng 4.24. Liên quan giữa thực hành vệ sinh răng miệng với BRM ................... 47
Bảng 4.25. Liên quan giữa thói quen ăn vặt với bệnh răng miệng ...................... 47
Bảng 4.26. Liên quan giữa thực hành chải răng với bệnh sâu răng ...................... 48


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7

Bảng 4.27. Liên quan giữa chăm sóc sức khoẻ răng miệng với BRM ................. 48
Biểu đồ 3.1. Tỷ lệ phân bố theo dân tộc ............................................................36
Biểu đồ 3.2. Tỷ lệ bệnh răng miệng của học sinh….....................................…….38
Biểu đồ 3.3. Tỷ lệ sâu răng sữa và răng vĩnh viễn .............................................. 39
Biểu đồ 3.4. Tỷ lệ về phương pháp thực hành VSRM.........................................43
Biểu đồ 3.5. Tỷ lệ về thói quen ăn vặt của học sinh ...........…………………….46


























Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8


NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT


ART Atraumatic Restorative Treatment (Trám răng không sang chấn)
BRM Bệnh răng miệng
CT NHĐ: Chương trình Nha học đường
CPITN Community periodental index of treatment need (Chỉ số nhu cầu
điều trị viêm quanh răng cộng đồng)
CSRM Chăm sóc răng miệng
HS Học sinh
NHĐ Nha học đường
PHHS Phụ huynh học sinh
RM Răng miệng
RHM Răng hàm mặt
SR Sâu răng
smt Sâu mất trám răng sữa
SMT Sâu mất trám răng vĩnh viễn
VQR Viêm quanh răng
VV Vĩnh viễn
WHO Tổ chức Y tế thế giới ( World Health Organization )
YTHĐ Y tế học đường









ĐẶT VẤN ĐỀ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9


Bệnh răng miệng (BRM) là bệnh phổ biến, gặp ở sấp sỉ 90% dân số trên
thế giới, ở mọi lứa tuổi, mọi tầng lớp xã hội. BRM hay gặp nhất là bệnh sâu răng
và viêm lợi, bệnh mắc rất sớm, ngay từ khi trẻ 2 tuổi, nếu không được điều trị,
bệnh sẽ tiến triển gây biến chứng tại chỗ và toàn thân, ảnh hưởng đến sự phát
triển thể lực và thẩm mỹ của trẻ sau này. Do tính chất phổ biến, tỷ lệ mắc cao
trong cộng đồng nên điều trị BRM tốn kém cho cá nhân và xã hội cả về kinh phí
cũng như thời gian. Điều quan trọng là đòi hỏi phải có màng lưới phòng khám
nha khoa rộng khắp với dụng cụ trang bị đắt tiền, cùng đội ngũ thầy thuốc chuyên
khoa đông đảo. Chính vì vậy từ lâu BRM đã được Tổ chức Y tế thế giới (WHO)
và nhiều quốc gia trên thế giới đặc biệt quan tâm [26], [38].
Phòng bệnh răng miệng là quá trình tương đối đơn giản, không phức tạp,
không đòi hỏi trang thiết bị đắt tiền, không đòi hỏi cán bộ kỹ thuật chuyên môn
cao, chi phí thấp, dễ thực hiện tại cộng đồng, đặc biệt tại các trường học đã đem
lại hiệu quả cao. Do đó phòng bệnh răng miệng sớm ngay ở lứa tuổi học sinh là
chiến lược khả thi nhất đã được WHO khuyến cáo triển khai. Chương trình chăm
sóc răng miệng (CSRM) tại trường học đã được quan tâm và thực hiện ở hầu hết

các nước trên thế giới và trong khu vực từ nhiều thập kỷ nay. Tại hội nghị về Nha
khoa phòng ngừa tổ chức tại Thái Lan năm 1998, WHO đã khuyến cáo nên áp
dụng kỹ thuật trám răng không sang chấn (Atraumatic Restorative Treatment
Technique - ART) là một kỹ thuật đơn giản, dễ phổ cập, như là chiến lược toàn
cầu để dự phòng bệnh sâu răng (SR) ở giai đoạn sớm cho học sinh tại các trường
học để hạ thấp tỷ lệ biến chứng do bệnh gây ra [6], [39] .
Tại Việt Nam đã có trên 80% dân số mắc bệnh răng miệng, trong khi mạng
lưới RHM chưa đáp ứng được nhu cầu chăm sóc của nhân dân. Vì vậy hiện nay
phòng bệnh răng miệng là công tác trọng tâm của ngành Răng Hàm Mặt. Tổ chức
và phát triển Nha học đường (NHĐ) là biện pháp phòng và làm giảm dần bệnh
răng miệng cho lứa tuổi trẻ em ở trường học [ 14], [ 15].
Chương trình Nha học đường đã triển khai rộng khắp đến 63 tỉnh, thành
phố trong cả nước nhưng tỷ lệ bệnh răng miệng ở tuổi học sinh vẫn còn cao.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10

Các nghiên cứu can thiệp đều cho thấy nếu làm tốt công tác NHĐ thì tỷ lệ
bệnh răng miệng sẽ giảm. Việc đẩy mạnh công tác phòng bệnh RM đặc biệt là
chương trình nha học đường là thiết thực cho sức khoẻ học sinh và hữu ích cho
việc tiết kiệm ngân sách quốc gia, giảm gánh nặng cho ngành Y tế và giảm chi
phí cho xã hội góp phần cải thiện sức khoẻ cộng đồng [5], [16].
Văn Chấn là huyện miền núi của tỉnh Yên Bái. Trong những năm qua,
chương trình nha học đường đã được triển khai và thực hiện đến các trường học ở
các xã trong huyện nhằm làm giảm tỷ lệ mắc bệnh răng miệng và nâng cao sức
khỏe cho học sinh tuổi học đường nói riêng và sức khỏe nhân dân trên địa bàn
huyện nói chung. Tuy nhiên việc thực hiện còn gặp nhiều khó khăn về mọi mặt,
công tác tổ chức còn mang tính hình thức và chưa được quan tâm đúng mức, do
đó tỷ lệ bệnh răng miệng của học sinh tại các trường phổ thông còn cao .
Từ những nhu cầu thực tiễn đó chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài : "Nghiên

cứu thực trạng và kiến thức, thái độ, thực hành về bệnh răng miệng của học sinh tiểu
học tại huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái năm 2009 " với các mục tiêu sau:

1. Mô tả thực trạng bệnh răng miệng và kiến thức, thái độ, thực hành của
học sinh trường tiểu học Nghĩa Lộ và Nậm Búng, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái
về chăm sóc sức khoẻ răng miệng..
2. Xác định một số yếu tố liên quan đến bệnh răng miệng của học sinh hai
trường tiểu học.






Chƣơng 1. TỔNG QUAN

1.1. TÌNH HÌNH BỆNH RĂNG MIỆNG - VẤN ĐỀ SỨC KHOẺ TOÀN CẦU
1.1.1- Tình hình bệnh răng miệng trên Thế giới

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11



Răng
Bệnh RM là bệnh thường gặp ở tất cả các nước trên thế giới. Trước đây
bệnh RM rất phổ biến ở những nước phát triển vì chế độ ăn nhiều đường, đạm.
Theo W.R. Hume cuộc cách mạng công nghiệp đã đem lại sự thay đổi dạng thức ăn
truyền thống của phần lớn dân số, sự giàu có và nhàn rỗi của những cộng đồng giàu
có, rồi đến các tầng lớp kinh tế khác có cơ hội và thời gian tiêu thụ đường thường

xuyên hơn, chính điều này đã tạo ra một bệnh dịch mới đó là sâu răng (SR). Những
nước nghèo tỷ lệ sâu răng ngày càng tăng do không được fluor hoá nước uống,
thiếu sự giáo dục nha khoa, chế độ ăn đường không đúng. Những nước giàu tỷ lệ
sâu răng giảm do Nhà nước coi trọng chương trình fluor hoá nước uống, thuốc chải
răng có fluor, trám bít hố rãnh, coi giáo dục nha khoa là quốc sách. Trong vài thập
kỷ gần đây, các nước này đã dành 5 - 11% ngân sách của y tế cho phòng bệnh RM [
6], [ 15], [17]
1.1.1.1 Sâu răng
Sâu răng là một quá trình bệnh lý, xuất hiện sau khi răng đã mọc, tổ chức
cứng của răng bị phá huỷ và tạo thành một hố gọi là lỗ sâu.
Do sâu răng đã xuất hiện từ lâu đời nên đã có rất nhiều tác giả nghiên cứu
nguyên nhân sâu răng.
Trước năm 1970, giải thích bệnh căn sâu răng, người ta chú ý nhiều đến
chất đường và vi khuẩn Streptococcus Mutans và giải thích bệnh căn sâu răng
bằng sơ đồ KEY như sau:





Sơ đồ Key (sơ đồ 1) [48]
Theo sơ đồ Key, việc phòng bệnh sâu răng tập trung vào chế độ ăn hạn chế
đường, tiến hành vệ sinh kỹ răng miệng song kết quả phòng bệnh sâu răng vẫn bị
hạn chế [18]
Vi
khuẩn

Đường

S húa bi Trung tõm Hc liu i hc Thỏi Nguyờn

12

Sau nm 1975 ngi ta lm sỏng t hn cn nguyờn bnh sõu rng v gii
thớch bng s WHITE thay th mt vũng trũn ca s KEY (cht ng)
bng vũng trũn cht nn (Substrate) nhn mnh vai trũ nc bt (cht trung ho -
Buffers) [26] v pH ca dũng chy mụi trng xung quanh rng. Ngi ta cng
thy rừ hn tỏc dng ca Fluor khi gp Hydroxyapatite ca rng kt hp thnh
Fluoroapatit rn chc, chng c s phõn hu ca axớt to thnh thng tn sõu
rng.


















white cycle ( 1975) (sơ đồ 2) [18]

Ngi ta cú th túm lc c ch sinh bnh hc sõu rng bng hai quỏ trỡnh

hu khoỏng v tỏi khoỏng. Mi quỏ trỡnh u do mt s yu t thỳc y. Nu quỏ
trỡnh hu khong ln hn quỏ trỡnh tỏi khoỏng thỡ s xut hin sõu rng:



Sõu rng = Hu khoỏng > Tỏi khoỏng (c ch hoỏ hc v vt lý sinh hc )



Vi khuẩn











N-ớc bọt


Chất nền
Răng



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

13

Các yếu tố gây mất ổn định làm sâu
răng

- Mảng bám : Vi khuẩn (kiểm soát )

- Chế độ ăn đường nhiều lần ( kiểm
soát )
- Thiếu nước bọt hay nước bọt axit
- Axit từ dạ dày tràn lên miệng
pH <3
Các yếu tố bảo vệ chống lại sâu
răng

- Nước bọt (kích thích)
- Khả năng kháng acide của men
- Fluor có ở bề mặt men răng
- Trám bít hố rãnh
- Độ Ca
++
NPO
4
quanh răng
- pH > 5,5


Với những nghiên cứu về căn nguyên của sâu răng, người ta thấy sâu răng
là một bệnh, các lỗ sâu chỉ là dấu hiệu của bệnh đang hoạt động. Theo Peter
Cleaton 98% những nguy cơ chủ yếu gây sâu răng ở trẻ em là do ăn uống thiếu

Fluor, vệ sinh răng miệng kém và ăn chất ngọt (đường) mà không kiểm soát được
[52]. Năm 1995 Hội Nha khoa Hoa Kỳ đã đưa ra khái niệm sâu răng là bệnh
nhiễm trùng với vai trò gây bệnh của vi khuẩn và giải thích nguyên nhân sâu răng
bằng sơ đồ với ba vòng tròn của các yếu tố vật chủ (răng: gồm men răng, ngà
răng, xương răng) môi trường( thức ăn có khả năng lên men chứa carbohydrate)
và tác nhân (vi khuẩn chủ yếu là Streptococcus Mutans và Lactobacillus) như
sau:






Nguyên nhân sâu răng theo Hội Nha khoa Hoa kỳ [18] (sơ đồ 3)
Cũng từ những hiểu biết mới về căn nguyên của sâu răng, người ta cho rằng
bất cứ một phương pháp nào có thể ngăn cản được phản ứng sâu răng theo chiều
từ trái sang phải (mất khoáng) hoặc làm gia tăng chiều từ phải sang trái (tái
M«i
tr-êng

BÖnh


Vật chủ

Tác nhân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14


khoáng) đều có thể được xem là một biện pháp phòng ngừa sâu răng. Có 4 chiến
lược được ghi nhận để thay đổi tốc độ tấn công của sâu răng cho cộng đồng. Đó
là: Vệ sinh răng miệng, chế độ ăn uống có kiểm soát chất đường và tinh bột, trám
bít hỗ rãnh, sử dụng Fluor. Cải thiện vệ sinh răng miệng, thay đổi chế độ ăn uống
sẽ làm giảm lượng mất khoáng, trong khi đó, trám bít hố rãnh có thể ngăn ngừa
được sự tiếp cận của axít phân huỷ từ thức ăn tới răng. Fluor có cả hai tác dụng
làm giảm mất khoáng và làm tăng tái khoáng [18].
Trong những năm từ 1946 đến 1975, ở hầu hết các nước phát triển, chỉ số
sâu mất trám (SMT) của trẻ em lứa tuổi 12 nằm trong khoảng 7,4 - 10,7 có nghĩa
là trung bình mỗi trẻ em sâu từ 7,4 đến 10,7 răng. Từ 1979 đến 1982 chỉ số SMT
của lứa tuổi 12 đã giảm hẳn còn khoảng 1,7 - 3,0 [40]. Ở Singapo năm 1960 trẻ
12 tuổi có chỉ số SMT > 4 và hiện nay còn < 0,5 [57] .
Nghiên cứu tại các trường phổ thông ở Italia cho thấy: ở lứa tuổi 6 tuổi tỷ lệ
sâu răng chiếm 52,9%, lứa tuổi 12 tỷ lệ sâu răng vĩnh viễn chiếm 52% và lứa tuổi
15 có tới 68,8% bị sâu răng vĩnh viễn [53].
Tại Thái Lan, năm 2000 tỷ lệ sâu răng ở tuổi 12 là 58-80% [18], [50] .
Nhìn chung ở các nước này bệnh sâu răng đều có xu hướng tăng rõ rệt. So
với các nước phát triển ở thời điểm những năm 1960 - 1970 tình hình sâu răng ở
các nước đang phát triển ở mức thấp hơn nhiều (SMT lứa tuổi 12 từ 0,2- 2,6)
nhưng tới những năm 1970 trở đi chỉ số này lại tăng lên nhanh (từ 1,0 - 6,3) [36].
1.1.1.2 Viêm lợi
Viêm lợi xuất hiện sớm nhất, chỉ sau 7 ngày có mảng bám vi khuẩn mà
không được lấy đi và chỉ tổn thương duy nhất ở tổ chức lợi. Ở thời kỳ này, bệnh
vẫn còn có thể phục hồi, nhưng nếu không điều trị sẽ dẫn đến tình trạng nặng
hơn. Sự kích thích vi khuẩn ở mảng bám răng là nguyên nhân gây ra viêm lợi.
Khi lợi viêm, sẽ có biến đổi giải phẫu như bờ viền lợi tròn, tấy đỏ và phù nề,
mềm. Nhóm vi khuẩn thường kết hợp với viêm lợi là xoắn khuẩn Actinomyces
(Gram dương, hình sợi) và Eikenella (Gram âm, hình que) [11], [41].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15

Viêm lợi hoại tử loét cấp tính đặc trưng bởi sự hoại tử của gai lợi, chảy
máu tự phát, có mùi hôi. Người ta cho rằng đây là bệnh có liên quan đến stress.
Bệnh này thường có tỷ lệ thấp ở các nước phát triển và cao hơn ở các nước chậm
phát triển và trẻ em nghèo đói. Tuy nhiên, viêm lợi không phải là thể báo trước
của viêm quanh răng. Viêm lợi mạn có thể tồn tại trong một thời gian dài mà
không gây ra viêm quanh răng. Ngược lại có nhiều tác nhân để viêm lợi trở thành
viêm quanh răng, đó là các tác nhân gây bệnh kết hợp với vi khuẩn và phản ứng
bất thường của vật chủ.
- Viêm quanh răng là thời kỳ tiến triển nặng hơn của bệnh quanh răng: lợi,
xương và các tổ chức khác giữ răng sẽ bị phá huỷ. Răng có thể bị rụng hoặc lung
lay hoặc thay đổi vị trí. Ở thời kỳ này đòi hỏi những sự điều trị kết hợp với giữ
cho khỏi mất răng [18].
Theo nghiên cứu của các tác giả ở các nước thuộc châu Âu, châu Mỹ, châu
Á đều cho thấy tỷ lệ trẻ em bị bệnh sâu răng và viêm quanh răng cao ở mức trên
90%. Trẻ em bệnh quanh răng có tỷ lệ mắc cao, có nhiều nơi trên 90% trẻ em
mắc bệnh này. Tuy nhiên bệnh quanh răng ở trẻ em thường được biểu hiện là
viêm lợi, tỷ lệ viêm lợi khác nhau theo tuổi [39], [34].
Bệnh viêm quanh răng liên quan đến tuổi ở thời kỳ răng sữa. Năm 1983
Spencer nghiên cứu 128 trẻ em Úc 5 - 6 tuổi thấy mức độ viêm lợi nhẹ quanh
răng sữa, ít viêm lợi nặng và thấy ít liên quan đến vệ sinh răng miệng.
Theo WHO, năm 1978 bình quân trên thế giới có 80% trẻ em dưới 12 tuổi
và 100% trẻ em 14 tuổi bị viêm lợi mãn. Từ năm 1981-1983 chỉ số CPITN ở tuổi
15 dao động từ 3,0 - 4,0 . Năm 1999 theo Enrique Bimstein tỷ lệ viêm lợi chung
cao nhất ở khoảng 9-14 tuổi, trùng với lứa tuổi dậy thì và trước dậy thì.
Addy đã nghiên cứu trẻ em 11-12 tuổi ở Anh thấy có mối liên hệ rõ giữa chỉ
số mảng bám với chỉ số lợi, đồng thời thấy toàn bộ số trẻ em được khám có viêm
lợi và một vài chỗ chảy máu lợi khi thăm khám. ở Đức năm 1992 tỷ lệ viêm lợi ở
lứa tuổi 12 là 88,3% [49] , [51].

Tại các nước tiên tiến thì tỷ lệ mắc bệnh viêm lợi ở trẻ em rất cao:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16

+ Năm 1981 tại Phần Lan viêm lợi ở trẻ em là:
- Trẻ em 7 tuổi: 95%
- Trẻ em 12 tuổi: 97%
+ Năm 1990 trẻ em bị viêm lợi ở:
TT Tên nƣớc Tỷ lệ %
1 Ấn Độ 90
2 Nigeria 89
3 Mỹ 89
4 Phần Lan 72
5 Thụy Sỹ 97

Theo WHO năm 1997, các nước trong khu vực có trên 80% dân số bị
sâu răng và viêm lợi. Chỉ số SMT lứa tuổi 12 ở mức cao từ 0,7 đến 5,5 ( ở
Trung Quốc là 0,7, ở Lào là 2,4, ở Campuchia là 4,9, ở Philippin là 5,5, Việt
Nam là 0,8) [9], [45], [52].
1.1.2. Tình hình bệnh răng miệng ở Việt Nam
1.1.2.1 Tỷ lệ bệnh răng miệng
Cũng như nhiều nước đang phát triển, bệnh lý RM gặp phổ biến ở nước ta,
nhu cầu cần được chăm sóc và điều trị rất cao. Năm 1991 theo điều tra cơ bản của
Viện RHM, toàn quốc có trên 90% dân số mắc các bệnh về RM.
Năm 2004 Hoàng Tử Hùng đưa ra tỷ lệ sâu răng sữa ở một số tỉnh miền
Nam là 70,49%, ở Thuận Hải là 72,14% .Theo Nguyễn Văn Cát, tại Hà Nội 1983
-1984 có 1,1 triệu người sâu răng, chỉ số SMT 1,4 [13], [22], [11].
Năm 1993 Lê Đình Giáp và cộng sự cho biết 75,85% trẻ 12 tuổi thuộc 4 tỉnh
đồng bằng sông Cửu Long mắc sâu răng vĩnh viễn [36]. Chỉ số SMT tuổi 12 ở trẻ

em Việt Nam năm 1982 là 1,8 [48], [56]. Tỷ lệ bệnh cao răng viêm lợi của học
sinh Long An năm 2001: tuổi 12 là 75,7%; tuổi 15 là 81,4% [1], [20], [22].
Tại Việt Nam cũng đã có nhiều nghiên cứu về bệnh quanh răng và đưa ra
nhận xét bệnh quanh răng là bệnh phổ biến, tỷ lệ mắc cao. Theo điều tra năm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17

1990: trẻ em 12 tuổi ở miền Nam có 6,3% chảy máu lợi, 91,5% có cao răng,
98,33% trẻ em 12 tuổi toàn quốc bị viêm lợi [18], [2].
Năm 1999, Viện Răng- Hàm- Mặt tổ chức điều tra sức khoẻ RM trên quy
mô toàn quốc và cho thấy tỷ lệ có bệnh viêm lợi rất cao: 6-8 tuổi là 50,2% và 15-
17 tuổi là 93,53% [9], [12].
Ngoài ra răng mọc lệch lạc cũng thường gặp ở nước ta, hiện nay cũng được
các bậc phụ huynh quan tâm vì nó không những ảnh hưởng đến tâm lý, chức
năng ăn nhai, thẩm mỹ mà còn tạo điều kiện cho các bệnh RM khác phát triển,
nếu được hướng dẫn nhổ răng đúng lúc, không để mất răng sữa sớm tình trạng
lệch lạc răng cũng sẽ giảm một phần. Năm 1984 theo Nguyễn Văn Cát có 44,84%
người bị lệch lạc răng ở miền Bắc, năm 1999 Hoàng Bạch Dương nghiên cứu
lệch lạc răng - hàm ở trẻ em 12 tuổi ở Hà Nội đưa ra tỷ lệ 91% [31]. Năm 2003
Nguyễn Thị Ngân Hà, Hoàng Tử Hùng nghiên cứu tại Đà Nẵng cho thấy 77,4%
HS có nhu cầu điều trị chỉnh hình răng mặt, có 67,5% PHHS có yêu cầu điều trị
chỉnh hình răng hàm cho con [13].
1.1.2.2. Diễn biễn bệnh răng miệng theo tuổi và thời gian
Theo điều tra của Viện Răng hàm mặt năm 2001, tỷ lệ sâu răng sữa giảm
dần theo tuổi vì ở hai lứa tuổi 6-8 và 9-11 đang là lứa tuổi thay răng nên càng lớn
số răng càng thay nhiều nên tỷ lệ sâu răng cũng như chỉ số smt giảm đi . Ở tuổi
từ 6-8 smt là 5,84 , ở tuổi từ 9-11 là 2,03. Tỷ lệ sâu răng vĩnh viễn và chỉ số
SMT tăng dần theo tuổi vì tuổi càng lớn thời gian phơi nhiễm với tác nhân gây
bệnh càng dài. Sâu răng ở tuổi từ 6-8 là 26%, ở tuổi 15-17 là 68,6%. SMT ở tuổi

từ 6-8 là 0,49, ở tuổi từ 15-17 là 2,45. Năm 2002, Nguyễn Hoàng Anh và Hoàng
Tử Hùng khảo sát tình hình sức khoẻ răng miệng HS tại tỉnh Long An cho thấy
tỷ lệ sâu răng và chỉ số SMT tăng dần theo lứa tuổi [27] .
Trong viêm lợi lứa tuổi dậy thì sự tăng sinh lợi không tương ứng với tình
trạng mảng bám răng và vệ sinh răng miệng của bệnh nhân [18].
Ở tuổi dậy thì, phản ứng tổ chức đối với mảng bám mạnh mẽ hơn, sau tuổi
dậy thì, mức độ nặng của viêm lợi giảm xuống. Năm 1991 theo điều tra cơ bản

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18

toàn quốc của Viện RHM tỷ lệ sâu răng, viêm lợi cũng tăng theo lứa tuổi: 12 tuổi
(SR là 57,3%, viêm lợi là 95%). Bệnh SR và viêm quanh răng tăng theo lứa tuổi
như vậy phù hợp với thời gian phơi nhiễm với các yếu tố nguy cơ càng dài thì tỷ
lệ bệnh càng cao [38], [39].
Từ những năm của thập kỷ 60 đến 90 đã có những nghiên cứu tình trạng sâu
răng ở Việt Nam nói chung và ở trẻ em nói riêng cho thấy tỷ lệ bệnh RM tăng
dần theo lứa tuổi và tăng dần theo thời gian.
Viện Răng Hàm Mặt Hà Nội đã điều tra bệnh răng miệng ở Việt Nam trong
3 năm 2002 - 2005 cho thấy tỷ lệ sâu răng và chỉ số SMT của răng vĩnh viễn cũng
tăng dần theo lứa tuổi [40].
Như vậy có sự phù hợp giữa thời gian phơi nhiễm với các yếu tố nguy cơ
càng dài thì tỷ lệ sâu răng càng cao.
Theo Trần Văn Trường, năm 1999, điều tra sức khoẻ RM trên quy mô toàn
quốc và cho thấy tỷ lệ bệnh quanh răng cũng tăng dần theo thời gian.
Bệnh viêm lợi cũng tăng theo lứa tuổi, 6-8 tuổi là 50,5% , 9-11 tuổi là 81,7
%, như vậy phù hợp với thời gian phơi nhiễm với các yếu tố nguy cơ càng dài thì
tỷ lệ bệnh viêm lợi càng cao [27].
Ở lứa tuổi 12 tỷ lệ sâu răng và chỉ số SMT tăng dần theo thời gian, năm
2001 cao hơn năm 1991, năm 1991 lại cao hơn năm 1983 [2]. Chứng tỏ bệnh

răng miệng đang tăng dần lên ở Việt Nam điều đó cũng phù hợp với nhận xét của
WHO bệnh răng miệng đang tăng dần ở các nước đang phát triển. Hiện nay, đời
sống của nhân dân ngày càng được nâng cao, họ sử dụng nhiều đường, nước
ngọt, công tác phòng bệnh chưa tốt nên tỷ lệ bệnh RM tăng cao [5], [23]
Năm 2003, theo số liệu của sở Y tế Hà Nội tỷ lệ bệnh răng miệng của học
sinh tiểu học, phổ thông cơ sở và phổ thông trung học là 36%, năm 2004 là
36,66%, như vậy, tỷ lệ bệnh răng miệng của học sinh tiểu học, phổ thông cơ sở
và phổ thông trung học vẫn tăng theo thời gian .
1.2. PHÒNG BỆNH RĂNG MIỆNG VÀ DỰ PHÒNG BIẾN CHỨNG BỆNH SÂU RĂNG
1.2.1. Tình hình phòng bệnh răng miệng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
19

1.2.1.1. Trên thế giới
Từ 1908 Liên đoàn Nha khoa Quốc tế (FDI) đã quan tâm đến dự phòng sâu
răng và tìm kiếm các biện pháp phòng ngừa. Tại các hội nghị của FDI năm 1951,
1960 và 1966 đều kết luận việc fluor hoá nước uống là biện pháp phòng bệnh có
hiệu quả và ít tốn kém nhất. Tuy nhiên vào những năm 60 -70 ngành Nha khoa của
hầu hết các nước đều tập trung vào chữa, phục hồi SR và viêm quanh răng, công việc
tốn kém, ít hiệu quả [18].
Theo báo cáo của WHO năm 1978 hàng năm Mỹ tốn 100 triệu giờ công lao
động, 9 tỷ USD cho việc chữa răng, phí tổn điều trị hơn 10 USD cho một răng ở
trẻ em. Chi phí cho điều trị răng một năm ở Anh là 180 triệu bảng Anh, còn ở
Pháp là 8 tỷ france và 25 triệu giờ công lao động [12].
Sau đó các nước phát triển tập trung vào phòng bệnh, coi như một chính
sách lớn của Nhà nước và của ngành Y tế. Kết quả là 20 năm trở lại đây, tỷ lệ sâu
răng ở các nước Bắc Âu, Anh, Mỹ... đã giảm đi một nửa. Đây là một thành tựu
lớn từ đó WHO đã kêu gọi các nước chậm phát triển đẩy mạnh công tác phòng
bệnh RM như các nước phát triển đã làm [5]. Như vậy vai trò của công tác chăm

sóc răng miệng (CSRM) tại cộng đồng rất lớn.
Tại Australia 50% thời gian của bác sỹ nha khoa là làm công tác phòng bệnh
[4]. Kem đánh răng có fluor là biện pháp cá nhân hàng đầu, fluor hoá nước là biện
pháp cộng đồng tốt nhất, có tác dụng ở mọi giai đoạn của sâu răng. Cả hai biện pháp
trên là nguyên nhân chính làm giảm tỷ lệ sâu răng ở Australia [56].
- Năm 1984 WHO đã đưa ra các biện pháp dự phòng sâu răng và viêm
quanh răng như sau :
+ Dự phòng SR: fluor hoá nước uống, đưa fluor vào muối, súc miệng bằng
dung dịch fluor cho trẻ em, dùng kem đánh răng có fluor, trám bít hố rãnh răng,
chế độ ăn dự phòng, hướng dẫn vệ sinh RM, phát hiện sớm và điều trị dự phòng.
+ Dự phòng bệnh quanh răng: Làm sạch mảng bám răng là biện pháp can
thiệp phòng chống bệnh quanh răng. Đánh răng là việc làm quan trọng để làm
sạch mảng bám răng.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
20

Với biện pháp dự phòng SR bằng fluor là làm tăng sức đề kháng của răng
nhờ fluor. Người ta đồng ý là việc sử dụng rộng rãi các dạng fluor đã làm giảm
sâu răng rõ rệt ở Mỹ và nhiều quốc gia khác. Fluor hoá nước uống cộng đồng giữ
vai trò quan trọng do hiệu quả lâm sàng và kinh tế của nó. Các chất bổ xung trong
chế độ ăn và fluor hoá nước uống trong trường học là các hình thức sử dụng fluor
ở những nơi fluor hoá nước uống không thực hiện được. Fluor hoá muối ăn đang
trở nên phổ biến hơn ở một số nước như ở Mỹ, các nước Tâu âu.
Hiện nay fluor được công nhận là có hiệu quả đối với mọi lứa tuổi và ngày
càng trở nên quan trọng trong cộng đồng và đối với các lứa tuổi.
Bệnh sâu răng giảm theo nhiều hướng khác nhau. Nghiên cứu trên trẻ 12
tuổi ở Hà Lan, sự giảm sâu răng được tóm tắt như sau: “Chỉ số SMT/R trung bình
giảm đều đặn từ 8 vào năm 1965 xuống còn 1 vào năm 1993”, cho thấy mức fluor
trong nước là yếu tố chính quyết định tỷ lệ sâu răng [60],[61] .

Những năm 1996 và 1998 chỉ số Sâu-Mất -Trám/mặt răng ở răng vĩnh viễn
(SMT/MR) của trẻ lứa tuổi 12 có điều kiện kinh tế xã hội cao ở Đan Mạch rất
thấp: giữa 0,4 và 0,1. Ở trẻ em có điều kiện kinh tế xã hội thấp, SMT/MR giữa
1,6 và 2,0, nhưng gần đây nhất, năm 2002 chỉ còn 0,6 [46],[51]
Ở Tây Âu thành phần “Trám” nhiều hơn thành phần “Sâu” và “Mất”. Ở các
nước công nghiệp phát triển, với mức sâu răng rất thấp, khó nhận diện được
những thay đổi trong tỷ lệ sâu răng [38].
Nhưng việc sử dụng fluor để phòng SR như thế nào là thích hợp cũng cần
phải đặt ra. Hơn hai thập niên qua, tỷ lệ toàn bộ và tỷ lệ mắc mới bệnh sâu răng
giảm ở các nước phát triển, phần lớn là do sử dụng fluor rộng rãi. Song song với
tỷ lệ sâu răng giảm là tỷ lệ răng nhiễm fluor tăng. Các nghiên cứu về nhiễm fluor
được thực hiện trong những vùng có và không có fluor hoá, đã nhận dạng được 4
yếu tố nguy cơ chính gây nhiễm fluor là: sử dụng nước uống có fluor, viên fluor,
kem đánh răng có fluor, và sữa đóng hộp có fluor trước 8 tuổi .

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
21

Hiện nay, tại Singapore 100% dân số được fluor hoá nước uống và giáo
dục nha khoa, 100% học sinh tiểu học và trung học cơ sở được chăm sóc sức
khoẻ RM thường xuyên tại trường trong chương trình NHĐ [43] .
Từ năm 1950 Trung Quốc đã có hoạt động NHĐ với nội dung giáo dục
chăm sóc sức khoẻ RM, khám và chữa sớm. Năm 1970 thêm một số chương trình
sử dụng fluor. Năm 1980 có dự án về NHĐ tại một số khu vực. Kết quả là sau 5
năm tỷ lệ sâu răng đã giảm 54% ở khu vực này. Năm 1990 NHĐ đã triển khai ở
hầu hết các tỉnh, thành phố. Năm 1988 thành lập Uỷ ban Quốc gia về sức khoẻ
RM, tổ chức chiến dịch truyền thông phòng bệnh trong cả nước với sự tham gia
của hàng ngàn bác sỹ [34].
1.2.1.2. Công tác phòng chống bệnh răng miệng ở Việt Nam
Trong những năm gần đây, ở nước ta do đời sống được nâng cao, người dân

sử dụng nhiều đường, nước ngọt, công tác phòng bệnh chưa tốt nên tỷ lệ bệnh
RM đang tăng cao, do đó làm tốt công tác phòng bệnh để giảm tỷ lệ bệnh RM là
rất cần thiết.
Giáo dục chăm sóc răng miệng mới chỉ được đưa vào chương trình sách
giáo khoa của học sinh tiểu học. Giáo dục chăm sóc sức khoẻ RM chưa được chú
trọng trong toàn dân nên hiểu biết về tự chăm sóc răng miệng, cách đánh răng
đúng, thức ăn nào tốt hoặc có hại cho răng, sự cần thiết phải đi khám răng định
kỳ... của người dân còn hạn chế.
Qua điều tra dịch tễ, dạng bệnh RM nào phổ biến nhất trong cộng đồng,
nguyên nhân gây bệnh, các biện pháp phòng ngừa bệnh đã được công nhận trên
thế giới: loại bỏ mảng bám, giảm lượng axít dính trên răng, làm chắc răng. Các
hành vi tích cực cần có và khả thi để ngừa bệnh là: đánh răng đúng phương pháp,
giảm ăn chất đường, sử dụng fluor, từ bỏ các thói quen hay quan niệm sai nơi
cộng đồng.
Kiến thức, thái độ, thực hành của học sinh rất cần thiết trong phòng tránh
bệnh RM đặc biệt là thực hành CSRM của HS được tác động rất nhiều của hoạt
động NHĐ trong đó quan trọng là các hoạt động giáo dục CSRM để các em thực

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
22

hành tốt, đây là nội dung được các nước trên thế giới cũng như chương trình
NHĐ Việt Nam đặt ưu tiên hàng đầu.
Mặc dù giáo dục chăm sóc RM đã được dưa vào chương trình giáo dục
chính khoá ở bậc tiểu học và chương trình NHĐ đã được triển khai một thời gian
dài, nhưng qua nghiên cứu của các tác giả Ngô Đồng Khanh, Đào Ngọc Lan,
Nguyễn Lê Thanh, Lê thị Kim Oanh đều cho thấy kiến thức, thái độ, thực hành
của HS còn thấp [15].
Giáo dục chăm sóc sức khoẻ là trọng tâm của chương trình chăm sóc sức
khoẻ ban đầu và là biện pháp đầu tiên. Trong bối cảnh đó, giáo dục CSRM không

thể tách rời khỏi giáo dục sức khoẻ chung và là một nội dung quan trọng trong
chương trình chăm sóc sức khoẻ ban đầu.
1.2.2. Dự phòng biến chứng bệnh sâu răng
1.2.2.1. Tiến triển của bệnh sâu răng
Sâu răng được chia làm nhiều mức độ tuỳ theo thời gian tiến triển. Nếu ở mức
độ nhẹ không điều trị sẽ tiến triển thành mức độ tiếp theo nặng hơn từ sâu men thành
sâu ngà, đến viêm tuỷ, tuỷ hoại tử, viêm quanh cuống, viêm xương hàm [5].
- Sâu men: Là giai đoạn đầu tiên, bệnh nhân không đau, nhìn có thể thấy
men răng đổi màu, khi khám bằng thám trâm phát hiện thấy lỗ sâu.
Ở giai đoạn sâu men được phát hiện kịp thời chỉ cần dùng Gel Fluor bôi vào
hoặc thuốc đánh răng (có Fluor) trước khi đi ngủ thì thương tổn có thể hồi phục
được hoăc điều trị bằng phương pháp trám bít lỗ rãnh, ART sẽ ít tốn kém.
- Sâu ngà: Đau khi có kích thích (thức ăn lạnh, chua, ngọt...), hết đau khi
loại bỏ yếu tố kích thích. Khám thấy lỗ sâu, có thể gây đau khi thăm khám.
Kỹ thuật ART cũng chỉ áp dụng được khi lỗ sâu ở giai đoạn sâu ngà, đây là
giai đoạn thích hợp để hàn phòng biến chứng viêm tuỷ và viêm cuống sau này.
- Viêm tủy: Đau thành cơn dữ dội, giữa 2 cơn đau hoàn toàn hết đau. Thăm
khám có lỗ sâu lớn, có thể lộ tủy, gõ răng đau.
Ở giai đoạn này điều trị khó khăn đỏi hỏi máy móc, dụng cụ hiện đại, tốn
thêm rất nhiều kinh phí cũng như thời gian của bệnh nhân.
- Tủy hoại tử, viêm quanh cuống răng: Thường thì không đau trừ khi có

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
23

một đợt viêm cấp tái diễn. Khám thấy răng đổi màu, thử nghiệm tủy thấy răng đã
chết tủy, chụp phim có thể thấy tổn thương ở vùng cuống răng.
Ở giai đoạn này điều trị gần giống với viêm tuỷ nhưng phức tạp hơn và cần
nhiều thời gian cũng như kinh phí so với điều trị viêm tuỷ. Những trường hợp
nặng không điều trị được hoặc răng vỡ to phải nhổ sẽ phải tốn rất nhiều công sức

cũng như kinh phí để phục hình răng.
Điều trị sâu răng giai đoạn sớm: Khi SR đã có phá hủy tổ chức cứng thì
phải hàn. Hàn răng là dùng một vật liệu nhân tạo hồi phục lại hình thể của răng.
1.2.2.2. Các quan niệm mới về điều trị sâu răng
Trước đây quan niệm “lấy sạch” tức là lấy bỏ hoàn toàn các vùng bị mất
khoáng của răng tức là phải loại bỏ một lượng chuẩn của cấu trúc răng lành mạnh
để phòng ngừa sâu răng tiến triển, kiểu xoang được phân loại chuẩn hoá, phải loại
bỏ một phần mô răng lành mạnh để tạo sự hoàn hảo về mặt hình thể, dễ tạo
đường vào cho chất hàn.
Hiện nay người ta đã chứng minh được lớp răng này có thể tái khoáng tốt
nếu nó được hàn bằng các vật liệu sinh học như vậy sẽ giảm bớt mô răng bị mất
trong quá trình điều trị. Trong những năm gần đây fluor đóng vai trò quan trọng
trong chu trình khử - tái khoáng. Từ năm 2003 theo quan điểm mới trong ngành
chữa răng là can thiệp tối thiểu.
Một số nha sĩ cũ đã quen với quan niệm về thảm hoạ sâu răng lan tràn trước đây
và sự tiến triển nhanh chóng của các tổn thương sâu răng nhỏ. Họ có khuynh hướng
ước tính quá mức nguy cơ sâu răng, không tin tưởng lời khuyên hiện đại là chờ đợi cơ
hội tái khoáng hoá. Và họ đã điều trị quá mức, nạo và trám những tổn thương nhỏ
thay vì trám bít hố rãnh hoặc sử dụng các tác nhân tái khoáng hoá ở những tổn thương
SR mới chớm. Chăm sóc phòng ngừa không phục hồi phải hiệu quả hơn về mặt lâm
sàng, thích hợp với nhu cầu bệnh nhân và hiệu quả chi phí hơn so với điều trị phục hồi
truyền thống.
Ngày nay, trên toàn thế giới tình hình bệnh RM rất biến đổi và sự thay đổi đang
xảy ra theo nhiều hướng khác nhau. Ở các nước công nghiệp hoá, tình trạng bệnh RM
có sự cải thiện rất lớn, nhưng ở một số nước đang phát triển tình hình này đang ngày

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
24

càng xấu đi, có một số nơi biểu hiện sâu răng khá ổn định. Tuy nhiên, ở một số nước,

đặc biệt ở Châu Phi đang phát triển rất chậm và do thiếu nguồn tài chính không thể
cung cấp các dịch vụ nha khoa hiện đại, trong những trường hợp này phương pháp
trám răng không sang chấn (ART) là một lựa chọn thoả đáng (Frencken và Holmgren
1999; Massara và cộng sự 2002) [50], [55].

1.3. VAI TRÒ, CHỨC NĂNG VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI TRIỂN KHAI CHƢƠNG
TRÌNH NHA HỌC ĐƢỜNG
1.3.1. Sự cần thiết phải triển khai chƣơng trình nha học đƣờng
CT NHĐ để phòng tránh bệnh RM từ sớm chiếm một vị trí quan trọng vì những
lý do sau: (Theo điều tra của Viện RHM năm 2001).
Tỷ lệ mắc bệnh RM cao: Bệnh RM là bệnh phổ biến và mắc sớm ngay từ nhỏ.
Tuổi học sinh (HS) là tuổi phát sinh ra bệnh nên phải phòng ngay. Tỷ lệ SR ở trẻ em
6- 8 tuổi: Sâu răng sữa 84,9%, trung bình mỗi em 5,4 răng. Viêm lợi và viêm quanh
răng 73% [18], [37].
Mức độ trầm trọng: Răng sữa 6 tuổi trung bình mỗi em sâu 5.4 răng. Tuy là
răng sữa nhưng chúng rất quan trọng: Đảm bảo việc ăn nhai cho trẻ từ 6 tháng tuổi
đến 12 tuổi. Đây là thời kỳ phát triển của cơ thể nên răng sữa phải được chăm sóc tốt
để không sâu, không phải nhổ sớm, đảm bảo chức năng ăn nhai hiện tại và răng vĩnh
viễn mọc đúng chỗ thẳng hàng sau này [29], [38].
Bệnh răng miệng tăng theo tuổi:
Tuổi càng cao tỷ lệ SR và số răng sâu trung bình của mỗi cá thể càng tăng: tăng
từ 25,4% và số răng sâu trung bình là 0.48 (6-8 tuổi) đến 64,1% và 2,05 (12-14 tuổi)
tới 89,7% và 8.93 (trên 45 tuổi) [13].
Đáp ứng điều trị thấp: Kết quả nghiên cứu chỉ số SMT của lứa tuổi 12 tại
Ninh Thuận được xếp vào mức thấp và rất thấp, trong đó chủ yếu là sâu còn mất
trám không đáng kể. Chỉ số SMT ở lứa tuổi 6 là 0,28; lứa tuổi 12 là 1,55; lứa tuổi
15 là 1,95; chỉ số sâu cao hơn nhiều so với chỉ số hàn [33].
Ở Long An Chỉ số SMT ở lứa tuổi 6 là 0,28; lứa tuổi 12 là 1,55; lứa tuổi 15
là 1,95. Chỉ số sâu cao hơn nhiều so với chỉ số hàn. Điều này cho thấy khả năng


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
25

giải quyết trước đó chưa tốt của cơ sở điều trị và các dịch vụ y tế cũng như ýý
thức điều trị quá thấp của học sinh và các bậc phụ huynh [31], [32] .
Theo Trần Thị Nguyệt và Hoàng Tử Hùng khảo sát tại quận 7 thành phố Hồ
Chí Minh (TP HCM) trong tổng số 2443 trẻ khám chỉ có 20 trẻ trám răng (tỷ lệ
0,8%) cho thấy mức độ đáp ứng về khám và điều trị còn quá ít, chứng tỏ bệnh sâu
răng ở lứa tuổi Mẫu giáo không được các cấp chính quyền quan tâm và chú trọng
[15].
Một số địa phương khác như Yên Bái, Hà Nội, An Giang, Thành phố Hồ
Chí Minh cũng như toàn quốc chỉ số sâu răng cao nhưng chỉ số hàn cũng chỉ từ
0,00 đến 0,08 [11].
Tiến triển biến chứng
Răng sâu không được điều trị sẽ gây ra biến chứng như tại chỗ: đau, mất răng
sớm... mất sức nhai, gây ra lệch lạc răng, toàn thân: đau không ăn không ngủ được,
phải nghỉ học, nghỉ làm hoặc dẫn tới viêm khớp, màng tim, viêm cầu thận ảnh hưởng
tới sức khoẻ.
Theo điều tra của Viện Răng hàm mặt về việc kiểm tra răng miệng: Có trên 60%
trẻ em không bao giờ đi khám răng và trên 50% người lớn không bao giờ đi khám
răng. Như vậy người dân rất ít quan tâm đến sức khoẻ răng miệng, nhiều người chỉ
khi nào đau rồi mới đi khám. Chưa hiểu rằng chăm sóc thường xuyên khi chưa bị biến
chứng vừa không đau, vừa giữ được răng lâu dài, vừa đỡ tốn kém về kinh tế.
Thời gian và kinh phí điều trị sâu răng
Theo Trịnh Công Khởi, năm 1980 đã phải nhổ 278.575 răng, hàn 119.704 răng,
tốn 4.936.016 giờ công lao động của bệnh nhân và thầy thuốc [9]. Năm 1994 Thành
phố Hồ Chí Minh có 85,7% dân số bị sâu răng (khoảng 3,4 triệu người) chỉ số SMT là
4,7 (khoảng 18 triệu răng). Trong khi đó chỉ có 130 bác sỹ RHM tức là 1 bác sỹ/
30.000 dân [2].
Theo Nguyễn Hoàng Anh và Hoàng Tử Hùng tại Long An tỷ lệ sâu răng sữa ở

lứa tuổi 6 rất cao: 92% và smt là 6,80 cho thấy nhu cầu điều trị rất cao. Thời gian điều
trị trung bình cho một trường hợp thông thường từ 20-25 phút, trung bình một bác sỹ
tại phòng răng có thể điều trị 15 học sinh/ ngày. Khả năng đáp ứng về thời gian của

×