Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Văn hóa tộc người nhóm ngôn ngữ Tạng Miến

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.97 MB, 24 trang )

MỤC LỤC:
DẪN NHẬP:.....................................................................................................................2
NỘI DUNG:......................................................................................................................2
1.Tên gọi , nguồn gốc lịch sử, dân số và phân bố dân cư:...........................................2
1.1.Tên gọi ( tộc danh ), nguồn gốc lịch sử:.............................................................2
1.2.Dân số và phân bố dân cư:..................................................................................4
2.Một số yếu tố văn hóa vật chất:.................................................................................6
2.1.Ẩm thực:..............................................................................................................6
2.2.Trang phục:.........................................................................................................7
2.3.Nhà ở:................................................................................................................10
3.Một số yếu tố văn hóa tinh thần:.............................................................................12
3.1.Đời sống và quan hệ xã hội:.............................................................................12
3.2.Hôn nhân và gia đình:.......................................................................................14
3.3.Ma chay:............................................................................................................16
3.4.Tín ngưỡng:.......................................................................................................17
3.5.Văn hóa nghệ thuật...........................................................................................18
KẾT LUẬN:....................................................................................................................21
TÀI LIỆU THAM KHẢO:.............................................................................................22

1


DẪN NHẬP:
Ngôn ngữ và văn hóa luôn có mật thiết với nhau. Ngôn ngữ là phương tiện giao
tiếp xã hội thông qua tiếng nói và văn tự. Nhờ ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết mà văn
hóa được truyền thụ từ thế hệ này sang thế hệ khác và cũng nhờ ngôn ngữ mà văn hóa
được chuyển tải từ quốc gia này sang quốc gia khác. Việt Nam có 54 dân tộc anh em,
được phân chia thành 8 nhóm ngôn ngữ khác nhau. Các hệ ngôn ngữ này không hoàn
toàn có cùng một nguồn gốc, nhưng nhìn chung họ lại có cùng một cấu trúc ngữ pháp
gần nhau. Trong một nhóm ngôn ngữ còn có những đặc trưng về phong tục tập quán,
trang phục, tín ngưỡng,... Nhóm ngôn ngữ Tạng-Miến bao gồm 6 dân tộc, địa bàn cư


trú ở các tỉnh phía Bắc. Văn hóa của nhóm ngôn ngữ này cũng có những nét độc đáo
biểu trưng cho cộng đồng dân tộc thiểu số nước ta.
NỘI DUNG:
1. Tên gọi , nguồn gốc lịch sử, dân số và phân bố dân cư:
1.1.

Tên gọi ( tộc danh ), nguồn gốc lịch sử:

1.1.1. Tên gọi:
 Tộc người Hà Nhì :
Tên tự gọi là Hà Nhì Già (người Hà Nhì) , các dân tộc anh em gọi là U Ni, Xá U
Ni. Hiện nay cái tên Hà Nhì được dùng phổ biến hơn cả và trở thành tên gọi chính
thức của tộc người này.
 Tộc người Lô Lô :
Trong các sách cổ của Việt Nam và Trung Quốc người Lô Lô được gọi bằng những
cái tên : U Man, Lu Lọc, Mán , La La, Qua La, Di Nhân, Di Già. Người Tày, người
Nùng, người Giấy gọi là Pù Mỳa, người H’Mông gọi là Ma, còn người Lô Lô tự gọi
mình là Màn Di, Màn Chí hoặc là Mùn Di tùy theo cách phát âm của mỗi vùng, mỗi
địa phương các tên đó điều có nghĩa là “ người Di ”, song Lô Lô là tên gọi phổ biến
và là tộc danh chính thức.
 Tộc người Phù Lá :
Mỗi nhóm địa phương có tên gọi riêng, như nhóm Xá Phó ở Hà Giang tự gọi là Lao
Pạ hay Lao Va Xơ, ở Lai Châu tự gọi là Bồ Khô Pạ, nhóm Phù Lá Đen tự gọi là Mu
Dí Pạ, nhóm Phù Lá Hoa tự gọi là Bồ Khô Pạ. Nhóm Phù Lá Hán chịu ảnh hưởng của
văn hóa Hán ở Lùng Phình, Lùng Chín huyện Bắc Hà va Tả Chu Phùng Huyện
2


Mường Khương, riêng ở Lùng Chín có tên gọi là Phù Phù Lá, sau này Phù Lá là tên
gọi phổ biến nhất và là tên gọi chính thức.

 Tộc người La Hủ :
Trước kia người La Hủ có nhiều tên gọi khác nhau như Xá Toong Lương (xá lá
vàng), Xa Quy (Xá Quỷ), “Xa” Phơi (người “ Xá” ở trần), Khù Sung (hay Cò Sung),
Khủ Sung (Khổ Cùng). La Hủ là tên gọi phổ biến nay là tộc danh chính thức.
 Tộc người Cống :
Người Cống có nhiều tên gọi khác nhau như Xá, Cá Cống, Xá Xanh, Xá Khao,
nhưng Cống là tên gọi phổ biến nhất và là tộc danh chính thức của tộc người này.
 Tộc người Si La :
Người Si La tự gọi mình là Cù Dề Xừ còn Si La là tên gọi phổ biến. Trước kia họ
còn có tên gọi khác là Khả Bẻn (tên gọi này để phân biệt cách mặc váy cuốn ra phía
sau của người Si La khác với người Thái giắt váy về phía trước).
1.1.2. Nguồn gốc lịch sử:
Các tộc người nói ngôn ngữ Tạng – Miến tuy hiện diện khá sớm ở tây Bắc nước ta,
nhưng có lẽ do hoàn cảnh nao đó bị đứt đoạn chứ không liên tục trong suốt hơn một
nghìn năm qua. Hầu như các nhóm tộc người nói ngôn ngữ Tạng – Miến hiện sinh
sống ở Tây Bắc ngày nay điều di cư từ các tỉnh giáp biên giới Việt – Trung, nhất là từ
Vân Nam, vào nước ta chỉ mới khoảng 200 – 300 năm nay.
 Tộc người Hà Nhì :
Chưa ai biết rõ nguồn gốc của người Hà Nhì, tuy tổ tiên họ, tộc người Khương, đã
di cư từ vùng cao nguyên Thanh Tạng xuống phía nam từ trước thế kỷ thứ ba. Theo
lời truyền miệng của người Hà Nhì thì họ có nguồn gốc từ người Di (Yi), tách khỏi
nhau thành bộ tộc riêng biệt 50 đời về trước. Cư dân Hà Nhì sinh sống rất sớm ở miền
núi Bắc Bộ. Nhưng phần lớn tổ tiên người Hà Nhì hiện nay là lớp cư dân di cư đến
Việt Nam khoảng 300 năm trở lại đây.
 Tộc người Lô Lô :
Người Lô Lô ở Việt Nam có quan hệ nguồn gốc thân thích với người Di ở Trung
Quốc. Người Lô Lô vốn là cư dân của quốc gia Nam Chiếu, sinh sống ở vùng lòng
chảo Tứ Xuyên, Trung Quốc. Theo một số tài liệu, sau khi quốc gia Nam Chiếu loạn
lạc, một số cư dân đã di cư sang Việt Nam. Đó là tổ tiên của người Lô Lô ở Việt Nam
ngày nay.

 Tộc người Phù Lá :
3


Nhóm Phù Lá Lão - Bồ Khô Pạ là cư dân có mặt tương đối sớm ở Tây Bắc nước ta.
Các nhóm khác đến muộn hơn, khoảng 200-300 năm trở lại, quá trình hội nhập của
nhóm Phù Lá Hán còn tiếp diễn cho tới những năm 40 của thế kỷ XX.
 Tộc người La Hủ :
Nguồn gốc xuất xứ của tộc người La Hủ cho đến nay cũng chưa có câu trả lời chính
xác. Theo truyền thuyết của những người dân Hà Nhì kể lại thì tộc người La Hủ có
nguồn gốc từ phía Bắc. Rồi chiến tranh xảy ra do tranh giành lãnh thổ đất đai, người
La Hủ cứ lên cao, lên cao mãi, rồi rút dần, rút dần về phía Nam. Trong số đó, có một
bộ phận lưu lạc xuống vùng đất của người Đại Việt, vì nỗi sợ mỗi khi có chiến tranh
xảy ra khi tranh chấp đất đai, tộc người La Hủ đã hoàn toàn chấm dứt sinh sống ở các
vùng đất thấp. Cứ thế, đời này qua đời khác, tộc người La Hủ trở thành tộc người chỉ
quen với lối sống và lối canh tác du canh du cư, sống lang thang trên các triền núi cao,
trong các thung lũng mà ít có quan hệ với các cộng đồng tộc người xung quanh. Cũng
còn có một câu chuyện theo dạng giả thuyết, ngày xưa người La Hủ và người Hà Nhì
có chung một nguồn gốc. Nhưng do mâu thuẫn nội bộ nên hai anh em đã tách ra thành
2 tộc người. Tuy là 2 tộc người khác nhau nhưng họ vẫn có nét chung cơ bản trong
ngôn ngữ và trang phục.
 Tộc người Cống :
Khác với các tộc người khác trong nhóm Tạng - Miến. Người Cống có nguồn gốc
di cư trực tiếp từ Lào sang.
 Tộc người Si La:
Có nguồn gốc từ tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Hơn 200 năm trước đây, do điều kiện
thiên nhiên và chiến tranh xảy ra giữa các dân tộc ở khu vực biên giới Trung Quốc, để
tránh các cuộc chiến tranh và bảo tồn dân tộc, người Si La đã di cư xuống phía Nam,
đến các nước: Lào, Thái Lan, Myanma, Phi Líp Pin. Theo những ngươi già kể lại cách
đây khoảng 130 năm có những gia đình Si La từ Lào di cư sang Việt Nam ở lại

Mường Tùng (Lai Châu) sau về ở Mường Lay, rồi lại đến ở Mường Tè.
1.2.

Dân số và phân bố dân cư:

 Tộc người Hà Nhì.
Dân số của người Hà Nhì là 21.725 người (Tổng cục Thống kê năm 2009). Người
Hà Nhì là cư dân cư trú chủ yếu ở miền biên giới Việt – Trung và vùng biên giới Việt
– Lào. Người Hà Nhì sống tương đối tập trung tại các huyện Mường Tè (Lai Châu),
Bát Xát (Lào Cai). Họ thường ở thành những khu vực riêng, ít khi ở xen kẻ với dân
4


tộc khác. Nhiều xã như xín Thầu, Chúng Chải, Mù Cả, Ka Lăng, Thu Lùm (Mường
Tè), Y Tí, A Lù (Bát Xá) hoàn toàn đặc chiếm tỉ lệ đa số là người Hà Nhì.
Căn cứ vào đặc điểm khác nhau về phương ngữ, y phục và phong tục tập quán thì
người Hà Nhì có các nhóm Cồ Chồ và La Mí. Nhóm Hà Nhì ở huyện Bát Xát là một
nhóm riêng biệt y phục của họ không thêu như các nhóm khác, mà chỉ dùng một màu
chàm sẫm, nên còn có tên gọi là Hà Nhì đen.
 Tộc người Lô Lô.
Dân số: 4.541 người (Tổng cục Thống kê năm 2009).
Người Lô Lô là cư dân sống ở nước ta, cư trú tại 30 trên tổng số 63 tỉnh/TP.
Tập trung chủ yếu ở các huyện Đồng Văn, Mèo Vạc (Hà Giang), huyện Bảo Lạc
(Cao Bằng) và huyện Mường Khương (Lào Cai).
Người Lô Lô ở nước ta chia làm hai ngành Lô Lô Đen (Màn Di No) ở Lũng Cú,
Đồng Văn (Hà Giang) hoặc Màn Di Mân Tê ở Bảo Lạc (Cao Bằng), Lô Lô Hoa (Màn
Di Qua) hoặc Màn Di Pu ở xã Xín Cái, Mèo Vạc, Thượng Phùng thuộc huyện Mèo
Vạc và xã Lũng Táo, Sủng Là thuộc huyện Đồng Văn tỉnh Hà Giang.
 Tộc người Phù Lá.
Dân số: 10.944 người (Tổng cục Thống kê năm 2009).

Người Phù Lá là cư dân sinh sống ở các huyện Bát Xát, Bảo Thắng, Bắc Hà, Sa Pa,
Mường Khương, Sa Ma Cai, Văn Bàn (Lào Cai), Sìn Mần (Hà Giang),Quỳnh Nhai
(Sơn La), Sìn Hồ (Lai Châu). Người Phù Lá bao gồm các nhóm địa phương có những
sắc thái riêng biệt khác nhau, nhóm Phù Lá hoa mặc váy ở A Lù (Bát Xát), nhóm Phù
Lá ở Bắc Hà, Mường Khương chịu ảnh hưởng của văn hóa Hoa, nhóm Phù Lá ở Hà
Giang và Lai Châu từng được coi là một dân tộc nhưng thực ra chỉ là một nhóm địa
phương.
 Tộc người La Hủ.
Dân số: 9.651 người (Tổng cục Thống kê năm 2009).
Người La Hủ sinh sống ở nước ta trong các xã Pa Vệ Sử, Pa Ủ, Ka Lăng, Bum Tở
và Nậm Khao thuộc huyện Mường Tè tỉnh Lai Châu cũng như người Hà Nhì người La
Hủ thường sống khu vực riêng ít ở xen kẻ với dân tộc khác. Người La Hủ có ba nhóm
địa phương. La Hủ Sủ (La Hủ Vàng) nhóm này chiếm đa số trong thành phần cư dân
người La Hủ cư trú ở tất cả các bản thuộc hai xã Pa Vệ Sử, Pa Ủ, và một số bản như
Là Pé, Nhu Tè, Nhóm Bo thuộc xã Ka Lăng. Nhóm La Hủ Na (La Hủ Đen) cư trú ở
các bản Nậm Phìn xã Nậm Khao, Nậm Câu, Phìn Hồ, Nậm Xả xã Bum Tở. Nhóm La
5


Hủ Phung (La Hủ Trắng) nhóm địa phương này có dân số ít nên họ ở đan xen với
người La Hủ Vàng trong các bản Xà Hồ, Ú Ma , Pha Bu, Pa Ủ và Khổ Ma thuộc xã
Pa Ủ và bản Hà Xe xã Ka Lăng.
 Tộc người Cống.
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Cống ở Việt Nam có 2.029
người, cư trú tại 13 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Cống cư trú tập trung tại
các tỉnh: Lai Châu (1.134 người, chiếm 55,9% tổng số người Cống tại Việt Nam),
Điện Biên (871 người, chiếm 42,9% tổng số người Cống tại Việt Nam), còn lại 24
người sinh sống ở một số tỉnh, thành khác.
 Tộc người Si La.
Dân số: 840 người (Tổng cục Thống kê năm 2009).

Dân tộc Si La là một trong 5 dân tộc thiểu số có số dân dưới 1000 người ở Việt
Nam hiện nay. Theo kết quả điều tra, người dân tộc Si La hiện chỉ cư trú trong phạm
vi địa lí giới hạn tại hai bản Seo Hay và Sì Thao Chải (bên bờ sông Đà), tại xã Can
Hồ, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu và một bản Nậm Sin, xã Chung Chải, huyện
Mường Nhé, tỉnh Điện Biên. Trước khi chia tách và điều chỉnh địa giới hành chính 3
bản trên đều thuộc huyện Mường Tè tỉnh Lai Châu cũ.
2. Một số yếu tố văn hóa vật chất:
2.1.

Ẩm thực:

 Tộc người Hà Nhì :
Người Hà Nhì quen dùng cả cơm nếp và cơm trong các bửa ăn hằng ngày. Thực
phẩm chủ yếu được cung cấp từ săn bắn, hái lượm. Vào dịp lễ tết thường làm những
loại bánh, ưa dùng thịt nướng, thịt xào, đặc biệt thích ăn cháo ám nấu với thịt gà và
thịt lợn.
 Tộc người Lô Lô:
Người Lô Lô chủ yếu ăn ngô bằng cách xay thành bột đồ chín. Bữa ăn phải có
canh, họ thường dùng bát và thìa bằng gổ.
 Tộc người Phù Lá:
Người Phù Lá ăn cơm tẽ ngày hai bữa, sáng sớm và tối thích hợp với điều kiện
canh tác nương rẫy. Đồ nếp dùng trong lễ cúng và làm bánh. Ăn cá , thịt ướp với gạo
rồi rang nhỏ cùng với ít gia vị ớt, rau thơm, thịt nướng rất được họ ưa thích.
 Tộc người La Hủ:
6


Người La Hủ đã chuyễn từ ăn ngô, cơm sang chủ yếu ăn cơm tẽ, thích dùng các
loại thịt chim, thú do săn bắt được, cá ở khe suối, măng chua, canh đậu, bầu, bí.
 Tộc người Cống:

Họ thường ăn cơm nếp và cơm tẽ.
 Tộc người Si La:
Xưa kia người Si La quen dùng cơm nếp, gần đây ăn cơm tẻ nhiều hơn, thực phẩm
chủ yếu được cung cấp từ săn bắt hái lượm.
2.2.

Trang phục:

 Tộc người Hà Nhì

Nữ mặc áo dài, cài cúc bên phải, đính bạc và đeo vòng bạc ở cổ tay. Nam mặc quần
chân què và áo có hai túi. Phong cách trang phục giống các dân tộc trong cùng nhóm
ngôn ngữ. Điểm đáng chú ý nhất trong trang phục của người Hà Nhì là chiếc mũ đội
đầu với loại dùng cho nam, nữ, trẻ em khác nhau.
 Tộc người Lô Lô

7


Phụ nữ Lô Lô thường mặc váy áo màu đen. Áo cổ vuông, chui đầu, được thêu hoa,
hình chim hay những hình chữ nhật. Phụ nữa Lô Lô mặc váy kín,may khá dài, rộng,
có 2 lần chiết li ở dưới cạp quần và đầu gối, Khi mặc, còn trùm phía sau bằng miếng
vải đen hình chữ nhật, dọc thân và hai bên sườn của tú xô được thêu và đính đồng tiền
kẽm hay cúc nhựa một cách đều đặn. Dây lưng được thêu thùa ở hai đầu và buông dài
với những sợi chỉ xanh đỏ sặc sỡ. Phụ nữ Lô Lô chải tóc, quấn quanh đầu rồi đội khăn
ra ngoài. Có 2 loại khăn vuông và khăn dài,
Phần lớn nam giới Lô Lô đều mặc áo cánh ngắn, mặc quần và chit khăn, may bằng
vải bông nhuộm chàm, “quần loe”, cạp lá tọa, gần giống như phụ nữ.
Ngoài ra, trang phục của người Lô Lô hoa có nhiều nét khác biệt với nhóm Lô Lô
đen, cả về cắt may, cho đến hoa văn trang trí, điều đó đã mang lại sự phong phú và

độc đáo cho dân tộc này.
 Tộc người Phù Lá

Phụ nữ Phù Lá ăn mặc khác nhau giữa các nhóm. Phụ nữ Xá Phó mặc váy, áo ngắn,
trang trí hoa văn sặc sỡ. Phụ nữ phù lá Hán mặc quần thụng, áo cài khuy bên nách
phải, hình dáng áo phụ nữ hán. Đặc biệt là tấm yếm giống cái tạp dề phủ ra ngoài váy
được trang trí in đẹp, cổ đeo xà tích to bằng bạc, đầu vấn tóc.
Nam giới mặc áo xẻ ngực. Áo được may từ 6 miếng vải, cổ thấp, không cài cúc,
nẹp ngực viền vải đỏ,ống tay hẹp, cổ tay thêu hoa văn như áo phụ nữ.
 Tộc người La Hủ

8


Phụ nữ mặc quần,áo dài đến cổ chân, ngày lễ, mặc thêm ở ngoài áo ngắn, có thêu
và ghép vải màu, đính bạc, bông chỉ đỏ ở cổ áo, nẹp áo, ống tay áo đeo dây cườm,
trên đầu quàng ra sau gáy và cổ.
Nam giới mặc quần chân què lá tọa, ống rộng.
 Tộc người Cống

Y phục của người Cống giống với người Thái. Một số gia đình còn giữ lại vài bộ
trang phục truyền thống bằng vải dệt của người Lào.
 Tộc người Si La

Phụ nữ mặc váy chàm, áo ngắn cài cúc bên nách phải, trên áo phía trước được thêu
đính bằng nhiều xu bạc, vấn khăn có tết sợi chỉ màu sắc. Cách vấn khăn còn biểu thị
tình trạng hôn nhân.
Nam giới mặc quần chân què lá tọa và cài áo khuy vải có 2 túi lớn ở hai vạt trước,
và cũng vấn khăn trên đầu. Tục nhuộm răng phổ biến, nữ nhuộm đen.
9



Thiếu nữ Si La khi chưa chồng thì vấn tóc quanh đầu, và đội khăn trắng giản dị.
Khi lấy chồng thì búi tóc lên đỉnh đầu và cuộn khăn chàm đen.
2.3.

Nhà ở:

 Tộc người Hà Nhì

Nhà ở chủ yếu là nhà trình tường. Nhà trình tường thường được làm bằng đất ( dày
khoảng 30-40cm) thích hợp với khí hậu lạnh vùng núi cao. Tùy từng nơi, nhà có hiên
phía trước hoặc hàng hiên ở ngay trong nhà để tránh gió rét. Trong nhà người Hà Nhì
có 2 bếp: bếp kiềng và bếp lò. Buồng ngủ bố trí ở gian bên phải. Họ quen nấu cơm
bằng chảo trên bếp lò xây trên nền đất. Và điều đặc biệt ở các dân tộc nhóm ngôn ngữ
Tạng- Miến là bếp lửa này chỉ đỏ lửa trước khi mặt trời mọc và sau khi mặc trời lặn
mới được đỏ lửa, đun nấu( chủ yếu là nấu cơm và cám lợn).
 Tộc người Lô Lô

Người Lô Hô ở nhà đất,nhà sàn. Kiến trúc nhà ở khá đơn giản song có nhiều nét
tương đồng với nhà của người Hoa và người Cờ Lao.Nhà tường trình có kết cấu khá
chắc chắn để tránh cái rét vào mùa đông và mát mẻ vào mùa hè. Nhà có kết cấu xà
ngang, xà dọc và kèo gỗ gác lên đầu cột( gỗ làm nhà thường là các loại gỗ tốt). Nhà
chia làm 3 gian, một cửa chính ở gian giữa và một cửa phụ ở gian bên trái. Đối diện
với cửa chính là bàn thờ tổ tiên, buồng ngủ của vợ chồng nằm ở bên trái gần cửa phụ,
buồng của con cái nằm ở gian bên phải; trước buồng con cái là bếp sưởi và cầu thang
lên trên gác.
10



 Tộc người Phù Lá

Nhà ở của Phù Lá Lão chủ yếu là loại hình nhà sàn giống người Tày, còn nhà của
Phù Lá Hán ở nhà đất trình tường hay xây gạch mộc. Đặc điểm nổi bật của nhà Phù
Lá Hán là hai bên đầu hồi bỏ trống, không khung lợp( để làm đường cho tổ tiên về),
và cũng giống các tộc người trong cùng hệ ngôn ngữ, người Phù Lá cũng có 2 bếp và
cũng kiêng cử khi nhóm bếp giống nhao.
 Tộc người La Hủ

Trước đây họ thường làm nhà rải rác ngay trên mương, trên núi cao. Hiện nay
người La Phủ ở nhà vách đất nứa hay trình tường. Bếp, bàn thờ tổ tiên, giường ngủ
đều ở chung một gian.
 Tộc người Cống

Nhà sàn ba hay bốn gian, chỉ có một cửa ra vào, một cửa sổ ở gian giữa, chạy dọc
theo vách mặt chính của nhà có thêm một chiếc sàn nhỏ( ít có giá trị sử dụng) nhưng
nhà nào cũng có là đặc trưng trong nhà người Cống.
 Tộc người Si La
11


Người Si La ở nhà đất sơ sài, tạm bợ, bếp đặt ở giữa nhà. Nhà của người Si la
thường chỉ có 2 gian một cửa ra vào. Bàn thờ tổ tiên đặt góc trái nhà trên bày một
chén nhỏ và một quả bầu khô.
3. Một số yếu tố văn hóa tinh thần:
3.1.

Đời sống và quan hệ xã hội:

 Tộc người Hà Nhì:

Tính cộng đồng trong làng bản biểu hiện khá tập trung không chỉ trong sản xuất mà
cả trong lĩnh vực văn hoá tinh thần, tôn giáo, tín ngưỡng. Gia đình của người Hà Nhì
là gia đình nhỏ, mỗi gia đình có từ 6 đến 8 người, có cá biệt cũng có gia đình có từ 16
đến 17 người. Gia đình theo chế độ phụ quyền song người phụ nữ vẫn được trân trọng
trong xã hội. Có nhiều họ khác nhau, mỗi họ lại chia ra thành nhiều chi. Tên chi gọi
theo tên ông tổ. Tên của người Hà Nhì thường đặt theo tập tục là lấy tên người cha,
hoặc tên con vật ứng với ngày sinh của người ấy làm tên đệm.
Người Hà Nhì không có tục thờ cúng chung toàn dòng họ mà chỉ thờ cúng theo gia
đình. Việc thờ cúng do con trai cả, dòng trưởng đảm nhận. Nếu dòng trưởng không có
người thừa kế thì việc thờ cúng chuyển cho con trai út. Các thành viên trong gia đình,
dù đã ra ở riêng, nếu bị chết phải đưa xác về quàn tại trước bàn thờ bố mẹ thì người
quá cố mới được thờ cúng chung với tổ tiên.
Người Hà Nhì hiện nay đã định cư, mỗi bản có khi đông tới 60 hộ.
 Tộc người Lô Lô:
Người Lô Lô sống tập trung trong các bản tương đối ổn định. Tính cộng đồng tộc
người thể hiện rõ nét.
Lô Lô có nhiều dòng họ. Người trong dòng họ thường cộng cư với nhau thành một
làng. Ðứng đầu dòng họ là Thầu chú. Ông ta phụ trách việc cúng bái và duy trì tục lệ
của dòng họ. Có hơn 30 dòng họ khác nhau. Mỗi dòng họ thường quần tụ trong phạm
vi một làng bản, thờ cúng chung một ông tổ và có một khu nghĩa địa riêng nằm trong
12


nghĩa địa chung của công xã. Người Lô Lô thường lập làng ở lưng chừng núi, nhưng
gần nguồn nước
Xã hội của người Lô Lô là gia đình nhỏ theo chế độ phụ quyền, nhưng trong gia
dình có những công việc lớn như làm nhà, dựng vợ gả chông cho con cái, đều được
đưa ra bàn bạc tham gia ý kiến giữa các thành viên trong gia đình
 Tộc người Phù Lá:
Trong tổ chức cộng đồng, người dân tộc Phù Lá sống thành từng thôn bản riêng,

xen kẽ trong vùng có nhiều dân tộc khác như Mông, Dao, Tày. Mỗi thôn bản thường
có từ 5 đến 10 nóc nhà. Các già làng, trưởng bản, trưởng dòng họ có vai trò rất lớn
trong việc điều hành những công việc ở làng bản. Quan hệ láng giềng là mối quan hệ
chủ đạo trong các thôn bản của người dân tộc Phù Lá. Vào những ngày mùa, các gia
đình trong thôn bản thường giúp đổi công cho nhau, ăn chung với gia chủ bữa tối. Khi
gia đình nào đó có công to, việc lớn như cưới xin, làm nhà, ma chay... đều nhận được
sự giúp đỡ của các thành viên khác nhau trong thôn bản.
Người Phù Lá sống trên núi cao, thành các làng bản nhỏ riêng rẽ. Mỗi làng, bản có
10-15 gia đình, sinh sống trong các ngôi nhà đất, xen kẽ trong vùng có nhiều dân tộc
như Mông, Dao, Tày, Nùng. Các già làng, trưởng bản, trưởng dòng họ có vai trò rất
lớn trong iệc điều hành các công việc ở làng bản.
 Tộc người La Hủ:
Người La Hủ cư trú phân tán thành nhiều xóm nhỏ với thành phần dân cư thay đổi
thường xuyên do lối sống du canh. Xã hội chưa có sự phân hoá giàu nghèo. Người
phụ nữ được tôn trọng trong gia đình song có ít vai trò xã hội.
Quan hệ dòng họ lỏng lẻo, không có người đứng đầu dòng họ và không có nghi lễ
cúng bái cho cả họ. Một số mang tên chim, thú nhưng nhiều họ khác không còn ai nhớ
ý nghĩa.
 Tộc người Cống:
Mỗi họ của người Cống có một trưởng họ, có chung một kiêng cữ, có chung quy
định về chỗ đặt bàn thờ tổ tiên và cách cúng bái. Trong từng gia đình, người chồng,
người cha giữ vai trò đứng đầu, khi người cha chết thì con trai cả thay thế.
Người Cống ở khá tập trung trong các làng bản có quy mô vừa và lớn. Tính cộng
đồng làng bản cao. Phụ nữ có vai trò quan trọng trong gia đình cũng như xã hội.
Trong xã hội cổ truyền, chưa có sự phân hoá giai cấp, chịu sự chi phối chặt chẽ của
hệ thống chức dịch người Thái.
13


Dân số ít song người Cống có tới 13 dòng họ khác nhau. Ða số các dòng họ mang

tên Thái như: Lò, Quang, Kha... dấu vết tô tem giáo còn rõ nét với tục kiêng và thờ
các loại chim muông, thú vật. Mỗi dòng họ thường có người đứng đầu với chức năng
chủ trì các công việc liên quan tới đời sống tinh thần.
 Tộc người Si La:
Người Si La có nhiều dòng họ. Các dòng họ đều kiêng ăn thịt mèo. Quan hệ họ
hàng rất khắng khít. Trưởng tộc của một chi họ là người đàn ông cao tuổi nhất. Người
này giữ vai trò lãnh đạo, có trách nhiệm tổ chức các sinh hoạt chung cho họ mình.
Ngoài trưởng tộc, người Si La có thầy mo.
Làng bản Si La xưa kia chịu sự cai quản của hệ thống chức dịch người Thái, chưa
có sự phân hoá giai cấp. Tính cộng đồng trong công xã cao. Do đó, quan hệ dòng họ
khá chặt chẽ. Có nhiều tên họ khác nhau nhưng họ Hù và họ Pờ đông hơn cả. Do quan
niệm cùng tên họ là cùng chung tổ tiên xa xưa do điều kiện cư trú xa cách, người ở chi
họ này dễ dàng xin nhập sang chi họ khác, cùng thờ tổ tiên với nhau. Mỗi chi họ đều
có người già nhất, không phân biệt dòng trưởng hay thứ, đứng đầu.
3.2.

Hôn nhân và gia đình:

 Tộc người Hà Nhì:
Trai gái Hà Nhì được tìm hiểu nhau trước khi kết hôn. Mỗi cặp vợ chồng, phải trải
qua hai lần cưới. Ngay sau lần cưới trước, họ đã thành vợ chồng, cô dâu về nhà chồng
và theo phong tục cô dâu phải đổi họ theo chồng. Cũng có nơi lại ở rể. Lần cưới thứ
hai được tổ chức khi họ làm ăn khấm khá và thường là khi đã có con.
 Tộc người Lô Lô:
Hôn nhân theo tục Lô Lô là hôn nhân một vợ một chồng, cơ trú nhà chồng. Người
Lô Lô có trống đồng, được bảo quản bằng cách chôn xuống đất và chỉ khi nào sử
dụng mới đào lên. Tộc trưởng của mỗi họ là người được giữ trống. Trống chỉ được
dùng trong các đám tang hoặc đánh để giữ nhịp cho các điệu nhảy múa.
Phong tục cưới xin của người Lô Lô mang nặng tính gả bán với việc thách cưới cao
(bạc trắng, rượu, thịt...). Sau hôn nhân, cô dâu cư trú bên chồng. Con trai cô có thể lấy

con gái cậu song không được ngược lại.
 Tộc người Phù Lá:
Trai gái người dân tộc Phù Lá tự do tìm hiểu trước hôn nhân. Tối tối, gái trai chưa
vợ, chưa chồng thường đến tụ tập vui chơi ở nhà bạn gái hay trai và ngủ luôn ở gian
nhà khách, nơi dành cho những người chưa vợ, chưa chồng. Nếu yêu nhau người con
14


trai được vào ngủ chung với người yêu của mình. Sau vài đêm đi lại với nhau, hai bên
thật ưng ý, người con gái trở về ngủ ở nhà mình. Ðến đêm người yêu lại tới ngủ cùng.
Tiếp đó là các lễ dạm, hỏi, cưới như bình thường. Trong đám cưới có tục uống rượu,
hát đối để được vào nhà đón và đưa cô dâu về nhà trai và nhà gái, tục vẩy nước bẩn và
bôi nhọ nồi lên mặt đoàn nhà trai trước khi ra về, tục lại mặt sau 12 ngày cưới.
Người Phù Lá tôn trọng hôn nhân một vợ một chồng. Thanh niên nam nữ được tự
do tìm hiểu để dẫn đến hôn nhân, khi yêu nhau, trai gái nói cho bố mẹ biết, hai gia
đình sẽ tổ chức bữa cơm thân mật. Từ đó đôi trai gái coi như đã đính hôn. Đám cưới
có thể tổ chức sau một, hai năm. Theo tập quán Phù Lá, cô dâu về ở nhà chồng. Của
hồi môn của con gái về nhà chồng thường là những vật dụng cần thiết cho cuộc sống
gia đình như: Bát đĩa, nồi niêu, chăn màn, thóc giống, gà, lợn giống.
 Tộc người La Hủ:
Trai gái La Hủ được phép tự do yêu đương khi đến tuổi lập gia đình. Việc cưới hỏi
được tiến hành qua nhiều bước. Trong số lễ vật nhà trai đưa sang nhà gái bắt buộc
phải có thịt sóc. Sau lễ cưới, cô dâu cư trú bên chồng. Tuy nhiên, tục ở rể vẫn tồn tại
với những chàng trai không sắm đủ đồ dẫn cưới, nhất là bạc trắng.
Họ cấm hôn nhân trong cùng dòng họ, ngành họ nhưng khác ngành có thể lấy được
nhau; cho phép hôn nhân con cô con cậu, con dì con già. Điều này thể hiện sự rơi rớt
lại của hiện tượng quần hôn vì nội ngoại cũng chỉ là đời thứ hai. Người La Hủ cũng
không ngăn cấm hôn nhân ngoài dân tộc.
 Tộc người Cống :
Trước kia chỉ trai gái người Cống mới lấy nhau, nay đã có một số dâu rể là người

Thái, Hà Nhì... Theo phong tục Cống, người cùng họ phải cách nhau bảy đời mới
được lấy nhau. Việc cưới xin do nhà trai chủ động. Sau lễ dạm hỏi, chàng trai bắt đầu
ở rể vài năm, còn cô gái bắt đầu búi tóc ngược lên đỉnh đầu, đó là dấu hiệu đã có
chồng. Thường họ sinh vài đứa con mới cưới. Nhà trai phải có bạc trắng làm lễ cưới
nộp cho nhà gái, còn nhà gái phải cho của hồi môn để cô dâu đem về nhà chồng. Ít
ngày sau lễ đón dâu, đôi vợ chồng mới đến nhà bố mẹ vợ làm lễ lại mặt. Quan niệm
một vợ một chồng chặt chẽ. Không có đa thê, ly dị trong xã hội truyền thống. Hôn lễ
được tổ chức sau nhiều năm chung sống, vào lúc nông nhàn.
 Tộc người Si La:
Trai gái yêu nhau được quan hệ với nhau, người con trai được ngủ qua đêm tại nhà
người yêu của mình. Phong tục cưới hỏi của người Si La cũng rất đặc sắc họ làm lễ

15


cưới hai lần. Lần đầu đón cô dâu về nhà chồng. Lần thứ hai sau một năm, nhà trai trao
tiền cưới cho nhà gái để được rước dâu.
3.3.

Ma chay:

 Tộc người Hà Nhì:
Phong tục ma chay của các vùng không hoàn toàn giống nhau, nhưng có một số
điểm chung: khi trong nhà có người chết, phải dỡ bỏ tấm liếp (hay rút một vài nan)
của buồng người đó, phá bàn thờ tổ tiên, làm giường đặt tử thi ở bếp, chọn ngày giờ
tốt mới chôn. Người Hà Nhì không có nghĩa địa chung của bản, kiêng lấp đất lẫn cỏ
tươi xuống huyệt, không rào dậu hay dựng nhà mồ, chỉ xếp đá quanh chân mộ... Khi
có người chết, nơi đào huyệt được chọn bằng cách ném trứng, trứng vỡ ở đâu thì đào
ở đấy. Kiêng chôn vào mùa mưa, vào thời điểm đó quan tài người chết được treo
xuống huyệt nhưng không lấp, bên trên có nhà táng hoặc đặt trên giàn, hết mùa mưa

mới hạ huyệt và lấp đất.
 Tộc người Lô Lô:
Tang ma có nhiều lễ thức độc đáo như hoá trang, nhảy múa, đánh lộn... Dấu vết của
tục săn đầu còn thể hiện khá rõ ở hiện tượng một người luôn đeo chiếc túi vải có đựng
khúc gỗ hay quả bầu có vẽ mặt người trong tang lễ.
Người Lô Lô sau khi mai táng người chết xong họ sẽ tiến hành làm ma khô. Theo
TS Lò Giàng Páo, Phó Viện trưởng Viện Dân tộc - Ủy ban Dân tộc, thực chất đây là
một nghi thức tiễn hồn về thế giới tổ tiên, một hình thức mãn tang. Người Lô Lô quan
niệm, con người có 2 phần: linh hồn và thể xác. Khi đem đi chôn, đấy mới chỉ là tiễn
đưa thể xác, phần hồn vẫn ở lại, lang thang đâu đó, chưa về được với thế giới tổ tiên.
Chính vì thế mà người ta mới làm ma khô để triệu hồn về, tiễn đưa lần cuối. Lúc đó,
người chết mới gia nhập được vào thế giới tổ tiên một cách trọn vẹn. Tuy nhiên làm
ma khô rất tốn kém. Nếu nhà nào có điều kiện kinh tế, họ sẽ tiến hành làm ma khô
ngay sau khi đem chôn, còn không phải 2 – 3 năm, thậm chí cả chục năm mới có thể
làm.
 Tộc người Phù Lá:
Thi hài người chết để ở giữa nhà, đầu quay về phía bàn thờ, phía trên căng một
chiếc chài rộng, đỉnh chài móc dưới mái nhà. Nước rửa mặt cho người chết không
được đổ đi mà để tự bốc hơi hết. Trong đám tang người Phù Lá rất quan tâm đến việc
giữ gìn hồn vía của những người đi đưa tang để không bị ở lại dưới mộ hay nghĩa địa.
 Tộc người La Hủ:
16


Khi nhà có người chết, người ta bắn súng để đuổi ma và báo cho họ hàng, làng xóm
biết. Người ta cúng tổ tiên, bố mẹ và người thân chỉ vào các dịp cơm mới, ngày tết
tháng bảy hay gieo xong lúa nương, khi cưới xin, ma chay. Không có tục cúng vào
ngày giỗ. Lễ vật duy nhất dâng cho tổ tiên là cơm gói trong lá rừng. Người chết được
chôn trong quan tài độc mộc. Trên mộ không dựng nhà mồ, không có rào bảo vệ.
 Tộc người Cống:

Tang ma của người Cống có nhiều nét riêng. Khi nhà có người chết, phải mời thầy
mo tới làm lễ cúng đưa hồn về với tổ tiên. Việc chọn ngày chôn được coi trọng. Trong
những ngày trước hôm chôn, thường phải cúng cơm cho người chết, buổi tối có các
nghi thức nhảy múa truyền thống. Người chết được đặt trong quan tài bằng thân cây
bổ đôi khoét rỗng, mười hai ngày sau khi chôn người chết con cháu mới lập bàn thờ
trong nhà. Con cái để tang cha mẹ bằng cách cạo trọc đầu (con trai), cắt tóc mai (con
gái) và đội khăn tang cho tới khi cúng cơm mới.
 Tộc người Si La:
Khi có người chết, cộng đồng tổ chức vui chơi ca hát, không khóc. Nghĩa địa
thường để dưới bản, mộ của những người cùng họ thường ở gần nhau. Kiêng đặt mộ
xa giữa những người khác họ. Chọn được đất ưng ý để đặt mộ thì cuốc một nhát, đặt
cục than vào nhát cuốc đó, coi như đất đã có chủ. Sáng hôm sau mới làm nhà táng và
đào huyệt. Quan tài bằng khúc gỗ bổ đôi khoét rỗng. Cúng đưa hồn người chết về quê
hương cũ ở Mồ U. Sau khi chôn, gia đình tang chủ dội nước tắt bếp, mang hết than
củi cũ ra ngoài nhà rồi mới đốt bếp. Không có tục cải táng và tảo mộ. Ðể tang bằng
cách: con trai buộc túm ít tóc trên đỉnh đầu, con gái tháo vòng tay, vòng cổ.
3.4.

Tín ngưỡng:

 Tộc người Hà Nhì:
Người Hà Nhì thờ cúng tổ tiên, chỉ thờ cúng theo gia đình và do con trai cả, dòng
trưởng đảm nhận. Họ còn thờ thần nông nghiệp, thờ thần rừng, thần nước, thần đất,
thần tình duyên.
 Tộc người Lô Lô:
Người Lô Lô thờ tổ tiên là chính. Họ theo tín ngưỡng coi mọi vật đều có linh hồn.
Đứng đầu dòng họ là Thầu chú (Bimaw). Ông này phụ trách việc cúng bái và duy trì
tục lệ của dòng họ. Họ vẫn còn giữ được một vài văn bản tôn giáo cổ viết bằng một
thứ chữ tượng hình của họ. Tôn giáo của họ cũng mang nhiều yếu tố của Đạo giáo và
đạo Phật..

17


 Tộc người Phù Lá:
Người Phù Lá thờ riêng tổ tiên nam để phù hộ cho sức khoẻ, tổ tiên nữ phù hộ cho
mùa màng. Lễ cơm mới chủ yếu cúng ở nơi thờ tổ tiên nữ do phụ nữ đại diện và nữ
giới trong nhà được ăn cơm trước. Lễ cúng bản thường vào tháng hai hàng năm. Họ
thực hiện nhiều nghi lễ tín ngưỡng nông nghiệp trên nương, ruộng. Chiếc chài mới
cũng phải qua lễ cúng mới được dùng.
Thầy cúng giữ vị trí quan trọng trong xã hội. Thày cúng thường được dạy theo cách
truyền khẩu vào các dịp tết tháng giêng, tháng bảy.
 Tộc người La Hủ:
Mỗi gia đnh đều có bàn thờ cha mẹ đã mất ở ngay chỗ nằm của chủ gia đình - con
trai. Lễ cúng vào dịp tết, không cúng trong ngày giỗ. Người La Hủ cũng còn cúng
thần Đất, hồn Lúa, hồn Ngô.
 Tộc người Cống:
Về tôn giáo, người Cống còn mang dấu vết tô tem giáo ( tín ngưỡng thờ vật tổ) rõ
nét với những tục kiêng và thờ các loại chim muông, thú vật,… người Cống tin theo
các nghi lễ tôn giáo liên quan tới các hoạt động, sinh hoạt hàng ngày, ví dụ nếu ai
nhìn thấy những con vật như rắn, tê tê thì phải tổ chức ngay lễ cúng cầu thần linh che
chở.
 Tộc người Si La:
Con cái thờ bố mẹ đã mất. Mỗi bàn thờ phải có chén thờ lấy từ chén cúng cơm bố
mẹ trong ngày làm ma. Nhà có bao nhiêu con trai thì có bấy nhiêu chén và tất cả để
lên bàn thờ. Ðến khi chia nhà thì mang chén đó ra lập bàn thờ riêng. Thờ tổ tiên từ đời
ông trở lên do người trưởng họ đảm nhận. Lễ cúng bàn là lễ cúng quan trọng nhất cầu
mong cả bản không ốm đau, bệnh tật, lợn gà không bị thú rừng bắt trong năm. Cứ 7
năm lại làm lễ cúng hồn lúa, dùng vợt bắt cá, gạo đưa đường để đưa hồn lúa từ nương
về bản, tới nhà rồi cất kỹ trên bồ thóc.
3.5.


Văn hóa nghệ thuật

 Tộc người Lô Lô:
Người Lô Lô một trong những điểm nhấn trong văn hoá của người Lô Lô đó là bộ
trống đồng cổ mà dân tộc này sử dụng trong các dịp cúng thổ thần, tổ tiên và trong
đám tang. Người Lô Lô xem trống đồng là một báu vật thiêng liêng mà cha ông
truyền lại, là biểu tượng sức sống của dân tộc, nối cõi thường với tâm linh.Tộc trưởng
của mỗi họ là người được giữ trống. Trống chỉ được dùng trong các đám tang hoặc
18


đánh để giữ nhịp cho các điệu nhảy múa. Họ là một trong số ít các dân tộc ở Việt Nam
hiện nay còn sử dụng trống đồng trong sinh hoạt. Trống đồng là một nhạc cụ truyền
thống của người Lô Lô gắn liền với huyền thoại về nạn hồng thuỷ. Theo huyền thoại
thì ngày xưa có nạn lụt lớn, nước dâng cao đến tận trời. Có hai chị em nhờ trời cứu để
chị vào trống đồng to, em vào trống đồng nhỏ. Hai chị em thoát chết nhờ trống nổi lên
mặt nước. Hết lụt họ ở trên núi, sống với nhau thành vợ, thành chồng. Họ là thuỷ tổ
của loài người tái sinh.
Người Lô Lô có nền văn nghệ dân gian khá độc đáo với nhiều truyện kể thần thoại,
nhiều làn điệu dân ca trữ tình. Là một trong số ít các dân tộc ở nước ta, hiện nay người
Lô Lô còn dùng trống đồng trong đám tang, đánh nhịp trong múa hát. Nghệ thuật
trang trí của người Lô Lô rất tinh lế, độc đáo chứa đượm nhân sinh quan, vũ trụ quan
cổ điển thể hiện trên y phục, trên trống đồng. Không chỉ tự hào là một trong những
dân tộc có mặt sớm ở vùng đất này, tự hào về nền văn hoá trống đồng cổ, chữ viết
tượng hình xa xưa... mà đồng bào còn tự hào về vốn văn hoá dân gian phong phú của
mình qua những điệu múa, làn điệu dân ca, truyện cổ tích. Những câu chuyện cổ tích
mang vẻ hoang đường, thần thoại những đã phác lên được vũ trụ quan sinh động của
dân tộc này trước các hiện tượng thiên nhiên và xã hội. Những bài ca, tiếng hát chứa
chan tình yêu con người, cuộc sống, thiên nhiên... được ví như là viên ngọc quí đóng

góp vào kho tàng văn học dân gian Việt Nam. . người Lô Lô có Bài ca trời đất, .
Trong đó có thể kể đến nhiều vị thần khai sáng xây dựng vũ trụ: ở người Lô Lô là ông
bà Két Dơ, GaGia, họ là những cặp vợ chồng khai sáng vũ trụ. Trời đất đã được sinh
ra từ sự hôn phối của hai ông bà có tầm vóc kỳ vĩ này. Rõ ràng các tác giả của các
thiên thần thoại cổ của các dân tộc ấy đã lấy sự sáng tạo ra con người làm khuôn mẫu,
thiên nhiên đã được nhân hoá.
 Tộc người Hà Nhì:
Người Hà Nhì có nền văn học dân gian với nhiều thể loại như truyện thần kỳ, cổ
tích, trường ca, ca dao, thành ngữ...
Dân ca, dân vũ là những hình thức văn nghệ được mọi lứa tuổi ưa thích.
Các loại nhạc cụ có trống, chiêng, đàn tính, đàn môi, sáo.
Trẻ em Hà Nhì thích chơi các trò chơi đòi hỏi lòng dũng cảm, khéo léo như đấu vật,
đuổi bắt, trốn tìm, chơi cù, đu quay.Dân tộc Hà Nhì có nền văn hóa, văn nghệ lâu đời,
đậm đà bản sắc dân tộc, bao gồm nhiều loại bài hát, nhiều điệu dân vũ, nhiều kiểu
nhạc cụ và nhiều tác phẩm văn học dân gian. Hát có hát ru con, hát đối đáp, hát mời
rượu, hát đưa ma, hát chào khách, hát mừng nhà mới, đặc biệt là hát mừng đám cưới
19


có độ dài hơn 400 câu của người Hà Nhì ở vùng cao huyện Mường Nhé, tỉnh Điện
Biên. Múa có các điệu múa lên nương, múa dệt vải, múa đợi mưa, múa vào mùa, múa
trông trăng, múa giã bạn… Nhạc cụ có trống, thanh la, chập cheng, am ba, khèn lá,
đàn môi, tiêu trúc, tiêu biểu là đàn nét đu - loại đàn 4 dây hòa âm, mang tên một loài
hoa rừng màu tím. Kho tàng văn học phong phú với các câu truyện cổ tích, thần thoại,
trường ca, truyện thơ, ca dao, thành ngư, tục ngữ. sử thi "P'huỳ ca Na ca" của người
Hà Nhì là sử thi cổ sơ giai đoạn muộn nói về xã hội Hà Nhì ở trình độ phát triển tiền
nhà nước
 Tộc người Si La:
Người Si La hát giao duyên giữa nam nữ thanh niên, hát sử ca. Ngày tết năm mới
vào đầu tháng 12 âm lịch. Ngoài ra họ còn ăn tết cơm mới. Các em nhỏ Si La thường

chơi các đồ chơi tự chế từ tre gỗ hay đất sét. Đồng thời, chúng cũng có các trò chơi
tập thể rất vui nhộn.Người Si La thường dùng lời ca, tiếng hát để gửi gắm cảm xúc
của mình. Đồng bào hát mừng các cháu thêm tuổi, dựng vợ gả chồng, hát giao duyên
giữa các đôi trai gái đang tìm hiểu nhau, hát thay tiếng khóc trong tang ma, hát khi lên
nương, hát khi xuống suối... Vào các dịp lễ tết, dân bản tổ chức hát múa vui vẻ. Nhạc
cụ được người Si La sử dụng nhiều là sáo, đàn, lạc. Những câu ca mượt mà, cuốn hút
"Người con gái kia lưỡi bằng vàng, bằng bạc, sáng như mặt trời, đẹp như mặt trăng"...
Những điệu múa cũng rộn ràng, mê mải lòng người khi tan hội.
 Tộc người La Hủ:
Người La Hủ có trên một chục điệu múa khèn, đàn tre, đàn đơ-đờ đơ, đàn ta- tòta… Mỗi nhạc cụ đều có một âm điệu khác nhau, tạo nên nét trầm bổng du dương lôi
cuốn lòng người, trong đó nhạc cụ sáo rất phong phú, đa dạng và vẫn còn lưu giữ, phổ
biến trong đời sống hiện nay. Với người La Hủ, mọi lứa tuổi đều dùng được các loại
sáo với chung một mục đích thổi lúc vui, lúc buồn, đi nương, đi rừng, tìm hiểu giữa
người con gái và con trai, dịp lễ, tết. Thanh niên thích thổi khèn bầu. Các bài hát tuy
thường dùng tiếng Hà Nhì nhưng có nhịp điệu riêng, trong đó từng ngày được xác
định theo chu kỳ 12 con vật (hổ, thỏ, rồng, chấy, ngựa, cừu, gà, chó, lợn, sóc,
trâu).Chiều chiều, trẻ em thường quây quần bên đống lửa quanh nhà, bên bờ suối vừa
chơi, vừa hát, gõ cây làm nhịp.
 Tộc người Phù Lá:
Người Phù Lá có nhiều truyện cổ tích rất gần với mô tip của người Việt Kho tàng
văn học dân gian của tộc Phù Lá khá phong phú, nhiều truyện cổ tích rất gần với
người Việt, phản ánh tâm tư, tình cảm của người lao động, ca ngợi tình yêu chung
20


thủy, tài năng trí tuệ của tộc người.. Trai, gái Phù Lá thích hát giao duyên. Ở Lào Cai,
người Phù Lá sinh sống nhiều ở xã Bảo Nhai, Lùng Phình (Bắc Hà), Thanh Bình
(Mường Khương).
Người Phù Lá sử dụng kèn, trống trong các dịp lễ hội. Nhạc cụ tiêu biểu là trống
được bưng bằng gia thú, gồm: trống đại, trung, tiểu thường dùng trong lễ hội và việc

liên lạc bằng âm thanh của mỗi gia đình. Các loại nhạc cụ khá phổ biến là bộ hơi gồm:
Khèn bầu (ma nhí) và các loại tiêu, sáo… Đặc biệt là Sáo Cúc Kẹ.Hát kể là thể loại
độc đáo trong kho tàng văn học dân gian của dân tộc Phù Lá và được truyền từ đời
này sang đời khác.

( Sáo cúc kẹ )
 Tộc người Cống:
Nền văn nghệ dân gian Cống khá phong phú với các làn điệu dân ca sâu lắng được
hát vào những dịp lễ hội vui chung. Người Cống thường hát múa vào dịp lễ tết, nhất là
trong đám cưới. Hát đối đáp giữa nhà trai và nhà gái hôm đón dâu ở chân cầu thang
trước khi lên nhà thực sự là một cuộc thi hát dân gian. Trai gái, già trẻ đều vui múa
trong ngày cưới, đặc biệt là điệu múa đầu tiên do các em gái của chàng rể trình diễn
để bắt đầu cuộc vui. Họ vừa múa, vừa giơ cao các tặng vật truyền thống như con gà,
con sóc, cá khô mà người anh trai tặng mình.Đặc biệt người Cống ở Bản Khao
(thường được gọi là Cống Khao) có bài dân ca báo thức trước khi ra họ đồng khá nổi
tiếng và phổ biến.

KẾT LUẬN:
Có thể thấy, 6 dân tộc nhóm văn hóa ngôn ngữ Tạng - Miến là 6 sắc thái tương
đồng nhưng vẫn có những điểm khác nhau. Trải qua quá trình lịch sử lâu dài, các dân
tộc này vẫn giữ được những nét văn hóa truyền thống. Đó là điều đáng quý. Ngày nay,
chính sách của nhà nước đã cởi mở hơn, các dân tộc thiểu số đã có nhiều điều kiện
21


tiếp xúc với văn hóa tiên tiến. Bên cạnh việc tiếp thu cái mới, các dân tộc nhóm ngôn
ngữ Tạng - Miến luôn hướng về cội nguồn và phát triển văn hóa mình.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Từ điển bách khoa mở Wikimedia

2. />3. />4. />22


5. />
THỰC HIỆN:
1. Mai Thị Phương Mai
2. Đinh Thị Thanh Vy
3. Lê Thị Thanh Tâm
4. Nguyễn Thị Ánh Ly
23


5. Nguyễn Thị Thúy Mỹ
6. Đặng Thị Diễn
7. Hồ Thị Quỳnh

24



×