Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

bảo hiểm y tế của các nước phát triển đức nhật, pháp , hà lan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.47 KB, 19 trang )

Trường đại học lao động xã hội

Khoa Bảo hiểm

LỜI MỞ ĐẦU
Sống khoẻ mạnh là mong muốn chính đáng của mỗi cá nhân trong xã hội.
Song trong một đời người theo chu kỳ sống bình thường “sinh - lão - bệnh - tử”,
con người khó có thể tránh khỏi những lúc gặp rủi ro, ốm đau, bệnh tật ... khi đó
nhu cầu được chăm sóc, khám chữa bệnh trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Xuất
phát từ nhu cầu tự bảo vệ trước những rủi ro ốm đau, bệnh tật, bảo hiểm y tế đã
ra đời và ngày càng phát triển.
Đức, Pháp ,Nhật, Hà Lan là những nước phát triển. Ở đây, có hệ thống
BHYT rất phát triển và tồn tại từ rất lâu đời. Hệ thống BHYT của bốn nước đều
dựa trên mô hình Bismarck, tuy nhiên ở mỗi nước lại có những quy tắc tham
gia, PTTT, nguồn quỹ… khác nhau tuỳ thuộc vào chất lượng cuộc sống, điều
kiện kinh tế, văn hoá chính trị… Nhưng nhìn chung thì vẫn có những nét tương
đồng.
Để học hỏi và tìm ra những giải pháp cho nền BHYT của Việt Nam.Chúng
em xin được chon đề tài là “Bảo hiểm y tế của các nước phát triển Đức, Nhật,
Pháp, Hà Lan” làm đề tài nghiên cứu viết chuyên đề bảo hiểm y tế của nhóm
mình. Đề tài gồm có 3 nội dung chính:
I. T ổng quan.
II. Thực trạng hệ thống, về quỹ BHYT, về PPTT của các nước Pháp, Đức,
Nhật, Hà Lan.
III. Thách thức và giải pháp để hướng tới phát triển bền vững.
Do còn hạn chế về trình độ kiến thức cũng như các tài liệu tham khảo nên
còn có nhiều thiếu sót, hạn chế. Em rất mong thầy đóng góp ý kiến,chỉ bảo
những thiếu sót trong bài viết này để các lần viết sau em có điều kiện nâng cao
chất lượng của bài viết.
Em xin chân thành cảm ơn Thầy !


Nhóm 10 - Lớp Đ4BH1

Page 1


Trường đại học lao động xã hội

Khoa Bảo hiểm

CÁC THUẬT NGỮ VIẾT TẮT
BHXH

: Bảo hiểm xã hội

BHYT

: Bảo hiểm y tế

LĐ- TB&XH

: Lao động –Thương binh & Xã hội

TW

: Trung ương

PTTT

: Phương thức thanh toán


KCB

: Khám chữa bệnh

DVYT

: Dịch vụ y tế

CSSK

: Chăm sóc sức khỏe

DN

: Doanh nghiệp

NLĐ

: Người lao động

NSDLĐ

: Người sử dụng lao động

Nhóm 10 - Lớp Đ4BH1

Page 2


Trường đại học lao động xã hội


Khoa Bảo hiểm

I. TỔNG QUAN
Khoảng 2500 năm trước công nguyên ,một dạng hoạt động bảo hiểm đã
xuất hiện ở Ai Cập ,những người công nhân xây dựng kim tự tháp đã thành lập
ra một quỹ giúp đỡ lẫn nhau khi có tai nạn xảy ra. Năm 1424 tại Genes Bảo
hiểm ngành vận tải đường bộ và đường biển được thành lập. Năm 1672 công ty
bảo hiểm nhân thọ đầu tiên được thành lập ở London. Đến đầu thế kỷ XIX, hàng
loạt các công ty bảo hiểm lớn ra đời tại Pháp. Năm 1936 các thoả thuận tập thể
theo ngành xuất hiện, kéo theo sự ra đời của BHYT nhóm bao gồm bảo hiểm
nhân thọ và bảo hiểm bênh tật. Năm 1945, BHXH ra đời bảo hiểm bệnh tật, bảo
hiểm già yếu, bảo hiểm tai nạn lao động.
Như vậy, chính sự tồn tại của các loại rủi ro là nguồn gốc phát sinh các
hoạt động dự trữ bảo hiểm. Có thể nói Người tham gia bảo hiểm chuyển giao
một phần hoặc toàn bộ rủi ro cho người nhận bảo hiểm bằng cách nộp một
khoản phí để hình thành nên quỹ dự trữ hay quỹ BH. Và khi người tham gia gặp
phải rủi ro hoặc tổn thất thì người bảo hiểm phải có trách nhiệm bồi thường cho
họ bằng quỹ dự trữ bắt buộc đó trong phạm vi được bảo hiểm.Và phạm vi bảo
hiểm là những nguy cơ rủi ro mà người tham gia bảo hiểm đăng ký với người
bảo hiểm.
Năm 1883, ở Cộng hoà liên bang Đức đã thành lập quỹ ốm đau, bệnh
tật. Quỹ này bắt buộc những người công nhân phải tham gia đóng góp để hỗ trợ
cho những người ốm đau, bệnh tật. Đây là hệ thống BHYT đầu tiên trên thế giới,
kể từ đây nhiều hoạt động, hình thức hỗ trợ kinh phí cho các hoạt động y tế đã
được phát triển trên khắp thế giới như một hệ thống tài trợ y tế quốc gia. Theo
thời gian các hệ thống này phát triển không ngừng hướng tới mục tiêu “Cải thiện
sức khoẻ dân cư bằng sự đảm bảo chăm sóc y tế; cung cấp các dịch vụ CSSK
thích hợp có chất lượng cao; duy trì mức chi phí ổn định để đảm bảo khả năng
sử dụng các dịch vụ y tế của đông đảo cộng đồng dân cư”. Cùng với sự phát

triển của nền kinh tế, đời sống dân cư ngày càng nâng cao và từ đó nhu cầu
Nhóm 10 - Lớp Đ4BH1

Page 3


Trường đại học lao động xã hội

Khoa Bảo hiểm

khám chữa bệnh cũng ngày một tăng. Hơn nữa các loại hình bệnh tật ngày càng
đa dạng và phức tạp, một số bệnh mới nguy hiểm xuất hiện với tần suất ngày
càng lớn, tốc độ lây lan nhanh, chúng đe dọa tới đời sống của con người.Trong
khi chi phí khám chữa bệnh ngày càng gia tăng do sử dụng các trang thiết bị y tế
hiện đại, đắt tiền trong việc chuẩn đoán, điều trị bệnh cũng như sự gia tăng giá
của các loại biệt dược do sự biến động giá gây ra. Do đó, phải huy động sự đóng
góp của các thành viên trong xã hội nhằm giảm gánh nặng NSNN và cũng để
phục vụ chính bản thân người bệnh khi gặp rủi ro về sức khoẻ, chăm sóc y tế.
Như vậy, chính sách về BHYT ngày càng chứng tỏ được tầm quan trọng của nó
trong đời sống của người dân cũng như đối với sự phát triển của toàn xã hội.
Ngày nay, đã có nhiều mô hình Bảo hiểm Y tế ra đời trên thế giới nhằm
phù hợp với hoàn cảnh riêng biệt của mỗi quốc gia, xứ sở. Mỗi mô hình BHYT
ở một quốc gia đều có những mặt tích cực và tiêu cực riêng, vì vậy tìm hiểu rõ
những mô hình BHYT tiên tiến trên thế giới sẽ giúp mỗi quốc gia xây dựng cho
mình một mô hình BHYT tốt nhất phù hợp với hoàn cảnh đất nước mình.
Mô hình BHYT của Đức, Pháp, Hà Lan và Nhật Bản đều là những mô hình
BHYT tồn tại lâu đời, tiên tiến và thật sự rất đáng để chúng ta tìm hiểu và học
tập.

Nhóm 10 - Lớp Đ4BH1


Page 4


Trường đại học lao động xã hội

Khoa Bảo hiểm

II. THỰC TRẠNG HỆ THỐNG, QUỸ BHYT, PTTT BHYT Ở PHÁP,
ĐỨC, NHẬT, HÀ LAN
2.1 Thực trạng hệ thống BHYT của các nước Pháp, Đức ,Nhật ,Hà Lan
Cho đến nay,BHYT đã được thực hiện ở hàng trăm nước trên thế giới.Về
bản chất, BHYT ở các nước có nhiều điểm tương đồng nhưng tuỳ theo những
mục tiêu đã được đề ra mà hệ thống thực hiện BHYT được thực hiện theo các
mô hình khác nhau. Trên thế giới hiện có nhiều hê thống BHYTkhác nhau để
giải quyết vấn đề chămsóc sức khoẻ cho người dân nhưng nhìn chung đều từ 3
hệ thống BHYT sau:
- Hệ thống BHYT hoạt động từ thuế (Beveridge)
- Hệ thống BHYT hoạt động từ quỹ BHYT xã hội (Bismarck)
- Hệ thống BHYT hoạt động từ quỹ BHYT thương mại
Đức, Pháp, Hà Lan và Nhật Bản tuy vị trí địa lý và hoàn cảnh kinh tế xã hội
khác biệt nhưng lại có điểm chung trong việc xây dựng mô hình BHYT cho đất
nước mình. Đó là đều xây dựng trên nền tảng mô hình BHYT Bismacrk, mô
hình này được Thủ tướng Đức Bismarck đã luật hoá và hoạt động theo cơ chế
BHYT vào năm 1883. Trong mô hình này, nguồn tài chính để thực hiện dựa trên
cơ sở sự tham gia BHYT bắt buộc (có cả tự nguyện) của các chủ thể .Tài chính
BHYT thường gắn liền với quỹ BHXH. Nhà nước chỉ hỗ trợ cho một số đối
tượng đặc biệt. Dựa trên mô hình này, BHYT có thể bao phủ đến tất cả các
nhóm dân cư trong cộng đồng, tính cộng đồng và công bằng trong BHYT được
đảm bảo.

Hiện nay mô hình BHYT Bismarck đã tồn tại ở nước Đức hơn 100 năm và
trở thành một trong mười hai mô hình BHYT công bằng nhất thế giới.
Để tìm hiểu một mô hình BHYT trước hết chúng ta phải biết được một
cách tổng quát về hệ thống BHYT của nước đó. Có thể nói hệ thống BHYT như
là xương sống của một mô hình BHYT, bởi vì nếu hệ thống BHYT không được
tổ chức khoa học thì không thể vận hành trơn tru được và sẽ gây ra rất nhiều khó
khăn cho công cuộc hoàn thiện mô hình BHYT đó.
Nhóm 10 - Lớp Đ4BH1

Page 5


Trường đại học lao động xã hội

Khoa Bảo hiểm

- Germany
Năm 1883, nước Đức dưới thời Thủ tướng Bismark đã ban hành đạo luật
BHYT. Theo đạo luật này, hệ thống BHYT ra đời với sự tham gia bắt buộc của
cả người làm công ăn lương và giới chủ, nhằm bảo vệ người lao động, đồng thời
giảm thiểu chi phí bồi thường của giới chủ. Nhà nước giữ vai trò quản lý, giám
sát, định hướng hoạt động BHYT theo luật định.
Do có hệ thống luật pháp khá hoàn thiện, BHYT ở Đức phát triển nhanh
chóng. Nếu như những năm đầu tiên Nhà nước ban hành luật BHYT mới chỉ có
khoảng 5% dân số tham gia BHYT, thì đến thập kỷ 70 của thế kỷ 20 đã có 90%
dân số tham gia BHYT. Theo quy định của luật pháp, hai loại hình BHYT công
và BHYT tư nhân đang tồn tại và phát triển. BHYT công (Gesetzliche
krankenversicherung - GKV), là hình thức bảo hiểm mang tính chất nghĩa vụ bắt
buộc, hoạt động theo nguyên tắc tương trợ cộng đồng: người giàu hỗ trợ tài
chính cho người nghèo, người không có con hoặc ít con hỗ trợ tài chính cho

người có con, nhiều con. BHYT tư nhân(Private krankenversicherung - PKV) là
bảo hiểm thương mại, bảo hiểm căn cứ vào rủi ro của cá nhân.Vào năm 2006,có
khoảng 87,5% người là thành viên của BHYT công, 12,5% người là thành viên
của BHYT tư nhân.Những người làm công ăn lương, có mức lương thấp phải có
BHYT công; phí bảo hiểm được giới hạn ở một mức giá định trước và chính phủ
bồi hoàn chi phí cho họ.Những người có mức lương cao hơn tham gia BHYT
công phải trả phí BH dựa vào mức lương của họ; những người này có thể tham
gia BHYT tư nhân.
BHYT ở Đức không tổ chức thống nhất theo ngành dọc từ Trung ương đến
địa phương, mà các Quỹ BHYT được phân loại theo các tiêu chí nghề nghiệp –
xã hội. Vai trò của Nhà nước chỉ giới hạn trong việc lập pháp, giám sát và pháp
lý. Trực thuộc Bộ Y tế và Xã hội có Cục BHYT Liên bang tham mưu cho Bộ
thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về hoạt động BHYT.

Nhóm 10 - Lớp Đ4BH1

Page 6


Trường đại học lao động xã hội

Khoa Bảo hiểm

- France
Cùng nằm trong một châu lục, lại bắt nguồn từ một nền tảng giống nhau
nhưng BHYT Pháp lại có sự khác biệt với BHYT Đức. Hệ thống an sinh xã hội
của Pháp được xây dựng từ những năm 1945 – 1946, ngay sau khi Chiến tranh
Thế giới thứ II kết thúc. Mục đích của hệ thống này là bảo đảm cho người dân
trong mọi hoàn cảnh đều có thể có những phương tiện cần thiết để tồn tại trong
những điều kiện chấp nhận được. Hệ thống an sinh xã hội của Pháp bao gồm các

quỹ BHYT (bệnh tật thông thường, bệnh nghề nghiệp và cả trường hợp tai nạn
lao động), quỹ dành cho người già, quỹ dành cho trợ cấp gia đình và quỹ cho trợ
cấp thất nghiệp.
Hệ thống BHYT của Pháp phát triển hơn 100 năm qua và được Tổ chức y
tế thế giới (WHO) xếp loại hệ thống BHYT tốt nhất thế giới vào tháng 06 năm
2000. Nó cho phép tất cả công dân Pháp được tiếp cận với cách điều trị tiên tiến
nhất. Sự thành công của hệ thống BHYT Pháp được chứng minh qua sức khoẻ
chung của dân số Pháp, tuổi thọ của người dân Pháp tăng lên ba tháng mỗi năm,
tuổi thọ của nữ giới cao đứng thứ 2 thế giới. Chính phủ Pháp cung cấp sự chăm
sóc y tế đa dạng và toàn diện. Hơn 96 phần trăm dân số, được chăm sóc y tế
hoàn toàn miễn phí hoặc được hoàn lại 100% khi xảy ra rủi ro nếu tham gia
BHYT (đó là những người nghèo, những người mắcbệnh mãn tính) .Người Pháp
cũng có quyền lựa chọn giữa các nhà cung cấp chăm sóc y tế, không phân biệt
mức thu nhập của họ.
Chế độ BHYT ở Pháp có tính bắt buộc và độc quyền. Bắt buộc vì toàn dân
và cả những người nước ngoài cư trú tại Pháp đều phải đóng góp vào hệ thống
BHYT này, không có sự chọn lựa nào khác. Độc quyền vì mặc dù các công ty tư
nhân đứng ra phụ trách việc thu, quản lý và phân phát lại quỹ BHYT nhưng họ
hoạt động cho Nhà nước và hoàn toàn không có sự cạnh tranh của các công ty
khác. Các công ty này hoạt động phi lợi nhuận và hàng tháng phải hạch toán
kinh phí chăm sóc sức khỏe với Nhà nước.

Nhóm 10 - Lớp Đ4BH1

Page 7


Trường đại học lao động xã hội

Khoa Bảo hiểm


-Hà Lan
Kể từ tháng 01 năm 2006 Hà Lan đã giới thiệu một hệ thống mới bảo hiểm
y theo Đạo Luật Bảo hiểm Y tế 2006 (Zorgverzekeringswet), thay thế hệ thống
bảo hiểm phòng ngừa bệnh tật trước đây (Ziekenfonds) . Mọi người sống ở Hà
Lan đều có nghĩa vụ mua bảo hiểm y tế theo Luật này (kể cả những người nước
ngoài định cư ở Hà lan và có 1 khoản thu nhập, trừ trường hợp những người
định cư tạm thời ở Hà lan thì không bắt buộc tham gia BHYT bắt buộc).
Hệ thống được quản lý bởi công ty bảo hiểm tư nhân, và cá nhân có thể lựa
chọn tham gia vào công ty bảo hiểm tư nhân mình muốn.Theo yêu cầu của pháp
luật, tất cả các công ty chấp nhận bất cứ ai có nhu cầu chăm sóc sức khỏe. Chính
phủ chịu trách nhiệm về chất lượng chăm sóc sức khoẻ và khả năng tiếp cận các
dịch vụ chăm sóc với người dân.
Mọi người sẽ được chăm sóc sức khỏe theo các gói bảo hiểm cơ
bản. Những khoản chi phí được hỗ trợ trong các gói bảo hiểm cơ bản:
•Chăm sóc y tế, bao gồm dịch vụ của bác sỹ, bệnh viện, các chuyên gia y
tế, bác sỹ sản khoa.
•Chăm sóc răng miệng (cho đến khi 18 tuổi, 18 tuổi trở lên chỉ chăm sóc
nha khoa và chuyên khoa răng giả)
•Các thiết bị y tế
•Một số loại thuốc
•Khám thai
•Chi phí xe cứu thương, chi phí vận tải
•Chăm sóc phục hồi chức năng (có giới hạn vật lý trị liệu, phục hồi chức
năng, và tư vấn chế độ ăn uống).
Ngoài các gói bảo hiểm cơ bản, người dân Hà lan có thể tham gia bảo hiểm
bổ sung cho các trường hợp không nằm trong gói bảo hiểm cơ bản. Tuy nhiên
trong trường hợp này cơ quan bảo hiểm có thể từ chối việc họ tham gia bảo
hiểm bổ xung hoặc cơ quan bảo hiểm có quyền xác định giá.
Nhóm 10 - Lớp Đ4BH1


Page 8


Trường đại học lao động xã hội

Khoa Bảo hiểm

Trẻ em dưới 18 tuổi được miễn phí hoàn toàn chi phí trong gói bảo hiểm cơ
bản. Những người trên 18 tuổi sẽ phải đóng góp một khoản tiền danh nghĩa, tuy
có sự khác nhau giữa các công ty bảo hiểm, nhưng chỉ dao động trong khoảng
trên dưới 90 euro một tháng. Những người có thu nhập thấp có thể được hỗ trợ
từ chính phủ nếu họ không có đủ khả năng thanh toán.
Mỗi người dân được tự do lựa chọn công ty bảo hiểm và được tự do thay
đổi công ty bảo hiểm mỗi năm một lần.
- Nhật Bản
Hệ thống an sinh ở Nhật gồm có bốn trụ cột chính: BHXH bắt buộc,
BHYT công, phúc lợi xã hội, trợ cấp xã hội. Hệ thống BHYT công của Nhật
được bao phủ tới tất cả công dân Nhật, bất cứ ai cũng có thể tham gia BHYT
công, kể cả những người nước ngoài. Nhật Bản có ba loại bảo hiểm y tế:
* Bảo hiểm y tế cho người lao động: là sự phân chia đóng góp giữa người
lao động và người sử dụng lao động. Người sử dụng lao động cung cấp giấy
chứng nhận cho người lao động của họ. Phí bảo hiểm được tính dựa trên mức
lương hàng tháng của người lao động.
* Bảo hiểm y tế quốc gia: là hình thức Nhà nước cung cấp các dịch vụ
chăm sóc sức khỏe có sự hỗ trợ chi phí từ ngân sách nhà nước như ốm đau, bệnh
tật…. Bất cứ ai đang sống tại Nhật mà không được bảo hiểm bởi bảo hiểm cho
NLĐ (Đặc biệt là người nông dân, người lao động tự làm chủ, người về hưu…)
thì được đăng ký tham gia BHYT quốc gia. Phí BH được tính dựa trên thu nhập
của người tham gia.

* Bảo hiểm y tế cho người già: BHYT tuổi già được giới thiệu từ năm 1983
để chia sẻ chi phí chăm sóc cho những người trên 70 tuổi hoặc người tàn tật trên
65 tuổi, theo tỷ lệ 70 phần trăm tổng chi phí được bao phủ bởi tất cả các quỹ ốm
đau, 20 phần trăm của chính phủ quốc gia, và 10 phần trăm của chính quyền địa
phương.

Nhóm 10 - Lớp Đ4BH1

Page 9


Trường đại học lao động xã hội

Khoa Bảo hiểm

BHYT Nhật cho phép những người bệnh được tự do lựa chọn bác sỹ, cơ sở
khám chữa bệnh, mà không thể bị từ chối bảo hiểm. Chi phí y tế của Nhật thấp
so với các nước phát triển khác.
2.2.2. Quỹ bảo hiểm y tế của các nước France, Germany, Japan và
Netherlands
Bảo hiểm y tế có thể hoạt động được phải dựa vào nguồn quỹ của nó vì vậy
quỹ bảo hiểm y tế là vấn đề hết sức quan trọng. Mỗi một quốc gia lại có nguồn
hình thành quỹ và cách sử dụng quỹ có những nét tương đồng và những nét
khác nhau.
- Germany

Ở Đức

quỹ bảo hiểm y tế ( BHYT) không phải là một quỹ duy nhất mà


bao gồm nhiều quỹ bảo hiểm y tế nhỏ của các ngành gộp lại. Năm 1990 quỹ
BHYT của Đức bao gồm 20.000 quỹ BHYT đến năm 2004 chỉ còn 1200 Quỹ
BHYT, năm 2005 còn 260 quỹ đang tồn tại và hoạt động. Các quỹ BHYT lớn
hiện nay gồm có: Quỹ BHYT địa phương; Quỹ BHYT Xí nghiệp; Quỹ BHYT
ngành; Quỹ BHYT Nông nghiệp; Quỹ BHYT Hàng hải; Quỹ BHYT ngành mỏ;
Quỹ BHYT thay thế dành cho viên chức; Quỹ BHYT thay thế dành cho công
nhân.. Người lao động có thể lựa chọn cho mình quỹ BHYT phù hợp nhất để
tham gia. Các quỹ bảo hiểm y tế được quản lý bởi Hội đồng Quản lý quỹ BHYT
là tổ chức tự quản, 6 năm 1 lần tổ chức này bầu cử lại để chọn ra các thành viên
của mình. Hội đồng Quản lý có các thành viên đại diện cho người lao động, chủ
sử dụng lao động, cơ quan BHYT...Nguồn hình thành lên quỹ chính là sự đóng
góp của người lao động. Người lao động có thu nhập từ 3900$ trở lên có quyền
lựa chọn tham gia bao hiểm hoạc không tham gia.Người thân của họ sẽ được
tham gia cùng nếu họ tham gia bảo hiểm y tế và được miễn đóng phí.Người về
hưu thì tham gia theo luật định.Còn các đối tượng khác tham gia tự nguyện. Mỗi
một quỹ bảo hiểm y tế lại có mức đóng khác nhau.Ví dụ, Quỹ BHYT AOK
Nhóm 10 - Lớp Đ4BH1
10

Page


Trường đại học lao động xã hội

Khoa Bảo hiểm

(BHYT địa phương), mức thu 14,4% tổng tiền lương; Quỹ BHYT TK, thu
13,7%; BHYT xí nghiệp thu 13,9%... Mức thu BHYT giữa các quỹ dao động từ
10,2% đến 15,7% tổng tiền lương. Người về hưu đóng phí BHYT từ tiền lương
hưu của mình 50% mức đóng, Nhà nước đóng 50% cho họ.

Luật BHYT Đức quy định, nếu quỹ BHYT có kết dư, năm sau quỹ đó phải
giảm mức đóng, ngược lại, nếu trong năm bị bội chi, các quỹ có quyền tăng mức
phí BHYT cho phù hợp đảm bảo cân đối thu chi. Ngoài ra, Luật BHYT cho
phép các quỹ BHYT được lập quỹ dự phòng, với mức quy định không vượt quá
phạm vi chi trong một tháng và tối thiểu phải đủ chi trong một tuần. Các quỹ
BHYT được trích 5% tổng thu lập quỹ chi quản lý hành chính. Tiền tạm thời
nhàn rỗi của quỹ BHYT chỉ được gửi ngân hàng, mua công trái, không được đầu
tư vào các lĩnh vực khác.
Đóng bảo hiểm y tế được chia 50-50 giữa người sử dụng lao động và người
lao động, độc lập vào việc bạn lựa chọn không cho một chương trình bảo hiểm
theo luật định hoặc tư nhân. Nhân viên có thu nhập thường xuyên trước khi khấu
trừ không vượt quá 400 € mỗi tháng và dưới đây vẫn còn một giới hạn quy định
hàng năm. Trong năm 2006, nói chung hàng năm tổng thu nhập giới hạn cho bảo
hiểm nhà nước bắt buộc là € 47,250.
Có hai loại bảo hiểm y tế ở Đức. Đây là những "công cộng" và "tư nhân"
hệ thống. Hệ thống này thường gây nhầm lẫn đáng kể. Nếu bạn đang làm việc
tại Đức và bạn đang có thu nhập thấp hơn ngưỡng (Versicherungspflichtgrenze)
EUR 48.600. Tổng mỗi năm (EUR 4.050 tổng mỗi tháng), bạn sẽ được tự động
và bảo hiểm bắt buộc trong một chương trình bảo hiểm y tế công cộng. Điều này
cũng đúng cho học sinh tại một tiểu bang hay tiểu bang chấp thuận trường đại
học ở Đức và chắc chắn tập quá. Điều này cũng có nghĩa là người sử dụng lao
động của bạn không có tùy chọn chấp nhận một chương trình bảo hiểm người
nước ngoài.
Nhóm 10 - Lớp Đ4BH1
11

Page


Trường đại học lao động xã hội


Khoa Bảo hiểm

- France

Pháp cũng là một nước có hệ thống bảo hiểm y tế pháp triển rất toàn
diện. Quỹ BHYT cũng có nét tương đồng với Đức là không phải là 1 quỹ duy
nhất mà bao gồm các quỹ BHYT (bệnh tật thông thường, bệnh nghề nghiệp và
cả trường hợp tai nạn lao động), quỹ dành cho người già, quỹ dành cho trợ cấp
gia đình và quỹ cho trợ cấp thất nghiệp. Nhưng ở Pháp quỹ BHYT là do các
công ty tư nhân quản lý thu quản lý và phân phát lại quỹ BHYT nhưng họ hoạt
động cho Nhà nước và hoàn toàn không có sự cạnh tranh của các công ty
khác.Nguồn quỹ BHYT Pháp được hình thành là do người lao động đóng góp
.Những người có thu nhập dưới 562 euro 1 năm không phải đóng quỹ, phụ nữ
mang thai va trẻ con dưới 16 tuổi.Trước khi cải cách của hệ thống vào năm
1998, 12,8% thu nhập của người lao động do người sử dụng lao đông đóng, còn
lại 6,8% là người lao động đóng.
Về chi phí khám bệnh thì quỹ sẽ chi từ 35 – 70%, chi phí thuốc men thì từ
15 – 100%, do đó hầu như mọi người vẫn phải mua thêm bảo hiểm sức khỏe ở
ngoài để tất cả các chi phí khám chữa bệnh được hoàn lại 100%.
Những năm gần đây, tình hình quỹ an sinh xã hội của Pháp gặp rất nhiều
khó khăn, nhất là quỹ BHYT. Thâm hụt của quỹ ngày càng tăng, số nợ đã lên
đến gần 6 tỷ euro vào năm 2006. Do đó, người ta phải đề ra nhiều biện pháp,
như chuyển từ chế độ miễn phí hoàn toàn sang chế độ đóng góp – mỗi lần khám
bệnh phải trả 1 euro, mỗi lọ thuốc sẽ đóng 0,5 euro, mỗi lần dùng xe cứu thương
góp 2 euro… (trừ trẻ em dưới 16 tuổi, phụ nữ có thai và những người có thu
nhấp thấp là những người được phát thẻ CMU – thẻ khám chữa bệnh miễn phí).
- Netherlands

Ở Hà Lan bảo hiểm y tế có 2 loại là công cộng và tư nhân. Vì vậy quỹ

bảo hiểm y tế cũng có 2 hệ thống quỹ là công cộng và tư nhân. Nguồn hình
thành lên quỹ cũng là từ người lao động .Phí bảo hiểm hàng tháng cho việc
Nhóm 10 - Lớp Đ4BH1
12

Page


Trường đại học lao động xã hội

Khoa Bảo hiểm

chăm sóc sức khỏe cá nhân của người lớn phải nộp là khoảng 100 € / tháng.
Người thu nhập thấp có thể nhận được hỗ trợ từ chính phủ nếu họ không đủ tiền
thanh toán này. Trẻ em dưới 18 tuổi được bảo hiểm bởi hệ thống mà không mất
thêm chi phí cho họ hoặc gia đình của họ, vì các công ty bảo hiểm nhận được
các chi phí này từ kinh phí của bộ điều chỉnh.
Chi phí cho việc chăm sóc sức khỏe cho người lao động luôn được ưu tiên
hàng đầu.
- Nhật Bản

Khác với ở các nước châu Âu quỹ bảo hiểm y tế của Nhật bản có những
nét riêng. Chi phí bảo hiểm y tế ở Nhật Bản được tài trợ bởi thuế tiền lương trả
bằng sử dụng lao động và người lao động và tiền đóng bảo hiểm dựa trên thu
nhập trả tự do sử dụng.
Chế độ BHYT về cơ bản được chia ra làm 2 loại hình chính: BHYT cho
người lao động, thực hiện theo nơi làm việc; BHYT quốc gia, thực hiện theo vị
trí địa lí. Việc tổ chức thực hiện BHYT do các công ty, tập đoàn, các hiệp hội,
Chính phủ, chính quyền các thành phố đảm nhiệm. Do đó, hiện nay tại Nhật Bản
có đến hàng ngàn quỹ BHYT hoạt động theo luật định

Bảo hiểm y tế của Nhật bản bao gồm bảo hiểm y tế công công, bảo hiểm y
tế quốc gia. Các quỹ này có nguồn thu khác nhau. Từ nguồn đóng góp của người
lao động, người sử dụng lao động, thuế nhà nước thu từ các doanh nghiệp.
Nguồn quỹ BHYT Nhật Bản được hình thành từ đóng góp của người lao
động, chủ sử dụng lao động và tài trợ của Nhà nước. Mức đóng góp chung cho
người cho người lao động là 8,2%, ngư dân 9,1%, người lao động tại các hiệp
hội từ 3% đến 9,5%, người lao động làm việc theo ngày 1,31 lần mức tiền công
trung bình hàng ngày nhân với tỷ lệ đóng góp chung, BHYT cộng đồng là
530.000 yên/năm/hộ gia đình. Trách nhiệm đóng góp phí BHYT được chia đều,
người lao động đóng một nửa, chủ sử dụng lao động đóng một nửa, nhưng phần

Nhóm 10 - Lớp Đ4BH1
13

Page


Trường đại học lao động xã hội

Khoa Bảo hiểm

đóng góp của người lao động tham gia các quỹ hiệp hội BHYT không được vượt
quá 4,5% tiền công.
Đối với quỹ BHYT cho người lao động do Chính phủ quản lý ngân sách
Nhà nước hỗ trợ: chi phí quản lý, 13,0% chi phí của các dịch vụ y tế, trợ cấp
thương tật, ốm đau, thai sản, dịch vụ y tế chi phí cao, 16,4% cho các dịch vụ y tế
cho người già và bảo hiểm chăm sóc dài ngày. Đối với BHYT cộng đồng, Chính
phủ tài trợ 50% chi phí dịch vụ y tế cho quỹ BHYT của chính quyền địa
phương, 47% quỹ BHYT của hiệp hội. Số tiền giảm phí đóng góp cho một số
đối tượng của quỹ BHYT cộng đồng được hỗ trợ 50% từ ngân sách nhà nước,

25% từ ngân sách địa phương và 25% từ ngân sách của thành phố.
2.3. Thách thức và giải pháp để hướng tới phát triển bền vững
Thách thức chung đối với hệ thống BHYT của các nước hiện nay là tình
trạng thâm hụt quỹ BHYT, không cân đối thu-chi do chi BHYT gia tăng. Đối
với cả bốn quốc gia trên, chi phí BHYT đã tăng đáng kể trong mười năm qua.
Chi phí BHYT của Nhật Bản, Đức, Pháp và Hà Lan tăng trung bình hàng năm
trong tổng số chi phí y tế từ năm 1992 đến năm 2001 lần lượt là 3,48%, 3,75%
và 3,98% và 0,1%. Tình trạng thâm hụt quỹ BHYT xảy ra liên tục trong những
năm gần đây. Tuy nhiên các nhà lãnh đạo không muốn tăng mức phí lên quá
cao, ảnh hưởng đến thu nhập của người làm công ăn lương.
Nguyên nhân của tình trạng trên là do:
Tuổi thọ trung bình cao hơn kết hợp với tỷ lệ sinh thấp hơn dẫn đến dân
số già ở hầu hết các nước công nghiệp. Ở Nhật Bản, tỷ lệ những người trên 65
tuổi đã tăng từ 5,7%, một tỷ lệ phần trăm của tổng dân số vào năm 1960, lên
17,4% vào năm 2000. Đồng thời, tỷ lệ những người trẻ tuổi từ 0 đến 19 năm đã
giảm từ 40,1% đến 20,1% tổng dân số. Những thay đổi trong ba nước châu Âu
dù không mạnh mẽ bằng, tuy nhiên số lượng những người trên 65 tuổi cũng đã

Nhóm 10 - Lớp Đ4BH1
14

Page


Trường đại học lao động xã hội

Khoa Bảo hiểm

tăng từ 11,6% lên 16,4% ở Đức, từ 11,6% đến 16,1% ở Pháp và từ 9,0% đến
13,6% ở Hà Lan theo tỷ lệ phần trăm của tổng dân số.

Số tiền đóng góp của người cao tuổi không đủ để bù đắp cho chi phí y tế mà họ
sử dụng. Điều này không những gây thâm hụt cho quỹ BHYT hiện thời mà còn
là gánh nặng đóng góp quỹ BHYT cho những thế hệ sau.
Áp dụng các công nghệ hiện đại cũng là một nguyên nhân làm tăng chi
phí y tế. Một số chuyên gia ước tính khoảng 50% tổng chi phí y tế được dùng
cho công nghệ mới. Đó là chi phí cho việc mua các sáng chế, đầu tư công nghệ,
trang thiết bị và chi phí để đội ngũ cán bộ y tế đưa được công nghệ vào quá trình
điều trị cho người bệnh.
Nhiều nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe và người bệnh có xu
hướng ưa thích điều trị bằng dịch vụ y tế kĩ thuật cao, chi phí lớn, mặc dù điều
này không phải lúc nào cũng đem lại kết quả vượt trội .
Trong nhận thức và lối sống của người dân, việc phòng ngừa và điều trị
khi bệnh còn ở mức triệu chứng là chưa cao, đặc biệt là với những bệnh của xã
hội hiện đại như hen suyễn hay tiểu đường.
Kết cấu yếu kém của hệ thống là yếu tố làm tăng đáng kể chi phí BHYT.
Hệ thống BHYT ở mỗi quốc gia đều chứa đựng yếu điểm nhất định. Điều này
dẫn đến những thất thoát trong quá trình phân bổ nguồn quỹ phúc lợi. Mất phúc
lợi này dẫn đến gia tăng trong quá trình phân phối lại nguồn kinh phí của người
sử dụng BHYT dù họ không được hưởng lợi ích từ sự gia tăng đó. Như vậy, chi
phí BHYT cao hơn thực sự cần thiết và các nguồn lực được phân bổ không hiệu
quả. Mất phúc lợi này là do rất nhiều yếu tố. Thứ nhất, hành vi sai trái của các
nhân viên khác nhau trong hệ thống BHYT, lạm dụng dịch vụ hoặc các nguồn
lực. Thứ hai, do nhưng lựa chọn bất lợi và các tác động bên ngoài dẫn đến tăng
chi phí y tế. Weisbrod (1991) lập luận rằng hệ thống BHYT với phạm vi bảo
hiểm mở rộng lợi ích sức khỏe, và các vấn đề về rủi ro đạo đức, đã chỉ đạo tiến
bộ trong công nghệ dược phẩm và y tế theo những hướng sai. Một ví dụ là, công
Nhóm 10 - Lớp Đ4BH1
15

Page



Trường đại học lao động xã hội

Khoa Bảo hiểm

nghệ Gies đã tốn kém nguồn lực gần như không giới hạn nhưng chỉ giúp cải
thiện không đáng kể trong việc cung cấp chăm sóc y tế.
Cụ thể hơn, thách thức ở mỗi nước và hướng giải quyết mà các nước đưa
ra như sau:
BHYT Đức rơi vào tình trạng thâm hụt quỹ BHYT công xảy ra liên tục
trong những năm gần đây. Một trong những ngyên nhân là do nhiều người trẻ,
khoẻ chuyển từ BHYT công sang BHYT tư nhân do lương của họ cao, vượt qua
ngưỡng quy định (năm 2001 BHYT tư nhân tăng 6 triệu người, năm 2003 tăng
lên 8 triệu). Trong khi đó, số lượng người già trong BHYT công khá lớn, chi phí
y tế tăng 4 -5 lần so với người trẻ, năm 1991 người về hưu chiếm 19,9% đối
tượng tham gia BHYT công, năm 2003 tăng lên 23,7%. Phí đóng của người về
hưu không đủ chi cho nhu cầu chăm sóc y tế. năm 2003, thu của đối tượng này
23,7 tỷ, chi 53,7 tỷ, thâm hụt gần 30 tỷ Euro. Xu hướng càng về những năm sau
này mất cân đối thu chi BHYT càng gia tăng.
Đứng trước thực trạng này, năm 2003, Nhà nước Đức ban hành Luật Hiện
đại hoá BHYT công, hiệu lực thi hành từ năm 2004. Mục tiêu cơ bản của Luật
BHYT mới là mở rộng quyền lợi và nâng cao chất lượng dịch vụ y tế, quan tâm
tới công tác chăm sóc sức khoẻ ban đầu; tăng phần tự đóng góp của người tham
gia bảo hiểm, thực hiện cơ chế cùng chi trả; bãi bỏ trợ cấp mai táng phí; không
thanh toán chi phí triệt sản; tiền nghỉ đẻ, nghỉ ốm tách khỏi quỹ BHYT, ngân
sách Nhà nước chi trả các chế độ này, giảm mức đóng BHYT khung từ năm
2005 xuống còn 13,6% (thực tế mức đóng hiện tại vẫn giữ ở mức 14,2% tiền
lương).
Sự đa dạng hóa các quỹ BHYT tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ, quỹ BHYT

muốn tồn tại, phát triển phải luôn tự đổi mới, hoàn thiện mình, nâng cao tính hấp
dẫn, thu hút người tham gia.
Với một hệ thống pháp luật chặt chẽ, đồng bộ, chế tài xử phạt nghiêm
minh, cơ chế chính sách y tế rõ ràng, các cơ sở y tế hợp tác tích cực với quỹ
Nhóm 10 - Lớp Đ4BH1
16

Page


Trường đại học lao động xã hội

Khoa Bảo hiểm

BHYT để phục vụ người bệnh, là những điều kiện thuận lợi để BHYT ngày
càng phát triển.
Tuy nhiên, những khó khăn, thách thức trong cân đối thu chi luôn là bài
toán đặt ra đối với những nhà hoạch định chính sách cũng như quản lý quỹ
BHYT ở Đức. Điều đó đòi hỏi một mặt chính sách pháp luật luôn phải nghiên
cứu, bổ sung hoàn thiện cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn, mặt khác các quỹ
BHYT luôn phải cải cách, hoàn thiện, năng động để hoạt động có hiệu quả hơn
mới tồn tại được.

Hệ thống bảo hiểm y tế Pháp phải

tìm lời giải cho vấn đề quỹ đã tiêu

tốn rât nhiều vào việc chi trả hoàn toàn cho NLĐ và thâm hụt bởi đội ngũ y bác
sĩ bằng nhiều cách khác nhau. Để giảm thiểu tình trạng lạm dụng và lợi dụng hệ
thống BHYT, Pháp xây dựng một chế độ kiểm soát chặt chẽ việc khám chữa

bệnh hay mua thuốc của bệnh nhân, việc kê toa của bác sĩ và việc xác định giá
thuốc của các viện bào chế..

Trong khi đó chính sách BHYT ở Nhật Bản đang phải đối mặt với một số
vấn đề như: thứ nhất, Nhật Bản đang là nước đứng thứ nhất trên thế giới về tuổi
thọ cao. Theo số liệu thống kê năm 2000, tuổi thọ trung bb nh của nam là 78 tuổi,
nữ là 85 tuổi. Số người già trên 65 tuổi tại Nhật Bản khoảng 17,4% (22 triệu
người).. Trong khi đó, tỷ lệ sinh đang có xu hướng giảm xuống, hiện tại tỷ lệ
này là 1,33. Điều này sẽ làm xuất hiện gánh nặng đóng góp quỹ BHYT cho
những thế hệ sau. Thứ hai, chi phí y tế những năm gần đây chiếm khoảng 8%
thu nhập quốc dân, trong đó chi phí chăm sóc y tế cho người già chiếm 1/3.
Để giải quyết tình trạng trên, hiện Nhật Bản đang có kế hoạch điều chỉnh về
chính sách BHYT. Kế hoạch dự kiến được hoàn thành và thực hiện vào năm
2008. Việc xây dựng kế hoạch này sẽ thực hiện trong ṿòng 2 năm và không liên
quan tới việc điều chỉnh chính sách BHYT hàng năm. Kế hoạch tập trung vào
những nội dung sau:
Nhóm 10 - Lớp Đ4BH1
17

Page


Trường đại học lao động xã hội

Khoa Bảo hiểm

- Thực hiện việc sắp xếp và hợp nhất các quỹ BHYT thành một số quỹ lớn
hơn để bảo đảm sự ổn định về tài chính cũng như về quyền lợi của người tham
gia BHYT. Các quỹ BHYT quốc gia do chính quyền thành phố quản lí có thể
hợp nhất thành quỹ hiệp hội rộng hơn. Các quỹ BHYT do Chính phủ quản lí

cũng có thể hình thành theo từng khu vực, mỗi khu vực có 1 văn pḥòng. Sáp
nhập các quỹ BHYT hiệp hội có quy mô nhỏ và đang khó khăn về tài chính
thành hiệp hội BHYT tại khu vực.
- Thành lập một chế độ BHYT mới cho người già trên 70 tuổi. Nguồn quỹ
hình thành từ phí đóng góp của người tham gia, trợ giúp của quỹ BHYT quốc
gia, BHYT cho người lao động và ngân sách. Những người già từ 65 đến 70 tuổi
vẫn do các quỹ BHYT hiện tại đảm nhiệm.
- Thực hiện việc điều chỉnh Bảng giá viện phí.
Một số giải pháp chung đưa ra là:
- Xây dựng một chế độ kiểm soát chặt chẽ việc khám chữa bệnh hay mua
thuốc của bệnh nhân, việc kê toa của bác sĩ và việc xác định giá thuốc của các
viện bào chế
- Hoàn thiện chính sách giá viện phí đảm bảo cân đối thu chi, tránh vỡ quỹ
bảo hiểm y tế
- Nâng cao hơn nữa chất lượng khám chữa bệnh cho người tham gia bảo
hiểm y tế như: tăng đầu tư cho các bệnh viện tuyến dưới để tăng khả năng tiếp
cận dịch vụ y tế của nhân dân, hạn chế tình trạng quá tải ở các bệnh viện tuyến
trên
- Bên cạnh việc quy định chế độ khám chữa bệnh cần quy định thêm chế độ
phòng bệnh, chẩn đoán sớm và tư vấn sức khỏe miễn phí cho người tham gia
BHYT.

Nhóm 10 - Lớp Đ4BH1
18

Page


Trường đại học lao động xã hội


Nhóm 10 - Lớp Đ4BH1
19

Khoa Bảo hiểm

Page



×