Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Thị trường liên ngân hàng ở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp phát triển trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (357.56 KB, 32 trang )

GVHD: PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn

TTLNH tại Việt Nam – Thực trạng và giải pháp

LỜI MỞ ĐẦU
Thị trường liên ngân hàng là một thành phần cơ bản của thị trường tài
chính–ngân hàng, thị trường là nơi diễn ra các giao dịch vốn ngắn hạn giữa các tổ
chức tín dụng và định chế tài chính. Cùng với sự phát triển của hệ thống ngân
hàng thương mại tại Việt Nam và quá trình hội nhập của ngành ngân hàng vào
thị trường tài chính tiền tệ thế giới, Thị trường liên ngân hàng tại Việt Nam đã
hình thành và ngày càng phát triển mạnh mẽ theo tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế.
Trong quá trình hình thành và phát triển của mình, cũng giống như tất cả các chủ
thể khác, Thị trường liên ngân hàng tại Việt Nam cũng phát sinh những vấn đề
liên quan về chức năng, vai trò, cơ chế vận hành, phương thức hoạt động, các
sản phẩm, chủ thể tham gia,…những vấn đề này cần phải được tìm hiểu và
nghiên cứu cụ thể để nắm bắt được thực trạng nhằm có những giải pháp để thị
trường vận hành ngày càng hoàn hảo hơn, đáp ứng nhu cầu phát triển của thị
trường tiền tệ và hệ thống ngân hàng hiện đại. Đó cũng chính là lý do nhóm 10 –
Lớp TCDN Đêm 1 K20 quyết định chọn đề tài “Thị trường liên ngân hàng ở
Việt Nam – Thực trạng và giải pháp phát triển trong giai đoạn hiện nay” để
nghiên cứu trong bài tiểu luận này.

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG LIÊN NGÂN HÀNG

Nhóm 10 – Lớp TCDN Đêm 1.K20

1


GVHD: PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn


TTLNH tại Việt Nam – Thực trạng và giải pháp

1.1 Khái niệm:
Thị trường liên ngân hàng là một thành phần cơ bản của Thị trường tiền tệ, là
nơi diễn ra các giao dịch vay mượn vốn ngắn hạn lẫn nhau giữa các NHTM và
các định chế tài chính, là nơi điều tiết nguồn vốn từ ngân hàng thừa vốn sang
ngân hàng thiếu vốn thông qua các hợp đồng, xác nhận gửi nhận vốn hoặc hợp
đồng cho vay vốn.
1.2 Đặc điểm:
Thị trường liên ngân hàng là một thành phần của thị trường tiền tệ.
Thị trường Tiền tệ
(Money Market)

Thị trường Liên ngân hàng

Thị trường công cụ ngắn hạn

Thị trường hối đoái

(Interbank Market)

(Short-term Loan Market)

(Forex Market)

Thị trường liên ngân hàng là thị trường bán sỉ nguồn vốn với các kỳ hạn khá đa
dạng và ngắn hạn như qua đêm, 1 tuần, 2 tuần, 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng và 12
tháng. Các giao dịch trên Thị trường liên ngân hàng hầu như thực hiện dưới
hình thức tín chấp và dựa trên cơ sở uy tín, xếp hạng tín dụng và định mức tín
nhiệm của các NHTM. Các giao dịch được thực hiện thông qua các công cụ

giao dịch điện tử và xác nhận bằng hệ thống SWIFT.
1.3 Chủ thể tham gia
Do tính chất đặc điểm của thị trường, Thị trường liên ngân hàng là nơi diễn
ra các giao dịch tiền tệ giữa các đối tượng sau đây:
1.3.1 Ngân hàng trung ương
Ngân hàng Trung ương tham gia Thị trường liên ngân hàng với vai trò người điều
tiết, dẫn dắt và quản lý thị trường, Ngân hàng trung ương cũng tham gia thị
trường với vai trò là nhà phát hành lần đầu các công cụ, sản phẩm giao dịch
trên thị trường. Việc Ngân hàng trung ương tham gia vào thị trường sẽ giúp cho
việc nắm rõ tình hình thực tế và có những quyết sách kịp thời nhằm quản lý và
điều hành thị trường hoạt động một cách hiệu quả.

Nhóm 10 – Lớp TCDN Đêm 1.K20

2


GVHD: PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn

TTLNH tại Việt Nam – Thực trạng và giải pháp

1.3.2 Ngân hàng thương mại
Đây là đối tượng tham gia đông đảo nhất trên thị trường. Các NHTM tham gia
thị trường với vai trò là người mua và người bán vốn, hình thành nên cung cầu
nguồn vốn trên thị trường. Tất cả các hoạt động trên thị trường của NHTM
phải tuân theo các quy định có liên quan do NHNN ban hành.
1.3.3 Các định chế tài chính phi ngân hàng
Các định chế tài chính phi ngân hàng như các công ty tài chính, công ty cho
thuê tài chính,…Đây cũng là đối tượng tham gia thị trường tương đối thường
xuyên. Tuy nhiên, với một số hạn chế về chức năng hoạt động nghiệp vụ nên các

tổ chức này cũng có những hạn chế khi tham gia thị trường.
1.3.4 Các định chế tài chính khác
Gồm có các Công ty chứng khoán, Công ty quản lý quỹ, Qũy đầu tư, Công ty
bảo hiểm, và các tổ chức tài chính khác được tham gia thị trường với một số điều
kiện nhất định như quy mô vốn, tài sản, khả năng quản lý rủi ro, trình độ và
đội ngũ nhân viên,…các tổ chức này tham gia thị trường không thường xuyên
do tính chất và phạm vi hoạt động của các tổ chức này.
1.4 Lãi suất liên ngân hàng
Lãi suất liên ngân hàng (interbank offered rate) chính là giá mua bán vốn trên
Thị trường liên ngân hàng, lãi suất liên ngân hàng là mức lãi suất tham chiếu
hình thành trên cơ sở lãi suất của các giao dịch gửi và nhận vốn giữa các ngân
hàng trên thị trường của từng khu vực, từng quốc qua.
Tùy theo khu vực hay quốc gia mà ta có lãi suất liên ngân hàng của khu vực hay
quốc gia đó. Chẳng hạn lãi suất LIBOR là lãi suất liên ngân hàng trên thị trường
Luân Đôn, nó cũng đồng thời phản ánh mức lãi suất giao dịch của các loại tiền
tệ cơ bản tại khu vực Châu Âu; lãi suất SIBOR là lãi suất liên ngân hàng trên
thị trường Singapore, nó cũng đồng thời phản ánh mức lãi suất giao dịch của các
loại tiền tệ cơ bản tại Khu vực Châu Á; lãi suất VNIBOR là lãi suất liên ngân
hàng của Việt Nam,... Tình hình biến động của lãi suất liên ngân hàng phản
ánh cung cầu vốn trên thị trường và khả năng thanh khoản của thị trường.

Nhóm 10 – Lớp TCDN Đêm 1.K20

3


GVHD: PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn

TTLNH tại Việt Nam – Thực trạng và giải pháp


1.5 Hàng hóa
Sản phẩm của Thị trường liên ngân hàng chính là nguồn vốn (tiền), hàng hóa
được luân chuyển từ người có nhu cầu sang người có khả năng đáp ứng với một
mức giá nhất định hình thành qua cung cầu về hàng hóa.
1.6 Công cụ
1.6.1 Thỏa thuận tiền gửi (hay xác nhận hoặc hợp đồng tiền gửi)
Các chi tiết của một thỏa thuận tiền gửi như sau:
-

Số tiền: là số lượng vốn mà hai bên thỏa thuận đồng ý gửi và nhận gửi lẫn nhau,
số tiền này được xác định trên nhu cầu và khả năng đáp ứng của các bên khi
tiến hành giao dịch.

-

Kỳ hạn giao dịch: là kỳ hạn được xác định do thỏa thuận giữa hai bên trên cơ sở
nhu cầu và khả năng đáp ứng của mỗi bên.

-

Ngày giao dịch, ngày giá trị và ngày đáo hạn: Ngày giao dịch là ngày mà hai
bên tiến hành thỏa thuận giao dịch với nhau, ngày giá trị là ngày có hiệu lực của
thỏa thuận và ngày đáo hạn là ngày hết hạn của kỳ hạn giao dịch tính từ ngày
giá trị.

-

Lãi suất và phương thức trả lãi: lãi suất được hình thành trên cơ sở thỏa thuận
giữa hai bên theo lãi suất thị trường và theo quy định của pháp luật. Có hai loại
lãi suất là lãi suất cố định hay lãi suất thả nổi. Phương thức trả lãi bao gồm trả

lãi vào ngày đáo hạn, trả lãi trước hay trả lãi định kỳ; phương thức trả lãi do hai
bên thỏa thuận thông thường lãi được trả vào cuối kỳ.

-

Cơ sở tính lãi: hai bên thỏa thuận xác định cơ sở tính lãi là một năm có bao
nhiêu ngày và tính lãi theo số ngày thực tế hay tính tròn tháng, thông thường cơ
sở tính lãi của các thỏa thuận tiền gửi là một năm có 360 ngày và tính trên số
ngày thực tế giao dịch.

-

Chỉ dẫn thanh toán, là việc hai bên thỏa thuận và chỉ ra phương thức thanh toán
và tài khoản thanh toán cho thỏa thuận tiền gửi tại ngày giá trị của giao dịch và
ngày đáo hạn giao dịch.

-

Điều kiện đảm bảo giao dịch: tài sản đảm bảo cho các giao dịch trên thị trường
liên ngân hàng thường là các tài sản có tính thanh khoản cao như tài sản tài
chính, các giấy tờ có giá.

Nhóm 10 – Lớp TCDN Đêm 1.K20

4


GVHD: PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn

-


TTLNH tại Việt Nam – Thực trạng và giải pháp

Các điều kiện khác, là các điều kiện do hai bên thỏa thuận trên cơ sở pháp luật
có liên quan quy định về phạt chậm trả, điều chỉnh lãi suất, lãi suất tham chiếu
khi điều chỉnh, ...

1.6.2 Các hợp đồng mua bán có kỳ hạn giấy tờ có giá (repo/reverse repo)
-

Hợp đồng mua bán có kỳ hạn GTCG là thỏa thuận giữa hai đối tác về mua bán
các GTCG, trong đó một bên sẽ cam kết với bên còn lại về việc sẽ bán và mua
lại chính GTCG đó trong một kỳ hạn nhất định với một mức giá nhất định
(repo) hoặc mua và bán lại chính GTCG đó trong một kỳ hạn nhất định với một
mức giá nhất định (reverse repo).

-

Chênh lệch giá mua bán chính bằng lãi suất vay hoặc gửi vốn tính trên kỳ hạn
giao dịch thực tế.

-

Hiện nay, đang tồn tại hai phương thức là có chuyển nhượng GTCG và không
có chuyển nhượng GCTG trong giao dịch mua bán có kỳ hạn GTCG
(repo/veverse repo).

1.6.3 Các giấy tờ có giá
1.6.3.1 Tín phiếu chính phủ, Tín phiếu ngân hàng Trung ương và Tín phiếu kho
bạc (Treasury bill)

Các NHTM và các định chế tài chính thường mua đi bán lại các Chứng chỉ tiền gửi,
kỳ phiếu, tín phiếu ngân hàng này nhằm mục đích kiếm lời do chênh lệch giá mua
bán hoặc hưởng lãi suất nếu xác định đầu tư giữ đến ngày đáo hạn. Chứng chỉ tiền
gửi, kỳ phiếu, tín phiếu ngân hàng có thể dưới hình thức ghi danh hoặc không ghi
danh. Lãi suất chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu thường là cố định.
1.6.3.2 Chứng chỉ tiền gửi (Certificate of Deposits), Tín phiếu, kỳ phiếu
Các GTCG khác do Chính phủ, Ngân hàng trung ương hay các tổ chức tín dụng
phát hành như Công trái, chứng chỉ nợ và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác. Các
GTCG này được các đối tượng tham gia Thị trường liên ngân hàng thỏa thuận mua
đi bán lại với những điều kiện cụ thể.
1.6.4 Giao dịch chiết khấu, tái chiết khấu, nghiệp vụ thị trường mở, cho vay
cầm cố và cho vay tái cấp vốn của NHNN đối với các NHTM
-

Chiết khấu GTCG: lãi suất mua GTCG do NHNN quy định từng thời kỳ, có hai
hình thức chiết khấu GTCG là chiết khấu toàn bộ và chiết khấu có kỳ hạn,

Nhóm 10 – Lớp TCDN Đêm 1.K20

5


GVHD: PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn

TTLNH tại Việt Nam – Thực trạng và giải pháp

thông thường hiện nay NHNN chỉ thực hiện hình thức chiết khấu có kỳ hạn nên
bản chất của nghiệp vụ này giống với nghiệp vụ cho vay cầm cố GCTG.
-


Tái chiết khấu GTCG: là việc NHNN mua lại các GTCG do các NHTM đã
chiết khấu của khách hàng, các quy định và tính chất của nghiệp vụ này giống
như nghiệp vụ chiết khấu.

-

Nghiệp vụ thị trường mở (Open Market Operation - OMO): là nghiệp vụ mua
bán có kỳ hạn các GTGC nằm trong danh mục do NHNN quy định, đây là
nghiệp vụ phổ biến hiện nay và được các NHTM sử dụng nhiều nhất. Kỳ hạn,
lãi suất và cơ cấu trong giao dịch thị trường mở sẽ do NHNN quyết định và
thông báo từng thời kỳ. Về cơ bản, nghiệp vụ thị trường mở cũng không khác
nhiều so với nghiệp vụ cho vay hoặc đi vay có đảm bảo bằng GTCG.

-

Nghiệp vụ cho vay cầm cố: việc cho vay cầm cố GTCG chỉ nhằm mục đích bù
đắp thiếu hụt thanh khoản trong ngắn hạn của NHTM, không được sử dụng
nguồn vốn này để phát triển tín dụng tại NHTM.

-

Nghiệp vụ cho vay tái cấp vốn: mục đích của cho vay tái cấp vốn là bù đắp
thiếu hụt tạm thời về nguồn vốn của NHTM, kỳ hạn và lãi suất cho vay tái cấp
vốn do NHNN quy định tùy theo chính sách từng thời kỳ, các NHTM phải thực
hiện tái cơ cấu lại nguồn vốn để đảm bảo khả năng thanh khoản, đảm bảo cân
đối về nguồn vốn và sử dụng vốn.

1.6.5 Các nghiệp vụ giao dịch phái sinh tiền tệ
-


Các nghiệp vụ phái sinh trên thị trường tiền tệ bao gồm: hợp đồng tương lai về
lãi suất, hợp đồng hoán đổi và hợp đồng quyền chọn về lãi suất. Đây là nghiệp
vụ do các NHTM và định chế tài chính cung cấp và bán trên Thị trường liên
ngân hàng cho những đối tác có nhu cầu trên cơ sở thỏa thuận chi tiết về các nội
dung và điều kiện giao dịch.

-

Để cung cấp được dịch vụ phái sinh, các NHTM và định chế tài chính phải
được Ngân hàng Trung ương cấp phép trên cơ sở thỏa mãn các điều kiện về
vốn, quy trình quản lý nghiệp vụ, quản lý rủi ro, khả năng và trình độ chuyên
môn của nhân viên nghiệp vụ; đồng thời phải tuân thủ các quy định của cơ quan
quản lý chuyên ngành.

Nhóm 10 – Lớp TCDN Đêm 1.K20

6


GVHD: PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn

TTLNH tại Việt Nam – Thực trạng và giải pháp

1.7 Nguyên tắc thực hiện giao dịch
Các giao dịch trên Thị trường liên ngân hàng giữa các đối tác được thực hiện trên
nguyên tắc tự do thỏa thuận về các nội dung và điều kiện giao dịch trên cơ sở tự
nguyện, cùng có lợi và phù hợp với các quy định của pháp luật liên quan và các quy
định của NHNN.
1.8 Phương thức giao dịch:
Các đối tác thực hiện giao dịch với nhau thông qua các công cụ giao dịch được hai bên

đồng ý sử dụng. Theo tính chất và thông lệ giao dịch của Thị trường liên ngân hàng
hiện nay, phương thức giao dịch chủ yếu giữa các đối tác là giao dịch qua các phương
tiện điện tử, ít phát sinh giao dịch trực tiếp, các công cụ giao dịch điện tử như hệ thống
giao dịch điện tử kết nối toàn cầu, giao dịch qua điện thoại có ghi âm, qua các màn
hình giao diện giao dịch trực tuyến, qua fax, qua màn hình chat,…
1.9 Vai trò
Thị trường liên ngân hàng là một thành phần cơ bản và quan trọng hình thành nên
thị trường tiền tệ. Vì vậy, với tính chất và đặc điểm của TTLNH, nó có những chức
năng, vai trò như sau:
-

Thứ nhất, Thị trường liên ngân hàng với vai trò là nơi điều tiết vốn giữa các
ngân hàng thương mại và định chế tài chính

-

Thứ hai, Thị trường liên ngân hàng với vai trò tạo ra một công cụ kinh doanh
vốn hiệu quả cho các ngân hàng thương mại và định chế tài chính.

-

Thứ ba, Thị trường liên ngân hàng với vai trò phản ánh khả năng thanh khoản,
sức khỏe của các đối tượng tham gia thị trường.

-

Thứ tư, Thị trường liên ngân hàng là công cụ, là nơi để NHNN thực hiện chính
sách điều tiết và quản lý thị trường tiền tệ, đảm bảo cho thị trường tiền tệ vận
hành và hoạt động một cách lành mạnh và hiệu quả.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG LIÊN NGÂN HÀNG TẠI

VIỆT NAM

2.1 Lịch sử hình thành và phát triển của thị trường liên ngân hàng tại Việt Nam.
2.1.1 Lịch sử hình thành Thị trường liên ngân hàng tại Việt Nam.
-

Thị trường liên ngân hàng có quá trình hình thành và phát triển cùng với quá
trình hình thành và phát triển của hệ thống ngân hàng thương mại tại Việt

Nhóm 10 – Lớp TCDN Đêm 1.K20

7


GVHD: PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn

TTLNH tại Việt Nam – Thực trạng và giải pháp

Nam. Cùng với sự ra đời của 2 bộ luật là Luật các tổ chức tín dụng và Luật
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, hệ thống ngân hàng thương mại đã phát triển
đầy đủ, bao gồm các loại hình ngân hàng thuộc các thành phần sở hữu khác
nhau, cụ thể là:
-

Ngân hàng thương mại quốc doanh.

-

Ngân hàng thương mại cổ phần.


-

Ngân hàng liên doanh.

-

Chi nhánh ngân hàng nước ngoài.

-

Ngân hàng 100% vốn nước ngoài.

-

Công ty tài chính và Công ty cho thuê tài chính.

-

Ngoài ra còn có Ngân hàng chính sách xã hội, Ngân hàng phát triển VN và
hàng trăm quỹ tín dụng nhân dân trung ương và địa phương.

-

Như vậy, sự hình thành và phát triển của hệ thống ngân hàng thương mại Việt
Nam là cơ sở tất yếu, khách quan và cơ bản cho Thị trường liên ngân hàng ở
Việt Nam hình thành và phát triển. Ngay từ khi mới hình thành, mặc dù quy
mô giao dịch nhỏ và không thường xuyên nhưng Thị trường liên ngân hàng
đã đóng vai trò là nơi mua bán, trao đổi nguồn vốn giữa các ngân hàng nhằm
mục đích cân bằng và điều hoà nguồn vốn, giữa ngân hàng thừa vốn và thiếu
vốn, giúp sử dụng nguồn vốn có hiệu quả hơn.


2.1.2 Các giai đoạn hình thành và phát triển của Thị trường liên ngân hàng
tại Việt Nam.
-

Quá trình hình thành và phát triển của Thị trường liên ngân hàng tại Việt
Nam có thể chia ra các giai đoạn như sau:

2.1.2.1 Giai đoạn từ năm 1990 đến năm 1997:
-

Đây là giai đoạn thị trường mới hình thành Thị trường liên ngân hàng trên cơ
sở hình thành hệ thống ngân hàng thương mại, chuyển từ hệ thống ngân
hàng một cấp sang ngân hàng hai cấp, tách chức năng chức năng quản lý ra
khỏi chức năng kinh doanh của ngân hàng. Giai đoạn này là thời kỳ đánh
dấu sự ra đời hàng loạt các ngân hàng TMCP. C á c T C T D đ ư ợ c p h é p
t h ự c h i ệ n c h o v a y v à v a y l ẫ n n h a u t r ê n Thị trường nội tệ liên ngân
hàng từ năm 1993. Thị trường nội tệ liên ngân hàng được hình thành dưới

Nhóm 10 – Lớp TCDN Đêm 1.K20

8


GVHD: PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn

TTLNH tại Việt Nam – Thực trạng và giải pháp

hình thức là một thị trường tập trung có tổ chức qua Ngân hàng Nhà nước
(NHNN) và gắn liền với các trung tâm thanh toán bù trừ (Thành phố Hồ Chí

Minh và Thành phố Hà Nội), số lượng thành viên tham gia và doanh số hoạt
động rất hạn chế; trong đó, những thành viên là ngân hàng TMQD có khả
năng chi phối trên cả lĩnh vực huy động vốn và cho vay vốn do có lợi thế về
tài chính và uy tín; chưa hình thành các quy tắc và thông lệ giao dịch trên
thị trường, quy mô và khối lượng giao dịch rất thấp và chưa thực sự có ý
nghĩa đối với hoạt động của ngân hàng.
2.1.2.2

Giai đoạn từ năm 1997 đến năm

2007:
-

Từ năm 1997, hoạt động của Thị trường liên ngân hàng diễn ra theo hình thức
các ngân hàng trực tiếp vay mượn lẫn nhau không thực hiện thông qua
NHNN. Các Ngân hàng thỏa thuận phương thức giao dịch, thời hạn, lãi suất
cũng như điều kiện bảo đảm tiền vay dựa trên mức độ tín nhiệm.

-

Đây là giai đoạn thị trường có sự tham gia của các chi nhánh ngân hàng
nước ngoài, các công ty tài chính và cho thuê tài chính, là giai đoạn thị
trường có sự phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ về quy mô, khối lượng giao
dịch và các đối tượng tham gia. Đây cũng là giai đoạn thị trường phát huy vai
trò, chức năng vốn có của nó. Các giao dịch trên thị trường đã thật sự có ý
nghĩa đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Trong giai đoạn này, thị
trường hoạt động khá an toàn và hiệu quả, không có sự biến động gì lớn, các
thông lệ và quy tắc giao dịch trên thị trường được hình thành và duy trì, các
giao dịch đều thực hiện thông qua hình thức tín chấp, với quy mô giao dịch
ban đầu chỉ vài ba tỷ đồng/giao dịch đã tăng lên hàng trăm tỷ đồng/giao dịch

và hàng ngày đều có hàng trăm giao dịch phát sinh trên thị trường giữa các
ngân hàng với nhau. Phần lớn các giao dịch liên ngân hàng được thực hiện
dưới các hình thức tín chấp, bảo đảm bằng số dư tiền gửi đối ứng tại ngân
hàng cho vay; các ngân hàng đã thực hiện quan hệ vay mượn chủ yếu dưới
hình thức gửi tiền lẫn nhau.

2.1.2.3

Giai đoạn từ năm 2008 đến nay:

Nhóm 10 – Lớp TCDN Đêm 1.K20

9


GVHD: PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn

-

TTLNH tại Việt Nam – Thực trạng và giải pháp

Đây là giai đoạn phát triển khá đầy đủ của TTLNH cả về quy mô giao dịch,
mức độ thường xuyên, sản phẩm giao dịch và đối tượng tham gia thị trường
nhưng đây cũng là giai đoạn TTLNH nói riêng và thị trường tài chính tiền tệ nói
chung có nhiều biến cố, thăng trầm và rơi vào khủng hoảng với tính chất
nghiêm trọng và hệ thống, đây là giai đoạn bùng phát những bất cập và khiếm
khuyết của thị trường và cần phải có sự can thiệp của NHNN. Giai đoạn này
có sự tham gia đầy đủ của tất cả các loại hình tổ chức tín dụng (quốc doanh,
cổ phần, công ty tài chính, cho thuê tài chính, chi nhánh ngân hàng nước
ngoài, ngân hàng 100% vốn nước ngoài). Giai đoạn này cũng là giai đoạn

các TCTD bắt đầu quan tâm nhiều hơn đến vấn đề quản lý rủi ro thị trường,
rủi ro đối tác và rủi ro thanh khoản. Hầu hết các chi nhánh ngân hàng nước
ngoài đã rút khỏi thị trường theo yêu cầu của ngân hàng Mẹ hoặc co cụm
giao dịch trong hệ thống các chi nhánh ngân hàng nước ngoài và với một vài
ngân hàng TMCP lớn và quốc doanh.

2.1.3 Các hoạt động nghiệp vụ chủ yếu trên Thị trường liên ngân hàng tại
Việt Nam.
2.1.3.1 Nghiệp vụ gửi và nhận vốn giữa các TCTD (vay và cho vay).
-

Nghiệp vụ gửi và nhận vốn (vay và cho vay) giữa các định chế tài chính chiếm
đến 80 - 90% khối lượng giao dịch trên Thị trường liên ngân hàng tại Việt
Nam. Nghiệp vụ gửi nhận vốn nhằm đáp ứng nhu cầu đảm bảo thanh khoản
hàng ngày của các chủ thể tham gia, điều tiết và cân bằng nguồn vốn giữa ngân
hàng thừa vốn và ngân hàng thiếu vốn ngắn hạn, giúp các ngân hàng sử dụng
có hiệu quả nguồn vốn huy động. Hình thức giao dịch thông qua thỏa thuận
giữa các ngân hàng với nhau trên nguyên tắc tín nhiệm và tự nguyện về số
lượng gửi và nhận, kỳ hạn giao dịch, mức lãi suất và các điều kiện khác.
Điều kiện giao dịch:

-

Ngân hàng nhà nước hiện nay chưa có văn bản nào quy định các điều kiện cụ
thể để có thể tham gia giao dịch trên TTLNH đối với các định chế tài chính.
Các định chế tài chính mặc nhiên được công nhận tham gia thị trường. Do đó,
để ngăn ngừa và hạn chế rủi ro phát sinh, các ngân hàng và định chế tài

Nhóm 10 – Lớp TCDN Đêm 1.K20
10



GVHD: PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn

TTLNH tại Việt Nam – Thực trạng và giải pháp

chính thường tự mình đặt ra các quy định và tiêu chuẩn đối với đối tác giao
dịch đồng thời thực hiện cấp hạn mức giao dịch cho từng đối tác cụ thể.
Kỳ hạn giao dịch:
-

Các kỳ hạn giao dịch trên TTLNH thông thường là các kỳ hạn ngắn (dưới 1
năm) và khá đa dạng, phổ biến nhất là kỳ hạn từ 3 - 6 tháng trở xuống, cụ
thể các kỳ hạn giao dịch bao gồm: qua đêm (over night), 1, 2 tuần, 1 tháng,
2 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng,... kỳ hạn giao dịch được xác định hoàn
toàn dựa vào thỏa thuận giữa hai đối tác trên cơ sở nhu cầu vốn của một bên
và khả năng đáp ứng về nguồn vốn của bên còn lại.
Khối lượng giao dịch:

-

Khối lượng giao dịch là số lượng vốn mà hai bên thỏa thuận vay và cho vay
(gửi hay nhận gửi) lẫn nhau, khối lượng giao dịch được thỏa thuận trên cơ
sở nhu cầu và khả năng đáp ứng của các bên.
Lãi suất giao dịch:

-

Lãi suất giao dịch chính là giá của nguồn vốn trên thị trường, lãi suất được
hình thành trên cơ sở thỏa thuận giữa hai bên, tùy theo tình hình cung cầu

vốn trên thị trường trong khuôn khổ biên độ lãi suất cho phép của NHNN.
Thực tế kể từ năm 2008 trở về trước, NHNN không quy định mức lãi suất trần
giao dịch trên thị trường liên hàng, các đối tác được toàn quyền thỏa thuận về
lãi suất trên cơ sở nhu cầu và lãi suất thị trường, sau cuộc khủng hoảng thanh
khoản nghiêm trọng của Thị trường liên ngân hàng giữa năm 2008, NHNN
bắt đầu áp dụng dụng cơ chế lãi suất trần trong giao dịch tiền gửi liên ngân
hàng, bằng 150% lãi suất cơ bản của NHNN.
Các điều kiện đảm bảo giao dịch:

-

Các định chế tài chính tự thỏa thuận với nhau về hình thức đảm bảo cho giao
dịch tiền gửi trên TTLNH, có hai hình thức cơ bản là tín chấp và có đảm bảo
bằng tài sản. Trong điều kiện thị trường bình thường, phần lớn các giao dịch
tiền gửi trên TTLNH là dưới hình thức tín chấp.
Phương thức thanh toán giao dịch:

-

NHNN là cơ quan duy nhất cung ứng các dịch vụ thanh toán liên ngân hàng,
gồm có các kênh thanh toán như thanh toán điện tử liên ngân hàng, thanh

Nhóm 10 – Lớp TCDN Đêm 1.K20
11


GVHD: PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn

TTLNH tại Việt Nam – Thực trạng và giải pháp


toán bù trừ theo phiên, thanh toán bù trừ trực tiếp trong đó thanh toán điện tử
liên ngân hàng được sử dụng rộng rãi nhất hiện nay, nó đảm bảo tiện lợi,
nhanh chóng, chính xác và an toàn.
Các điều kiện khác:
-

Các điều kiện giao dịch khác do hai bên thỏa thuận trên cơ sở phù hợp các
quy định hiện hành. Các điều kiện giao dịch khác có thể là phương pháp
tính lãi, trả lãi, hình thức đảm bảo giao dịch, hình thức xử lý tài sản đảm
bảo, điều kiện tất toán trước hạn hợp đồng giao dịch,…

2.1.3.2 Nghiệp vụ mua bán các giấy tờ có giá.
• Mua bán hẳn giấy tờ có giá ngắn hạn.
-

Nghiệp vụ mua bán hẳn GTCG ngắn hạn trên thị trường tiền tệ bao gồm hai
hình thức: Mua bán trên thị trường sơ cấp từ nhà phát hành và mua đi bán
lại trên thị trường thứ cấp. Đối với nghiệp vụ mua bán GTCG trên thị trường
sơ cấp, Chính phủ, Kho bạc nhà nước hoặc NHNN với vai trò là người phát
hành lần đầu, thực hiện phát hành GTCG ngắn hạn trên thị trường sơ cấp
nhằm mục đích huy động vốn hoặc điều tiết cung cầu vốn trên thị trường, tạo
công cụ, hàng hóa cho thị trường. Các TCTD với vai trò là nhà đầu tư GTCG.
Sau khi các GTCG được phát hành ra thị trường, nó sẽ được các TCTD thực
hiện mua đi bán lại giữa các TCTD tùy theo nhu cầu. Ngoài ra, các TCTD
cũng thực hiện mua bán các GTCG do các TCTD và các tổ chức khác phát
hành như chứng chỉ tiền gửi, sổ tiết kiệm,

kỳ phiếu, tín phiếu, trái

phiếu ngân hàng, thương phiếu,...Việc mua bán có thể thực hiện ngay tại

thời điểm phát hành và từ nhà phát hành hoặc mua đi bán lại trên thị trường.
Các GTCG hiện đang được các TCTD thực hiện giao dịch trên thị
trường tiền tệ Việt Nam hiện nay là:
 Nhóm các GTCG do Chính phủ, Kho bạc nhà nước và Ngân hàng nhà
nước phát hành, bao gồm:
+

Tín phiếu kho bạc.

+

Tín phiếu Ngân hàng nhà nước.

+

Công trái các loại.

Nhóm 10 – Lớp TCDN Đêm 1.K20
12


GVHD: PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn

TTLNH tại Việt Nam – Thực trạng và giải pháp

+

Trái phiếu ngắn hạn NHNN hoặc Kho bạc nhà nước.

+


Các GCTG ngắn hạn khác do Chính phủ phát hành.

 Nhóm các GTCG do các tổ chức tín dụng phát hành, bao gồm:

-

+

Chứng chỉ tiền gửi.

+

Kỳ phiếu ngân hàng

+

Tín phiếu ngân hàng

+

Trái phiếu ngắn hạn ngân hàng.

+

Các GTCG ngắn hạn khác do các TCTD phát hành.

Việc mua bán và nắm giữ các GCTG còn nhằm mục đích tạo công cụ để
các TCTD thực hiện các nghiệp vụ với NHNN trên thị trường tiền tệ.


• Mua bán có kỳ hạn giấy tờ có giá (repo/reverse repo).
-

Thông thường, các NHTM và định chế tài chính tại Việt Nam thường nắm
giữ một số lượng GTCG do Chính phủ, chính quyền địa phương hay các
TCTD khác phát hành, các GTCG này vừa là công cụ dự trữ thanh khoản thứ
cấp, vừa là công cụ kinh doanh để kiếm lời. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt
động của mình, các NHTM luôn phát sinh tình trạng thừa hoặc thiếu vốn tạm
thời. Tại những thời điểm như vậy, các NHTM sẽ sử dụng công cụ mua bán
có kỳ hạn các GTCG để cân bằng nguồn vốn, các NHTM có thể mua trước và
cam kết sẽ bán ra chính GTCG đó trong một kỳ hạn nhất định (repo) hoặc bán
và cam kết mua lại chính GTCG đó trong một kỳ hạn nhất định (reverse
repo), tùy theo tình trạng của Ngân hàng lúc đó là thừa vốn hay thiếu vốn.
Nghiệp vụ mua bán lại GTCG được sử dụng khá rộng rãi trên thị trường liên
tiền tệ ngân hàng tại Việt Nam và được thực hiện dưới hình thức có chuyển
nhượng GTCG hoặc không chuyển nhượng GTCG, các GTCG thực chất là
được dùng làm đảm bảo cho giao dịch vay và cho vay vốn nên nghiệp vụ này
được các NHTM rất ưa chuộng. Tuy nhiên, hạn chế nhất của loại giao dịch
này là các NHTM chỉ sở hữu một khối lượng CTCG nhất định trong cơ cấu
tổng tài sản nên không thể thực hiện các giao dịch này với khối lượng lớn
được.
Các GTCG hiện đang được giao dịch mua bán có kỳ hạn trên Thị trường

Nhóm 10 – Lớp TCDN Đêm 1.K20
13


GVHD: PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn

TTLNH tại Việt Nam – Thực trạng và giải pháp


liên ngân hàng Việt Nam hiện nay là:
 Nhóm các GTCG do Chính phủ, Kho bạc nhà nước, Ngân hàng nhà nước
và Chính quyền địa phương phát hành, bao gồm:
+

Tín phiếu kho bạc.

+

Tín phiếu Ngân hàng nhà nước.

+

Công trái các loại.

+

Trái phiếu chính phủ.

+

Trái phiếu kho bạc.

+

Trái phiếu chính quyền địa phương.

+


Trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh.

+

Các GCTG khác do Chính phủ phát hành.

 Nhóm các GTCG do các tổ chức tín dụng phát hành, bao gồm:
+

Chứng chỉ tiền gửi.

+

Kỳ phiếu ngân hàng

+

Tín phiếu ngân hàng

+

Trái phiếu ngân hàng

+

Các GTCG khác do các TCTD phát hành.

 Các GTCG khác do các tổ chức phát hành như trái phiếu doanh nghiệp,
thương phiếu (trên cơ sở thỏa thuận và đồng ý của các bên giao dịch).
2.1.3.3


Nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu, vay cầm cố GTCG, vay tái
cấp vốn, nghiệp vụ thị trường mở và nghiệp vụ hoán đổi tiền tệ.

-

Đây là những nghiệp vụ của NHNN đối với các NHTM và định chế tài chính,
tùy theo chính sách tiền tệ từng thời kỳ mà NHNN sẽ quyết định thực hiện
nghiệp vụ nào, phương thức, khối lượng vốn, lãi suất và kỳ hạn cũng như
loại GCTG nào được thực hiện giao dịch. Hiện nay, NHNN đã ngưng thực
hiện nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu mà tập trung vào thực hiện nghiệp
vụ thị trường mở do nghiệp vụ này có mức độ linh hoạt và có nhiều ưu điểm
hơn, giúp NHNN có thể điều tiết được cung cầu tiền tệ một cách dễ dàng.

-

Nghiệp vụ thị trường mở đã được NHNN triển khai từ tháng 7 năm 2000
với quy mô ban đầu chỉ có 18 thành viên và chỉ có 2-3 thành viên tham gia

Nhóm 10 – Lớp TCDN Đêm 1.K20
14


GVHD: PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn

TTLNH tại Việt Nam – Thực trạng và giải pháp

thường xuyên, các GTCG sử dụng trong giao dịch có 2 loại là Tín phiếu kho
bạc và Tín phiếu ngân hàng nhà nước, đến hiện nay thị trường đã lên tới hàng
trăm thành viên, bao gồm hầu hết các loại hình TCTD; các phiên giao dịch liên

tục tăng, ban đầu thị trường chỉ tổ chức 10 ngày/phiên, lên 1 tuần/phiên, 2
phiên/tuần, sau đó 3 phiên/tuần và kể từ năm 2003 hàng ngày đều có phiên
thị trường mở, và hiện nay đã tăng lên đều đặn 2 phiên/ngày. Các GTCG hay
hàng hóa trên thị trường mở cũng được mở rộng nhanh chóng, ban đầu chỉ là
các tín phiếu do Kho bạc và NHNN phát hành, hiện nay danh mục các
GTCG được thực hiện trên thị trường mở đã khá rộng rãi như tín phiếu các
loại, trái phiếu do Chính phủ, Kho bạc nhà nước, NHNN, Chính quyền địa
phương, Ngân hàng phát triển Việt Nam, Ngân hàng chính sách xã hội VN
phát hành được Chính phủ bảo lãnh,..
-

Nghiệp vụ hoán đổi tiền tệ (SWAP) đã được NHNN triển khai áp dụng
trong từ năm 2009, đây là nghiệp vụ mà NHNN sẽ thực hiện việc mua bán
hoán đổi giữa USD và VND với các TCTD nhằm cung ứng nguồn vốn VND
cho các TCTD với một mức lãi suất nhất định. Theo đó, NHNN sẽ thực hiện
mua giao ngay và bán kỳ hạn USD cho các TCTD, tỷ giá mua bán hình thành
trên cơ sở lãi suất hoán đổi do NHNN quy định, kỳ hạn hoán đổi từ 3-6 tháng.
Mục đích của nghiệp vụ này là nhằm điều tiết vốn VND ra thị trường, góp
phần bình ổn lãi suất thị trường tiền tệ và giảm lãi suất đầu ra, tăng cường
thanh khoản cho các TCTD. Tính đến nay NHNN đã thực hiện nghiệp vụ
hoán đổi với các TCTD với doanh số là 01 tỷ USD.

2.2 Thực trạng của thị trường liên ngân hàng tại Việt N am từ năm 2008 đến 2011.
2.2.1 Phân tích tổng quan thực trạng tình hình Thị trường liên ngân hàng
Việt Nam từ năm 2008 đến 2011
2.2.1.1

Diễn biến tổng quan về thị trường năm
2008.


-

Sau một thời gian dài tăng trưởng về tín dụng trong các năm 2005, 2006 và
2007, tốc độ tăng trưởng tín dụng bình quân của các ngân hàng trên 40%,
nhất là các ngân hàng TMCP nhỏ tốc độ tăng tín dụng lên tới 60-70%. Tín
dụng tăng trưởng nóng, lạm phát tăng cao (lên tới 20% năm 2008). Do

Nhóm 10 – Lớp TCDN Đêm 1.K20
15


GVHD: PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn

TTLNH tại Việt Nam – Thực trạng và giải pháp

tốc độ tăng trưởng tín dụng quá nhanh trước đó, trong khi tốc độ tăng trưởng
huy động vốn các ngân hàng thương mại, nhất là các ngân hàng TMCP lại
thấp hơn, buộc các ngân hàng phải sử dụng vốn trên TTLNH để cho vay tín
dụng đối với cá nhân và tổ chức kinh tế, kỳ hạn cho vay thường dài hơn
trong khi nguồn vốn liên ngân hàng là nguồn vốn ngắn hạn, khi nguồn vốn có
biến động do các chính sách của NHNN, lập tức các ngân hàng rơi vào tình
trạng thiếu thanh khoản trầm trọng, TTLNH trở lên quá nóng, lãi suất qua
đêm trên thị trường đẩy lên mức 43%/năm, cá biệt có những giao dịch
lãi suất lên tới trên 60%/năm. Đứng trước tình hình đó, NHNN cũng đã có
một số biện pháp nhằm bình ổn thị trường như hỗ trợ thanh khoản cho các
ngân hàng nhỏ thông qua nghiệp vụ cho vay tái cấp vốn, vay cầm cố, đồng
thời quy định mức lãi suất trần giao dịch trên thị trường, bằng 150% lãi suất
cơ bản do NHNN công bố. Lãi suất giao dịch được hình thành trên cơ sở
cung cầu về nguồn vốn, lượng cung thì ít và cầu lại nhiều nên lãi suất thực tế
không thể giảm ngay được, nên các TCTD vẫn phát sinh các giao dịch ở mức

lãi suất cao hơn trần lãi suất do NHNN quy định. Lãi suất thực tế được điều
chỉnh giao dịch qua các hình thức khác nhau.
-

Trong năm 2008 chứng kiến sự canh tranh khốc liệt trong huy động vốn, các
NHTM đã thực hiện đủ các hình thức khuyến mãi, quảng bá và sử dụng biện
pháp hữu hiệu nhất là lãi suất, các ngân hàng đã vào cuộc đua lãi suất. Song
song với việc thực hiện các biện pháp tăng cường huy động, các TCTD
cũng hạn chế tăng trưởng tín dụng, hạn chế cho vay đối với khách hàng, chỉ
thực hiện cho vay đối với các khách hàng quen thuộc và thật sự có uy tín và
năng lực kinh doanh hiệu quả.

2.2.1.2
-

Diễn biến tổng quan thị trường năm 2009.
Năm 2009 cũng là năm các TCTD tiếp tục thực hiện chính sách thắt chặt tín
dụng, tăng trưởng tín dụng được khống chế ở mức 38%. Tình hình thanh
khoản của các TCTD tiếp tục được cải thiện một cách rõ rệt, giao dịch trên
TTLNH diễn ra ổn định và lành mạnh hơn, các giao dịch vẫn tuân theo trần
lãi suất do NHNN quy định.

Nhóm 10 – Lớp TCDN Đêm 1.K20
16


GVHD: PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn

-


TTLNH tại Việt Nam – Thực trạng và giải pháp

Kinh tế Việt Nam cũng bị ảnh hưởng trực tiếp của cuộc khủng hoảng này,
nền kinh tế đang từ lạm phát cao chuyển sang thiểu phát, tăng trưởng sa sút.
Trước tình hình đó, Chính phủ đã phải thực hiện gói kích cầu 1 tỷ USD để hỗ
trợ các doanh nghiệp phát triển sản xuất, thúc đẩy phát triển kinh tế, chỉ đạo
NHNN thực hiện chính sách cho vay hỗ trợ lãi suất 4% đối với các doanh
nghiệp. Ngoài ra, NHNN cũng đã chủ động và có biện pháp tích cực tham
gia vào hoạt động giao dịch trên thị trường thông qua nghiệp vụ thị trường
mở, đồng thời vẫn tiếp tục thực hiện chính sách cho vay hỗ trợ thanh khoản
cho các ngân hàng TMCP nhỏ, khó khăn về thanh khoản.

-

Lãi suất giao dịch có lúc bị đẩy lên đến 17-18% đối với kỳ hạn 1 tuần đến 3
tháng do nhu cầu cho vay tín dụng tăng cao.

2.2.1.3

Tổng quan diễn biến thị trường năm
2010.

-

Trong năm 2010, tình trạng khan hiếm thanh khoản và khó khăn về khả năng
chi trả trên TTLNH cũng vẫn xảy ra cục bộ tại các ngân hàng TMCP.
Nguyên nhân vẫn là do các ngân hàng này có tốc độ tăng trưởng tín dụng
quá nóng và cho vay hoặc đầu tư vào những lĩnh vực rủi ro cao, không có
khả năng thu hồi vốn đúng hạn, trong khi đó đã lạm dụng nguồn vốn liên
ngân hàng vào các mục đích cho vay và đầu tư trung dài hạn. Một lần nữa,

NHNN lại phải ra thực hiện các biện pháp hỗ trợ bằng cách cho vay tái cấp
vốn đối với các tổ chức này.

-

Lãi suất huy động vốn trong khối các thành phần kinh tế tiếp tục có sự cạnh
tranh khốc liệt. Trước tình hình đó, NHNN đã đưa ra khuyến cáo các NHTM
không được tăng lãi suất huy động thị trường 1 vượt quá mức trần lãi suất do
NHNN ấn định (bắt đầu từ thời điểm cuối năm 2009 là 10,5%/năm và kéo dài
đến tháng 5/2010 thì điều chỉnh lên là 11,5%/năm sau khi có quyết định tăng
lãi suất cơ bản lên 8%/năm. Tuy không có bất cứ văn bản nào quy định vấn đề
này nhưng các TCTD huy động cao hơn mức lãi suất này sẽ bị NHNN xem
xét thanh tra toàn diện.

-

NHHN tiếp tục sử dụng công cụ thị trường mở để điều tiết thị trường nhằm
ngăn chặn lạm phát tăng cao, NHNN đã hút tiền vào dần dần, cụ thể trong

Nhóm 10 – Lớp TCDN Đêm 1.K20
17


GVHD: PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn

TTLNH tại Việt Nam – Thực trạng và giải pháp

tháng 1/2010 hút vào 16.400 tỷ, tháng 2 hút vào 3.500 tỷ, tháng 3 hút vào
38.600 tỷ, tháng 4 hút vào 6.700 tỷ, tổng số hút vào trong 4 tháng bằng
đúng với số vốn bơm ra vào tháng 12/2009. Điều này cũng phản ánh tình

hình thanh khoản các TCTD đã được cải thiện, các ngân hàng không hấp thu
hết số vốn mà NHNN bơm ra.
-

Do khả năng thanh khoản đã được cải thiện nên lãi suất liên ngân hàng
VNIBOR cũng giữ ở mức khá ổn định, hầu hết các giao dịch đều tuân theo
mức lãi suất trần do NHNN quy định là từ 12% trở xuống.

-

Đầu năm 2010, NHNN cũng đã đẩy mạnh nghiệp vụ hoán đổi tiền tệ (SWAP)
với các NHTM, và mua ròng một khối lượng lớn USD từ thị trường (khoảng
01 tỷ USD), làm cho lượng cung tiền tăng lên.

2.2.1.4 Tổng quan diễn biến thị trường năm 2011:
-

Đầu năm 2011, triển khai Nghị quyết số 11 của Chính phủ, chỉ tiêu tăng trưởng
tín dụng năm giới hạn dưới 20%, tổng phương tiện thanh toán khoảng 15% 16%. Thế nhưng, kết quả ước tính lần lượt chỉ là 12% và 10%, góp phần đáng
kể vào việc kiềm chế lạm phát. Đó là kết quả của chính sách thắt chặt tiền tệ
Ngân hàng Nhà nước áp dụng suốt năm qua.

-

Các lần tăng lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu trong năm 2011 vừa
qua:

-

Ngày áp dụng


Lãi suất tái cấp vốn

Lãi suất tái chiết khấu

17/02/2011

11%

7%

08/03/2011

12%

12%

01/04/2011

13%

12%

01/05/2011

14%

13%

10/10/2011


15%

13%

Năm 2011, NHNN đã 2 lần tăng lãi suất chiết khấu (từ 7% năm 2010 lên 13%),
4 lần tăng lãi suất tái cấp vốn (từ 9% lên 15%), 5 lần tăng lãi suất OMO (từ 8%
lên 15%). Lãi suất cơ bản đã được giữ nguyên 9% kể từ năm 2010.

Nhóm 10 – Lớp TCDN Đêm 1.K20
18


GVHD: PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn

-

TTLNH tại Việt Nam – Thực trạng và giải pháp

Quy định trần lãi suất 14%/năm khiến các NHTM gặp khó về thanh khoản và
phải đi vay trên thị trường liên ngân hàng với lãi suất cao. Cá biệt, có những
giao dịch lãi suất lên tới mức 30-40%/năm kỳ hạn 1 tháng.

-

NHNN thu hẹp quy mô giao dịch trên thị trường mở (OMO). Nếu như trước
đây, ngân hàng mang giấy tờ có trị giá 10 nghìn tỷ đồng lên giao dịch thì có thể
thắng thầu khoảng 80% - 90%, thậm chí cả 100% nhưng ở nhiều thời điểm
trong năm 2011, tỷ lệ đấu thành công chỉ 20% - 30%.


-

NHNN kiên quyết thiết lập trần lãi suất 14%/năm khiến các NHTM gặp khó về
thanh khoản và phải đi vay trên thị trường liên ngân hàng với lãi suất cao. Cá
biệt, có những giao dịch lãi suất lên tới mức 30-40%/năm kỳ hạn 1 tháng. Với
sự hỗ trợ tích cực của cơ quan công an, Ngân hàng Nhà nước có đầy đủ bằng
chứng vi phạm và tiến hành xử lý nghiêm những ngân hàng lách trần lãi suất
như HDBank, DongA Bank và Agribank. Hàng chục cán bộ của các ngân hàng
này đều bị kỷ luật dưới nhiều hình thức như cách chức, cấm đảm nhiệm chức
vụ trong ngành ngân hàng từ 2 - 3 năm, điều chuyển khỏi vị trí công tác cũ; ban
hành văn bản cảnh cáo chủ tịch hội đồng quản trị, ban điều hành ngân hàng;
đồng thời, trong vòng một năm, những ngân hàng này còn bị cấm mở chi
nhánh, phòng giao dịch, đặt máy ATM trên phạm vi toàn quốc. Đồng thời,
Ngân hàng Nhà nước còn đăng tải rộng rãi hành vi vi phạm trên cổng thông tin
điện tử của ngành, trở thành nỗi ám ảnh cho bất cứ tổ chức tín dụng nào muốn
phạm vào luật chơi.

-

Khi NHNN chủ trương hạ lãi suất vào những tháng cuối năm 2011, lãi suất liên
ngân hàng đã hạ nhiệt nhờ NHNN bơm một lượng vốn đáng kể trên thị trường
OMO.

-

Tháng 10/2011, thị trường liên ngân hàng bước vào những bất ổn khi lần đầu
tiên trong lịch sử xuất hiện hiện tượng áp cơ chế bảo đảm, thế chấp trong giao
dịch giữa các thành viên. Một số ngân hàng quốc doanh, trong đó có
Vietcombank, trong thời gian qua đã đòi hỏi ngân hàng nhỏ phải có tài sản thế
chấp cho các khoản vay mượn. Điều này đã khiến các ngân hàng vốn đang

thiếu thanh khoản, lại càng thêm khốn đốn. Không muốn phải thế chấp tài sản,
một số ngân hàng phải chạy đi tìm vay ở ngân hàng khác. Đó là lý do lãi suất

Nhóm 10 – Lớp TCDN Đêm 1.K20
19


GVHD: PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn

TTLNH tại Việt Nam – Thực trạng và giải pháp

liên ngân hàng đã từng tăng lên đến 40%/năm kỳ hạn một tháng trong thời điểm
tuần cuối tháng 10 vừa qua. Việc tăng cường đòi hỏi điều kiện đi kèm theo việc
cho vay vốn không chỉ đẩy lãi suất liên ngân hàng lên cao, mà còn khiến các
ngân hàng co mình lại, giảm cho vay trên thị trường này, hoặc cho vay và đòi
hỏi lãi suất cao ngất. Cơ chế bảo đảm, thế chấp này lập tức tạo một không khí
ngột ngạt và ảnh hưởng tới sự điều hòa các dòng vốn trong hệ thống, căng
thẳng thanh khoản tại một số thành viên. Lý do xuất hiện đòi hỏi có thế chấp
trên liên ngân hàng, là trước đây thị trường liên ngân hàng chỉ là nơi giải quyết
những thanh khoản ngắn hạn như qua đêm, 1 tuần, nửa tháng, tối đa là 1 – 2
tháng. Nhưng một vài năm gần đây đã biến tướng, có những khoản vay cả năm
trời. Điều này không những cho thấy có thiếu hụt thanh khoản kéo dài trong hệ
thống, mà còn khiến tiền nằm trong hệ thống ngân hàng mà không đi ra nền
kinh tế phục vụ phát triển sản xuất kinh doanh.
-

Các ngân hàng nhỏ với tốc độ tăng trưởng nóng trong những năm trước, có xu
hướng vay ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn. Do đó, khi thị trường biến
động, nguồn vốn khó khăn thì ngân hàng mất khả năng thanh khoản tạm thời.
Trước tình hình này, NHNN đã có hỗ trợ nhằm giúp cải thiện đáng kể khả năng

thanh khoản của các ngân hàng. Trong khi đó, HĐQT của 3 ngân hàng (Ngân
hàng Đệ Nhất, Ngân hàng Tín Nghĩa và Ngân hàng Thương mại cổ phần
(TMCP) Sài Gòn ) đã nhóm họp và đi tới quyết định tự nguyện sáp nhập thành
ngân hàng mới. Đây là 3 ngân hàng đầu tiên sáp nhập sau khi Chính phủ trong
phiên họp thường kỳ tháng 11 vừa qua cơ bản nhất trí với đề án tái cấu trúc hệ
thống ngân hàng thương mại nhằm tái cơ cấu toàn diện hệ thống ngân hàng cả
nước. Thực hiện việc tái cấu trúc hệ thống ngân hàng, từ nay đến hết quý I2012, sẽ hoàn thành việc đánh giá, phân loại các ngân hàng.

2.2.2 Đánh giá về thực trạng của thị trường liên ngân hàng tại Việt Nam giai
đoạn từ năm 2008 đến nay
2.2.2.1 Những mặt tích cực
-

Thị trường liên ngân hàng Việt nam đã có sự phát triển nhanh chóng và mạnh
mẽ cả về quy mô, khối lượng giao dịch, các đối tượng tham gia và hiệu quả

Nhóm 10 – Lớp TCDN Đêm 1.K20
20


GVHD: PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn

TTLNH tại Việt Nam – Thực trạng và giải pháp

hoạt động,…thể hiện cụ thể qua các tiêu chí về định lượng và định tính sau
đây:
+

Đối tượng tham thị trường: khi hình thành các giao dịch liên ngân hàng
đều thông qua NHNN và chỉ có một vài ngân hàng lớn tham gia thì cho

đến nay hầu hết các TCTD và định chế tài chính đều tham gia hoạt động
trên TTLNH với mức độ khác nhau, trong đó phải kể đến các ngân hàng
TMQD (05 ngân hàng), các ngân hàng TMCP (35 ngân hàng), các chi
nhánh ngân hàng nước ngoài (50 chi nhánh), các ngân hàng liên doanh (4
ngân hàng), các công ty tài chính (18 công ty) và các định chế tài chính
khác. NHNN cũng tham gia vào thị trường một cách tích cực với vai trò là
người phát hành, kiểm soát, điều tiết lượng cung cầu vốn khả dụng trên thị
trường và thực hiện vai trò là người cho vay cuối cùng đối với nền kinh tế.

+

Các sản phẩm, hình thức giao dịch trên thị trường: các sản phẩm, hình thức
giao dịch ngày càng đa dạng, ngoài sản phẩm truyền thống là gửi nhận vốn
giữa các TCTD, đã phát triển được các sản phẩm như mua bán có kỳ hạn
GTCG, mua bán hẳn GTCG, hoán đổi tiền tệ nhằm sử dụng linh hoạt giữa
các loại tiền tệ, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn huy động. Doanh số
giao dịch trên Thị trường liên ngân hàng tăng bình quân hàng năm 20%,
trong những năm gần đây tăng đến 30-40%. Doanh số giao dịch bình quân
trên TTLNH từ năm 2009 trở lại đây là 62.000-86.000 tỷ/tuần, cá biệt
trung tuần tháng 6/2010, doanh số giao dịch đã tăng đột biến lên trên
100.000 tỷ đồng.

+

Phương thức giao dịch: ngày càng đổi mới và hiện đại, hầu hết các giao
dịch được thực hiện qua hệ thống giao dịch điện tử kết nối toàn cầu, có hệ
thống lưu trữ dữ liệu an toàn và bảo mật cao.

+


Công cụ thanh toán giao dịch: công cụ thanh toán giao dịch ngày càng hiện
đại và đồng bộ, từ chỗ thanh toán thủ công, đến nay đã phát triển được hệ
thống thanh toán bù trừ điện tử, thanh toán điện tử liên ngân hàng, đáp ứng
quy mô thanh toán tăng lên gấp hàng trăm lần so với 05 năm trước đây.

Nhóm 10 – Lớp TCDN Đêm 1.K20
21


GVHD: PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn

-

TTLNH tại Việt Nam – Thực trạng và giải pháp

Thị trường liên ngân hàng đã phát huy vai trò điều tiết cung cầu nguồn
vốn giữa các TCTD, tăng cường việc luân chuyển, tăng vòng quay nguồn vốn,
giúp các TCTD sử dụng nguốn vốn khả dụng một cách hiệu quả và giúp các
TCTD điều hành thanh khoản và khả năng chi trả một cách tốt hơn.

-

Thị trường liên ngân hàng đã tạo ra cho các NHTM và các định chế tài
chính Việt Nam một kênh kinh doanh hiệu quả, an toàn, đa dạng hóa sản phẩm
dịch vụ, phát triển được những sản phẩm mới an toàn và hiệu quả ngoài các
sản phẩm truyền thống.

-

Thị trường liên ngân hàng đã thực sự là công cụ hữu hiệu giúp NHNN

thực hiện các chính sách tiền tệ một cách hiệu quả bằng cách can thiệp vào thị
trường với vai trò là nhà phát hành lần đầu các công cụ, cung ứng hàng hóa cho
thị trường hoạt động hiệu quả, thực hiện tốt vai trò là người cho vay cuối cùng
của nền kinh tế. Các nghiệp vụ của NHNN đã đảm bảo nhanh chóng, thuận
tiện, thời gian giao dịch và thanh toán đều rút gọn, việc giao dịch đều được thực
hiện qua mạng điện tử.

-

Thông tin thị trường ngày càng công khai, minh bạch, rõ ràng và đầy đủ,
không những giúp cho các thành viên thị trường nắm bắt kịp thời thông tin để
thực hiện nghiệp vụ hợp lý, chính xác và hiệu quả mà còn giúp cho các thành
viên chưa tham gia thị trường và các tổ chức, cá nhân nắm rõ diễn biến các hoạt
động của thị trường cũng như của nền kinh tế.

2.2.2.2 Các vấn đề tồn tại
-

Mặc dù đã có những bước phát triển vượt bậc nhưng TTLNH Việt Nam vẫn
còn một số tồn tại, đó là:
+

Tồn tại lớn nhất của thị trường tiền tệ là đã để xảy ra cuộc khủng hoảng
thanh khoản cuối năm 2007 và đầu năm 2008 và hậu quả của nó là rất
lớn, cho đến hiện nay thị trường vẫn chưa thật sự ổn định và vẫn ẩn
chứa nhiều nguy cơ khủng hoảng, thị trường chưa phát triển vững chắc
nên dễ bị tác động.

+


Năng lực của các đối tác tham gia, hiện nay có một phần không nhỏ các
NHTM và định chế tài chính vẫn gặp khó khăn về việc quản lý thanh

Nhóm 10 – Lớp TCDN Đêm 1.K20
22


GVHD: PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn

TTLNH tại Việt Nam – Thực trạng và giải pháp

khoản, quản lý vốn khả dụng, chưa đảm bảo các tỷ lệ an toàn về thanh
khoản theo quy định và theo thông lệ, nguồn vốn và sử dụng vốn vẫn
không ổn định và phụ thuộc nhiều vào nguồn vốn trên TTLNH.
+

Hoạt động nghiệp vụ của một số TCTD chưa minh bạch, chưa đúng
quy định, vẫn mang tính chất “lách luật” nhiều hơn.

+

Hiện nay, thị trường mới chỉ có các sản phẩm như gửi nhận vốn, mua
bán các GTCG (bao gồm cả mua bán hẳn và mua bán có kỳ hạn), chưa
phát triển được các sản phẩm phái sinh như hợp đồng hoán đổi lãi suất,
hợp đồng tương lai, hợp đồng quyền chọn về lãi suất.

+

Lãi suất VNIBOR mặc dù đã hình thành nhưng chưa thực sự trở thành
loại lãi suất tham chiếu rộng rãi cho các giao dịch trên thị trường tiền tệ

trong nước.

+

Cơ sở pháp lý và các quy định cụ thể về hoạt động của thị trường
chưa hoàn thiện, hiện chưa có quy chế hoạt động của thị trường, chưa có
quy định nào đối với tiêu chuẩn của các TCTD tham gia thị trường
nhằm hạn chế rủi ro cho thị trường. Các quy trình, quy chế nghiệp vụ
trên thị trường mở vẫn còn phải chỉnh sửa và hoàn thiện, trong đó có
việc xây dựng quy chế phối hợp việc lưu ký GTCG nhằm đảm bảo
nhanh chóng, sử dụng hiệu quả.

+

Các công cụ thanh toán, các công cụ giao dịch chưa được trang bị đầy
đủ và đồng bộ tại các TCTD.

+

Hệ thống thông tin thị trường bao gồm thông tin về tình hình hoạt
động và thông tin dự báo, cảnh báo còn thiếu và yếu.

+

Công tác quản lý điều hành thị trường của NHNN còn nhiều lúng túng,
thiếu biện pháp xử lý kiên quyết và đồng bộ, việc xử lý chạy theo tình
huống phát sinh, bùng phát đến đâu dập đến đó, chưa có định hướng,
biện pháp hay kế hoạch “dài hơi” cho việc quản lý và điều tiết thị trường.

+


Công tác thanh tra, giám sát còn nhiều bất cập, chưa chuyên nghiệp,
chưa phát hiện kịp thời các biểu hiện sai trái và lệch lạc trong hoạt động
của các TCTD.

Nhóm 10 – Lớp TCDN Đêm 1.K20
23


GVHD: PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn

TTLNH tại Việt Nam – Thực trạng và giải pháp

CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG LIÊN NGÂN
HÀNG Ở VIỆT NAM
Căn cứ vào đường lối phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước, xu thế tự
do hoá tài chính và hội nhập quốc tế, cũng như những hạn chế tồn tại của thị
trường liên ngân hàng Việt Nam, Nhóm sẽ trình bày một số giải pháp nhằm góp
phần khắc phục những yếu kém và từng bước củng cố, hoàn thiện và phát triển
thị trường tiền tệ liên ngân hàng như sau:
3.1 Các giải pháp đối với cơ quan quản lý.
-

Một là, hoàn thiện khung pháp lý về Thị trường liên ngân hàng. Văn bản có giá
trị pháp lý và có liên quan chặt chẽ nhất đến hoạt động nghiệp vụ trên thị
trường tiền tệ hiện nay là Quyết định số 1310/2001/QĐ-NHNN ngày
15/10/2001 về việc ban hành quy chế vay vốn giữa các tổ chức tín dụng. Quy
chế này ban hành đã khá lâu và hiện nay có một số điểm không còn phù hợp và

Nhóm 10 – Lớp TCDN Đêm 1.K20

24


GVHD: PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn

TTLNH tại Việt Nam – Thực trạng và giải pháp

cần phải sửa đổi, bổ sung do hoạt động của các định chế tài chính đã có nhiều
thay đổi và phát triển.
NHNN cần phải sớm ban hành quy chế về hoạt động giao dịch trên Thị trường
liên ngân hàng, trong đó quy định rõ nguyên tắc hoạt động của thị trường, các
điều kiện tham gia thị trường đối với các TCTD, các công cụ giao dịch chính
thức, các sản phẩm nghiệp vụ, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia thị
trường,...
Hiện nay tất cả các giao dịch đều thực hiện trên cơ sở thông lệ thị trường và chủ
yếu dựa vào uy tín của các đối tác, phương thức giao dịch qua điện thoại, xác
nhận qua fax và bản chính sẽ được gửi sau đó đã trở thành thông lệ và phổ biến,
hiện nay các TCTD có sử dụng thêm công cụ giao dịch điện tử là hệ thống giao
dịch điện tử của Hãng Reuters và Bloomberge, hiện chưa có văn bản nào của
NHNN quy định việc xử lý tranh chấp phát sinh khi thực hiện giao dịch qua các
phương tiện điện tử này. Các TCTD cũng đã tự ký với nhau các thỏa thuận giao
dịch qua fax và qua hệ thống giao dịch điện tử nhưng chưa đầy đủ và thống
nhất.
NHNN cũng sớm ban hành các quy định về các nghiệp vụ trên thị trường, trong
đó sớm hoàn thiện quy định về nghiệp vụ mua bán có kỳ hạn GTCG
(repo/reverse repo), quy định cụ thể về việc chuyển nhượng GTCG trong giao
dịch này.
-

Hai là, đa dạng và chuẩn hoá các công cụ trên thị trường. Bên cạnh những công

cụ sẵn có, cần được chuẩn hoá theo những khuôn khổ pháp lý thống nhất, cần
sớm đưa vào thị trường các công cụ giao dịch khác như các công cụ chứng
khoán phái sinh, các loại thương phiếu, các bảo lãnh của ngân hàng (bank
acceptances), kỳ phiếu ngân hàng, v.v… Những công cụ này không chỉ góp
phần đa dạng hoá dịch vụ ngân hàng - tài chính mà còn tạo điều kiện cho các
chủ thể tham gia có cơ hội lựa chọn nhằm đáp ứng cao nhất nhu cầu về nguồn
và sử dụng nguồn khi tham gia thị trường.

-

Ba là, khuyến khích các tổ chức tín dụng Việt Nam tham gia vào hoạt động thị
trường tiền tệ trong khu vực và trên thế giới, trước hết là thị trường Hongkong
và Singapore. Hiện nay, mới chỉ có Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam thực

Nhóm 10 – Lớp TCDN Đêm 1.K20
25


×