Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Có thể hướng dẫn cho tôi qui trình tìm giá khớp lệnh, nêu ví dụ cụ thể

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (218.05 KB, 27 trang )

Kiến thức chứng khoán
Phân loại
Hỏi đáp
Chủ đề

Có thể hướng dẫn cho tôi qui trình tìm giá khớp
lệnh, nêu ví dụ cụ thể !

Trả lời:
Qui
trình
tìm
giá
khớp
lệnh
Theo qui định tại Thông tư số 58/2004/TT-BTC ngày 17/6/2004 của Bộ Tài chính về
Thành viên và giao dịch chứng khoán:
- Phương thức giao dịch khớp lệnh thực hiện trên nguyên tắc:
i. Là mức giá thực hiện đạt được khối lượng giao dịch lớn nhất;
ii. Nếu có nhiều mức giá thoả mãn điểm i thì mức giá trùng hoặc gần với giá thực hiện
của
lần
khớp
lệnh
gần
nhất
sẽ
được
chọn;
iii. Nếu vẫn còn nhiều mức giá thoả mãn điểm ii thì mức giá cao hơn sẽ được chọn.
- Phương thức giao dịch thoả thuận là việc các thành viên tự thoả thuận với nhau về các


điều
kiện
giao
dịch.
Ưu
tiên
về
giá
+
Lệnh
mua

mức
giá
cao
hơn
được
thực
hiện
trước;
+ Lệnh bán có mức giá thấp hơn được thực hiện trước.
- Ưu tiên về thời gian: trường hợp các lệnh mua, bán có cùng mức giá thì lệnh giao dịch
nhập trước vào hệ thống giao dịch được ưu tiên thực hiện trước.
Ví dụ: Ta có sổ lệnh giao dịch của chứng khoán XYZ như sau:
- Trường hợp không có lệnh ATO:
Tích luỹ
Mua
Giá
Bán
Tích luỹ

10.000
15.500
22.500
25.500
34.000

10.000
5.500
7.000
3.000
8.500

30.000
29.000
28.000
27.000
26.000

10.000
15.000
4.000
3.000
2.500

34.500
24.500
9.500
5.500
2.500


Qua sổ lệnh ta có giá khớp lệnh của cổ phiếu XYZ là 28.000 đồng.
- Trường hợp có lệnh ATO và giá tham chiếu của lần khớp lệnh trước đó là 26.000 đồng:
Tích luỹ
13.000

Mua
10.000

Giá
30.000

Bán
10.000

Tích luỹ
31.500


18.500
25.500
25.500
25.500

5.500
7.000
3.000

29.000
28.000
27.000

26.000
ATO

10.000
10.500
1.000

21.500
21.500
21.500
11.500

Qua sổ lệnh ta có giá khớp lệnh của cổ phiếu XYZ là 28.000 đồng.

Trở về

Gửi tin

Bản để in

Ý kiến bạn đọc

Information document:
Created on : 26/09/2005 02:49 PM
Modified on : 26/09/2005 02:49 PM
Kiến thức chứng khoán
Phân loại
Hỏi đáp
Chủ đề


Cổ phiếu ngân quỹ là gì? Việc giao dịch cổ
phiếu này trên thị trường được quy định như thế
nào?

Theo Khoản 19, Điều 2 của Quy chế thành viên, niêm yết, công bố thông tin và giao
dịch chứng khoán ban hành kèm theo Quyết định số 79/2000/QĐ-UBCK1 của Chủ
tịch UBCKNN ngày 29/12/2000 thì cổ phiếu ngân quỹ là cổ phiếu đã phát hành và
được mua, bán lại trên thị trường bởi chính tổ chức phát hành. Việc giao dịch cổ phiếu
ngân quỹ được quy định tại Điều 54 Quy chế trên, theo đó:
1. Tổ chức niêm yết muốn mua hoặc bán cổ phiếu ngân quỹ phải nộp đơn xin phép
theo
quy
định
của
TTGDCK.
2. Tổ chức niêm yết được mua lại không quá 30% tổng số cổ phiếu phổ thông, một
phần hoặc toàn nbộ số cổ phiếu khác đã phát hành. Trong mỗi ngày giao dịch, tổ chức
niêm yết chỉ được đặt lệnh một lần với khối lượng tối thiểu bằng 3% và khối lượng tối
đa bằng 5% tổng khối lượng xin phép trong đơn. Trường hợp đặc biệt, TTGDCK có
thể cho phép tổ chức niêm yết đặt lệnh giao dịch vượt quá 5% khối lượng xin phép
trong
đơn.
3. Trường hợp tổ chức niêm yết mua lại cổ phiếu ngân quỹ vượt quá tỷ lệ 25% cổ
phiếu có quyền biểu quyết, phải thực hiện thông qua phương thức đấu thầu theo quy
định
của
UBCKNN.


4. Tổ chức niêm yết phải kết thúc việc mua hoặc bán lại cổ phiếu niêm yết trong vòng

3 tháng kể từ ngày được chấp thuận. Trường hợp mua lại, tổ chức niêm yết chỉ được
phép bán sau khi đã nắm giữ tối thiểu 6 tháng.
Trở về

Gửi tin

Bản để in

Ý kiến bạn đọc

Information document:
Created on : 26/09/2002 09:10 AM
Modified on : 26/09/2002 09:48 AM
Kiến thức chứng khoán
Phân loại
Hỏi đáp
Chủ đề

Giá cổ phiếu của một công ty khi niêm yết phụ
thuộc vào điều gì?
Trước hết có thể khẳng định rằng câu hỏi giống như câu hỏi của bạn hay tương tự, đã làm
đau đầu các nhà học giả, các nhà đầu tư chứng khoán hàng mấy trăm năm kể từ khi thị
trường chứng khoán ra đời, nếu bạn là một fan bóng đá, bạn cũng thấy khó khăn như thế
nào để dự đoán kết quả của một trận cầu, thì ở đây khó khăn cũng chẳng kém, nếu bạn
cho là khó hơn thì cũng không sao. Và ở trong hầu hết mọi trường hợp, câu trả lời có một
điểm chung thống nhất là giá cổ phiếu dường như là một điều gì đó rất bí ẩn, rất khó nắm
bắt.
Dưới đây, tác giả bài viết này xin trích đăng tóm tắt những kết luận, ý kiến của các nhà
kinh tế, các nhà hoạt động thị trường trên thế giới về những nhân tố chủ yếu có thể ảnh
hưởng đến giá cổ phiếu để bạn tham khảo. Tuy nhiên, cũng xin lưu ý bạn rằng, tác động

của các nhân tố này tới giá cổ phiếu như thế nào cũng còn rất nhiều tranh luận. Các yếu
tố này có thể chia thành 3 nhóm yếu tố, đó là: các yếu tố kinh tế, các yếu tố phi kinh tế,
và các yếu tố thị trường.
1. Nhóm yếu tố kinh tế
Về tăng trưởng kinh tế, giá cổ phiếu có xu hướng tăng khi nền kinh tế phát triển và
giảm khi nền kinh tế kém phát triển; tuy nhiên, có sự khác biệt đáng kể giữa các nhóm cổ
phiếu và tình hình biến động của từng cổ phiếu phụ thuộc vào tình hình hoạt động cụ thể
của từng công ty.


Về mối liên hệ giữa giá cổ phiếu và hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, giá
cổ phiếu đôi khi xảy ra trước biến động hoạt động kinh doanh, đôi khi xảy ra sau. Thời
gian xảy ra và mức độ biến động này có sự chênh lệch đáng kể qua theo dõi tình hình.
Qua một thời gian dài, nhiều người cho rằng giá cổ phiếu phổ thông thay đổi trước hoạt
động kinh doanh.
Thu nhập công ty, những người theo trường phái này cho rằng, thu nhập hay lợi nhuận
của công ty được coi là nhân tố quan trọng nhất tác động tới giá cổ phiếu. Những nhà
kinh doanh và nhà đầu tư mua và bán cổ phiếu chủ yếu dựa trên cơ sở dự đoán về mức
thu nhập. Tuy nhiên, giá cổ phiếu không phải lúc nào cũng có mối quan hệ chặt chẽ với
thu nhập. Có những thời điểm, giá cổ phiếu tăng nhanh hơn thu nhập; vào những thời
điểm khác, nó bị tụt lại đằng sau thu nhập. Đôi khi trên thực tế, nó lại biến động theo
chiều hướng ngược lại với thu nhập. Do vậy, dù một người theo dõi rất sát thị trường đã
dự đoán đúng xu hướng thay đổi của thu nhập, nhưng không có gì bảo đảm rằng anh ta có
thể dự đoán chính xác xu hướng biến đổi của giá cổ phiếu.
Cổ tức, những người theo trường phái này cho rằng cổ tức là nhân tố cơ bản, chủ yếu
thứ hai sau thu nhập, trong việc xác định giá chứng khoán. Thực chất điều này không
khác gì một câu thành ngữ cổ xưa “1 con chim trong nhà có trị giá bằng 2 con chim trong
rừng”. Tuy nhiên, cổ tức không đóng vai trò quan trọng đối với loại cổ phiếu tăng trưởng
là loại cổ phiếu mà người ta coi sự tăng giá của chúng là rất quan trọng, thường xuyên
mang lại lợi suất đầu tư cuối cùng lớn hơn nhiều so với cổ tức hiện tại. Một công ty tăng

trưởng có khả năng sử dụng số vốn này có hiệu quả hơn cho các cổ đông, là những người
luôn phải tìm kiếm cơ hội đầu tư. Trong tất cả các nhân tố báo chí sử dụng để giải thích
về sự biến động giá hàng ngày của từng cổ phiếu, các thông tin về cổ tức luôn được xếp ở
vị trí quan trọng gần đầu.
Lãi suất, mối quan hệ giữa lãi suất và giá cổ phiếu là gián tiếp và luôn thay đổi. Nguyên
nhân là do luồng thu nhập từ cổ phiếu có thể thay đổi theo lãi suất và chúng ta không thể
chắc chắn liệu sự thay đổi của luồng thu nhập này có làm tăng hay bù đắp cho mức biến
động về lãi suất hay không. Để giải thích rõ vấn đề này, chúng ta sẽ xem xét các khả năng
có thể xảy ra khi tỷ lệ lạm phát tăng, cụ thể như sau:
Lãi suất tăng do tỷ lệ lạm phát tăng và thu nhập công ty theo đó cũng tăng vì công ty có
thể tăng giá cho phù hợp với mức tăng của chi phí. Trong trường hợp này, giá cổ phiếu có
thể khá ổn định vì ảnh hưởng tiêu cực của việc tăng tỷ suất lợi nhuận đã được đền bù một
phần hay toàn bộ bởi phần tăng của tỷ lệ tăng trưởng thu nhập và cổ tức.
Lãi suất tăng, nhưng luồng thu nhập dự tính thay đổi rất ít do công ty không có khả năng
tăng giá để phù hợp với chi phí tăng, do vậy, giá cổ phiếu giảm. Tỷ suất lợi nhuận quy


định có thể tăng nhưng tỷ lệ tăng trưởng của cổ tức là không đổi, nên mức chênh lệch
giữa 2 nhân tố này càng lớn.
Lãi suất tăng trong khi luồng thu nhập giảm vì các nguyên nhân làm tăng lãi suất lại gây
tác động xấu tới thu nhập của công ty. Hoặc là người ta có thể hình dung thời kỳ lạm phát
trong đó chi phí sản xuất tăng, nhưng nhiều công ty không thể tăng giá, dẫn tới biên độ
lợi nhuận giảm. Tác động của một loạt các sự kiện này là rất tồi tệ. Trong những trường
hợp này, giá cổ phiếu sẽ sụt nghiêm trọng vì tỷ suất lợi nhuận giảm khi cổ tức giảm, dẫn
tới chênh lệch giữa 2 nhân tố này càng lớn.
Đối với những trường hợp ngược lại so với các trường hợp trên, bạn có thể hình dung ra
một loạt các khả năng ngược lại khi lạm phát và lãi suất giảm. Mối quan hệ giữa lạm
phát, lãi suất và giá cổ phiếu là một vấn đề đòi hỏi phải có kinh nghiệm và ảnh hưởng của
chúng thay đổi theo từng thời kỳ. Do vậy, mặc dù mối quan hệ giữa lạm phát, lãi suất và
thu nhập từ cổ phiếu là tiêu cực, nhưng điều này không phải lúc nào cũng đúng. Hơn nữa,

ngay cả khi điều này là đúng trên toàn bộ thị trường, thì vẫn tồn tại một số ngành nhất
định có thể có thu nhập và cổ tức tạo ảnh hưởng tích cực từ những biến động về lạm phát
và lãi suất. Trong trường hợp này, giá cổ phiếu có mối quan hệ tốt với lạm phát và lãi
suất.
Giá cả hàng hoá (lạm phát), Lịch sử thị trường chứng khoán Mỹ đã cung cấp nhiều
thông tin về sự bất cập của giá chứng khoán trong mối quan hệ với giá hàng hoá. Từ năm
1923 tới 1929 là một giai đoạn đáng ghi nhớ khi giá bán buôn ổn định và giá hàng hoá có
xu hướng giảm nhẹ. Tuy nhiên, trong thời kỳ đó, giá chứng khoán theo thống kê tăng vọt
phổ biến trên các thị trường đầu cơ giá lên. Ngược lại, giá hàng hoá tăng vào năm 1940,
1941, và 1942, nhưng giá cổ phiếu lại hạ. Vào mùa xuân năm 1946, việc kiểm soát giá
hàng hoá đã bị bãi bỏ, và lạm phát về giá hàng hoá đã lên tới đỉnh điểm cho đến hết năm
và tiếp tục tăng cho đến đến giữa năm 1948, giá cả tăng đều trong hai năm. Giá cổ phiếu
bắt đầu biến động gần như vào đúng ngày giá hàng hoá bắt đầu tăng vào năm 1946; giá
cổ phiếu giảm mạnh từ tháng 8 cho tới cuối năm. Nói cách khác, giá chứng khoán sụp đổ
vào năm 1946 đúng vào thời điểm nguy cơ lạm phát tăng mạnh nhất do ảnh hưởng của
Chiến tranh thế giới lần thứ II.
Sự không nhất quán trong các phản ứng của giá cổ phiếu trước sự thay đổi giá hàng hoá
đã làm nhà phân tích ngày càng chán nản bởi vì giá cổ phiếu trước đây thường có xu
hướng biến động trước khi giá hàng hoá biến động tới vài tháng. Do vậy, dường như giá
hàng hoá với tư cách là một chỉ số của giá chứng khoán tỏ ra không đáng tin cậy và có lẽ
là không có giá trị.
Các yếu tố kinh tế khác


Trong những năm gần đây, các chỉ số hàng đầu thường được các nhà dự báo chứng khoán
nhắc tới bao gồm số liệu về việc làm, những thay đổi về hàng tồn kho, và những biến
động về lượng cung tiền. Lãi suất cơ bản (thường là lãi suất trái phiếu chính phủ) trong
những năm gần đây đã thu hút sự chú ý đáng kể cho dù từ lâu nó chỉ được coi là một
nhân tố không đáng kể chứ không phải là nhân tố hàng đầu. Bởi vì giá chứng khoán là
một trong những chỉ số được coi trọng nhất trong 12 chỉ số hàng đầu, nên các nhà dự báo

cho rằng tốt nhất nên dự tính lãi suất cơ bản theo giá chứng khoán hơn là dự đoán giá
chứng khoán theo những thay đổi của lãi suất cơ bản.
Các chỉ số quan trọng khác bao gồm vốn vay liên ngân hàng, các khoản vay thương mại
và dịch vụ, giao dịch vốn trên thị trường tiền tệ, và các số liệu về giao dịch và thanh toán
của quỹ tương hỗ.
2. Nhóm yếu tố phi kinh tế
Nhóm nhân tố ảnh hưởng chủ yếu tiếp theo là những yếu tố phi kinh tế, bao gồm sự thay
đổi về các điều kiện chính trị, ví dụ chiến tranh hoặc thay đổi cơ cấu Chính phủ, thay đổi
về thời tiết và những nhân tố tự nhiên khác, và thay đổi về điều kiện văn hoá, như tiến bộ
về công nghệ v.v Tuy nhiên, những yếu tố này chỉ có ảnh hưởng lớn đối với giá chứng
khoán ở những nước có nền kinh thế thị trường phát triển, thị trường sẽ đánh giá những
chính sách này. Trong điều kiện Việt Nam, nền chính trị ổn định, mặt khác thị trường
chứng khoán còn chưa phát triển, thì yếu tố này ít có tác động.
3. Nhóm yếu tố thị trường
Các yếu tố thị trường, là những nhân tố bên trong của thị trường, bao gồm sự biến động
thị trường và mối quan hệ cung cầu có thể được coi là nhóm yếu tố thứ ba tác động tới
giá cổ phiếu. Sự biến động thị trường là một hiện tượng chờ đợi thái quá từ việc dự tính
quá cao giá trị thực chất của cổ phiếu khi giá cổ phiếu cao nhờ sự phát đạt của công ty, và
ngược lại do dự đoán thấp giá trị tại thời điểm thị trường đi xuống. Mối quan hệ giữa
cung và cầu được trực tiếp phản ánh thông qua khối lượng giao dịch trên thị trường, hoạt
động của những nhà đầu tư có tổ chức, giao dịch ký quỹ v.v cũng có ảnh hưởng đáng kể.
Mặc dù số lượng giao dịch ký quỹ tăng khi mà giá cổ phiếu tăng, nhưng một khi giá cổ
phiếu giảm số lượng cổ phiếu bán ra tăng và làm cho giá càng giảm.
Như vậy, dao động giá cổ phiếu bị ảnh hưởng bởi sự kết hợp của nhiều nhân tố khác
nhau, hạt nhân chính là các yếu tố về khả năng thu nhập công ty.
Đối với TTCK Việt Nam, theo quan điểm cá nhân của tác giả bài viết này, thì giá cổ
phiếu của công ty niêm yết về cơ bản cũng chịu ảnh hưởng của các yếu tố nói trên nhưng
mức độ không rõ ràng. Có thể thống kê những yếu tố chủ yếu sau:



Yếu tố tâm lý “bầy đàn”, thuộc nhóm yếu tố thị trường nói ở trên, thể hiện tương đối rõ
nét nhất là ở trong giai đoạn đầu thị trường mới thành lập. Bạn có thể thấy rõ hiện tượng
này qua biểu hiện giá của đa số các cổ phiếu đều lên hoặc đều xuống, giá cổ phiếu biến
động tăng /giảm không phản ánh tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty,
mà chủ yếu do yếu tố tâm lý của người đầu tư trên thị trường. Sau này mới có sự phân
hoá về biến động giá giữa các loại cổ phiếu khác nhau, tuy nhiên, hiện nay yếu tố này vẫn
chiếm xu thế chủ đạo.
Thu nhập công ty, yếu tố này có tác động tương đối rõ rệt tới giá cổ phiếu, chẳng hạn
vừa qua giá cổ phiếu của CTCP Chế biến hàng xuất khẩu Long An tăng “kịch trần” nhiều
phiên bởi Công ty công bố lợi nhuận sau thuế quý III /2004 đạt 8, 6 tỷ đồng tăng hơn
140% so với cùng kỳ năm trước.
Ngoài những yếu tố nói trên, có thể tính đến các yếu tố khác như mức trả cổ tức, thông
tin mua bán cổ phiếu của các thành viên trong ban lãnh đạo công ty, thông tin tách gộp cổ
phiếu, thông tin về việc phát hành thêm cổ phiếu, tin đồn…Những người đầu tư chuyên
nghiệp hơn có thể còn tìm hiểu các thông tin liên quan đến chính sách của Chính phủ đối
với thị trường chứng khoán, chính sách cổ phần hoá DNNN, tình hình quản trị của công
ty niêm yết, tên tuổi của CTCK bảo lãnh phát hành hay tư vấn niêm yết cho công ty niêm
yết.
Để kết thúc bài viết này, tác giả cho rằng lời khuyên sau đây của các nhà đầu tư nổi tiếng
trên thị trường chứng khoán thế giới đáng để bạn quan tâm, đó là từng nhà đầu tư cần
phải có những phân tích, suy xét của riêng mình trước khi đưa ra quyết định mua hay
bán, tránh bị ảnh hưởng bởi những trào lưu tâm lý trên thị trường. Có như vậy thì từng
nhà đầu tư mới có thể tìm kiếm được cho mình những cơ hội đầu tư sinh lời bất kể tình
hình giá cả thị trường biến động lên hay xuống. Chúc bạn thành công.

Trở về

Gửi tin

Bản để in


Ý kiến bạn đọc

Information document:
Created on : 26/09/2005 02:47 PM
Modified on : 26/09/2005 02:47 PM
Kiến thức chứng khoán
Phân loại
Hỏi đáp


Chủ đề

Phương pháp xác định giá tham chiếu của chứng
khoán niêm yết

- Xin cho biết phương pháp xác định giá tham chiếu của chứng khoán niêm yết được xác
định như thế nào?
Tại Khoản 3, Điều 49 của Quy chế thành viên, niêm yết, công bố thông tin và giao dịch
chứng khoán ban hành kèm theo Quyết định số 79/2000/QĐ -UBCK của Chủ tịch
UBCKNN ngày 29/12/2000 quy định:
Giá
tham
chiếu
được
xác
định
như
sau:
a. Giá tham chiếu của cổ phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư và trái phiếu đang giao dịch bình

thường

giá
đóng
cửa
của
ngày
giao
dịch
trước
đó;
b. Trường hợp chứng khoán mới được niêm yết, trong ngày giao dịch đầu tiên TTGDCK
nhận lệnh giao dịch không giới hạn biên độ dao động giá và lấy giá đóng cửa của ngày
giao dịch làm giá tham chiếu. Biên độ dao động giá được áp dụng từ ngày giao dịch kế
tiếp;
c. Trường hợp chứng khoán thuộc diện bị kiểm soát, chứng khoán không còn thuộc diện
bị kiểm soát, chứng khoán bị ngừng giao dịch trên 30 ngày, thì giá tham chiếu được xác
định
tương
tự
quy
định
tại
điểm
b
của
điều
này;
d. Trường hợp giao dịch chứng khoán không được hưởng các quyền kèm theo, giá tham
chiếu được xác định theo nguyên tắc lấy giá đóng cửa của ngày giao dịch gần nhất điều

chỉnh
theo
giá
trị
của
các
quyền
kèm
theo;
e. Trường hợp tách gộp cổ phiếu, giá tham chiếu sau khi tách gộp được xác định theo
nguyên tắc lấy giá đóng cửa của ngày giao dịch trước ngày tách gộp điều chỉnh theo tỷ lệ
tách
gộp
cổ
phiếu;
f. Trong một số trường hợp cần thiết, TTGDCK có thể áp dụng phương pháp xác định giá
tham chiếu khác sau khi có sự chấp thuận của Chủ tịch UBCKNN.
Trở về

Gửi tin

Bản để in

Ý kiến bạn đọc

Information document:
Created on : 26/09/2002 09:07 AM
Modified on : 26/09/2002 09:49 AM
Kiến thức chứng khoán
Phân loại

Hỏi đáp


Chủ đề

Tôi muốn hỏi hiện nay TTGDCK TP.HCM đang
sử dụng những loại lệnh giao dịch nào?

Trả

lời:
Theo qui định tại Thông tư số 58/2004/TT-BTC ngày 17/6/2004 của Bộ Tài chính
về Thành viên và giao dịch chứng khoán lệnh giao dịch theo phương thức khớp lệnh bao
gồm:
- Lệnh giới hạn: là lệnh mua hoặc bán chứng khoán do người đầu tư đưa ra cho người
môi
giới
thực
hiện
theo
mức
giá
chỉ
định
hoặc
tốt
hơn
- Lệnh giao dịch tại mức giá khớp lệnh (ATO): là lệnh mua hoặc bán chứng khoán
nhưng không ghi mức giá, do người đầu tư đưa ra cho người môi giới để thực hiện theo
giá

khớp
lệnh.
Khối lượng giao dịch của lệnh ATO được cộng vào tổng khối lượng khớp lệnh nhưng
lệnh ATO chỉ được phân bổ sau khi lệnh giới hạn đã được phân bổ hết.
Trở về

Gửi tin

Bản để in

Ý kiến bạn đọc

Information document:
Created on : 26/09/2005 02:50 PM
Modified on : 26/09/2005 02:50 PM
Kiến thức chứng khoán
Phân loại
Hỏi đáp
Chủ đề

Tôi xin hỏi về bản chất quỹ thành viên?, Tôi
thấy người ta hay nói về Muatual Fund?
Quỹ đầu tư chứng khoán là một công cụ huy động vốn và đầu tư rất hiệu quả trên các thị
trường vốn. Về cơ bản, Quỹ đầu tư chứng khoán có hai dạng chính như sau:
+ Các quỹ công chúng:
Đây còn gọi là quỹ đầu tư tập thể, là những quỹ đầu tư được hình thành từ vốn góp của
rất nhiều nhà đầu tư và uỷ thác cho một công ty quản lý quỹ để thực hiện các hoạt động
đầu tư của quỹ. Thuật ngữ Muatual Fund có nghĩa là quỹ tương hỗ, thuật ngữ này được
dùng rất nhiều ở Mỹ, nơi có hệ thống các quỹ đầu tư rất phát triển. Thuật ngữ này cũng là
một cách gọi đối với các quỹ công chúng.



Việc huy động vốn của các quỹ này được thực hiện thông qua những đợt phát hành
chứng chỉ quỹ ra công chúng. Khi tham gia vào các quỹ công chúng, các nhà đầu tư được
hưởng các lợi ích sau:
- Được hưởng lợi từ việc đầu tư đa dạng hoá, nhờ đó, giảm thiểu các rủi ro không không
hệ thống.
- Được hưởng lợi nhờ giảm thiểu các chi phí đầu tư do quy mô đầu tư của các quỹ thường
lớn.
- Vốn của các nhà đầu tư được quản lý bởi các chuyên gia đầu tư có chuyên môn và giàu
kinh nghiệm của một công ty quản lý quỹ.
- Các chứng chỉ quỹ cũng có tính thanh khoản như một loại cổ phiếu, nhờ đó, các nhà đầu
tư có thể dễ dàng bán các chứng chỉ quỹ khi cần thiết.
Do nguồn vốn của quỹ công chúng được huy động từ nhiều nhà đầu tư nên hoạt động đầu
tư của quỹ công chúng phải tuân thủ rất nhiều hạn chế nghiêm ngặt của pháp luật. Công
ty quản lý quỹ thực hiện quản lý cũng phải tuân thủ rất nhiều điều kiện khắt khe trong
hoạt động quản lý các quỹ này. Mục đích của các hạn chế trên là nhằm đảm bảo sự an
toàn cho Quỹ đầu tư chứng khoán, bảo vệ lợi ích hợp pháp và chính đáng của các nhà đầu
tư.
+ Các quỹ thành viên, hay còn gọi là các quỹ đầu tư tư nhân.
Về bản chất, Quỹ thành viên là một dạng Quỹ đầu tư chứng khoán, tuy nhiên, quỹ này chỉ
giới hạn ở một số ít nhà đầu tư tham gia góp vốn.
Mục tiêu chủ yếu của việc thành lập các Quỹ thành viên là để thực hiện các hoạt động
đầu tư có tính chất tương đối mạo hiểm. Các hoạt động đầu tư này có thể mạng lại những
khoản lợi nhuận tiềm năng rất cao cho các nhà đầu tư, tuy nhiên rủi ro cũng rất lớn.
Với tính chất rủi ro như vậy, các quỹ thành viên không phù hợp với việc huy động vốn từ
công chúng. Quy mô và phạm vi huy động vốn của quỹ chỉ tập trung vào một số ít nhà
đầu tư lớn, có tiềm lực tài chính và có khả năng chấp nhận những rủi ro cao trong hoạt
động đầu tư. Chính vì vậy, để tham gia vào quỹ thành viên, các nhà đầu tư phải đạt được
những điều kiện nhất định do pháp luật đặt ra.

Với tính chất và mục tiêu đầu tư như trên, các quỹ thành viên thường không phải chịu các
hạn chế như quỹ công chúng.


Hiện tại, hầu hết các nước có thị trường chứng khoán phát triển đều có hình thức quỹ đầu
tư này.

Trở về

Gửi tin

Bản để in

Ý kiến bạn đọc

Information document:
Created on : 26/09/2005 02:44 PM
Modified on : 26/09/2005 02:44 PM
Kiến thức chứng khoán
Phân loại
Hỏi đáp
Chủ đề

Xin cho biết ngày giao dịch không hưởng cổ tức
là gì?
Ngày giao dịch không hưởng cổ tức là ngày mà nếu cổ phiếu được giao dịch (mua/bán)
vào ngày đó thì người mua (người sở hữu) sẽ không được hưởng cổ tức. Cổ tức sẽ được
trả cho người có tên trong danh sách hưởng cổ tức sở hữu cổ phiếu đó được lập vào ngày
đăng ký cuối cùng
Trở về


Gửi tin

Bản để in

Ý kiến bạn đọc

Information document:
Created on : 26/09/2005 02:45 PM
Modified on : 26/09/2005 02:45 PM
Kiến thức chứng khoán
Phân loại
Hỏi đáp
Chủ đề

Xin hướng dẫn cho tôi biết các bước để tham gia
giao dịch tại TTCK Việt Nam?
Để tham gia giao dịch mua, bán chứng khoán trên TTCK Việt Nam bạn cần đến công ty
chứng khoán để làm thủ tục mở tài khoản giao dịch chứng khoán. Khách hàng và công ty
chứng khoán sẽ ký hợp đồng mở tài khoản và mỗi khách hàng sẽ được công ty chứng
khoán mở một tài khoản riêng để theo dõi tiền và chứng khoán của khách hàng. Để mua
chứng khoán bạn phải có tiền hoặc để bán chứng khoán bạn phải có chứng khoán trong


tài khoản này. Vì vậy, bạn phải gửi tiền vào tài khoản đó hoặc nếu đã có chứng khoán thì
bạn phải gửi chứng khoán cho công ty chứng khoán nơi bạn đã mở tài khoản. Sau đó, bạn
có thể thực hiện giao dịch (mua/bán) chứng khoán trên tài khoản của mình thông qua
công ty chứng khoán bằng việc viết phiếu lệnh và chuyển cho công ty chứng khoán nhập
lệnh vào hệ thống giao dịch. Kết thúc phiên giao dịch công ty chứng khoán sẽ thông báo
kết quả giao dịch cho bạn.

Để biết thêm chi tiết bạn có thể liên hệ trực tiếp với bộ phận môi giới của các công ty
chứng khoán.

Trở về

Gửi tin

Bản để in

Ý kiến bạn đọc

Information document:
Created on : 26/09/2005 02:46 PM
Modified on : 26/09/2005 02:46 PM
Kiến thức chứng khoán
Phân loại
Hỏi đáp
Chủ đề

Điều kiện để thị trường chứng khoán hoạt động
tốt?
Thị trường chứng khoán được xem là hoạt động tốt và hiệu quả nếu như việc mua bán
chứng khoán trên thị trường diễn ra thuận lợi, cung cấp cho nhà đầu tư một cơ chế giao
dịch thuận tiện, an toàn, công khai, công bằng và minh bạch, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp cho nhà đầu tư. Hay nói khác, thị trường chứng khoán được xem là hoạt động tốt
nếu như nó tạo ra tính thanh khoản cao cho các chứng khoán giao dịch, cung cấp đầy đủ
thông tin cho nhà đầu tư và các đối tượng tham gia thị trường, qua đó hình thành nên giá
chứng khoán hợp lý, tạo được niềm tin của công chúng vào thị trường chứng khoán.
Vì vậy, để có thị trường chứng khoán hoạt động hiệu quả thì phải có một số điều kiện căn
bản

sau:
Về yếu tỗ vĩ mô: Sự ổn định môi trường chính trị và kinh tế vĩ mô nhằm khuyến khích
đầu tư và tiết kiệm của công chúng; mức độ lạm phát được kiềm chế vừa đủ để duy trì
nền kinh tế phát triển; mức thâm hụt ngân sách trong giới hạn an toàn, các chiến lược
phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo và tạo công ăn việc làm được thực hiện có hiệu
quả.
Về
yếu
tố
vi
mô,
đó
là:
Khung pháp lý hoàn chỉnh và đồng bộ với hệ thống các văn bản pháp quy đầy đủ, rõ


ràng, điều chỉnh các mặt hoạt động của thị trường chứng khoán giúp cho thị trường hoạt
động an toàn, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp cho các chủ thể tham gia thị trường.
Mạng lưới các trung gian hoạt động trên thị trường chứng khoán như các công ty
chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư… vv, đóng vai trò cầu nối giữa các nhà đầu tư
thực hiện nghiệp vụ môi giới mua bán chứng khoán trên thị trường tập trung, cung cấp
các dịch vụ hỗ trợ khác cho các nhà đầu tư như cho vay, cung cấp thông tin và các dịch
vụ liên quan đến giao dịch chứng khoán cho nhà đầu tư như tư vấn đầu tư chứng khoán,
tham gia bảo lãnh phát hành và tư vấn cho các công ty trong việc niêm yết.
Cung cấp một cơ chế giao dịch hiệu quả thông qua tổ chức, vận hành của Trung tâm
Giao dịch Chứng khoán, Sở Giao dịch Chứng khoán gồm hệ thống giao dịch, giám sát,
công bố thông tin, hệ thống lưu ký, thanh toán bù trừ…vv. Sự vận hành của các hệ thống
này có những ảnh hưởng lớn tới sự phát triển của thị trường thông qua năng lực xử lý
nhanh, chính xác các giao dịch trên thị trường, giúp tăng tốc độ luân chuyển vốn trên thị
trường.

Các tổ chức hỗ trợ phát triển thị trường, như các định chế trung gian khác là tổ chức định
mức tín nhiệm, tổ chức kiểm toán, tư vấn, tổ chức lưu ký, ngân hàng thanh toán…vv.
Ngoài ra thị trường cần đến sự tham gia của các nhà đầu tư chuyên nghiệp đóng vai trò
dẫn dắt thị trường, can thiệp thị trường vào những thời điểm mất cân đối quan hệ cung
cầu.
Trở về

Gửi tin

Bản để in

Ý kiến bạn đọc

Information document:
Created on : 26/09/2005 02:43 PM
Modified on : 26/09/2005 02:43 PM
Kiến thức chứng khoán
Phân loại
Từ điển chứng khoán
Chủ đề
A
AAA : Trái phiếu được sắp hạng cao nhất về mức an toàn. Trái phiếu đô thị, và công ty
được đánh giá cao nhất, được chi trả vốn và lãi đầy đủ như mong đợi khi đáo hạn.
Standard & Poor's đánh giá trái phiếu theo thứ tự AAA, AA, A và Moody's Investors
Service đánh giá theo Baa, và cao hơn như Aaa. Đây là loại trái phiếu được xem là có cấp
độ đầu tư an toàn, phù hợp để ngân hàng và tổ chức tiết kiệm mua để làm chứng khoán
đầu
tư.
ABANDON : Xoá bỏ - Huỷ bỏ. Hành động từ bỏ quyền mua hay bán một số cổ phần của



công

ty

trước

ngày

đáo

hạn

ABANDONMENT : Sự từ bỏ. Tự ý từ bỏ tài sản hay quyền hạn đối với tài sản, không
cố gắng đòi lại tài sản hay chỉ định người thừa kế. Trong hầu hết các tiểu ban, quyền sở
hữu tài sản bị từ bỏ được trao cho liên bang hưởng lợi ban đầu, hay giao cho tiểu bang
nếu không tìm thấy người sở hữu. Trong luật phá sản, việc từ bỏ tài sản là biện pháp để
trả lại thế chấp cho chủ nợ đã được bảo đảm với sự đồng ý của người thụ uỷ phá sản.
ABA TRANSLT NUMBER : Mã số chuyển ABA. Mã số dùng trong việc giao hoán chi
phiếu giữa các ngân hàng. Môi giới ngân hàng và tổ chức tiết kiệm có mã số ABA riêng
do American Bankers Association thiết lập. Mã số chuyển có hai phần cách nhau bằng
dấu trừ (-) Phần đầu cho biết thành phố, tiểu bang hay địa phận nơi ngân hàng toạ lạc,
phần thứ nhì xác định chính ngân hàng. mã số chuyển nằm phía góc phải phía trên chi
phiếu dưới dạng tử số của phân số. Mẫu số là ký hiệu Tuyến Chi Phiếu (Check Routing
Symbol) xác định Ngân Hàng Dự trữ Liên Bang của tổ chức tiết kiệm.
AGREEMENT : Thoả hiệp ABC. Thoả hiệp giữa công ty môi giới và một trong các
nhân viên của công ty. chấp (satisfaction or mortgage) chứng nhận nợ đã được trả đủ.
ACROSS THE BOARD : Cùng hướng - Toàn diện. Biến chuyển thị trường chứng
khoán có ảnh hưởng đến hầu hết chứng khoán theo cùng một hướng. Khi thị trường tăng
toàn

bộ
thì
tất
cả
chứng
khoán
cũng
đều
tăng
theo.
ACROSS-THE-BOARD (ATB) TARIFF REDUCTION : Gia giảm toàn bộ quan thuế
biểu. Cũng còn gọi là gia giảm quan thuế biểu theo đường thẳng (linear tariff reduction),
đây là công cụ dùng trong các cuộc thương lượng mua bán quốc tế nhằm tránh sự thương
lượng gia giảm theo từng hạng mục. Các quốc gia đồng ý tuân theo sự gia giảm phần
trăm trong tỷ lệ quan thuế đối với những hàng hoá ấn định.
ACTING IN CONCERT : Thông đồng. Hai hay nhiều nhà đầu tư cùng làm việc với
nhau để cùng đạt một mục tiêu đầu tư. Thí dụ, họ cùng mua tất cả cổ phần của công ty
mà họ muốn tiếp thu. Những nhà đầu tư này phải báo cho Hiệp Hội Chứng Khoán (SEC
-- Securities and Exchange . Commission - uỷ Ban Chứng Khoán là thị trường chứng
khoán) nếu họ có ý định loại trừ thành phần lãnh đạo công ty mà họ muốn tiếp thu hay có
ý định nắm quyền kiểm soát công ty. hành động này sẽ bất hợp pháp nếu như họ thông
đồng
để
lôi
kéo
giá
chứng
khoán
lên
để

hưởng
lợi.
ACTIVE ACCOUNT : Tài khoản hoạt động tích cực. Tài khoản có số ký thác và số rút
tiền thường xuyên cập nhật trong thời khoảng kế toán. Ngoài ra, đó là tài khoản thẻ tín
dụng hay Mức Tín Dụng Ngân hàng (Bank line or credit) cho biết số vốn và số chi trả


tiền lãi đáo hạn trên báo cáo tài khoản khách hàng. Ngược lại là Inactive Account.
ACTIVE BOND CROWD : Nhóm mua bán trái phiếu tích cực. Nhân viên phòng trái
phiếu NYSE có trách nhiệm về số lượng lớn nhất trái phiếu đang mua bán. Ngược lại
nhóm tích cực là nhóm dự phòng (carbinet crowd) tức là nhóm mua bán loại trái phiếu ít
khi được đưa ra mua bán. Nhà đầu tư mua bán trái phiếu trong nhóm tích cực sẽ có cơ hội
mua chứng khoán t trái phiếu giá tốt hơn là trong thị trường trì trệ vì ở thị trường này
chênh
lệch
giữa
giá
đặt
mua

giá
đặt
bán
rất
xa
ACTIVE BOX : Trong kho tồn trữ năng động - tính năng động của chứng khoán thế
chấp. Thế chấp có sẵn để bảo đảm cho số tiền vay của Broker hay cho vị thế tài khoản
margin của khách hàng (Margin account - tài khoản vay tiền để mua chứng khoán), để ở
một nơi - gọi là hộp an toàn (box) tức là nơi chứng khoán của khách hàng của broker hay
của chính broker-dealer (broker mua bán cho chính mình) được giữ an toàn. Chứng

khoán trái phiếu dùng để thế chấp phải do công ty sở hữu hoặc do khách hàng thế chấp
cho công ty, sau đó broker thế chấp cho ngân hàng cho vay. Đối với tiền vay trong tài
khoản margin, khách hàng phải thế chấp chứng khoán cho broker.
ACTIVE MARKET : Thị trường năng động, thị trường mua bán tích cực. Thị trường
mua bán một số lượng lớn chứng khoán trái phiếu hay hàng hoá. Chênh lệch giữa giá đặt
mua và giá đặt bán không cách xa mấy trong thị trường năng động, ít hơn trong mua bán
âm thầm. Ngoài ra ,số lượng chứng khoán mua bán trên thị trường theo từng khối .các
nhà quản lý tiền thuộc tổ chức thích loại thị trường như thế vì việc mua bán theo từng
khối lớn chứng khoán sẽ ít có ảnh hưởng làm xáo trộn biến chuyển giá cả khi việc mua
bán

tính
tích
cực..
ACTIVE TRUST : Uỷ thác toàn quyền. Tài khoản uỷ thác trong đó người thụ uỷ
(trustee) có bổn phận đặc biệt đã ấn định để thực hiện uỷ thác di chúc (Testamentary
trust) do một chúc thư đề ra. Người thụ uỷ có thầm quyền bán tài sàn để trả đủ cho người
chủ nợ và phân phối tài sản cho những người thừa kế. Nó ngược lại với uỷ thác của người
bảo trợ (grantor trust) hay uỷ thác thụ động, nghĩa là không được tự do quyết định thực
hiện.
ACTIVITY CHARGE : Phí hoạt động. Lệ phí trả vào tài khoản ngân hàng để thanh
toán giá phí dịch vụ. Vài phí hoạt độ sẽ tăng vọt lên khi số cân đối tài khoản rớt xuống
thấp hơn một mức nào đó, thí dụ như phí dịch vụ hàng tháng trên tài khoản chi phiếu.Các
phí khác là phí giao dịch mua bán dựa trên việc sử dụng tài khoản, thí dụ phí từng hạng
mục trong việc viết chi phiếu hay phí dịch vụ trong việc rút tiền bằng máy tự động.
ACT OF BANKRUPTCY : Thừa nhận bị vỡ nợ. Hành động (hay cách ứng xử) được


xem là thừa nhận bi vỡ nợ - thường là không có khả năng trả nợ khi đáo hạn. Người cho
vay nợ, người tin tưởng người vay đã phạm phải hành động phá sản có thể đệ trình kiến

khăn việc tài trợ sản xuất bằng số tiền vay mới. điếu này làm tăng các thủ đoạn khác nhau
để loại bỏ điều khoản bảo đảm bổ sung như thu hồi hay chuyển đổi trái phiếu hoặc thay
đổi
trong
thoả
thuận
giao
kèo.
AFTER DATE (A.D) Từ thời điểm đã ghi trở đi. Sau thời điểm đã ghi (thông báo). Một
thông báo đính kèm theo hối phiếu hay giấy báo trả tiền cho biết rằng công cụ sẽ được
chi trả sau thời điểm được ghi trong thông báo đó (thí dụ, 30ngày sau thời điểm đã ghi).
Một công cụ loại này là hối phiếu có kỳ hạn (định kỳ) có thể đáo hạn trước khi được thế
chấp.
AFTER HOURS DEAL : Giao dịch mua bán sau giờ chính thức (sau giờ đóng cửa).
Giao dịch mua bán trên thị trường chứng khoán đã kết thúc sau khi đóng cửa cửa chính
thức mua bán. Thông thường mua bán này được ghi nhận báo cáo vào ngày hành chính
kế
tiếp.
AFTER SIGHT : Sau khi đã thấy, sau khi trình ra. Thông báo rằng hối phiếu hay giấy
báo trả tiền sẽ được chi trả sau khi nó được trình ra để nhận chi trả. Người bán vẫn còn
quyền sở hữu số hàng hoá đang vận chuyển cho đến khi chứng từ vận chuyển được trình
cho
ngân
hàng
chi
trả

ngân
hàng
này

chấp
nhận.
AFTERMARKET : Thị trường sau khi phát hành. Mua bán cổ phần trên thị trường
chứng khoán sau khi công ty phát hành cổ phần ra công chúng. Giá cả của cổ phần lúc
này tăng hay giảm tuỳ theo thị trường cung cầu, không còn theo giá căn bản như lúc công
ty
mới
phát
hành
cổ
phần.
AFTERTAX BASIS : Tỷ lệ căn bản sau khi đóng thuế. Tỷ lệ căn bản để so sánh lợi
nhuận của trái phiếu công ty (phải đóng thuế) và trái phiếu đô thị (miễn thuế). Thí dụ, trái
phiếu công ty chi trả 10% sẽ có lợi nhuận sau khi đóng thuế là 7,2% đối với người nằm
trong khung thuế 28%. Vì thế bất cứ trái phiếu đô thị nào trả cao hơn 7,2% sẽ cho hoa lợi
cao
hơn
loại
trái
phiếu
công
ty
chi
trả
10%.
AFTERTAX REAL RATE OF RETURN : Tỷ lệ lợi nhuận thực sau khi đóng thuế. Số
tiền mà nhà đầu tư có được sau khi đã điều chỉnh theo lạm phát. Số tiền này xuất phát từ
lợi tức và tư bản kiếm được (capital gains) trong các vụ đầu tư. Trong lạm phát mỗi
dollar đều mất đi một phần giá trị vì thế nhà đầu tư phải theo dõi tỷ lệ lợi nhuận thực sau
khi đóng thuế kể từ khi ông ta cam kết về vốn. Nói chung, nhà đầu tư tìm một tỷ lệ lợi

nhuận tương xứng nếu không nói là vượt hơn tỷ lệ lạm phát.
ALLOCATION : Vị thế, số lượng tỷ lệ cổ phần đầu tư. Số lượng cổ phần được mua


trong một danh mục đầu tư (portfolio) theo một tỷ lệ so sánh với Bonds, với tiền mặt
v.v... Merill Lynch increased the stock allocation in his benchmark portfolio to 50%:
Công ty đầu tư Merill Lynch đã gia tăng tỷ lệ đầu tư cổ phần chứng khoán trong danh
mục
đầu

của
họ
lên
tới
50%.
ALLONGE: Phiếu bảo chứng. Chứng tự kèm theo công cụ chi trả (negotiable
instrument) để thêm bảo chứng như khi ký chi phiếu trả cho bên thứ ba. Khi ngân hàng
vay tại phòng Cho Vay Có Chiết Khấu (Discount Window) của Ngân Hàng Dự trữ Liên
Bang , ngân hàng phải bổ sung vào một phiếu kèm theo giấy hứa trả nợ , hối phiếu, hoá
đơn được giao cho ngân hàng Dự Trữ Liên Bang để thế chấp.
ALLOTMENT: Phân bổ. Số chứng khoán chia ra cho mỗi thành viên trong tập đoàn
ngân hàng đầu tư được thành lập để bao tiêu phân phối chứng khoán mới, gọi là người
đăng ký bao tiêu (subscribers.) hay người được phân phối (allottees). Trách nhiệm tài
chính của người đăng ký bao tiêu được ghi trong thông thông báo phân bổ do nhà quản lý
bao
tiêu
soạn
thảo.
ALLOWANCE:
Tiền

chiết
khấu,
tiền
trợ
cấp,
tiền
khấu
trừ.
1. Kế toán: Tài khoản để điều chỉnh trị giá tài sản thông qua phí của lợi tức hiện hành,
đây

số
dự
trữ
cho
khấu
hao.
2. Ngân hàng: Dự trữ tiền vay bị mất (Loan loss Reserve) dùng cho số phí sẽ mất theo dự
kiến
đối
với
nợ
khó
đòi.
3. Uỷ thác: Chứng thực (di chúc) quyết định của an toàn cho người thụ uỷ tài sản ; thí dụ
như
tiền
trợ
cấp
cho

người
goá
bụa.
4. Mua bán: Khấu trừ trị giá hoá đơn được người bán hàng hoá chấp nhận để bù đắp vào
số

hại
hay
thiếu
sót.
ALPHA:
Hệ
số
Alpha.
1. Hệ số đo lường phần lợi nhuận đầu tư có phát sinh rủi ro đã tính tới. Nói cách khác, hệ
số alpha là phương pháp toán học ước tính số lợi nhuận mong muốn có từ giá trị vốn có
của đầu tư, như tỷ lệ phát triển lợi nhuận cho môi cổ phần. Nó khác số lợi nhuận có được
do biến động giá (volatility) , loại này được tính bằng hệ số Beta. Thí dụ, hệ số alpha là
1,25 cho biết chứng khoán có dự kiến tăng 25% trong một năm khi lợi nhuận trên thị
trường và hệ số Beta của chứng khoán đều bằng không. Một vụ đầu tư có giá thấp tính
theo hệ số alpha bị đánh giá dưới giá trị, nhưng đây được xem là một lựa chọn tốt. (Đầu
tư tốt vì có tiềm năng tăng giá sau này). Trong trường hợp quỹ hỗ tương đầu tư, alpha đo
lường mối quan hệ giữa diễn biến của quỹ và hệ số Beta trong 3 năm.
2. Tại thị trường chứng khoán Luân , từ ngữ alpha stocks dùng cho các công ty mua bán
lớn nhất và tích cực nhất có thể so sánh với từ Blue Chips của Hoa Kỳ. Việc cải cách xuất
phát từ Big Bang (xem phần sau) năm 1986 đưa đến kết quả là các cổ phần có giá trị nhất


thường đem lại doanh thu 80%, đều chịu các luật lệ mua bán nghiêm ngặt hơn là chứng
khoán

Beta
hay
Gamma.
ALTERED CHECK : Chi phiếu bị sửa đổi. Chi phiếu hay công cụ chi trả khác có ngày
đáo hạn, số dollar hay tên người được trả tiền bị sửa đổi hay bôi xoá , thường là mục đích
lừa đảo. Ngân hàng có thể từ chối chi trả phiếu nếu nghi ngờ có sự cạo sửa tự ý .
ALTERNATIVE MINIMUM TAX (AMT) : Thuế tối thiếu lựa chọn. Là loại thuế liên
bang được đạo luật Tax Refrom Act of 1986 cải tiến lại nhằm mục đích bảo đảm rằng các
cá nhân hay công ty giàu có phải chi trả thêm ít nhất một số lợi tức . Đối với cá nhân,
AMT được tính bằng cách cộng các mục được ưu đãi thuế như thua lỗ thụ động (passive
losses), lãi được miễn thuế của trái phiếu có mục đích riêng (Private-purpose Bond) phát
hành sau ngày 7.8 l986 và số khấu trừ đối với đóng góp từ thiện bằng chứng khoán, bất
động sản, tác phẩm nghệ thuật, và các tài sản tăng giá theo lợi tức gộp có điều chỉnh, sau
đó trừ cho $ 40.000 cho một cặp vợ chồng cùng nộp chung hay $ 30.000 nếu nộp riêng ;
24 % số còn lại sẽ chịu thuế. Số được miễn thuế được huỷ bỏ theo cách 25 xu cho 1
dollar đối với lợi tức AMT vượt quá $150.000 cho cặp vợ chồng cũng nói ( $ 112.500 đối
với cá nhân ) AMT của công ty cũng được miễn thuế nhưng với tỷ lệ 20 % sổ sách (báo
cáo tài chính) cao hơn tổng số lợi tức chịu thuế cộng với với các mục ưu tiên thuế khác
như tăng giá trị số đóng góp từ thiện được miễn thuế miễn thuế , số thặng dư khấu hao
tăng tốc của tài sản được đưa vào phục vụ sau năm 1986 , lãi được miễn thuế của trái
phiếu có mục đích riêng phát hành sau 1.7.1986 và các ưu đãi công nghiệp đã ấn định .
Sau năm l984 AMTcủa công ty được thiết lập dựa trên định nghĩa của thuế và tiền kiếm
được và lợi nhuận chứ không phải dựa trên lợi tức sổ sách.
AMERICAN BANKERS ASSOCIATION (ABA) : Hiệp hội Ngân hàng Hoa Kỳ. Hiệp
hội mậu dịch quốc gia của các ngân hàng thương mại thương mại ở Hoa Kỳ được thành
lập năm1875. Phần lờn trong số l4.000 ngân hàng Hoa Kỳ là hội viên của hiệp hội, là tổ
chức bảo trợ cho các hội nghị và hội thảo chuyên đề và khuyến khích phát triển khả năng
chuyên môn trong hoạt động ngân hàng thông qua các trường ngân hàng ABA và một chi
nhánh giáo dục của ABA đó là Học Viện Ngân HàngHoa Kỳ (American Institute of
Banking).ABA cũng đại diện cho ngànhh ngân hàng trước quốc hội và các cơ quan thành

lập
liên
bang.
AMERICAN DEPOSITARY RECEIPT: Biên nhận ký thác tại Hoa Kỳ (ADR) Biên
nhận cho các cổ phần của công ty nước nước ngoài,các cổ phần này được ngân hàng Hoa
Kỳ giữ trong hầm an toàn và cho phép cổ đông có quyền nhận cổ tức và tư bản kiếm
được. Thay vì phải mua cổ phần của công ty nước ngoài ở các thị trường nước ngoài,
người dân Hoa Kỳcố thể mua các cổ phần này ngay tại Hoa Kỳ dưới hình thức ADR.
ADR có cả hàng trăm loại cổ phần của nhiều quốc gia khác nhau. ADR được tính bằng


dollar và được mua bán trên thị trường chứng khoán và thị trường tự do(Over-theCounter) theo cùng cách như chứng khoán phát hành tại Hoa Kỳ.
AMERICAN STOCK EXCHANGE (AMEX): Thị trường chứng khoán Hoa Kỳ. Thị
trường chứng khoán số lượng mua bán đứng thứ nhì tại Hoa Kỳ. Toạ lạc tại số 86 Taivity
Place ở cuối Manhattan, mãi đến năm 1921 người ta vẫn được biết Amex với cái tên
Curb và mãi đến ngày nay nó vẫn ám chỉ là Curb. Nói chung, các chứng khoán và trái
phiếu mua bán tại Amex là thuộc các công ty từ nhỏ đến bậc trung , ngược lại với các
công ty khổng lồ có cổ phần mua bán tại NYSE (New York Stock Exchange), cá biệt ,
một phần lớn các công ty dầu hoả và gas mua bán tại Amex.Amex cũng là nơi mua bán
các hợp đồng options của nhiều loại chứng khoán ở NYSE và một vài loại chứng khoán ở
thị trường ngoài danh mục .ở Amex, cổ phần nước ngoài được mua bán nhiều hơn ở bất
cứ
thị
trường
nào

Hoa
Kỳ.
AMERICAN STOCK EXCHANGE AUTOAMOS : Hệ thống Autoamos tại Amex.
AMEX(American Stock Exchange) sử dụng hệ thống Automatic Amex Option Switch để

mua bán hợp đồng options. Autoamos được dùng để mua bán hằng ngày từ các đại diện
mua bán (broker) tới các chuyên viên Amex rồi chuyển ngược các báo cáo đã thực hiện
được của chuyên viên (Specialist) về cho broker. Autoamos tự động thực hiện mua bán từ
4 đến 6 loại cổ phần được người mua bán nhiều nhất của Standard & Poor's 100 index
option. Đồng thời Autoamos có khả năng thực hiện những lệnh mua hợp đồng từ broker
lên
đến
20
hợp
đồng
cổ
phần.
AMERICAN STOCK EXCHANGE AUTOPER: Hệ thống Autoper ở Amex. Amex sử
dụng hệ thống Autoper qua đường dây tự động hằng ngày từ broker đến chuyên viên tại
hiện trường mua bán (floor) và gửi báo cáo của chuyên viên về lại broker sau khi đã thực
hiện
các
lệnh
mua
bán
của
broker.
AMERLIAN-STYLE OPTION: Hợp đồng option theo kiểu Hoa Kỳ. Mua bán hợp
đồng option bất cứ lúc nào miễn là trước ngày đáo hạn, khác với kiểu châu Âu là phải đợi
đến
ngày
đáo
hạn
chứ
không

được
mua
bán
trước.
AMORTIZATION SCHEDULE: Thời biểu chi trả dần. Bảng thông thường dùng trong
thế chấp và tiền vay chi trả dần, cho biết số chi trả đáo hạn, số tiền đáo hạn trong mỗi kỳ
chi trả dần, giảm số cân đối vốn , số năm cần để thanh toán hết số nợ. Chi trả dần trong
một năm đối với tiền vay $ $1000 lãi 10%.Chi trả hằng tháng (P&l) : 87,92. Đạo luật
Bank Merger Act of 1960 cho các cơ quan lập pháp ngân hàng quyền chấp thuận hay
không chấp thuận sát nhập ngân hàng hay sát nhập các công ty cha thuộc ngành ngân
hàng. Justice Deprartment có thể can thiệp vào nếu nó không đồng ý. Một lãnh vực liên
quan đến luật chống Trust là ý niệm quyền lực thị trường (market power) liên quan đặc
biệt đến hoạt động liên doanh (JointVenture) giữa các nhóm tổ chức tài chính như hệ
thống máy trả tiền tự động .Theo quan điểm phổ biến, qua kinh nghiệm phân xử các vụ
kiện cáo cho rằng những người điều hành hệ thống không thể ngăn cản những ngân hàng
ngoài hội viên nếu như dịch vụ cung cấp (thí dụ, quyền sử dụng ATM do các ngân hàng
khác sở hữu) được dân chúng chấp nhận rộng rãi vì giới hạn sự tham gia của ngân hàng


sẽ
gây
thiệt
hại
cho
các
ngân
hàng
muộn
tham
gia.

APPARENT AUTHORITY: Thẩm quyền hiển nhiên. Theo luật pháp chung thì người
chủ phải chịu trách nhiệm về các hoạt động của nhân viên mình. Khi bên thứ ba đã tín
nhiệm sự đại diện của nhân viên, thì người chủ không thể nói rằng nhân viên của mình
thiếu thầm quyền để bào chữa cho việc làm trái luật pháp.
APPORTIONMENT: Sự phân chia. Phân chia giới tuyến các quyền, sở hữu chủ hay chi
phí giữa người mua và người bán trong chuyển nhượng tài sản. Trong uỷ thác và tài sản,
đây là sự phân chia lợi tức và chi phí quản lý giữa hai hay nhiều tài khoản, thí dụ vốn và
lợi tức tiền lãi hay phân chia thuế tài sản giữa những người thụ hưởng tài sản. Ngược lại
phân chia là phân bổ, là lợi nhuận kiếm được hay chi phí được đưa vào một tài khoản độc
nhất
nhằm
để
kết
toán.
APPRAISAL : Đánh giá ước định. Bảng ước tính trị giá thị trường của tài sản do chuyên
viên đánh giá thiết lập dựa trên phân tích các dữ kiện xác thực.Trị giá thị trường của tài
sản thường dùng làm căn bẳn xác định trị giá thế chấp để ngân hàng cho vay, nó có thể
dựa trên chi phí thay thế, số bán so với tài sản hay lợi tức ước định trong từng tương lai
từ
số
tài
sản
phát
sinh
ra
lợi
tức.
APPRAISED VALUE: Trị giá đã được thẩm định . Trị giá thị trường của một tài sản đã
được thẩm định viên đủ tiêu chuẩn đánh giá. Trị giá thẩm định chia một hạng mục có thể
cao hơn hay thấp hơn giá người ta chi trả cho nó, điều này tuỳ thuộc vào giá thị trường

của tài sản tương đương với hạng mục đó. Việc thẩm định dựa trên giá phí thay thế hạng
mục hay trị giá bán lại đã tăng hay giảm (theo thời gian ).
APPRECLATION:
Tăng
giá
trị.
1.Tăng trị giá tài sản do tăng giá trị trên thị trường, được đánh giá tăng, hay tăng lợi tức
kiếm
được
khi
so
với
thời
kỳ
trước.
2.Tăng giá trị một loại tiền tệ nào đó so với loại tiền tệ khác mà không có bất cứ thay đổi
trị giá chính thức nào có nghĩa là do nhu cầu thị trường đòi hỏi chứ không phải do phá giá
tiền
tệ.
APPROVED LIST : Bảng liệt kê (danh sách) được thừa nhận.
1. Ngân hàng: trái phiếu hay chứng khoán mà ngân hàng có thể giữ lại để đầu tư, thông
thường căn cứ trên việc đánh giá của công ty đánh giá trái phiếu như Standard Poor's,
Moody's, Fitch's và các công ty khác. Luật lệ dự trữ liên bang giới hạn số đầu tư của ngân
hàng quốc gia trong việc chỉ được đầu tư vào trái phiếu chứng khoán có cấp độ đầu tư đã
được các công ty dịch vụ đánh giá xác định. Thí dụ các trái phiếu chứng khoán đã được.
Standard Poor's đánh giá từ B (BBB) trở lên. Các ngân hàng cấp tiểu bang (có giấy phép
kinh doanh cấp tiểu bang) cũng chịu lệ thuộc quy định đầu tư như thế, giống ngân hàng
quốc
gia
theo

đạo
luật
dự
trữ
liên
bang.
2.Đầu tư: bảng danh sách đầu tư được quyền giao cho người thụ uỷ tài sản theo quy chế
tiểu bang hay do ban quản trị quỹ hỗ tương đầu tư thực hiện
APPROVED PREFERRED SHARE TRUST (ADST) : Uỷ thác cổ phần ưu đãi được
chấp thuận. Tại Anh, uỷ thác được công ty lập ra vì lợi ích của công nhân và được tài trợ


bằng cách mua cổ phần của chính công ty. Thuế đánh trên cổ tức ADST được hoãn cho
đến khi bán cổ phần và được và được trả theo tỷ lệ có giảm.
ARBITRAGE: Mua bán song hành Lợi nhuận có được từ chênh lệch giá khi mua và bán
chứng khoán, trái phiếu, hàng hoá cùng loại cùng lúc trên hay hay nhiêu thị trường. Thí
dụ nhà mua bán song hành cùng lúc mua một hợp đồng về vàng tại thị trường New York
và bán cùng lúc một hợp đồng về vàng tại thị trường Chicago họ kiếm được lợi nhuận vì
lúc đó giá ở hai thị trường khác nhau (Người mua bán song hành có giá bán cao hơn giá
mua). Mua bán song hành theo chỉ số sẽ khai thác chênh lệch giá giữa hợp đồng futures
chỉ số chứng khoán và giá chứng khoán cơ sở. Bằng cách tận dụng chệch lệnh giá tiền
giữa các thị trường, nhà mua bán song hành thực hiện chức năng kinh tế làm cho mua bán
tại
các
thị
trường
này

hiệu
quả

hơn.
ARBITRAGE BONDS: Trái phiếu song hành. Trái phiếu do nhà nước đô thị phát hành
để có được lãi suất thích hợp bằng cách tái tài trợ trái phiếu có lãi suất cao trước khi đáo
hạn. Số tiền thu được từ chi phiếu tái tài trợ với lãi suất thấp được đầu tư vào công phiếu
cho đến khi trái phiếu lãi suất cao đáo hạn. Trái phiếu song hành luôn luôn đặt vấn đề
miễn thuế, đạo luật Tax Reform Act of 1986 đã huỷ bỏ việc này từ lâu .
ARBITRAGEUR: Nhà mua bán song hành. Người làm dịch vụ mua và bán cùng lúc
cùng một loại cổ phần, tiền tệ... nhằm vào sự chênh lệch giá cả giữa hai thị trường để
kiếm
lời.
ARBITRATION: Trọng tài phân xử. Một hình thức khác thay cho vụ kiện tài toà án,
nhằm dàn xếp tranh chấp giữa broker và khách hàng cũng như giữa các công ty môi giới
chứng khoán. Theo thông lệ các điều khoản phân xử trước các tranh chấp đã có ghi trong
thoả hiệp tài khoản với broker, nó đảm bảo rằng các tranh chấp sẽ được phân xử bởi bên
thứ ba có tính khách quan và không đưa ra toà án. Năm 1989, SEC (Securities and
Exchange Commission) chấp thuận các thay đổi bao quát yêu cầu broker thông báo rõ
ràng khi có các điều khoản này, ngăn cấm bất cứ một giới hạn nào về quyền của khách
hàng trong việc đệ đơn xin phân xử và đặt ra các tiêu chuẩn nghiêm ngặt về trọng tài
phân
xử.
Xem:
Board
of
Arbitration.
ARM'S LENGTH TRANSACTION: Giao dịch mua bán ngoài - Giao dịch mua bán
giữa những người chưa biết nhau. Giao dịch mua bán giữa các bên không quen biết nhau
(trước đây không có liên hệ hay không ở cùng một đơn vị (unaffiliated) đó là trường hợp
một người mua sẵn sàng mua và một người bán sẵn sàng bán, mỗi bên đều vì lợi ích của
riêng mình. Giá cả trong giao dịch mua bán này căn cứ trên trị giá thị trường công bằng
(theo giá thị trường). Giao dịch mua bán giữa công ty cha và các công ty con không phải

là loại mua bán ngoài. Giao dịch mua bán theo loại này sẽ tránh được những xung đột
quyền lợi.Thí dụ, theo luật lệ hiện hành, cha mẹ có thể cho con thuế bất động sản và vẫn

quyền
đòi
các
khấu
trừ
số
tài
sản
miễn

họ.
ASSUMABLE MORTGAGE: Thế chấp nợ được sang tay. Thế chấp cho người vay có
quyền ký chuyển nhượng số nợ còn thiếu trong số nợ của ông ta, đến người khác trên số
bán tài sản thế chấp, mà không bị trả tiền phạt trước. Người mua chấp nhận chi trả số tiền


vay đúng thời hạn và các điều khoản cho phần còn lại của thế chấp và người bán vẫn chịu
trách nhiệm thứ nhì đối với số nợ. Thế chấp của Department or Veterans Affairs và thế
chấp do Federal Housing Administration thường là loại được người mua chấp nhận theo
tính
cách
trên.
ASSUMED INTEREST RATE: Lãi suất được thừa nhận. Tỷ lệ lợi tức đầu tư được tuỳ
thuộc vào cách chọn lựa phương thức bảo hiểm nhân thọ - để duy trì trả tiền không có gì
thay
đổi
khi

chết.
ASSUMPTION: Đảm nhiệm - Đảm đương. Liên đới chịu trách nhiệm các món nợ của
người khác,thường thường bằng thoả hiệp đảm nhiệm (assumption agreement) trong
trường hợp đảm nhiệm về thế chấp, người bán chịu trách nhiệm thứ nhì trừ khi người cho
vay
không
bắt
buộc.
AT PAR: Theo mệnh giá. Giá bằng với mệnh giá hay giá danh nghĩa của chứng khoán.
AT LIMIT : Theo giá giới hạn. Nhà đầu tư chỉ thị cho broker mua hay bán chứng khoán
hay hàng hoá theo giá ấn định. Theo giao dịch mua bán với giá giới hạn (at-limit
transaction), nhà đầu tư cũng cho biết thời hạn để broker mua bán (thí dụ, trong vòng 2
ngày).
AT RISK: Đang có rủi ro. Cho thấy có nguy cơ thua lỗ. Nhà đầu tư góp vốn trách nhiệm
hữu hạn có thể đòi quyền được khấu trừ thuế chỉ khi nào họ có thể chứng minh rằng họ
có khả năng nhận biết những cái không thể nhận biết được về lợi nhuận và thua lỗ trong
đầu tư. Không thể thực hiện được khấu trừ nếu thành viên góp vốn không được thông báo
đầy đủ về rủi ro kinh tế thí dụ, nếu Tổng thành viên bảo đảm sẽ trả lại toàn bộ vốn cho
thành viên góp vốn dù cho việc kinh doanh mạo hiểm sẽ thua lỗ.
AT SIGHT: Cụ thể thấy trước mắt Cho thấy một công cụ trả như hoá đơn bán hàng hay
hối phiếu để được chi trả khi trình cho người chi trả (drawee).
AT THE CLOSE: Vào lúc đóng cửa thị trường chứng khoán. Lệnh mua và bán chứng
khoán trong 30 giây cuối của một vụ mua bán tại thị trường chứng khoán. Broker không
bảo
đảm
các
lệnh
như
thế
sẽ

được
thực
hiện.
AT THE MARKET: Theo thị trường. Mua bán theo giá thị trường khi đang thực hiện
giao
dịch
mua
bán.
AT THE MONEY: Có giá tương đương - Hoà vốn. Theo giá hiện hành, như trường hợp
một hợp đồng option có giá thực hiện (Exercise price - giá điểm, giá thực thi) tương
đương hay gần ứng giá chứng khoán hay hợp đồng futures cơ sở.
AT THE OPENING: Vào lúc mở cửa thị trường chứng khoán. Lệnh của khách hàng đưa
cho broker để mua hay bán chứng khoán theo giá lúc thị trường mở cửa. Nếu lệnh không
được
thực
hiện
vào
lúc
này
thì
sẽ
tự
động
huỷ
bỏ.
ATTACHMENT: Tịch biên tài sản. Lệnh (trát) được quyền thu giữ tài sản sau khi toà án
quyết định phán quyết chi trả cho chủ nợ. Sau khi toà án xét xử và quyết định công bố,
chủ nợ phải có giấy xử lý tài sản được quyền thu giữ một phần lương công nhân
(garnishment) hay giấy thu giữ tài sản cá nhân trong phạm vi quyền hạn nơi người vay cư
trú thường là đô thị hay phân khu tiểu bang (county). Giấy được quyền giữ tài sản thế



chấp, giấy này nói rằng sẽ có quyền tịch thu tài sản của người vay thay cho số tiền đã cho
vay hay số tiền đã ứng trước dựa trên mức độ tín dụng.
ATTEST: Chứng thực. Văn kiện cam kết chắc chắn về một sự kiện hay tình trạng, bổn
phận hay trách nhiệm do người làm ra văn kiện ký, thường là có sự hiện diện của công
chúng viên hay một người khách quan nào đó. Trong trường hợp chúc thư, người làm di
chúc ký tên với sự hiện diện của hai hay nhiều người chứng hay trước một công chứng
viên.
ATTORNEY AT LAW: Luật sư - Người được uỷ quyền về luật pháp người được tiểu
bang cấp giấy chứng nhận hoạt động về luật pháp, được phép tư vấn và đại diện cho
khách hàng trước toà án trong các vụ kiện hay trước cơ quan hành chánh. Thông thường
đó

luật
sư.
ATTORNEY IN FACT: Người được uỷ nhiệm theo thực tế sự việc. Người được người
khác chỉ định để làm việc như một người trung gian dưới danh nghĩa của người chỉ
định .Văn kiện uỷ nhiệm là loại viết tay, và thường là văn kiện uỷ nhiệm quyền hạn của
người uỷ nhiệm và có thể có tính tổng quát hay giới hạn ở một số hoạt động nào đó đã
được
ấn
định.
AUCTION MARKET: Thị trường đấu giá. Hệ thống mua và bán chứng khoán thông
qua Broker trên các thị trường chứng khoán, nó khác với thị trường ngoài danh mục
(Over-the-counter thị trường tự do) đây là nơi mua bán bằng thương lượng. Thị trường
chứng khoán New York (New York Stock Exchange-NYSE) là thí dụ tiêu biểu nhất, thị
trường có hệ thống đấu giá đôi hay thị trường song phương (two- sided market) lý do là
vì không giống với cuộc đấu giá thông thường theo truyền thống là chỉ có một người ra
giá và nhiều người mua (trả giá) ở đây chúng ta có nhiều người bán và nhiều người mua.

Trong bất cứ cuộc đấu giá nào, giá được đặt ra là do đấu giá cạnh tranh giữa các brokers
hoạt động như người trung gian cho người mua và người bán. Hệ thống này có những
chức năng theo một trật tự nhờ một vài luật lệ mua bán như sau:
1. Giá đặt mua hay giá đặt bán đầu tiên theo giá đã định thì ưu tiên hơn giá đặt mua và
đặt
bán
khác

cùng
mức
giá.
2. Giá mặt mua cao nhất và giá đặt bán thấp nhất được đấu giá giữa các brokers ở sàn
mua
bán.
3. Cuộc đấu giá mới bắt đầu khi nào không còn tất cả giá đặt bán và giá đặt mua theo giá
đã
cho.
4.
Các
vụ
mua
bán

mật
đều
bị
ngăn
cấm.
5. Giá đặt mua và giá đặt bán phải được xướng lên rõ ràng cho mọi người đều nghe.
Ngoài ra, đấu giá có cạnh tranh cũng dùng cho việc bán công khố phiếu ngắn hạn.

AUCTION-RATE PREFERRED STOCK: Chứng khoán ưu đãi theo lãi suất đấu giá.
AUTHORIZED INVESTMENT: Đầu tư được uỷ nhiệm. Đầu tư do người được uỷ
quyền hay người thụ uỷ thực hiện sau khi có chỉ thị viết trong công cụ uỷ thác. Đối chiếu
với đầu tư hợp pháp tuân theo luật lệ của các cơ quan thẩm quyền về ngân hàng tiểu bang
hay luật lệ tiểu bang liên quan đến các đầu tư được phép thực hiện bởi các người được uỷ


quyền

ngân
hàng
tiết
kiệm
hỗ
tương
đầu
tư.
AUTHORIZED SETTLEMENT AGENT: Người trung gian được uỷ quyền thanh
toán. Ngân hàng được uỷ quyền để đệ trình chi phiếu hay chi phiếu giao ngay (Cash
items) cho ngân hàng dự trữ liên bang để thu nhận. Trong lĩnh vực thẻ ngân hàng, ngân
hàng được uỷ quyền để thanh toán hối phiếu cho việc thanh toán trao đổi mua bán.
AUTHORIZING RESOLUTION: Nghị quyết uỷ quyền. Vụ kiện cho phép cơ quan địa
phương
hay
chính
quyền
địa
phương
phát
hành

công
phiếu.
AUTHORIZED SHARES (STOCKS): Cổ phần có thẩm quyền phát hành. Số cổ phần
tối đa thuộc bất cứ hạng loại nào trong công ty được phép phát hành theo các điều khoản
thành lập công ty. Thông thường một công ty trong tương lai tăng chứng khoán có thẩm
quyền phát hành tuỳ theo các cổ đông phiếu quyết định. Công ty không cần phải phát
hành tất cả các cổ phần có thẩm quyền phát hành và có thể ngay từ lúc đầu giữ lại tối
thiểu số cổ phần đã phát hành để hạ bớt thuế và chi phí . Nó còn được gọi là chứng khoán

thầm
quyền
được
phát
hành.
AUTOMATED CLEARING HOUSE (ACH): Nhà giao hoán thanh lý được tự động
hoá. Phương tiện giao hoán thanh lý (clearing) dựa trên hệ thống vi tính đối với trao đổi
bên Nợ và bên Có theo hệ thống điện tử giữa các tổ chức tài chánh . Dữ liệu nhập của
ACH có thể được thay thế cho chi phiếu trong việc chi trả qua lại như thế chấp, hoặc
trong
đóng
góp

thác
trực...
AVAILABLE CREDIT: Tín dụng có sẵn. Tín dụng sẵn sàng được dùng để mua mới
một cái gì, đôi khi còn được gọi là mua để ngỏ. Trong lãnh vực thẻ ngân hàng, có sự khác
biệt giữa số cân đối chưa trả bình quân (average outstanding balance - số cân đối hiện
hành bình quân) và mức giới hạn tín dụng đã được công nhận trước của người có thẻ.
ngoài ra, đây là phần chưa được sử dụng của mức tín dụng ngân hàng (line or credit).
AVAILABLE

FUNDS:
Quỹ

sẵn.
1. Loại quỹ ngân hàng có thể dùng để đáp ứng yêu cầu về số trên vay hay được giữ trong
danh mục đầu tư, tuỳ thuộc vào sự cạnh tranh thị trường, nhu cầu tín dụng lãi suất thị
trường và các yếu tố khác. Tổng số quỹ tương đương với số tiền mặt có trong tay (vault
cash) và chi phiếu được các ngân hàng khác chi trả (tiền mặt và tiền phải trả từ các ngân
hàng trên bảng cân đối tài khoản) cộng với tổng số tiền vay và đầu tư.
2. Số cân đối đã có trong tài khoản người ký thác, đây là số có thể sẵn sàng dễ đầu tư,
đem chi trả cho người tín dụng hay chuyển vào tài khoản khác.
AVAILABLE RESERVE: Dự trữ có sẵn. Chênh lệch thuần giữa số cân đối dự trữ thặng
dư được lưu trữ tại tài khoản dự trữ tại Ngân Hàng Dự Trữ Liên Bang hay tại văn phòng
chi nhánh và quỹ đã mượn tại phòng cho vay có chiết khấu (Discount Window)
AVAL: Đảm bảo chi trả của bên thứ ba. Từ ngữ Châu Âu có nghĩa là bảo đảm chi trả của
bên thứ ba cho hoá đơn hàng hoá hay giấy hứa trả nợ, người bảo đảm phải ký tên bối thự.
AVERAGE: Chỉ số trung bình. Trung bình cộng số học tương ứng và có điều chỉnh của
các chứng khoán đã được lựa chọn để tính chỉ số này. Nó cho ta biết biến chuyển tổng
quát của thị trường hay các lãnh vực quan trọng của thị trường. Trong số các chỉ số thông


dụng nhất có chỉ số trung bình công nghiệp Dow Jones, chỉ số trung bình vận tải của
Dow Jones. Bởi vì việc đánh giá chứng khoán cá nhân liên quan đến việc đo lường chiều
hướng giá cả của chứng khoán nói chung hay của một nhóm công nghiệp nên các chỉ số
trung bình nhiều loại khác nhau là công cụ phân tích rất quan trọng.
AVERAGE ANNUAL YIELD: Lợi nhuận trung bình hàng năm. Lợi nhuận trung bình
mỗi năm trong suốt thời hạn của chứng chỉ ký thác (Certificate or Deposit - CD) nhiều
năm, với giả định rằng trên lãi kết hợp vẫn giữ trong ký thác. Hoa lợi trung bình năm của
CD sẽ cao hơn hoa lời hằng năm thực tế bởi vì nó bao gồm tiền lãi có được trong khoảng
thời

gian
dài
hơn
.
AVERAGE
BALANCE:
Cân
đối
bình
quân.
AVERAGE COLLECTED BALANCE : Số cân đối thu trung bình. Số dollar trung
bình trong số ký thác ở tài khoản chi phiếu trong suốt thời gian kế toán, tương đương với
các số cân đối hàng ngày trong sổ cái trừ cho chi phiếu chưa thu chia cho số ngày.
AVERAGE DAILY BALANCE: Số cân đối trung bình hằng ngày. 1. Số trung bình
trong tài khoản ký thác, tương đương với tổng số cân đối ký thác hằng ngày trong suốt
thời gian kế toán, thường là một tháng, chia cho số ngày.
2. Phương pháp tính phí tài chánh thẻ tín dụng, tính bằng cách lấy số cân đối bắt đầu mỗi
ngày cộng cho phí mới trong ngày đó, trừ cho chi trả dùng để mua, lấy tổng số kết quả
chia cho số ngày trong thời gian làm hoá đơn và nhân cho phí tài chánh.
AVERAGE DAILY FLOAT: Số bình quân thả nổi hằng ngày. Trị giá dollar bình quân
của chi phiếu hay hối phiếu đang được thu nhưng chưa ghi vào bên có của tài khoản như
quỹ đã thu hay quỹ đã có sẵn. Ngoài ra nó còn ám chỉ các hạng mục đang thu (items in
collection).
AVERAGE DOWN: Trung bình theo chiều xuống. Chiến thuật nhằm hạ thấp giá trung
bình phải trả cho cổ phần công ty. Thí dụ một nhà đầu tư muốn mua 1.000 cổ phần có thể
mua 400 cổ phần theo giá thị trường hiện hành và mua chia làm 3 lần, mỗi lần 200 cổ
phần khi giá rớt. Như thế giá phí trung bình sẽ thấp hơn nếu mua một lần tất cả 1.000 cổ
phần. Nhà đầu tư cũng kéo giá trung bình xuống để bớt thiện thòi về thuế. Hãy nói thí dụ
như sau : một người nào đó mua cổ phần với giá $20/cổ phần, sau đó giá rớt xuống còn
$10. Thay vì không làm gì cả, nhà đầu tư có thể mua với giá $10 sau đó bán lỗ cổ phần

đã mua với giá $20, như thế có thể dùng để bù trừ cho số tiền khác đã kiếm được trong
thời gian tính thuế. Tuy nhiên theo quy luật Mua Bán Phủi Tay (wash sale) nói rằng để
được quyền khai là đã thua lỗ, nhà đầu tư không được bán chứng khoán đã mua với giá
$20 ít nhất là 30 ngày sau khi mua chứng khoán với giá $10.
AVERAGE EQUITY: Vốn trung bình. Số cân đối trung bình hằng ngày trong tài khoản
mua bán. Công ty môi giới chứng khoán tính vốn hàng ngày của khách hàng như là một
phần phương cách để theo dõi lời và lãi trong giao dịch mua bán chưa hoàn tất, nó được
gọi là điều chỉnh theo thị trường (mark to market).Khi các giao dịch mua bán kết thúc, số
lợi nhuận và thua lỗ được ghi lại vào tài khoản của mỗi khách hàng cùng với hoa hồng
của công ty môi giới . Dù cho vốn biến động hằng ngày là chuyện bình thường, nhưng


×