Tải bản đầy đủ (.doc) (67 trang)

VAI TRÒ CỦA THỂ CHẾ CHÍNH TRỊ ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (409.91 KB, 67 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP HỒ CHÍ MINH
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ


TIỂU LUẬN MÔN KINH TẾ HỌC PHÁT TRIỂN

Đề tài:

VAI TRÒ CỦA THỂ CHẾ CHÍNH TRỊ
ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
VIỆT NAM HIỆN NAY

GVHD: ThS BÙI THỊ QUỲNH HƯƠNG
SVTH: LÊ THỊ TÝ
ĐINH THỊ THU
CAO THỊ THUỶ
LÊ KIM PHỤNG
TRẦN THỊ PHỤNG
NGÔ THỊ HỒNG PHIN
NGUYỄN THỊ THANH TÚ


KINH TẾ HỌC PHÁT TRIỂN

GVHD: Th.s Bùi Thị Quỳnh Hương

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - NĂM 2012

Nhóm 3

Trang 2




KINH TẾ HỌC PHÁT TRIỂN

GVHD: Th.s Bùi Thị Quỳnh Hương

MỤC LỤC
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỂ CHẾ KINH TẾ VÀ KINH TẾ VIỆT
NAM HIỆN NAY......................................................................................................7
1.1 Khái niệm và sự tác động của thể chế chính trị và kinh tế:...................................7
1.1.1 Khái niệm:..................................................................................................7
1.1.1.1 Thể chế chính trị: ..............................................................................7
1.1.1.2 Khái niệm phát triển kinh tế và các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển kinh
tế....................................................................................................................7
1.1.1.3 Khái niệm kinh tế thị trường...............................................................8
1.1.2 Sự tác động qua lại giữa thể chế chính trị và kinh tế:..................................9
1.1.2.1 Vai trò của kinh tế đối với thể chế chính trị:.....................................9
1.1.2.2 Vai trò của thể chế chính trị đối với kinh tế:....................................10
1.2 Sự tác động của thể chế chính trị đối với kinh tế trong lịch sử:.......................11
1.2.1 Thời kì trước chủ nghĩa tư bản:.............................................................12
1.2.2 Thời kì của chủ nghĩa tư bản:................................................................13
1.2.3 Kinh tế và thể chế chính trị trong xã hội xã hội chủ nghĩa:........................18
Chương 2: VAI TRÒ CỦA THỂ CHẾ CHÍNH TRỊ ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ CỦA VIỆT NAM THỜI KÌ ĐỔI MỚI...................................................21
2.1 Bối cảnh:.......................................................................................................21
2.2 Vai trò của thể chế chính trị đối với sự phát triển kinh tế của Việt Nam trong
thời kỳ đổi mới:....................................................................................................24
2.2.1 Vai trò của thể chế chính trị trong lĩnh vực phát triển kinh tế thời kỳ đổ
mới ở nước ta. ................................................................................................26
2.2.1.1 Định hướng và hỗ trợ cho sự phát triển kinh tế, phù hợp với điều kiện

phát triển của đất nước..................................................................................26
2.2.1.2 Ban hành những chủ trương, chính sách, điều luật… để đảm bảo cho sự
phát triển kinh tế trong thời kỳ đổi mới.........................................................30
2.2.1.3 Tạo điều kiện mở rộng thị trường nhằm thu hút vốn đầu tư từ nước
ngoài..............................................................................................................44
2.2.2 Vai trò của thể chế chính trị trong các lĩnh vực khác..................................46
2.2.2.1 Trong lĩnh vực y tế - giáo dục............................................................46
2.2.2.2 Trong vấn đề dân số- môi trường.......................................................47
2.2.2.3 Trong lĩnh vực văn hóa-tư tưởng......................................................51
2.3 Những chuyển biến của nền kinh tế Việt Nam thời kỳ đổi mới...................51
2.3.1 Những thành tựu đạt được.........................................................................51
2.3.1.1 Nền kinh tế tăng trưởng liên tục, nhiều năm có tốc độ tăng trưởng
cao................................................................................................................51
2.3.1.2 Kiềm chế và đẩy lùi được lạm phát......................................................53
2.3.1.3 Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng năng động và hiệu quả......53
Nhóm 3

Trang 3


KINH TẾ HỌC PHÁT TRIỂN

GVHD: Th.s Bùi Thị Quỳnh Hương

2.3.1.4 Cơ chế quản lý mới đã bước đầu hình thành.........................................55
2.3.1.5 Kinh tế đối ngoại được phát triển nhanh, mở rộng về quy mô, đa dạng
hóa hình thức và đa dạng hóa thị trường..........................................................56
2.3.1.6 Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt. .....57
2.3.2 Những khó khăn và hạn chế của thể chế chính trị trongsự phát triển kinh
tế ....................................................................................................................58

2.3.2.1 Khó khăn...........................................................................................58
2.3.2.2 Hạn chế còn tồn đọng........................................................................58
Chương 3: GIẢI PHÁP GÓP PHẦN NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA THỂ CHẾ CHÍNH TRỊ
ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ......................................................................60
3.1 Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa................60
3.2 Hoàn thiện thể chế về sở hữu, phân phối, quản lý và các thành phần kinh tế, loại
hình doanh nghiệp và các tổ chức sản xuất kinh doanh.........................................61
3.2.1 Hoàn thiện thể chế về sở hữu..................................................................61
3.2.2 Hoàn thiện thể chế về phân phối...............................................................62
3.2.3 Vấn đề quản lý.........................................................................................62
3.3 Hoàn thiện thể chế đảm bảo đồng bộ các yếu tố thị trường và phát triển đồng bộ
các loại thị trường.................................................................................................63
3.4 Hoàn thiện thể chế gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội
trong từng bước, từng chính sách phát triển và bảo vệ môi trường.........................64
3.5 Hoàn thiện thể chế về vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và sự
tham gia của các tổ chức quần chúng vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội ............65

Nhóm 3

Trang 4


KINH TẾ HỌC PHÁT TRIỂN

GVHD: Th.s Bùi Thị Quỳnh Hương

Bảng tham khảo chữ viết tắt:
- CNH: Công nghiệp hoá
- HĐH: Hiện đại hoá
- KTTT: Kinh tế thị trường

- KTXH: Kinh tế xã hội
- CCKT: Cơ cấu kinh tế
- XHCN: Xã hội chủ nghĩa
- TBCN: Tư bản chủ nghĩa
- TKQĐ: Thời kỳ quá độ
- GDP: Gía trị sản phẩm

Nhóm 3

Trang 5


KINH TẾ HỌC PHÁT TRIỂN

GVHD: Th.s Bùi Thị Quỳnh Hương

LỜI MỞ ĐẦU
Có thể nói hoạt động của thể chế chính trị là một lĩnh vực quan trọng trong sinh
hoạt cộng đồng, bao quát các đối tượng trong phạm vi một quốc gia và giữa
quốc gia này với quốc gia khác.
Như chúng ta cũng biết khi trong xã hội xuất hiện tổ chức quyền lực đặc biệt,
vừa mang sứ mạng của lợi ích giai cấp, vừa mang sứ mạng quản lý, cai trị xã
hội, thì nội dung của đời sống chính trị không những tác động xung quanh vấn
đề quyền lực (quyền lực nhóm, quyền lực giai cấp, quyền lực xã hội…), mà còn
tác động đến các quan hệ khác, các “mảng” sinh hoạt khác trong đời sống con
người.
Trong các quan hệ trên, quan hệ giữa thể chế chính trị và kinh tế thuộc quan hệ
cơ bản, thể hiện mối quan hệ giữ tiền đề và phương tiện, giữa phương tiện và
mục đích. Nếu xét ở bình diện bao quát nhất, mang tính cội nguồn của mối quan
hệ chắc chắn kinh tế là yếu tố nền tảng trong sinh hoạt chính trị, chứ không phải

ngược lại. Tuy nhiên, trong từng giai đoạn khác nhau thì nhiếu lúc ta lại thấy thể
chế chính trị đóng vai trò là chủ thể trong mối quan hệ trên.
Như vậy, để tìm hiểu rõ hơn về mối quan hệ trên nhóm chúng em xin chọn
đề tài: “VAI TRÒ CỦA THỂ CHẾ CHÍNH TRỊ ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN
KINH TẾ VIỆT NAM HIỆN NAY”. Mặc dù đã rất cố gắng hoàn thành bài
tiểu luận được tốt, tuy nhiên không tránh khỏi những thiếu xót. Kính mong nhận
được sự đóng góp ý kiến của cô và các bạn để bài tiểu luận thêm hoàn chỉnh.

Nhóm 3

Trang 6


KINH TẾ HỌC PHÁT TRIỂN

GVHD: Th.s Bùi Thị Quỳnh Hương

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỂ CHẾ KINH
TẾ VÀ KINH TẾ VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1 Khái niệm và sự tác động của thể chế chính trị và kinh tế:
1.1.1 Khái niệm:

1.1.1.1

Thể chế chính trị:

Là tổng hợp các phương pháp và cách thức thực hiện quyền lực nhà nước do tình
hình chính trị trong nước chi phối. Thể chế chính trị được quy định trước hết bởi
bản chất giai cấp, hình thức nhà nước, tính chất của pháp luật và quyền lực của
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tương quan lực lượng của các giai cấp, mức

độ và hình thức đấu tranh giai cấp cũng như truyền thống lịch sử của đất nước và
hoàn cảnh quốc tế là những yếu tố ảnh hưởng đến thể chế chính trị. Điểm cốt yếu
nhất quyết định đến thể chế chính trị là bản chất, hình thức, tính chất của quyền
lực nhà nước, chính trị hiện hành (vd. chế độ chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư sản
và xã hội chủ nghĩa). Trong nhà nước xã hội chủ nghĩa, thể chế chính trị là dân
chủ, được thể hiện qua những đặc trưng: quyền lực thuộc về nhân dân lao động;
thể chế chính trị bảo vệ quyền lợi và tự do cơ bản của công dân. thể chế chính trị
ở nhà nước xã hội chủ nghĩa dựa trên nền tảng pháp chế xã hội chủ nghĩa, mở
rộng dân chủ, tăng cường vai trò của các tổ chức xã hội và sự tham gia tích cực
của công dân vào các công việc của nhà nước và xã hội.
1.1.1.2

Khái niệm phát triển kinh tế và các yếu tố ảnh hưởng đến

phát triển kinh tế.
Phát triển kinh tế là một quá trình tăng lên về mọi mặt của nền kinh tế trong
một thời gian nhất định. Phát triển kinh tế bao hàm sự tăng trưởng kinh tế, tức là tăng
lên về quy mô và số lượng, sự tiến bộ về cơ cấu kinh tế và sự tiến bộ về xã hội. Phát
triển kinh tế bao hàm các yếu tố sau:

Nhóm 3

Trang 7


KINH TẾ HỌC PHÁT TRIỂN

GVHD: Th.s Bùi Thị Quỳnh Hương

 Môt là, mức độ gia tăng, mở rộng sản lượng quốc gia và tăng mức sản xuất,

mức sống quốc gia trong một thời gian nhất định.
 Hai là, mức độ biến đổi cơ cấu của một quốc gia, quan trọng nhất là tỉ lệ
nghành trong tổng sản lượng quốc gia.
 Ba là, sự tiến bộ cơ cấu xã hội, đời sống xã hội, mức độ gia tăng thu nhập thực
tế của người dân, mức độ công bằng xã hội quốc gia.
Như vậy, điều này có nghĩa rằng là phát triển kinh tế phải tự lực cánh sinh, bản
thân quốc gia phải có những cách thức và phương pháp thực hiện để đư nền kinh tế
phát triển, không phải dựa vào sự giúp đỡ từ bên ngoài và lệ thuộc vào bên ngoài. Điều
này được cụ thể bằng các chỉ số phản ánh sự phát triển như:
 Các chỉ số phản ánh sự tăng trưởng kinh tế: các chỉ số về tổng thu nhập và chỉ
số thu nhập bình quân trên đầu người.
 Các chỉ số về cơ cấu kinh tế như cơ cấu kinh tế ngành; chỉ số cơ cấu xuất nhập
khẩu; chỉ số tiết kiệm đầu tư.
 Các chỉ số về xã hội như mức tăng dân số hàng năm, mức sống của người dân,
chỉ số cơ cấu dân cư, chỉ số phát triển con người…Tất cả điều có tác động đến
sự phát triển kinh tế và được điều chỉnh từ chính phủ, chính phủ có những
chính sách để đưa nền kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường và định hướng
xã hội chủ nghĩa. Vậy là thể chế chính trị có mối quan hệ với sự phát triển kinh
tế và mối liên hệ ấy tất yếu sẽ được thể hiện rõ.

1.1.1.3

Khái niệm kinh tế thị trường

Là nền kinh tế mà trong đó người mua và người bán tác động với nhau theo quy
luật cung cầu, giá trị để xác định giá cả và số lượng hàng hoá, dịch vụ trên thị
trường.
Như vậy, vấn đề quan hệ giữa thể chế chính trị và kinh tế ở đây nên phân tích
kinh tế tác động vào thể chế chính trị và thể chế chính trị tác động đến kinh tế
theo chiều hướng nào, hay là tổng hợp mối quan hệ giữa chúng. Trong sinh hoạt

xã hội của con người, thể chế chính trị có quan hệ là chủ thể, có quan hệ là
khách thể. Nghiên cứu thể chế chính trị với kinh tế cần đặt chúng trong mối
Nhóm 3

Trang 8


KINH TẾ HỌC PHÁT TRIỂN

GVHD: Th.s Bùi Thị Quỳnh Hương

quan hệ qua lại, để cuối cùng xác định vai trò của thể chế chính trị đối với sự
thiết kế vận hành các cơ chế kinh tế như thế nào.
1.1.2 Sự tác động qua lại giữa thể chế chính trị và kinh tế:

1.1.2.1

Vai trò của kinh tế đối với thể chế chính trị:

Thể chế chính trị và kinh tế là hai lĩnh vực hoạt động cơ bản của con người.
Quan hệ giữa chúng có những biểu hiện sau đây:
Thứ nhất: quan hệ phát sinh cho thấy thể chế kinh tế là yếu tố có trước, khởi
nguyên của sự tác động lẫn nhau đó. Kinh tế gắn liền với sản xuất, ít nhất là sản
xuất được quan niệm, được nâng lên thành hoạt động kinh tế khi nó phản ánh
một quan hệ trong quản lí gia đình. Với ý nghĩa đó, kinh tế làm phát sinh thể chế
chính trị. Quan hệ kinh tế tạo ra quan hệ chính trị. Kinh tế làm phát sinh quan hệ
quan hệ giai cấp, quan hệ giai cấp là biểu hiện đầu tiên của quan hệ chính trị.
Trong những tiên đoán về tương lai của xã hội, các nhà sáng lập ra chủ nghĩa xã
hội khoa học cho rằng xã hội tất yếu dẫn đến xã hội cộng sản chủ nghĩa, trên
một nền tảng cao hơn nhiều so với thời kì cộng sản nguyên thủy trước đó, sau

khi nó trải qua một chu kì phủ định của phủ định. Ở xã hội đó, khái niệm chính
trị sẽ mất đi cùng với giai cấp, nhà nước. Nhưng ở đó, kinh tế với tính cách là
các hoạt động sản xuất và tiêu dùng vẫn được duy trì. Như vậy, quan hệ giữa thể
chế chính trị và kinh tế xét trên bình diện phát sinh, hình thành, thì đó là quan hệ
giữa cái có hạn (thể chế chính trị) và cái vô hạn (kinh tế). Vô hạn được hiểu là
còn loài người thì còn kinh tế, còn sản xuất và tiêu dùng.
Thứ hai: quan hệ giữa kinh tế với thể chế chính trị được xem ở từng thời kì, từng
giai đoạn, từng quốc gia, ta thấy có những biểu hiện sau:
- Kinh tế làm nảy sinh thể chế chính trị với tính cách là một chế độ, với những
thể chế, phương tiện và công cụ để thỏa mãn mục đích chính trị.

Nhóm 3

Trang 9


KINH TẾ HỌC PHÁT TRIỂN

GVHD: Th.s Bùi Thị Quỳnh Hương

- Tiềm năng kinh tế của một quốc gia làm tiền đề cho uy tín trong nước và quan
hệ quốc tế của một chính quyền, một đảng và các tổ chức xã hội, chúng có tư
cách là các chủ thể khác nhau của thể chế chính trị.
- Chính sách kinh tế, hiệu quả kinh tế, năng suất trong sản xuất xã hội là trợ lực
hàng đầu của cơ cấu chính trị đương thời. Trong quan hệ đó, kinh tế như những
tiêu chí để kiểm nghiệm những chính sách của nhà nước. Kinh tế là những kết
quả có tính khách quan chủa nhận thức chủ quan từ các quyết sách chính trị của
Đảng chính trị, để từ đó có thể điều chỉnh đổi mới, cải cách hệ thống chính sách
và vận hành các hoạt động chính trị có tính chất tổng thể, trong toàn bộ hệ thống
chính trị

1.1.2.2

Vai trò của thể chế chính trị đối với kinh tế:

Thể chế chính trị là sản phẩm của kinh tế, là biểu hiện của giải pháp lợi ích giữa
các nhóm cộng đồng, các giai cấp. Vì vậy mục đích của chính trị không phải là
chính trị mà là kinh tế. Nếu thoát li kinh tế thì chính trị không thể giải thích
được sự xuất hiện và vận hành của nó. Vậy quan hệ giữa thể chế chính trị và
kinh tế, nếu chúng ta trừu tượng hóa, tạm thời loại ra những quan hệ phức tạp
khác sẽ có quá trình như sau:
 kinh tế  thể chế chính trị  kinh tế  thể chế chính trị 
Ở phần trên ta xét quan hệ giữa kinh tế và thề chế chính trị rồi, ở phần này, ta
xét phương diện tác động của thể chế chính trị đối với kinh tế.
Thể chế chính trị khoác chiếc áo quyền lực, tạo ra hệ thống cơ cấu tác động của
các chủ thể chính trị đối với kinh tế (với tính cách là toàn bộ nền kinh tế của một
xã hội với những quy luật, cơ chế vận hành và những chủ thể kinh tế khác nhau).
Ta thấy ảnh hưởng của thể chế chính trị với các hoạt động kinh tế như sau:

Nhóm 3

Trang 10


KINH TẾ HỌC PHÁT TRIỂN

GVHD: Th.s Bùi Thị Quỳnh Hương

- Thứ nhất: điều chỉnh các nhóm lợi ích giữa các lực lượng xã hội, giữa các giai
cấp, các cộng đồng người khác nhau. Thể chế chính trị tạo môi trường xã hội để
quy luật kinh tế bộc lộ gắn với vai trò và lợi ích của từng loại đối tượng trên.

Tuy nhiên, quyền lực chính trị luôn trong tay giai cấp có ưu thế cầm quyền nên
quỹ đạo xã hội của kinh tế luôn được “lọc” qua chiếc “phin” có tính giai cấp,
trước hết chúng thể hiện trong hệ thống pháp luật về kinh tế (về sở hữu, về
nghĩa vụ, về quyền lợi và trách nhiệm, về định hướng phát triển...)
- Thứ hai: từ những tác động trên, thông qua các quyết định chính trị của đảng
chính trị, của nhà nước, thể chế chính trị có thể điều chỉnh cơ cấu các thành phần
kinh tế trong phạm vi một quốc gia. Cơ cấu kinh tế có thể thay đổi theo từng
thời kì, tùy thuộc vào nhận thức thực tiễn. Nhưng, như vậy không có nghĩa là vai
trò điều chỉnh của thể chế chính trị là bất chấp quy luật. Trái lại điều chỉnh có
hiệu quả là những điều chỉnh nhận thức đúng quy luật.
- Thứ ba: thông qua hoạt động điều chỉnh kinh tế, thể chế chính trị có khả năng
khoác cho các chủ thể kinh tế những quyền, nghĩa vụ. Ngược lại, nó cũng phải
gánh chịu những trách nhiệm nhất định. Trong hòa bình thì điều chỉnh có tính
chất “bình đẳng” có cân nhắc. Nhưng trong thời kì chiến tranh hoặc những tình
huống của thiên tai thì các quyết định của chính trị có tính chất áp đặt. Vì lúc đó
chính trị với những đại diện của nó (nhân danh quốc gia, xã hội), có thể đưa ra
những quyết định cần thiết nhằm duy trì trật tự, giữ gìn nền hòa bình, độc lập
dân tộc, duy trì thể chế chính trị thống trị.
1.2 Sự tác động của thể chế chính trị đối với kinh tế trong lịch sử:
Lịch sử phát triển của kinh tế qua các thời kì đã để lại những hệ thống lý luận về
vai trò của kinh tế trong sử phát triển của chính quyền và vai trò của nhà nước
đối với cơ chế, các quy luật khách quan của sự vận động kinh tế. Đặc biệt những
học thuyết này còn đề cập vai trò của các nhà kinh tế, các kĩ nghệ gia trong việc
tổ chức và vận chuyển của nhà nước.

Nhóm 3

Trang 11



KINH TẾ HỌC PHÁT TRIỂN

GVHD: Th.s Bùi Thị Quỳnh Hương

1.2.1 Thời kì trước chủ nghĩa tư bản:

Vai trò của nhà nước trong kinh tế ngay từ thời cổ đại đã được giải thích theo
khía cạnh của sự điều tiết từ yếu tố chính trị. Trong tác phẩm “Republic”, Platon
giải thích việc loài người hình thành các cộng đồng cư trú của mình dưới hình
thức quốc gia riêng biệt. Nhưng chiến tranh giữa các quốc gia xảy ra như là
những giải pháp không thể khắc phục. Quan niệm này bắt đầu từ cách giải thích
rằng, những quốc gia nhỏ, có dân số ngày càng tăng thì không có cách nào có
thể tiến hành sản xuất để nuôi đủ họ. Con người phải có thức ăn, thức uống để
tồn tại. Vậy phải có đất đai để sản xuất. Họ cần sử điều khiển của nhà nước bằng
cách tạo ra chiến tranh để mở rộng đất đai cho canh tác.
Một trong những lý do khác bắt đầu từ sự thiếu hụt về kinh tế, hoặc không đủ
khả năng bảo đảm sản xuất và bảo vệ tài sản do sản xuất mà có nên cần có sự
liên hiệp với nhau trong một số quốc gia. Trường hợp như vậy người ta thấy rõ
nét trong thời kì hình thành các quốc gia thành bang ở Hi Lạp và La Mã.
Để đảm bảo được đời sống và sự thịnh vượng, các thành bang nhỏ cần sự che
chở của nước lớn. Họ phải phụ thuộc vào các nước lớn. Từ đó, những liên minh
quốc gia được hình thành (có ý kiến cho rằng đó là hình thành liên bang sơ
khai). Chúng có thể được giải thích bởi lý do khác, nhưng sự thống nhất về tín
ngưỡng (như liên minh Amphictyonic cùng thờ thần Apollo).
Cùng vì lý do kinh tế, một số học thuyết cổ đại cho rằng một quốc gia, trong
nhiều lý do để có thể tồn tại một cách tự do, phải có đủ nhân lực, có đủ đất đai
để trồng trọt, canh tác (không thiếu nhưng cũng không thừa). Vì đối với trình độ
sản xuất thấp thì số người vượt quá khả năng xã hội có thể nuôi được là một vấn
đề nan giải. Việc tiến hành canh tác gắn liền với việc chống lại thiên tai. Đó
cũng là lý do kinh tế để có thể xác định quy mô về lãnh thổ, năng lực và các

tiềm năng quốc gia khác mà nhà nước (chủ thể trong thể chế chính trị) phải trù
liệu.

Nhóm 3

Trang 12


KINH TẾ HỌC PHÁT TRIỂN

GVHD: Th.s Bùi Thị Quỳnh Hương

Khi nhà nước tiến hành xây cất, tu bổ những yếu tố thuộc cơ sở hạ tầng của xã
hội, chẳng hạn như giao thông hay đặt ra đồng tiền, điều đó cũng cho thấy mục
đích thể chế chính trị thông qua phát triển kinh tế, là vì:
- Giao thông làm cho sản xuất thuận tiện (vận chuyển hàng hóa, nguyên vật
liệu). Giao thông nối khu vực này với khu vực khác, mở ra khả năng để trao đổi,
làm cho việc quản lý đất đai ở mọi nơi dễ dàng, tạo nên sự thống nhất. Nhưng
giao thông cũng làm cho quân đội thuận tiện trong hành quân. Chính giao thông
khó khăn, hoặc do nhưng yếu tố bất lợi về địa lý, ảnh hưởng đến việc đi lại, di
chuyển, mà có quốc gia rất khó kiểm soát được và vùng ở ngoài biển khơi hoặc
ở vùng cao khó khăn đi lại thuộc chủ quyền của mình.
- Việc tạo lập ra đồng tiền, vật trao đổi ngang giá thay thế nhiều hình thức khác
trước đây cồng kềnh, bất lợi thiếu chính xác, khó cất trữ….Đồng tiền là biểu
trưng của kinh tế hàng hóa, của tiến bộ trong kinh tế, nó lại tạo cho nhà nước
những lợi thế to lớn. Một là, có thương mại trao đổi, nguồn thuế ngày càng gia
tăng làm cho ngân sách của nhà nước ngày càng tích lũy nhiều hơn. Hai là, tăng
thuế là tăng đội quân trong ngành tài chính của nhà nước làm cho bộ máy của
nhà nước phình lớn hơn, làm cho số người trong bộ máy “phi sản xuất” tăng. Ba
là, có tiền cũng có nghĩa là việc sản xuất tiền, quy định chế độ sử dụng, quy định

giá trị của đồng tiền (về mặt chủ quan) do nhà nước độc quyền. Nhà nước vì vậy
có thêm một chức năng mới.
1.2.2 Thời kì của chủ nghĩa tư bản:

- Trong thời kì hình thành chủ nghĩa tư bản từ giai đoạn tích lũy nguyên thủy
chuyển sang sự thống trị của tự do cạnh tranh, một số học thuyết kinh tế đã được
sự hỗ trợ đắc lực của các quyết định thể chế chính trị. Nổi bật là thuyết trọng
nông và thuyết trọng thương.

Nhóm 3

Trang 13


KINH TẾ HỌC PHÁT TRIỂN

GVHD: Th.s Bùi Thị Quỳnh Hương

Học thuyết trọng nông gắn với một số nhà chính trị và kinh tế điển hình của
pháp xuất hiện vào thế kỉ thứ XVIII, do một vị thượng như dưới triều vua Luois
XIV là Colbert khởi xướng.
Theo những người trọng nông thì của cải mà xã hội có được là do nông nghiệp
tạo ra. Chính nông nghiệp là nguồn gốc tạo ra sự thịnh vượng. Hơn nữa, nông
nghiệp là một hoạt động gắn với thiên nhiên, hướng tới cái gọi là “quyền tự
nhiên” có trong con người. Vì vậy, nhà nước phải tạo cho nông nghiệp sự tự do
trong sản xuất và trao đổi. Khẩu hiệu của phái trọng nông là “hãy để mặc chúng
tôi sản xuất cái gì mà chúng tôi muốn. Để chúng tôi sử dụng sản phẩm theo cách
của chúng tôi”. Câu “để mặc” (Laisser faire) trở thành ngữ của những người
trọng nông, thành “tuyên ngôn chính trị” của họ đối với phái trọng thương. Vậy
quyền lực của nhà nước cần phải sử dụng để đánh thuế vào người chiếm hữu

ruộng đất chứ không phải đánh vào các nhà nông nghiệp.
Trong khi đó, phái trọng thương xuất hiện sớm hơn, đại diện của phái này là
những nhà tư bản thương nghiệp. Theo học thuyết này, của cải mà quốc gia xã
hội có được là sự hùng cường và sự tích lũy ngày càng nhiều vàng bạc. Nhưng
vàng bạc làm cho quốc gia hùng mạnh phải là sản phẩm có được do thương mại
của nhà nước (từ chỗ xuất vật phẩm và thu vàng bạc vào). Vậy vai trò của thể
chế chính trị là ở chỗ: muốn củng cố sự độc lập và thịnh vượng của quốc gia, thì
ở trong nước, trước hết, quyền lực phải tập trung trong tay chính quyền trung
ương để bảo hộ chính sách thương mại; và quyền lực chính trị phải có khuynh
hướng đặt vào tay các nhà tư bản thương mại. Chính sách đối nội hay đối ngoại
của nhà nước là hướng vào phục vụ cho việc giành thị trường, kiểm soát thuộc
địa. Nếu kinh tế làm cho thể chế chính trị vững bền, thì thể chế chính trị phải sử
dụng quyền lực để nuôi dưỡng kinh tế.
- Thời kì này còn có học thuyết vè giới hạn của chính quyền và học thuyết về
mở rộng biên giới.

Nhóm 3

Trang 14


KINH TẾ HỌC PHÁT TRIỂN

GVHD: Th.s Bùi Thị Quỳnh Hương

Những học thuyết trên đây hoặc phản ánh những mâu thuẫn giữa chính quyền
với đại diện của các thế lực lượng kinh tế có vai trò chi phối các chính sách quốc
gia, hoặc biện minh cho sự mở rộng cai trị của nhà nước, cho các cuộc mở rộng
lãnh thổ quốc gia.
Năm 1690, John locke - nhà triết học và chính trị học cho xuất bản cuốn: “Luận

giải về chính quyền” (Treatises ò Civil Government). Cuốn sách mở đường cho
một chính thể đại nghi thay thế chính thể chuyên chế một cách hợp biến. Theo
đó, chính quyền chuyên chế vô hạn phải bị thay thế bằng chính quyền chỉ được
can thiệp giới hạn. Người ta giới hạn sự can thiệp của quyền này đối với quyền
khác trong quyền lực tổng hợp. Chẳng hạn, giữa quyền lập pháp và hành pháp.
Giới hạn đối với chính quyền còn thể hiện ở chỗ chính quyền sẽ chỉ quản lí, cai
trị hạn chế trong những lĩnh vực xã hội liên quan đến bản tính “công dân” của
con người.
Theo J.Locke, quyền công dân chỉ là một phần của quyền con người, là vì bản
tính tự nhiên (bản tính con người) là có trước bản tính công dân trong con người.
Xã hội tự nhiên của con người có trước là vô hạn so với xã hội chính trị (với
những thiết chế chính quyền khác nhau) – một xã hội có hạn. chính quyền được
tổ chức là do con người tự nguyện kí kết với nhau thành lập để bảo vệ quyền của
con người. Trong các quyền đó, có những quyền được trao cho nhà nước và
được nhà nước che chở. Từ đó, tạo ra giới hạn của quyền quốc gia. Nếu vượt
qua nó, chính quyền sẽ không đứng về phía nhân dân nữa mà trở thành kẻ “xâm
lược”.
Cuốn sách “Sự thịnh vượng của quốc gia” (Wealth of National) của Adam
Smith và những người cộng sự cũng đi đến kết luận về giới hạn của quyền lực
quốc gia nhưng ở giác độ khác: giữa nhà nước và các nhà tư bản, các doanh
nhân. Theo ông, cá nhân mới là một chủ thể thực sự, còn tổ chức chính quyền là
những chủ thể hình thức gồm nhiều cá nhân. Con người trước hết vì cá nhân mà
tha thiết với công việc, đặc biệt là việc làm giàu cho bản thân mình. Vì thế lĩnh
Nhóm 3

Trang 15


KINH TẾ HỌC PHÁT TRIỂN


GVHD: Th.s Bùi Thị Quỳnh Hương

vực giành cho hoạt động cá nhân cành rộng rãi bao nhiêu thì càng thích hợp bấy
nhiêu. Trong xã hội có nhiều người giàu có là xã hội quốc gia thịnh vượng.
Chính quyền chỉ giới hạn trong việc làm thế nào để mở rộng phạm vi của tự do
cá nhân trong kinh tế là tốt nhất.
- Đi theo khuynh hướng khác, về giới hạn của chính quyền là một học thuyết
mới ở Hoa Kì, của Tomas Jeffersson. Khi vận dụng học thuyết của J.Locke về
quyền tự nhiên, T.Jeffersson tác giả bản tuyên ngôn của Hoa Kì khẳng định
rằng, con người có những quyền không ai có thể tước đoạt được. Những quyền
này có trước quốc gia. Mặt khác, ông là người khuyến khích thuyết trọng nông,
đề cao nông nghiệp. Học thuyết này trong nhiều khía cạnh khác nhau, được cổ
vũ ở Hoa Kì và mở đường cho chính quyền, hậu thuận cho việc mở rộng khu
vực canh tác nông nghiệp của quốc gia về phía tây. Tuy nhiên, học thuyết của
T.Jeffersson chỉ có ý nghĩa biện minh cho các chiến dịch mở mang biên giới
nhiều hơn là động lực.
- Tiếp theo là những học thuyết này là những khuynh hướng đòi tự do kinh tế
giữa nhà nước - là đại diện của quyền lực quốc gia - với giới doanh thương.
Khuynh hướng đòi mở rộng vô hạn cho thương mại được tự do vận động. Các
đại diện của chủ nghĩa tư do kinh tế đòi nhà nước không được can thiệp vào quá
trình kinh tế. Mỗi phía (chính phủ và chủ doanh nghiệp) cần phải đứng ở vị trí
riêng của mình và chỉ thực hành bổn phận.
Khuynh hướng tự do kinh tế thực tế đã diễn ra và hậu quả của nó đối với xã hội
thể hiện ở những khía cạnh sau đây:
Thứ nhất: tự do kinh tế đã tạo tiền đề để cạnh tranh gay gắt trong sản xuất, làm
tiền đề thực tiễn cho kĩ thuật và công nghiệp phát triển, thúc đẩy năng suất lao
động và tăng nhanh sản phẩm xã hội. Nhưng đồng thời với quá trình đó là quá
trình khủng hoảng có tính chu kì của sản xuất xã hội. Trong khi hàng hóa ế thừa,
đổ xuống sông, xuống biển, thì xã hội vẫn còn những người sống trong tình
trạng nghèo đói.

Nhóm 3

Trang 16


KINH TẾ HỌC PHÁT TRIỂN

GVHD: Th.s Bùi Thị Quỳnh Hương

Thứ hai: tự do kinh tế dẫn đến tập trung quyền lực kinh tế vào một thiểu số. Từ
đó quyền lực kinh tế sẽ “biến hóa” và thao túng các quyền khác, trong đó có
quyền lực chính trị. Cuối cùng quyền lực chính trị rơi vào tay những tập đoàn
kinh tế lớn. Thể chế chính trị đó không có ý nghĩa tự do, mà thực chất là “tự do
phục vụ mục đích của các tập đoàn kinh tế”.
Thứ ba: sự phận hóa giàu nghèo sâu sắc giữa các chủ doanh thương và giới thợ
thuyền đã đào sâu mâu thuẫn giữa vô sản và tư sản. Tình hình đó làm tăng mâu
thuẫn xã hội mà chính quyền không thể điều hòa được.
Tự do kinh tế dưới chế độ tư bản, vì vậy làm cho con người nói chung , toàn xã
hội, không những không được tự do, mà càng bị kiểm soát, nếu không phải là
bởi vì người này, thì lại bởi những tập đoàn khác.
- Những mâu thuẫn xã hội trong xã hội tư bản đã làm xuất hiện những học
thuyết chính trị mới ngày trong long chủ nghĩa tư bản. Đó là những tư tưởng về
chủ nghĩa xã hội không tưởng. Tính chất không tưởng của các tư tưởng này thế
hiện ở chỗ nó: hi vọng tạo thành một chế độ chính trị, kinh tế xã hội chủ nghĩa
bình đẳng, bác ái ngay trong lòng chế độ tư bản chủ nghĩa để nêu gương cho
mọi người noi theo. Tuyên truyền cho chủ nghĩa xã hội này không phải do giai
cấp vô sản , mà do các đại biểu của giai cấp thống trị như Xanh ximong, Phurie
tiến hành. Họ không thừa nhận đấu tranh cách mạng, mà cho rằng có thể “cảm
hóa” các nhà tư bản để xã hội chuyển dần sang chủ nghĩa xã hội.
- Còn những học thuyết của thời kì chủ nghĩa đế quốc thì hướng vào việc cải

cách các mô hình chính trị để phục vụ kinh tế, như học thuyết về các loại “nhà
nước phúc lợi”, “nhà nước cung ứng dịch vụ”, biểu hiện của cơ cấu “đại chính
phủ”…
- Khuynh hướng nhà nước là tổ chức cung ứng dịch vụ xã hội biện luận rằng:
một số vấn đề như y tế, giáo dục là những vấn đề nền tảng của toàn xã hội.
Những lĩnh vực đó lâu nay vẫn để tư nhân hay giáo hội phụ trách và độc quyền.
Vì vậy nó gây ra sự tranh luận chính trị sâu sắc. Càng về sau, những vấn đề của
Nhóm 3

Trang 17


KINH TẾ HỌC PHÁT TRIỂN

GVHD: Th.s Bùi Thị Quỳnh Hương

đời sống càng thúc ép vai trò can thiệp của nhà nước như vấn đề dịch vụ điện,
nước, giao thông, thu rác trong đô thị. Nhũng ý kiến xung đột trong các luận
thuyết cho rằng mục đích của nhà nước như vậy là nhằm rút ngắn những chênh
lệch mức sống giữa các tầng lớp xã hội. Nhưng làm như vậy, nhà nước đã tước
đi một phần thuế mới, không có lợi cho kẻ giàu; và trong trường hợp như vậy,
mục đích của thể chế chính trị lại là ưu tiên đạo đức và hạ thấp kinh tế.
1.2.3 Kinh tế và thể chế chính trị trong xã hội xã hội chủ nghĩa:

- Có thể nói sự vận động của xã hội chính là quá trình tác động nhân quả giữa
thể chế chính trị với kinh tế. Chế độ xã hội là hiện thân của thể chế chính trị,
mang trong nó những nội dung nền tảng là kinh tế.
- Quan hệ giữa thể chế chính trị với kinh tế thể hiện trước hết trong các học
thuyết của nhà sáng lập chủ nghĩa Mác-Lenin với tính cách là hệ thống lí luận.
Sau nữa, quan hệ đó được biểu hiện trong hiện thực ở các nước xây dựng xã hội

theo con đường xã hội chủ nghĩa.
- Về quan hệ có tính nhân quả, các nhà sáng lập học thuyết Mác cho rằng sự
phát triển, vận động của sản xuất tất nhiên sẽ làm đảo lộn trật tự thể chế chính trị
và dẫn tới biến đổi cách mạng.
- Kinh tế trước hết là một hiện tượng khách quan, nhưng sản xuất xã hội đã dẫn
đến sự phân hóa trong xã hội thành những tập hợp người khác nhau, thành các
giai cấp đối địch nhau. Đối kháng giai cấp phát triển cho đến khi giai cấp công
nhân với Đảng tiên phong của nó là đảng công nhân, Đảng Cộng sản có thể và
trên thực tế trở thành giai cấp thống trị là chủ thể của quyền lực chính trị. Xã hội
vẫn tồn tại những giai cấp khác nhau nhưng trong một trật tự xã hội mới –xã hội
chủ nghĩa. Các giai cấp không phải đối kháng nữa vì có thể giải quyết mâu
thuẫn bằng biện pháp hòa bình.

Nhóm 3

Trang 18


KINH TẾ HỌC PHÁT TRIỂN

GVHD: Th.s Bùi Thị Quỳnh Hương

- Thể chế chính trị trong thời kì của sự hoàn thiện dần dần tới xã hội xã hội chủ
nghĩa chín muồi sẽ không còn đối kháng giai cấp trên căn bản vì những lý do
sau đây:
- Thứ nhất: giữa giai cấp công nhân nắm quyền và liên minh của nó, là những
giai cấp, tầng lớp lao động khác đều là những lực lượng lao động, chứ không
phải giai cấp bóc lột. Mục đích cầm quyền của giai cấp công nhân và các giai
cấp, tầng lớp lao động khác là giải phóng người lao động để tạo lập một trật tự
mới, dân chủ và bình đẳng chứ không phải để biến họ thành giai cấp bị bóc lột.

Đó là sự chuyển hóa biện chứng của sự vận động và giải quyết mâu thuẫn chính
trị - giai cấp, chứ không phải chuyển hóa máy móc cơ học.
- Thứ hai: trong các bước quá độ của xã hội tiến lên trình độ chín muồi của chủ
nghĩa xã hội, các giai cấp lao động nắm quyền lực chính trị vẫn còn “chúng
sống” với giai cấp bóc lột là giai cấp tư sản. Đó là một tất yếu kinh tế trong điều
kiện chính trị mới. Nói là tất yếu kinh tế, vì quá trình chín muồi của chủ nghĩa
xã hội chính là quá trình trưởng thành dần dần, từng bước về mặt kinh tế, chính
trị và các bước tiến bộ về dân chủ xã hội chủ nghĩa. Quá trình đó vẫn còn và vẫn
dung nạp giai cấp tư sản như một kết cấu kinh tế tất yếu của thời kì quá độ. Đó
là quá trình mà sau này V.I.Lenin mô tả là sự đan xen về kinh tế và chính trị
giữa chủ nghĩa xã hội ra đời nhưng còn non yếu và chủ nghĩa tư bản đã thất bại,
nhưng chưa chết hẳn.
- Trong quá trình đó đối kháng giai cấp vẫn còn, nhưng không phải là quan hệ
thống trị xã hội mà nó tồn tại có giới hạn. Tính chất giới hạn là ở chỗ: giai cấp tư
sản tìm kiếm giá trị thặng dư trong điều kiện họ không còn là giai cấp thống trị.
Quá trình đó tồn tại nhưng trong một hành lang, một khung chính trị pháp lý xã
hội chủ nghĩa.
- Dưới chủ nghĩa xã hội, dù nền tảng chính trị giai cấp là chỗ dựa cho nền kinh
tế tồn tại nhiều thành phần, nhưng không còn mục đích và chỗ dựa cho quyền
lực chính trị tư sản nữa. Quyền lực chính trị dưới chủ nghĩa xã hội mở đường
Nhóm 3

Trang 19


KINH TẾ HỌC PHÁT TRIỂN

GVHD: Th.s Bùi Thị Quỳnh Hương

cho nền kinh tế nhiều thành phần, nhưng dành ưu tiên cho nền kinh tế nhà nước

và kinh tế tập trung, coi kinh tế trong khu vực do nhà nước kiểm soát là nền
tảng bản đảm cho trật tự dân chủ xã hội chủ nghĩa.
- Ưu tiên kinh tế nhà nước trong môi trường kinh tế nhiều thành phần có thể coi
là tuyên ngôn chính đảng của nền chính trị xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, đặc
trưng của sự ưu tiên đó là ưu tiên trên cơ sở bình đẳng bởi một trật tự pháp lý
dân chủ, công khai. Điều đó mở ra khả năng cạnh tranh và trong cạnh tranh,
kinh tế nhà nước bộc lộ tính chất hơn hẳn và tự khẳng định trên cơ sở quy luật
khách quan của sự phát triển. Nếu ưu tiên mà nhận thức tự giác ngộ thuần túy
chủ quan thì có thể sẽ làm mất khả năng thực tế của kinh tế nhà nước, tức là tạo
cho nó có sức mạnh về thể chế chính trị nhưng lại thiếu thực lực kinh tế. Luận
điểm của V.I.Lenin “thể chế chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế” đã
chứng minh điều đó. Luận điểm trên của V.I.lenin đã chỉ rõ rằng nhà nước của
giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức không thể không tồn
tại bằng chính nền tảng kinh tế do các giai cấp đó là chủ thể, đại diện. Chính
quyền đó là biểu hiện ra ngoài, là tất yếu của sự vận động kinh tế, của sản xuất.
Tính chất “ưu tiên” của chính trị thể hiện ở chỗ: chính quyền nhà nước, các đảng
chính trị có khả năng thiết kế được một thể chế chính trị để làm nền cho sự vận
động khách quan của kinh tế. Nếu tạo lập theo chủ quan thuần túy, thì đương
nhiên phải nhìn nhận lại, phải điều chỉnh. Nếu nhận thức được quy luật của sự
vận động kinh tế thì sự điều chỉnh đó sẽ đi vào quỹ đạo, thể chế chính trị trở
thành “cứu cánh” cho kinh tế. Nếu điều chỉnh thuần túy chủ quan, nóng vội thì
sự điều chỉnh có thể dẫn tới hậu quả chính trị trở nên xấu hơn, không thể mở ra
môi trường cho kinh tế với tính cách là một trật tự của kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Những đổ vỡ của Liên Xô và Đông Âu trước đây là một bằng chứng về những
cải biến chính trị có tính cực đoan.
Từ những sai lầm, khuyết điểm của những diễn biến chính trị chủ quan dẫn đến
chỗ cho rằng đó là một sự nhầm lẫn. Để lập lại trật tự mà thể chế chính trị có
Nhóm 3

Trang 20



KINH TẾ HỌC PHÁT TRIỂN

GVHD: Th.s Bùi Thị Quỳnh Hương

tính chất đối lập, thì sẽ không thể dẫn dắt nền kinh tế đi vào quỹ đạo của chủ
nghĩa xã hội được. Nhưng biểu hiện khác nhau của chính trị, cơ cấu quyền lực
giữa chính quyền, Đảng cộng sản và các tổ chức xã hội vào những năm 19701980 ở Liên Xô và các nước Đông Âu đã rơi vào tình trạng bất cập trầm trọng,
không tạo được tiền đề để kinh tế phát triển. Bộ máy chính quyền hành pháp
khổng lô tới gần 20 triệu người đã bộc lộ là một thiết chế quan liêu, kém hiệu
lực. Quản lý xã hội không dựa trên nền tảng pháp luật…
Các mục tiêu và mục đích kinh tế mang nặng tính chủ quan, hình thức, lấy hình
thức của cơ chế áp đảo năng suất và hiệu quả thực tế của các cơ sở kinh tế quốc
doanh, trong khi các thành phần kinh tế khác không có điều kiện để tồn tại. Kế
hoạch có tính mệnh lệnh, chủ quan. Khoa học kĩ thuật kém phát triển hoặc
không được áp dụng rộng rãi. Cuối cùng sự thay thế quyền lực chính trị đã mở
đường cho sự sụp đổ thể chế chính trị và kinh tế xã hội chủ nghĩa từng tồn tại
trên 70 năm.

Chương 2: VAI TRÒ CỦA THỂ CHẾ CHÍNH TRỊ ĐỐI VỚI
SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA VIỆT NAM THỜI KÌ ĐỔI
MỚI
2.1 Bối cảnh:
Cách mạng Việt Nam có những đặc trưng đặc sắc, khác với các quốc gia đi vào
xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Thắng lợi của cách mạng chính trị, mở ra cho sự vận động đi lên của kinh tế.
Cách mạng Việt Nam có đặc điểm là: Thắng lợi của cách mạng dân chủ (mang
nội dung của cuộc cách mạng đánh đổ phong kiến thuộc địa), tiến lên theo con
đường xã hội chủ nghĩa, không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Đó là

vì lực lượng cách mạng, giai cấp lãnh đạo cách mạng (là giai cấp công nhân với

Nhóm 3

Trang 21


KINH TẾ HỌC PHÁT TRIỂN

GVHD: Th.s Bùi Thị Quỳnh Hương

đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản) và nguyện vọng của nhân dân có cùng
một hướng, cùng một mục tiêu kinh tế và chính trị. Đó là giải phóng dân tộc,
độc lập, bình đẳng và phát triển tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên khi bắt đầu xây dựng chế độ mới, yếu tố của thời đại, yếu tố quốc tế
và những hình mẫu chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam không tránh khỏi lặp lại những
mô hình đã có ở các nước, nhất là mô hình của Liên xô và các nước xã hội chủ
nghĩa khác.
Khi chủ nghĩa xã hội đi vào khủng hoảng với tính cách là một hệ thống, thì đồng
thời thế giới cũng chuyển sang khuynh hướng kinh tế, chính trị mới. Đó là chiến
tranh lạnh đã kết thúc, mở ra sự hợp tác như một yếu tố khách quan, nhu cầu dân
chủ trong chính trị và kinh tế ngày càng cao. Ý đồ thống trị của các cường quốc
không dập tắt được khuynh hướng có tính áp đảo là sự tự khẳng định của các
quốc gia, dân tộc, vì chủ quyền, không can thiệp vào công việc của nước khác
theo tinh thần của Hiến chương Liên Hiệp quốc.
Trong bối cảnh trong nước và quốc tế đó, Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng
định đổi mới và cải cách kinh tế trên cơ sở hoàn thiện thể chế chính trị là một
yêu cầu khách quan.
Tinh thần đổi mới trong Văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI
(1986) đã đánh dấu một bước chính sách chuyển biến có tính bước ngoặt trong

chính trị và kinh tế. Tư tưởng xuyên suốt của Văn kiện đó là:
- Sự phát triển của xã hội Việt Nam trong kinh tế, chính trị và các mặt phải phù
hợp với quy luật khách quan. Tư duy của con người (đường lối chiến lược, tổ
chức, thiết kế mô hình) chỉ có thể thắng lợi khi nó phản ánh đúng sự vận động
khách quan.
- Đổi mới một cách toàn diện, trên cơ sở nhận thức đúng về cơ chế kinh tế của
Việt Nam (trình độ của lực lượng sản xuất, kết cấu của thành phần kinh tế, vai
trò của các thành phần kinh tế, quan hệ trong nước và thế giới, các bước đi giữa
cơ cấu và trình độ kinh tế của từng thời kì…).
Nhóm 3

Trang 22


KINH TẾ HỌC PHÁT TRIỂN

GVHD: Th.s Bùi Thị Quỳnh Hương

- Đổi mới kinh tế trên cơ sở vừa hoàn thiện từng bước hệ thống chính trị và ổn
định chính trị và ổn định chính trị trên nền tảng của sự liên minh giữa giai cấp
công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam.
- Nguyên tắc mở cửa, Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trên thế giới,
sẵn sàng quan hệ, hợp tác trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi, tôn trọng chủ quyền
và lợi ích của mỗi quốc gia là một quan điểm lớn được Đảng Cộng sản Việt
Nam khởi xướng và lãnh đạo.
Đến nay, qua hơn 15 năm tiến hành đổi mới, những thành tựu đã được là to lớn,
rất đáng khích lệ. Nó chứng tỏ nước ta đã đổi mới đúng hướng và đang tạo ra
những tiền đề vững chắc để tiếp tục tiến lên. Tuy nhiên, trên thực tế cần có sự
điều chỉnh, bổ sung. Từ cương lĩnh xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kì quá

độ lên chủ nghĩa xã hội đến Nghị quyết Đại hội VII (1991), Nghị quyết hội nghị
giữa nhiệm kì (khóa VII) (1994) và Nghị quyết Đại hội VIII, tinh thần của đổi
mới luôn thể hiện nhất quán những quan hệ cơ bản giữa thể chế chính trị và kinh
tế.
Thứ nhất: nền tảng chính trị là cơ cấu liên minh giữa giai cấp công nhân, nông
dân và tầng lớp trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Đó là những
đảm bảo để ổn định chính trị (như một yêu cầu khách quan của sự phát triển) và
từng bước hoàn thiện cơ chế dân chủ của xã hội, đảm bảo quyền làm chủ thực sự
của nhân dân. Nền tảng đó là tiền đề, là môi trường cho sự phát triển kinh tế.
Thứ hai: kinh tế hàng hóa nhiều thành phần cùng tồn tại với vai trò chủ đạo của
kinh tế nhà nước là chiến lược lâu dài tất yếu không phải là một sự áp đặt chính
trị, mà là trong môi trường cạnh tranh với hành lang pháp lí do Nhà nước định
ra.
Thứ ba: xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp trong nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, tạo ra sự bình đẳng trong kinh doanh, bình đẳng trong
phân phối và hưởng thụ, khuyến khích tài năng và năng lực. Nhà nước thực hiện
Nhóm 3

Trang 23


KINH TẾ HỌC PHÁT TRIỂN

GVHD: Th.s Bùi Thị Quỳnh Hương

chính sách xã hội, chăm lo đến những người có công với đất nước, có sự hy sinh
trong chiến tranh giữ nước nên đã chịu thiệt thòi trong phát triển kinh tế. Nhà
nước là trung tâm quyền lực chính trị thực hiện điều tiết, hạn chế sự chênh lệch
tuyệt đối giữa các cực giàu nghèo (nguyên nhân của những bất công mới trong
xã hội).

Thứ tư: muốn tạo nên nền tảng cho kinh tế, thì hệ thống chính trị cũng cần phải
được hoàn thiện theo hướng:
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
đối với Nhà nước.
- Nhà nước là trung tâm quyền lực chính trị của hệ thống chính trị, là công cụ
thực hiện quyền lực của nhân dân. Nhà nước điều hành bằng pháp luật và theo
pháp luật, kết hợp với các phương pháp quản lí khác. Xóa bỏ dần chế độ chủ
quản của các cơ quan quả lí hành chính (Bộ, Ủy ban nhân dân) để khẳng vai trò
của từng chủ thể quản lí (nhà nước quản lí hành chính, doanh nghiệp là chủ thể
quản lí kinh doanh trong cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa).
- Phát minh mạnh mẽ quyền dân chủ của nhân dân trên cơ sở hoàn thiện hệ
thống pháp luật. Tiếp tục làm rõ những quy định pháp lí và nâng cao nhận thức
của toàn dân về quyền và nghĩa vụ của công dân, về thẩm định , trách nhiệm của
cơ quan nhà nước và công chức nhà nước.
- Đổi mới một cách căn bản việc đào tạo va sử dụng đội ngũ cán bộ, công chức
trong các tổ chức Đảng, Nhà nước và các đoàn thể, nhất là hệ thống công chức
hành chính nhà nước.
2.2 Vai trò của thể chế chính trị đối với sự phát triển kinh tế của Việt
Nam trong thời kỳ đổi mới:
Có thể nói, thể chế chính trị (TCCT) có vai trò vô cùng to lớn đối với quá
trình phát triển kinh tế.theo một nghiên cứu của giáo sư Daron Acemoglu thuộc
viện công nghệ Massachusetts thì một số xã hội có các thể chế tốt có khả năng

Nhóm 3

Trang 24


KINH TẾ HỌC PHÁT TRIỂN


GVHD: Th.s Bùi Thị Quỳnh Hương

kích thích đầu tư vào máy móc, vốn con người, và các công nghệ tốt hơn và do
vậy các nước này cũng đạt được sự thịnh vượng về kinh tế.
Vì vậy thể chế chính trị có những vai trò trong lĩnh vực kinh tế như sau:
- Định hướng và hỗ trợ cho sự phát triển của nền kinh tế, phù hợp với
điều kiện phát triển của Quốc gia.
- Ban hành những chủ chương, chính sách, điều luật…để bảo đảm cho
sự phát triển của nền kinh tế.
- Tạo điều kiện phát triển thị trường nhằm thu hút nguồn đầu tư nước
ngoài.
Như phần chương I đã đề cập về thể chế chính trị là tổng hợp các phương
pháp và cách thức thực hiện quyền lực nhà nước do tình hình chính trị trong nước
chi phối. Thể chế chính trị được quy định trước hết bởi bản chất giai cấp, hình
thức nhà nước, tính chất của pháp luật và quyền lực của các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền, tương quan lực lượng của các giai cấp, mức độ và hình thức đấu
tranh giai cấp cũng như truyền thống lịch sử của đất nước và hoàn cảnh quốc tế.
Trên thực tế công cuộc đổi mới kinh tế của Việt Nam trong những năm qua
đã đạt được những thành quả nhờ quá trình cải cách và định hướng của nhà nước.
Sau khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng (năm 1975), mô hình kinh
tế kế hoạch hóa tập trung ở miền Bắc được áp dụng trên phạm vi ca nước. Mặc
dù đã có nhiều nỗ lực trong xây dựng và phát triển kinh tế, Nhà nước đã đầu tư
khá lớn, nhưng trong 5 năm đầu (1976-1980) tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm
chạp, thậm chí có xu hướng giảm sút, và bắt đầu rơi vào tình trạng khủng hoảng.
Trong khi nguồn viện trợ không hoàn lại của các nước XHCN (Liên Xô
và Đông Âu) không còn nữa, đồng thời, do khó khăn về kinh tế của các nước
XHCN nên nguồn vay từ các nước này (chủ yếu là từ Liên Xô) ngày càng giảm

Nhóm 3


Trang 25


×