Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Một số giải pháp nhằm kiểm soát lạm phát ở Việt Nam trong thời gian tới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.6 KB, 29 trang )

NGUYỄN KHÁNH LY

QT18E

TIỂU LUẬN:
Một số giải pháp nhằm kiểm soát lạm phát ở Việt Nam trong thời gian tới.
BÀI LÀM
Hiện nay ,nền kinh tế của toàn thế giới có nhiều sự thay đổi ,các quốc gia
dần chuyển mình để hoà nhập với xu thế toàn cầu hoá .Cùng với sự phát triển
của nền kinh tế thì có nhiều vấn đề bất cập xảy ra .Một trong những vấn đề luôn
song hành với nền kinh tế đặc biệt là với thị trường tài chính tiền tệ là lạm
phát .Lạm phát là một trong những vấn đề kinh tế vĩ mô đã trở thành mối quan
tâm lớn nhất của các nhà chính trị và của cả công chúng .Lạm phát được coi
như là một căn bệnh thế kỉ của nền kinh tế thị trường ,nó là một vấn đề hết sức
phức tạp đòi hỏi phải có sự đầu tư lớn về thời gian và trí tuệ mới có thể đạt
được kết quả khả quan nhất .Lạm phát ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế quốc
dân, đặc biệt là giới lao động,chống lạm phát không chỉ là việc của doanh
nghiệp ,của một cá nhân mà còn là nhiệm vụ của chính phủ .
Việt Nam,hiện nay về việc kiềm chế lạm phát, giữ vững sự phát triển ổn định
của nền kinh tế là một mục tiêu quan trọng trong việc phát triển kinh tế xã
hội ,nâng cao đời sống nhân dân.
Thật vậy ,vấn đề lạm phát đã được nhiều người quan tâm, nghiên cứu và
cũng đưa ra phương pháp khắc phục nhằm kiểm soát được lạm phát.
Từ lâu ,tiền giấy xuất hiện và sau một thời gian sẽ diễn ra tình trạng giảm giá
tiền và dẫn đến lạm phát .Nét đặc trưng cơ bản nền kinh tế thị trường khi có
lạm phát là giá cả của hầu hết các hàng hoá đêù tăng cao và sức mua của đồng
tiền ngày càng giảm nhanh .Có thể thấy lạm phát là một cái gai nhức nhối trong
nền kinh tế thị trường hiện nay.

1



NGUYỄN KHÁNH LY

QT18E

I/Thực trạng lạm phát ở Việt Nam
Trong suốt hơn 30 năm qua , nền kinh tế của chúng ta đã có những biến chuyển
quan trọng , đi đôi với nó lạm phát cũng có những sự thay đổi dựa trên thực
trạng nền kinh tế .
Căn cứ vào những đặc điểm cốt yếu ta có thể chia tình hình lạm phát thành các
giai đoạn như sau :
1/Giai đoạn khó khăn và đòi hỏi đổi mới ( Trước 1989)
a)Thời kì trước đổi mới:
Trước năm 1975, đất nước ta đang dốc toàn lực cho cuộc kháng chiến cứu
nước. Tất cả cho tiền tuyến. Mọi nguồn lực đều dành hết cho một mục tiêu duy
nhất là thống nhất đất nước và giành độc lập dân tộc. Vì thế nên mục tiêu phát
triển kinh tế chỉ bó hẹp trong nội dung dồn sức cho tiền tuyến. Không thể đòi
hỏi gì hơn ở một nền kinh tế trong chiến tranh . Mặt khác, hai đầu đất nước là
hai nền kinh tế khác nhau. Một bên là nền kinh tế thị trường tự do, một bên là
nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp. Do những đặc điểm đặc
thù của nền kinh tế nên giai đoạn này lạm phát hầu như chưa xuất hiện rõ nét .
b)Thời kỳ bắt đầu đổi mới
Từ năm 1979 đến 1985 nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung đã bộc lộ nhiều yếu
điểm và hạn chế đòi hỏi phải có sự đổi mới
Tỷ lệ lạm phát năm 1984 ở mức 164,9%, năm 1985 là 191,6%, trong khi đó
tăng trưởng lại giảm sút trông thấy, giảm từ 6% năm 1984 xuống khoảng 3%
năm 1985, tăng trưởng và lạm phát thời kỳ này có thể nói là không có quan hệ
gắn bó lạm phát phi mã đã xuất hiện và ngày càng trầm trọng
c)Lạm phát phi mã cuối thập kỷ 80
Năm 1986 tỷ lệ lạm phát lên đến 487,2%, năm 1987 là 301,3%, năm 1988 là

308,2%, năm 1989 tỷ lệ lạm phát ở mức 74,3%. Trong khi tăng trưởng kinh tế ở
những năm này chỉ khoảng 1% đến 2%. Giai đoạn trước 1989 tỷ lệ tăng trưởng
và tỷ lệ lạm phát luôn ngược chiều nhau. Vào thời điểm này, lạm phát và tăng

2


NGUYỄN KHÁNH LY

QT18E

trưởng gần như không có mối quan hệ nào và nếu như có quan hệ thì số liệu
cho thấy thì lạm phát càng cao thì tăng trưởng càng thấp.
2. Thời kỳ tăng trưởng kinh tế đi đôi với lạm phát (sau năm 1989)
Năm 1991 tỷ lệ lạm phát còn là 67,5%, năm 1992 tỷ lệ này giảm xuống còn
17,6%, đặc biệt năm 1993 tỷ lệ lạm phát chỉ còn 5,2%. Trong giai đoạn này
nhờ kiểm soát được lạm phát nên tỷ lệ tăng trưởng tăng lên.
Đến năm 1996, tình hình lạm phát và tăng trưởng đã bắt đầu có thay đổi, tỷ lệ
lạm phát giảm còn 4,5%, tăng trưởng đạt 9,34%, giá cả thị trường trong năm
1996 khá ổn định. Tuy biên động giá trong các tháng còn lớn, nhưng kết quả
kiềm chế lạm phát đã vững chắc tạo sự ổn định cho nền kinh tế.
3. Thời kỳ thiểu phát (1997-2005)
Bước vào năm 1997 tình hình lạm phát chuyển sang thiểu phát. Tỉ lệ lạm phát
tháng 1/1997 là 0,8%, hai tháng lạm phát 2,6% nhưng đến hết tháng 3 chỉ số
giá chỉ ở mức 2,1%, tiếp đó tỷ lệ lạm phát tiếp tục giảm, 10 tháng đầu năm tỷ lệ
lạm phát ở mức 2,3%, đến tháng 11 và 12 tỷ lệ lạm phát mới nhích lên chút ít
a)Thời kỳ khởi đầu thiểu phát 1997
Năm 1997 giá cả thị trường trong nước ở mức khá ổn định, chỉ số lạm phát ở
mức 103,6% tăng 3,6% so với cuối năm 1996. Đây là mức lạm phát thấp nhất ở
nước ta cho đến trước năm 1997.

b)Thời kỳ chịu tác động khủng hoảng kinh tế khu vực
Sang năm 1998 tình hình kinh tế xã hội trong khu vực có những biến động dẫn
đến lạm phát cũng có nhiều biến đổi, tỷ lệ lạm phát thấp kéo theo tình hình tăng
trưởng kinh tế có chiều hướng không thuận lợi
c)Thời kỳ thiểu phát bắt đầu
Tình hình lạm phát trong các năm từ 1999 đến 2003 diễn ra ở mức thấp và dấu
hiệu thiểu phát kéo dài đến hết năm 2000 khi tốc độ tăng trưởng kinh tế có tăng
lên, chấm dứt thời kỳ tốc độ tăng trưởng đi xuống. Số liệu cho thấy chỉ số giá
tiêu dùng trong các tháng ở các năm từ 1999 đến 2003 là rất thấp kéo theo tỷ lệ
lạm phát thấp làm tốc độ tăng trưởng kinh tế cũng ở mức thấp.
3


NGUYỄN KHÁNH LY

QT18E

Trong 7 năm từ 1997 đến 2003 nền kinh tế nước ta nằm trong tình trạng lạm
phát thấp nhưng tốc độ tăng trưởng cũng thấp, đây thực sự là điều không mong
muốn
4/Lạm phát sau thời gian thiểu phát (2004 – 2005)
Chỉ số giá 9,5% năm 2004 là một giới hạn mỏng manh giữa lạm phát kiểm soát
được và lạm phát cao.
5/ Lạm phát 2007 đến nay
*Năm 2007:Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu,cộng với
những nguyên nhân chủ quan bên trong,lạm phát đã trở lại,chỉ số lạm phát tăng
lên hai con số. Dấu hiệu lạm phát cao xuất hiện từ t6/2007 khi CPI thánh 6 tăng
đọt biến xấp xỉ 1%,và tỉ lệ lạm phát tăng tới 12,6% so với tháng 12 năm 2006.
Điểm khác biệt của lạm phát trong năm 2007 này là sự tăng giá diễn ra đồng
loạt ở cả nhóm hàng lương thực và phi lương thực. Đứng đầu về tốc độ tăng giá

trong nhóm các hàng hóa tính CPI là thực phẩm (tăng 21,16%, riêng tháng 12
tăng 4,69%). Nhóm hàng nhà ở và vật liệu xây dựng tăng cao thứ hai (tăng
17,12%, riêng tháng 12 tăng 3,28%). Đứng thứ ba là nhóm hàng lương thực
(tăng 15,4%, riêng tháng 12 tăng 2,98%). Phương tiện đi lại và bưu điện đứng
thứ tư (tăng hơn 7%, riêng tháng 12 tăng 0,7%). Tiếp đến là nhóm hàng may
mặc và giày dép (tăng 7%, riêng tháng 12 tăng 1,16%); dược phẩm và y tế
(tăng 7%)(2), v.v...
Năm 2007 lạm phát của Việt Nam tăng cao ở mức hai con số 12,63%. Nếu so
sánh với mức lạm phát của một số nước trong khu vực và trên thế giới như
Trung Quốc: 6,5%; Indonesia: 6,59%; Mỹ: 4,08%, Thái Lan: 3,21%, Khu vực
đồng Euro: 3,07%, Nhật Bản: 0,7% thì lạm phát của Việt Nam có phần cao
hơn. Bước sang Quý I/2008 lạm phát của Việt Nam đạt 9,19%, vẫn cao hơn so
với mức 3,02% của Quý I/2007 và bằng khoảng trên 70% so với mức tăng của
cả năm 2007. Đây là mức tăng cao trong vòng 12 năm trở lại đây
*Năm 2008 là một năm đáng nhớ đối với kinh tế vĩ mô cũng như tình hình lạm
phát ở Việt Nam. CPI đã liên tục tăng cao từ đầu năm, và mức cao nhất của CPI
4


NGUYỄN KHÁNH LY

QT18E

tính theo năm của năm 2008 đã lên đến 30%. Kết thúc năm 2008, chỉ số CPI
tăng 19.89%, tính theo trung bình năm tăng 22.97%.
*Năm 2009, suy thoái của kinh tế thế giới khiến sức cầu suy giảm, giá nhiều
hàng hóa cũng xuống mức khá thấp, lạm phát trong nước được khống chế. CPI
năm 2009 tăng 6.52%, thấp hơn đáng kể so với những năm gần đây. Tuy vậy,
mức tăng này nếu so với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới lại cao hơn
khá nhiều

*Năm 2010, chính phủ đặt mục tiêu kiểm soát CPI cuối kỳ khoảng 7%. Mục
tiêu này có thể không được hoàn thành khi 2 tháng đầu năm CPI đã tăng 3.35%.
Ngoài ra, nền kinh tế hiện nay vẫn còn tiềm ẩn nhiều yếu tố có thể dẫn đến lạm
phát cao trong thời gian sắp tới.
Trong năm 2010, do dịp Tết nguyên đán và việc tăng giá điện, lạm phát trong
hai tháng đầu năm tăng cao. Năm tháng tiếp theo của năm 2010 chứng kiến tỷ
lệ lạm phát tương đối ổn định ở mức thấp chứng tỏ các biện pháp kiểm soát lạm
phát của Chính phủ đã có tác động. Tuy nhiên, lạm phát lại tăng trở lại mạnh
mẽ từ tháng 9 năm 2010 khiến cho chỉ số giá tiêu dùng CPI cho 11 tháng đã
tăng lên đến 9,58% so với 20,71% và 5,07% của cùng kỳ năm 2008 và 2009.
Việc phá giá VND so với USD trong tháng 8 năm 2010 và biến động của thị
trường vàng trong nước và quốc tế vừa qua được coi là hai trong số những
nguyên nhân chủ yếu khiến cho lạm phát tăng cao .
Tính trung bình, lạm phát trong các tháng 9, 10 và 11 vừa qua tăng mạnh nhất
so với cùng kỳ 20 năm gần đây. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) so với cùng kỳ năm
trước tăng vọt từ mức 8.18% vào tháng 8 đã lên tới 11.09% vào tháng 11. Lũy
kế trong 11 tháng, CPI đã lên tới 9.58% và lạm phát năm 2010 gần như chắc
chắn sẽ cao hơn hai con số. Đây là mức lạm phát cao nhất kể từ năm 1992 đến
nay, ngoại trừ năm 2007 và 2008.
*Năm 2011 lạm phát gia tăng gây áp lực cho bất ổn trong nền kinh tế. CPI
tháng 3/2011 tăng 2.17% so với tháng 2, và như vậy đã tăng 6.12% so đầu năm
và tăng 13.89% so với cùng kỳ năm trước. CPI tháng 3 có mức tăng cao nhất kể
5


NGUYỄN KHÁNH LY

QT18E

từ tháng 6/2008 đến nay. Trước đó, CPI tháng 12/2010 tăng 1.98%, tháng

1/2011 tăng 1.74% và tháng 2 tăng 2.09%.
Xét theo các mặt hàng cụ thể, CPI nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng
1.98%, lương thực tăng 2.18%, thực phẩm tăng 1.57% so với tháng trước. Mức
tăng cao nhất thuộc về nhóm giao thông với mức tăng 6.69% do chịu tác động
mạnh của đợt điều chỉnh giá xăng dầu.Tiếp ngay sau mức tăng mạnh trên thì
CPI nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng cũng tăng thêm tới 3.67% do chịu ảnh
hưởng của tăng giá chất đốt, thép xây dựng, xi măng và nhiều loại vật liệu xây
dựng khác.Ngoài ra, CPI của hầu hết các nhóm hàng hóa khác cũng tăng khá
mạnh. Thông thường CPI tháng 3 giảm là do tháng 2 thường trùng với dịp Tết
âm lịch, nhu cầu tiêu dùng tăng đẩy giá hàng hóa tăng, nhưng đến tháng 3 tiêu
dùng giảm làm cho giá cũng giảm theo. Khác với những năm trước, giá hàng
hóa tháng 3 năm nay chịu tác động của việc điều chỉnh tỷ giá, giá xăng và giá
điện đã làm cho nhiều mặt hàng bị kìm nén giá trước đó đồng loạt bung ra.
Ngoài ra, cũng không ít mặt hàng tăng giá do ”tát nước theo mưa”.
*Đề cập đến triển vọng năm 2012, các nhìn nhận của Ngân hàng thế giới cho
thấy bức tranh kinh tế Việt Nam sẽ “sáng màu” hơn. Tổ chức này dự báo tăng
trưởng GDP năm tới sẽ đạt mức khoảng 6,1%, trong khi lạm phát sẽ giảm mạnh
mặc dù vẫn khó đưa về ở mức một con số. Cụ thể, báo cáo cho rằng, chỉ số giá
tiêu dùng (CPI) năm tới sẽ tăng khoảng 10,5%. Với các cân đối khác, WB cho
rằng hoạt động xuất, nhập khẩu tiếp tục tăng trưởng tốt, tuy nhiên thâm hụt thương
mại sẽ tăng lên, kéo theo thâm hụt cán cân vãng lai; thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài cũng sẽ khởi sắc hơn; nợ nước ngoài có thể lên đến 52,2% GDP…
II/Nguyên nhân gây ra lạm phát ở Việt Nam
Lạm phát về thực chất là sự mất giá của đồng tiền so với hàng hóa, dịch vụ, với
nguyên nhân tổng quát là mất cân đối giữa tổng cung và tổng cầu, mà biểu hiện
của nó là mất cân đối tiền-hàng: tổng cung cao hơn tổng cầu, tiền nhiều hơn
hàng thì lạm phát (còn tổng cung ít hơn tổng cầu, tiền ít hơn hàng thì thiểu
phát).
6



NGUYỄN KHÁNH LY

QT18E

Nguyên nhân chủ yếu của lạm phát bao gồm những yếu tố tác động đến hai vế
của quan hệ cân đối này, tức là các yếu tố tác động đến tổng cung, đến hàng và
các yếu tố tác động đến tổng cầu, đến tiền.
Xét theo các mặt này, thì các nguyên nhân của lạm phát thời gian qua bao gồm
các yếu tố sau:
1. Xét tổng quát là sản xuất trong nước chưa đủ cho đầu tư và tiêu dùng cuối
cùng, hay đầu tư và tiêu dùng vượt qua sản xuất lên đến trên dưới 10% hàng
năm, phải nhập siêu, phải vay nợ từ nước ngoài để bù đắp.
Khi tổng cầu vượt quá tổng cung thì Việt Nam không chỉ ở vị thế nhập siêu, mà
còn rất dễ rơi vào lạm phát cao, nếu có sự bất ổn ở bên ngoài (khủng hoảng,
lạm phát...) và có trục trặc ở bên trong (thiên tai, dịch bệnh, bất ổn vĩ mô...).
Vốn đầu tư/GDP gia tăng từ 34,9% trong thời kỳ 1996-2000 lên 39,1% trong
thời kỳ 2001-2005 và lên 43,5% trong thời kỳ 2006-2010. Tiêu dùng cuối
cùng/GDP của Việt Nam đã tăng tương ứng từ 71,1% thời kỳ 2001-2005 lên
72,2% thời kỳ 2006-2010.
Đây là tỷ lệ cao so với một số nước (năm 2009 của Việt Nam là 72,8%, trong
khi của Brunei là 47%, Trung Quốc 48,7%, Singapore 52,4%, Malaysia 64%,
Indonesia 68,2%, Thái Lan 68,3%, Ấn Độ 69,6%, Hàn Quốc 70,3%...).
Tiêu dùng cuối cùng/GDP của Việt Nam cao và tăng lên, có một phần do quy
mô GDP bình quân đầu người thấp, có một phần do tiêu dùng có xu hướng tăng
lên; nhưng có một phần do đã xuất hiện tình trạng “ăn chơi sớm” và chuộng
hàng ngoại của một bộ phận dân cư.
Do đầu tư và tiêu dùng cuối cùng vượt xa so với GDP, nên nhập siêu tăng lên
qua các thời kỳ (thời kỳ 1996-2000 mới gần 9,4 tỷ USD, đã tăng lên trên 19,1
tỷ USD thời kỳ 2001-2005 và tăng lên gần 62,8 tỷ USD thời kỳ 2006-2010).

Trong tình trạng thiếu hụt nguồn cung, phải nhập khẩu từ nước ngoài, trong đó
đáng lưu ý có các mặt hàng mà một nước đi lên từ nông nghiệp phải nhập khẩu
lớn như thủy sản, sữa và sản phẩm sữa, rau quả, ngô, dầu mỡ động thực vật,
thức ăn gia súc và nguyên phụ liệu, cao su, gỗ và nguyên phụ liệu, đường, thịt;
7


NGUYỄN KHÁNH LY

QT18E

mà một nước có bờ biển dài nhưng phải nhập muối; một nước có tỷ lệ xuất
khẩu/GDP cao, nhưng do tính gia công, lắp ráp cao mà nhập khẩu nguyên phụ
liệu lớn, như nguyên phụ liệu dệt may, giày dép, chất dẻo nguyên liệu, máy vi
tính, sản phẩm điện tử và linh kiện; một số loại hàng tiêu dùng có kim ngạch
lớn, như điện thoại các loại và linh kiện, ô tô nguyên chiếc, xe máy nguyên
chiếc, hóa mỹ phẩm... lên đến mấy tỷ USD.
2. Nguyên nhân tiềm ẩn, sâu xa của lạm phát là hiệu quả đầu tư và năng suất
lao động thấp. Hiệu quả đầu tư thấp thể hiện ở hệ số ICOR cao và tăng lên qua
các thời kỳ (thời kỳ 1996-2000 là 5 lần, thời kỳ 2001-2005 lên 5,2 lần, thời kỳ
2006-2010 lên 6,2 lần, cao gấp đôi nhiều nước trong khu vực).
Tỷ trọng đầu tư công trong tổng đầu tư của Việt Nam từ năm 2003 trở về trước
ở mức trên dưới 57%, từ 2004 đã giảm xuống nhưng vẫn ở mức trên dưới 40%,
trong khi ICOR của khu vực này cao gấp rưỡi hệ số chung của cả nước.
Năng suất lao động xã hội của Việt Nam năm 2010 đạt 40,3 triệu đồng/người,
chỉ tương đương với 2.067 USD, thấp xa so với các con số tương ứng của một
số nước (năm 2008 của Nhật Bản 73.824 USD, Brunei 72.500 USD, Singapore
62.724 USD, Hàn Quốc 38.235 USD, Malaysia 17.718 USD, Thái Lan 6.915
USD, Trung Quốc 5.460 USD, Indonesia 4.597 USD, Philippines 4.535 USD,
Ấn Độ 2.706 USD...).

3. Tổng thu ngân sách/GDP của Việt Nam thuộc loại khá cao (mấy năm nay đạt
trên dưới 28%), nhưng thu từ dầu thô, từ hải quan, thu từ đất đai là những
khoản không trực tiếp phản ánh hiệu quả kinh tế và có xu hướng giảm (thu từ
dầu thô năm 2005 chiếm 29,2%, 6 tháng đầu năm 2011 chiếm 13,9%; thu từ hải
quan, tương ứng chiếm 16,7% và 22,5%; thu từ đất đai chiếm khoảng 6-7%).
Bội chi ngân sách/GDP từ năm 2006 trở về trước ở mức thấp, nhưng từ năm
2007 đến nay ở mức cao, tuy đã có xu hướng giảm xuống trong vài năm nay,
nhưng vẫn thuộc loại cao. Trong tổng chi ngân sách, tỷ trọng chi cho đầu tư, chi
cho lĩnh vực xã hội là cần thiết, nhưng thuộc loại cao, nhất là chi cho đầu tư

8


NGUYỄN KHÁNH LY

QT18E

công-thể hiện Nhà nước còn “ôm” nhiều quá mà cần khuyến khích các nguồn
lực xã hội
4. Tiền tệ là nguyên nhân trực tiếp và bộc lộ ra cuối cùng của lạm phát. Tốc độ
tăng dư nợ tín dụng cao gấp nhiều lần tốc độ tăng GDP.
Năm 2010 so với năm 2000, tín dụng cao gấp trên 13,7 lần, trong khi GDP chỉ
gấp trên 2 lần; hệ số giữa tốc độ tăng của tín dụng và của GDP lên đến trên 6,2
lần-một hệ số rất cao. Do vậy, dư nợ tín dụng/GDP đã ở mức khoảng 125%,
cao gấp đôi con số tương ứng của nhiều nước. Cùng với tăng trưởng tín dụng là
tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán, mà tổng phương tiện thanh toán của
Việt Nam không chỉ là tiền đồng mà còn có vàng, có ngoại tệ.
5. Tình trạng vàng hóa và Đô la hóa khá cao, tác động tiêu cực đối với lạm phát
trên 4 mặt.
- Hút vào đây một lượng vốn lớn của xã hội mà không được đầu tư trực tiếp

cho sản xuất kinh doanh tạo ra sản phẩm để cân đối với tiền.
- Vàng và USD trở thành phương tiện thanh toán, làm cho tổng phương tiện
thanh toán tăng lên.
- Giá vàng trong nước biến động, nhiều lần cao hơn giá vàng thế giới, tác động
tới nhập lậu, kéo tỷ giá biến động theo. Khi giá vàng và tỷ giá tăng cao lại tác
động đến tâm lý, đến lòng tin vào đồng nội tệ...
- Tỷ giá tăng tuy khuyến khích xuất khẩu, nhưng lại làm khuyếch đại lạm phát
ở trong nước và đây là yếu tố lạm cho lạm phát của Việt Nam cao hơn lạm phát
của thế giới; làm tăng nợ quốc gia khi tính bằng VND.
6. Việc thực hiện lộ trình giá thị trường khi chuyển sang kinh tế thị trường là
tất yếu, đúng hướng, là một nội dung quan trọng của đường lối đổi mới. Tuy
nhiên, kết quả của việc thực hiện lộ trình này nếu thực hiện dồn dập cùng một
lúc sẽ tạo ra mặt bằng giá mới cao hơn, như đã từng xảy ra trong thời kỳ lạm
phát phi mã, hay vào tháng 2-3 vừa qua.
7. Giá cả thế giới tăng là một trong những yếu tố quan trọng tác động đối với
lạm phát ở trong nước xét trên các góc độ khác nhau.
9


NGUYỄN KHÁNH LY

QT18E

- Tỷ lệ xuất, nhập khẩu/GDP của Việt Nam đã tăng nhanh và hiện ở mức khá
cao (năm 1992 đạt 51,6%, năm 1995 đạt 65,4%, năm 2000 đạt 96,5%, năm
2005 đạt 130,8%, năm 2010 đạt 154,4%, khả năng năm 2011 sẽ còn cao hơn)tức là có độ mở khá cao, đứng thứ 5 thế giới-nên biến động giá cả trên thế giới
sẽ tác động nhiều đến biến động giá ở Việt Nam hơn các nước khác.
- Giá thế giới tăng sẽ làm cho chi phí đẩy ở trong nước tính bằng VND tăng
kép: vừa tăng do đơn giá tính bằng USD tăng, vừa tăng do tính bằng VND tăng.
8. Ngoài ra, cũng cần tính đến sự chuyển động của dòng tiền giữa các kênh đầu

tư. Từ quý II/2007, thị trường chứng khoán sau khi lên đỉnh đã đao xuống
mạnh, làm cho một lượng tiền lớn từ kênh này chuyển sang làm cho giá bất
động sản bốc lên và giá tiêu dùng tăng cao vào cuối năm 2007, đạt đỉnh điểm
vào năm 2008.
Giá vàng, giá bất động sản tăng cao vào năm 2009, đầu năm 2010 cũng đã hút
một lượng tiền lớn vào đây, nên CPI cũng tăng chậm lại. Từ cuối 2010, chứng
khoán và bất động sản đều giảm, góp phần làm cho sức ép tăng giá tiêu dùng
cao lên. Sự chuyển động của dòng tiền giữa các kênh cũng góp phần tạo lên sự
cộng hưởng và chia sẻ dòng tiền với thị trường tiêu dùng.
9.Tốc độ tăng trưởng tín dụng quá cao nhưng chất lượng thấp. Trong giai đoạn
2007 -2009 tốc độ tăng trưởng tín dụng trung bình đạt mức 25 – 30%, đặc biệt
năm 2009 khi Chính phủ thực hiện gói kích cầu trị giá gần 08 tỷ USD để đối
phó với cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ trên thế giới, trong đó nổi bật là
chương trình cho vay hỗ trợ lãi suất 4% trị giá 17.000 tỷ VNĐ (01 tỷ USD), thì
chỉ riêng gói HTLS này đã đưa hơn 400.000 tỷ VNĐ vào lưu thông.Đầu tư của
toàn xã hội cũng duy trì mức trên 40% GDP trong giai đoạn 2005 – 2009. Mặc
dù có tốc độ tăng trưởng tín dụng và đầu tư toàn xã hội ở mức khá cao so với
nhiều quốc giá khác tuy nhiên tăng trưởng GDP của Việt Nam trong giai đoạn
này chỉ trung bình ở mức 6 – 7%.
10.Tình trạng thâm hụt ngân sách và thâm hụt thương mại diễn ra trong thời
gian dài:Trong giai đoạn 2005 – 2010 liên tục gia tăng từ mức 7,1 nghìn tỷ
10


NGUYỄN KHÁNH LY

QT18E

2005 lên mức 115.900 tỷ đồng năm 2009 và mức 69 nghìn tỷ năm 2010; nhập
siêu cũng gia tăng mạnh từ mức 4,3 ỷ USD lên mức 12,2 tỷ USD năm 2009 và

ước xấp xỉ 12,4 tỷ USD năm 2010. Mới đây nhất, Bộ Công thương cho biết
nhập siêu trong 5 tháng đầu năm 2011 đã lên đến 6,4 tỷ USD. Tình trạng này
nếu tiếp tục kéo dài gây khó khăn cho việc hoạch định triển khai chính sách tỷ
giá, nỗ lực giảm thâm hụt ngân sách của Chính phủ và quá trình tăng trưởng
bền vững của nền kinh tế.
Thời gian tới để giúp nền kinh tế tăng trưởng bền vững, Chính phủ phải giải
quyết tốt tình trạng thâm hụt ngân sách; tăng trưởng tín dụng phải đi kèm chất
lượng đặc biệt trong việc định hướng luồng chảy tính dụng thông qua việc nâng
cao hệ thống giám sát và quản lý tín dụng; nâng cao hiệu quả đầu tư công của
Chính phủ; giảm thâm hụt thương mại thông qua kích thích nhu cầu tiêu thụ từ
trong nước, đồng thời mở rộng thị trường kích thích xuất khẩu.
Với ưu tiên hàng đầu là chống lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô thì chính sách
tiền tệ và tài khóa tiếp tục thắt chặt cho đến hết năm 2011 là cần thiết, tuy nhiên
cần cân nhắc tới việc đảm bảo thanh khoản cho nền kinh tế, đặc biệt là trong hệ
thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng. thông qua việc sử dụng linh hoạt các
công cụ trên thị trường mở, công cụ triết khấu để giải quyết thiếu hụt tiền mặt
tạm thời đối với một số ngân hàng, đồng thời cần có biện pháp trung hòa lượng
tiền bơm ra này để tránh tình trạng tính dụng tăng nóng trở lại.
III/ Giải pháp nhắm kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Lạm phát là hiện tượng vốn có của nền kinh tế sử sụng tiền tệ.Ngày nay không
có một nền kinh tế nào không dùng tiền, và do đó cũng không có một nền kinh
tế nào có thể nói là không có lạm phát .Lạm phát trong không ít trường hợp đã
là một biện pháp phát triển kinh tế , làm tăng nhu cầu, thúc đẩy các hướng đầu
tư có lợi. Song khi lạm phát vượt quá một giới hạn nhất định, vượt quá mức
tăng thu nhập quốc dân thì nó trở thành một căn bệnh gây nhiều tác hại cho sự
phát triển kinh tế- xã hội.

11



NGUYỄN KHÁNH LY

QT18E

Lạm phát tăng cao và kéo dài sẽ có những ảnh hưởng tiêu cực đến toàn bộ nền
kinh tế. Những tác động chủ yếu bao gồm: Giá cả tăng mạnh sẽ làm tăng chi
phí sản xuất kinh doanh, ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của các doanh
nghiệp và toàn bộ nền kinh tế. Lạm phát cao làm giảm giá trị đồng tiền trong
nước. Khi các mức giá cả trong tương lai khó dự đoán hơn thì các kế hoạch chi
tiêu và tiết kiệm hợp lý sẽ trở nên khó thực hiện hơn. Người dân ngày càng lo
ngại về việc sức mua trong tương lai của họ bị giảm xuống và mức sống của họ
cũng vì vậy mà kém đi. Lạm phát cao khuyến khích các hoạt động đầu tư mang
tính đầu cơ trục lợi hơn là đầu tư vào các hoạt động sản xuất .Lạm phát cao đặc
biệt ảnh hưởng xấu đến những người có thu nhập không tăng kịp mức tăng của
giá cả, đặc biệt là những người sống bằng thu nhập cố định như là những người
hưởng lương hưu hay công chức. Phúc lợi và mức sống của họ sẽ bị giảm đi.
Lạm phát làm khổ toàn dân, nhưng giới lao động bị đe dọa trực tiếp.
Nhiệm vụ trọng tâm trong tình hình lạm phát hiện nay là: Phấn đáu kiềm chế
lạm phát , ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền
vững. Trong đó, kiềm chế lạm phát là mục tiêu ưu tiên hàng đầu. Bởi lẽ, nếu
không kiềm chế được lạm phát, chẳng những sẽ ảnh hưởng đến phát triển sản
xuất và đời sống của nhân dân, đến ổn định kinh tế vĩ mô mà còn ảnh hưởng
đến tăng trưởng kinh tế trong trung và dài hạn, việc làm cũng giảm sút, môi
trường đầu tư kinh doanh cũng sẽ trở nên xấu hơn.
Vì vậy kiểm soát lạm phát là nhiệm vụ hàng đầu của nước ta. Nước ta cũng đã
có những biện pháp chủ yêu nhằm giảm thiểu lạm phát:
 Chính sách tiền tệ thắt chặt.: Cho dù do nhiều nguyên nhân, nhưng lạm phát
luôn có nguyên nhân tiền tệ. Mức cung tiền trong lưu thông và dư nợ tín dụng
tăng liên tục từ năm 2004 qua các năm và tăng cao trong năm 2007 là nguyên
nhân quan trọng gây lạm phát. Nhận thức được tình hình đó, Chính phủ chủ

trương kiểm soát chặt chẽ tổng phương tiện thanh toán và tổng dư nợ tín dụng.
Ngân hàng nhà nước, thông qua việc chủ động, linh hoạt sử dụng hợp lý các
công cụ chính sách tiền tệ theo nguyên tắc thị trường để thực hiện bằng được
12


NGUYỄN KHÁNH LY

QT18E

yêu cầu này. Điều cần nhấn mạnh là trong khi kiên quyết thắt chặt tiền tệ, cần
bảo đảm tính thanh khoản của nền kinh tế và hoạt động của các ngân hàng, tổ
chức tín dụng, tạo điều kiện cho sản xuất hàng hoá và xuất khẩu phát triển.
Đây là biện pháp thường được áp dụng khi xảy ra lạm phát xuất phát từ nhận
định lạm phát thường xuất hiện khi lượng tiền trong lưu thông tăng, mặc dầu
đây không phải là nguyên nhân duy nhất. Đây là biện pháp cần thiết và đúng
đắn. Tuy nhiên, thắt chặt quá mức sẽ hạn chế tăng trưởng (thông qua đó cũng là
hạn chế nguồn cung) đồng thời làm tăng chi phí sản xuất kinh doanh. Đến lượt
nó, sẽ đẩy giá thành và giá bán hàng hoá và dịch vụ lên, ảnh hưởng đến tính
cạnh tranh của hàng xuất khẩu; việc làm cũng giảm.Vì vậy cần áp dụng chính
sách thắt chặt tiền tệ nhưng mềm dẻo hơn so với các biện pháp đang áp dụng
hiện nay.
Ví dụ: mở rộng thời gian mua trái phiếu theo từng đợt với hạn mức được chia
nhỏ; quy định dự trữ bắt buộc hợp lí để vừa bảo đảm an toàn hệ thống đồng
thời nâng cao được khả năng thanh khỏan trong hoạt động ngân hàng.
Chính sách tài khóa: Cho dù do nhiều nguyên nhân, nhưng lạm phát luôn có
nguyên nhân tiền tệ. Nhận thức được tình hình đó, Chính phủ chủ trương kiểm
soát chặt chẽ tổng phương tiện thanh toán và tổng dư nợ tín dụng ngay từ đầu
năm. Ngân hàng nhà nước, thông qua việc chủ động, linh hoạt sử dụng hợp lý
các công cụ chính sách tiền tệ theo nguyên tắc thị trường để thực hiện bằng

được yêu cầu này. Điều cần nhấn mạnh là trong khi kiên quyết thắt chặt tiền tệ,
cần bảo đảm tính thanh khoản của nền kinh tế và hoạt động của các ngân hàng,
tổ chức tín dụng, tạo điều kiện cho sản xuất hàng hoá và xuất khẩu phát triển.
Bao gồm hạn chế lưọng tiền trong lưu thông (M2) và hạn chế mức tăng tín
dụng. Đây là biện pháp thường được áp dụng khi xảy ra lạm phát xuất phát từ
nhận định lạm phát thường xuất hiện khi lượng tiền trong lưu thông tăng, mặc
dầu đây không phải là nguyên nhân duy nhất. Ngân hàng Nhà nước cũng đang
áp dụng chính sách này.Việc làm đó là cần thiết và đúng đắn. Tuy nhiên, thắt
chặt quá mức sẽ hạn chế tăng trưởng (thông qua đó cũng là hạn chế nguồn
13


NGUYỄN KHÁNH LY

QT18E

cung) đồng thời làm tăng chi phí sản xuất kinh doanh. Đến lượt nó, sẽ đẩy giá
thành và giá bán hàng hoá và dịch vụ lên, ảnh hưởng đến tính cạnh tranh của
hàng xuất khẩu; việc làm cũng giảm.Vì vậy, theo ý chúng tôi, cần áp dụng
chính sách thắt chặt tiền tệ nhưng mềm dẻo hơn so với các biện pháp đang áp
dụng hiện nay.
Ví dụ: mở rộng thời gian mua trái phiếu theo từng đợt với hạn mức được chia
nhỏ; quy định dự trữ bắt buộc hợp lí để vừa bảo đảm an toàn hệ thống đồng
thời nâng cao được khả năng thanh khỏan trong hoạt động ngân hàng.
Sử dụng công cụ tỉ giá: Đây là một giải pháp cần được tính đến. Tuân thủ
nguyên tắc tỉ giá hối đoái giữa đồng USD và VND phản ánh quan hệ cung cầu
trên thị trường ngoại tệ. Theo đó, nên điều chỉnh tăng nhẹ VND so với USD.
Điều này cũng phù hợp với việc đồng đô la Mỹ liên tục bị giảm giá so với các
đồng tiền khác. Tăng nhẹ giá trị VND tuy có ảnh hưởng đến xuất khẩu nhưng
không quá lớn. Bởi lẽ, trừ nông sản và thuỷ sản, hầu hết các mặt hàng xuất

khẩu khác giá trị nguyên liệu nhập khẩu đã chiếm 60 đến trên 70%. Trong điều
kiện đồng nhân dân tệ của Trung Quốc và một số đồng tiền các nước ASEAN
khác - những đối thủ cạnh tranh xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam - tăng giá so
với đồng đô la Mỹ thì việc tăng nhẹ giá trị VND càng ít bị ảnh hưởng đến tính
cạnh tranh của hàng xuất khẩu nước ta so với các nước này. Tăng giá VND sẽ
làm giá hàng nhập khẩu giảm, tăng nguồn cung, có tác dụng giảm mức tăng giá
trên thị trường nội địa, nhất là trong điều kiện nhập khẩu hiện chiếm tỉ lệ cao
trong GDP của nước ta. Tăng giá VND cũng góp phần kìm giữ giá luơng thực
hiện đang tăng tăng cao và có khả năng còn tiếp tục tăng trước nhu cầu của thị
trường thế giới. Trong bối cảnh lạm phát đang thao túng thị trường, để đạt được
và duy trì sự cân bằng cho những yếu tố nêu trên, cần ngay một chính sách và
công cụ kiểm soát lạm phát mới, được sử dụng trong một thập niên vừa qua tại
nhiều nước tiến bộ cũng như đang phát triển hay chậm tiến. Chính sách và công
cụ kiểm soát lạm phát mới này được gọi là “xác định hạn mức lạm phát”

14


NGUYỄN KHÁNH LY

QT18E

Cắt giảm đầu tư công và chi phí thường xuyên của các cơ quan sử dụng ngân
sách, kiểm soát chặt chẽ đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước, cố gắng giảm
tỷ lệ thâm hụt ngân sách. Đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước và đầu tư của
doanh nghiệp nhà nước hiện chiếm khoảng 45% tổng đầu tư xã hội. Cắt giảm
nguồn đầu tư này sẽ làm giảm áp lực về cầu, giảm nhập siêu, góp phần nâng
cao hiệu quả của nền kinh tế. Chính phủ sẽ quy định cụ thể tỷ lệ vốn đầu tư và
chi phí hành chính phải cắt giảm và yêu cầu các Bộ, địa phương xác định các
công trình kém hiệu quả, các công trình chưa thực sự cần thiết để có sự điều

chỉnh thích hợp. Điều này sẽ được thực hiện một cách kiên quyết ngay trong
việc phân bổ lại và cân đối nguồn vốn. Cũng trên tinh thần đó, Chính phủ yêu
cầu các Bộ trưởng, Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố với tư cách là đại diện
chủ sở hữu nhà nước, rà soát chặt chẽ các hạng mục đầu tư của doanh nghiệp
nhà nước, kiên quyết cắt bỏ các công trình đầu tư kém hiệu quả. Đồng thời, tạo
điều kiện và tập trung vốn cho những công trình sắp hoàn thành, những công
trình đầu tư sản xuất hàng hoá thuộc mọi thành phần kinh tế đẩy nhanh tiến độ,
sớm đưa vào sản xuất.
 Tập trung sức phát triển sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, khắc phục
nhanh hậu quả của thời tiết và dịch bệnh để tăng sản lượng lương thực, thực
phẩm. Hiện nay, tiềm năng tăng trưởng của nước ta còn rất lớn, nhất là khi Việt
Nam đã là thành viên đầy đủ của Tổ chức Thương mại thế giới, đầu tư nước
ngoài và đầu tư tư nhân tăng mạnh, thị trường xuất khẩu được mở rộng, vì vậy,
phát triển sản xuất là giải pháp gốc, tạo hiệu quả nhiều mặt, vừa tăng nguồn
cung cho thị trường trong nước và xuất khẩu, góp phần kiềm chế lạm phát,
giảm nhập siêu, vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, lại không gây phản ứng phụ.
Để thực hiện yêu cầu này, Chính phủ đã giao nhiệm vụ cho các Bộ trưởng, Chủ
tịch UBND các tỉnh và thành phố chỉ đạo quyết liệt, kịp thời tháo gỡ các khó
khăn, vướng mắc về vốn, về thị trường, về thủ tục hành chính, thúc đẩy sản
xuất phát triển.

15


NGUYỄN KHÁNH LY

QT18E

 Bảo đảm cân đối cung cầu về hàng hoá, đẩy mạnh xuất khẩu, giảm nhập
siêu. Cân đối cung cầu về hàng hoá, nhất là các mặt hàng thiết yếu cho sản xuất

và đời sống nhân dân là tiền đề quyết định để không gây ra đột biến về giá,
ngăn chặn đầu cơ. Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng đã và sẽ tiếp tục làm
việc với các Hiệp hội ngành hàng, các doanh nghiệp kinh doanh các mặt hàng
thiết yếu, như: lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, xăng dầu, sắt thép, vật
liệu xây dựng, phân bón... giao nhiêm vụ cho các đơn vị này phải bảo đảm nguồn
hàng, đồng thời có trách nhiệm cùng Chính phủ kiềm giữ giá cả.
Trong khi kiên trì chủ trương thực hiện cơ chế giá thị trường, xoá bỏ bao cấp qua
giá, nhưng trong tình hình hiện nay, mặc dầu giá thế giới tăng cao, Chính phủ đã
quyết định: từ nay cho đến hết tháng 6, chưa tăng giá điện, giá than, giá xăng dầu;
giữ ổn định giá ximăng, phân bón, nước sạch, thuốc bệnh, vé máy bay, tàu hoả;
giao Bộ Tài chính rà soát để cắt, giảm các loại phí thu từ nông dân...
Để bảo đảm nguồn cung trên thị trường nội địa, giữ vững an ninh lương thực và
kiềm chế sự tăng giá quá mức của nhóm hàng này, Chính phủ quy định lượng
xuất khẩu gạo năm nay ở mức 4 triệu tấn và từ nay đến hết quý 3 không quá 3,2
triệu tấn. Chính phủ cũng đã giao Bộ Tài chính đề xuất phương án nâng thuế
xuất khẩu than, dầu thô và nghiên cứu khả năng áp dụng thuế xuất khẩu gạo.
Trong điều kiện đồng Đôla Mỹ giảm giá so với đồng tiền các nước là thị trường
xuất khẩu lớn của nước ta, việc neo giữ quá lâu tỷ giá hối đoái giữa đồng tiền
Việt Nam và đồng Đôla Mỹ không phản ánh đúng quan hệ thực trên thị trường
ngoại tệ. Vì vậy, Chính phủ chủ trương áp dụng tỷ giá linh hoạt với biên độ
thích hợp, phản ánh quan hệ cung cầu trên thị trường, giúp cho việc kiềm chế
lạm phát nhưng không ảnh hưởng lớn đến xuất khẩu, bảo đảm việc mua bán,
chuyển đổi ngoại tệ diễn ra thuận lợi.
Cán cân thương mại là một chỉ tiêu vĩ mô rất quan trọng.Để làm việc này,
Chính phủ đang chỉ đạo quyết liệt thực hiện nhiều giải pháp: Ngân hàng Nhà
nước bảo đảm đủ vốn và mua hết ngoại tệ cho các doanh nghiệp làm hàng xuất
16


NGUYỄN KHÁNH LY


QT18E

khẩu, xử lý ngay các ách tắc về tín dụng xuất khẩu cho từng trường hợp cụ thể;
tăng cường hỗ trợ công tác xúc tiến thương mại đối với hàng xuất khẩu; cải
cách mạnh thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động xuất khẩu để giảm chi
phí cho doanh nghiệp, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng xuất
khẩu Việt Nam đi đôi với việc áp dụng các hàng rào kỹ thuật và các biện pháp
khác phù hợp với các cam kết quốc tế của nước ta để giảm nhập siêu, kể cả việc
tăng thuế nhập khẩu những mặt hàng không thiết yếu.
 Triệt để tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng. Hiện nay, tình trạng lãng phí
trong sản xuất và tiêu dùng diễn ra khá phổ biến ở các cơ quan, đơn vị. Tiềm
năng tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng là rất lớn. Vì vậy, Chính phủ yêu cầu
các cơ quan nhà nước cắt giảm 10% chi tiêu hành chính, các doanh nghiệp phải
rà soát tất cả các khoản chi nhằm hạ giá thành và phí lưu thông. Chính phủ kêu
gọi mọi người, mọi nhà triệt để tiết kiệm tiêu dùng, nhất là nhiên liệu, năng
lượng. Đây là giải pháp vừa có tác dụng giảm sức ép về cầu, giảm nhập siêu,
vừa góp phần nâng cao hiệu quả của cả nền sản xuất xã hội.
Tăng cường công tác quản lý thị trường, kiểm soát việc chấp hành pháp luật
nhà nước về giá. Kiên quyết không để xảy ra tình trạng lạm dụng các biến động
trên thị trường để đầu cơ, nâng giá, nhất là các mặt hàng thiết yếu cho sản xuất
và tiêu dùng, như: xăng dầu, sắt thép, xi măng, thuốc chữa bệnh, lương thực,
thực phẩm…; ngăn chặn tình trạng buôn lậu qua biên giới, đặc biệt là buôn lậu
xăng dầu, khoáng sản. Các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phải
thường xuyên kiểm tra giá bán tại các mạng lưới bán lẻ và các đại lý bán lẻ của
doanh nghiệp mình. Chính phủ đã chỉ đạo các Tổng công ty nhà nước phải
gương mẫu đi đầu trong việc thực hiện yêu cầu này và chịu trách nhiệm trước
Chính phủ về hoạt động của hệ thống bán lẻ và đại lý bán lẻ của doanh nghiệp.
Chính phủ cũng yêu cầu các Hiệp hội ngành hàng tham gia tích cực, ủng hộ các
chủ trương và giải pháp bình ổn thị trường, giá cả.

Thực hiện các giải pháp, chính sách hỗ trợ người nghèo bị thiệt hại do thiên
tai và do giá tăng đột biến trong thời gian qua; tiếp tục tập trung thực hiện các
17


NGUYỄN KHÁNH LY

QT18E

biện pháp hỗ trợ nông dân bị thiệt hại trong đợt rét đậm, rét hại vừa qua; hỗ trợ
giải quyết một phần khó khăn cho sản xuất, đời sống nhân dân do điều chỉnh
tăng giá, trước hết là đối với người nghèo, vùng miền núi, vùng đồng bào các
dân tộc thiểu số và các vùng khó khăn khác; biến khó khăn thành các thời cơ
thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội bền vững.Trước tình hình giá cả tăng
cao, ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân, nhất là vùng nghèo, hộ nghèo, vùng
bị thiên tai, người lao động có thu nhập thấp, Chính phủ đã chủ trương mở rộng
các chính sách về an sinh xã hội.
Các cấp các ngành, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phải tích
cực triển khai thực hiện tốt các chính sách và giải pháp chống lạm phát, thực
hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống đầu cơ tăng giá. Các phương tiện thông
tin đại chúng phải đưa thông tin chính xác, tạo niềm tin, khí thế trong nhân dân
về các tiềm năng, lợi thế phát triển kinh tế - xã hội bền vững của nước ta.
Qua các giải pháp nói trên nhìn chung được đánh giá cao là trúng vấn đề và có
quyết tâm, nhằm vào 3 cụm vấn đề siết chặt tiền tệ, loại bỏ đầu tư kém hiệu
quả, giảm sốc cho các biện pháp đau đớn
Những giải pháp cụ thể cần thiết:
Đấu thầu và cho thuê là hình thức chủ yếu để thu hẹp khu vực kinh tế quốc
doanh



Thành lập các hội đồng đấu thầu trung ương và địa phương, Hội đồng

này có nhiệm vụ xác định danh mục các cơ sở kinh tế quốc doanh phải thu hẹp,
phải đưa ra đấu thầu (trước hết là các xí nghiệp nhỏ , các cơ sở nghiệp vụ,
thương nghiệp bán lẻ….) Kiểm kê giá trị tài sản của các cơ sở đó, xác định mức
giá đấu thầu tối thiểu, lập bản thông báo về tình hình kinh doanh của xí nghiệp,
tìm người đấu thầu và tổ chức đấu thầu.


Có thể áp dụng hình thức bán đấu thầu toàn bộ xí nghiệp hoặc một phần.

Với hình thức này nhà nước chuyển quyền sở hữu cho tập thể và tư nhân.


Có thể không bán đấu thầu mà cho thuê các cơ sở kinh doanh, trong hình

thức này nhà nước vẫn là chủ sở hữu.
18


NGUYỄN KHÁNH LY



QT18E

Những người tham gia đấu thầu hoặc thuê gồm đủ các thành phần kinh tế

- quốc doanh, tập thể, tư nhân, tư bản nước ngoài hoặc Việt kiều, nghĩa là bất kì
ai có thể cải tổ cơ sở đó để làm ăn có lãi



Giá đấu thầu về nguyên tắc phải theo giá thị trường có trích khấu hao, có

tính phần trăm khuyến khích những người đấu thầu nhận thầu.


Những cơ sở được đấu thầu có thể xem xét miễn thu thuế trong thời hạn

3-6 tháng để họ cải tổ xí nghiệp


Những người nhận thầu có quyền tiệp nhận hoặc không tiếp nhận các cán

bộ công nhân của cơ sở đó, nhà nước phải chuyển họ thành cán bộ công nhân
của khu vực tập thể hoặc tư nhân ( đảm bảo các quyền lợi chính đáng cho họ
trong thời gian đã làm cho nhà nước) đồng thời thực hiện chính sách trợ cấp xã
hội đối với những cán bộ công nhân trong thời gian chờ đợi bố trí công việc
mới .


Những người nhận thầu có toàn quyền sắp xếp lại bộ máy điều hành

quản lý xí nghiệp, sắp xếp nhân sự


Các tổ chức đảng và đoàn thể quần chúng ở đây chỉ làm chức năng lãnh

đạo chính trị tư tưởng



Chính quyền các cấp không được can thiệp vào hoạt động kinh doanh

hợp pháp của họ
Một vấn đề đặt ra là : liệu có người đứng ra đấu thầu các cơ sở quốc doanh yếu
kém không . Chắc chắn là số người tham gia đấu thầu lúc đầu sẽ rất ít, vì họ
còn bỡ ngỡ, chưa tin và không có vốn, nhưng chắc là có.Nha nước cần tạo điều
kiện, khuyến khích những người có năng lực đứng ra đấu thầu, hỗ trợ cho họ về
tài chính , về kỹ thuật về điều kiện kinh doanh .Chúng ta đã có thể quốc doanh
hóa được một nền kinh tế lạc hậu, thì cũng có thể thu hẹp nó lại được, mặc dú
đó là công việc rất phức tạp.
Công ty cổ phần các loại sẽ là hình thức kinh doanh phổ biến trong nước

19


NGUYỄN KHÁNH LY



QT18E

Cần nghiên cứu cơ chế vận hành của các công ty cổ phần hiện có trên thế

giới và từ đó thiết kế ra các mô hình công ty cổ phần đa thành phần, trong đó
thành phần quốc doanh là chính cũng có thể hợp tac xã và tư nhân là chính; các
công ty cổ phần chuyên ngành là chính, hay kinh doanh tổng hợp là chính ….


Do có sự xuất hiện của các công ty cổ phần nên cần tính đến việc thành


lập các thị trường chứng khoán, trước mắt là các cơ sở giao dịch – giúp cho
việc lưu thông chứng khoán, di chuyển vốn từ các cơ sở hiệu quả sang các cơ
sở có hiệu quả cao hơn.


Cần ban hành một đạo luật về công ty cổ phần và bảo vệ quyền tư hữu,

kinh doanh của các công dân.
Vấn đề phát hành và kinh doanh tiền tệ
Việc phát hành tiền tệ phải theo nhu cầu cần thiết của lưu thông tiền tệ. Công
thức của Mac về số lượng tiền cần cho lưu thông chỉ có thể áp dụng cho lưu
thông tiền tệ cò bản vị là vàng .Ngày nay tiền tệ nói chung đã không lấy vàng
làm bản vị.Nhiều lý thuyết tiền tệ đã lấy tốc độ tăng thu nhập quốc dân để tính
nhịp độ tăng của tiền tệ .Nếu nhịp độ tăng lượng tiền tệ cho lưu thông vượt quá
nhịp độ tăng thu nhập quốc dân là lạm phát đã có thể vượt quá sự kiểm soát.
Với cách tính này ta hoàn toàn không cần tăng lượng tiền tệ cho lưu thông vì
mức tăng này đã quá cao so với mức tăng thu nhập quốc dân của ta. Nhưng tại
sao ở nước ta lại luôn thấy thiếu tiền, vị tất cả người vay ngân hàng đều có lợi ,
vay càng nhiều, càng lâu lợi càng lớn.Chính họ đang lớn tiếng đòi tiền tệ, kêu
thiếu tiền tệ. Nhưng chính họ lại găm hàng nhà nước lại càng lâu càng lãi.Họ
vay tiền ném ra thị trường mua hàng, giữ lại kiếm lãi.Vậy là các cơ sở quốc
doanh đã trở thành những cơ sở đầu cơ tiền tệ và hàng hóa lớn , tiền và hàng
lưu thông trên” thị trường tự do” cho đến khi đồng tiền mất giá 1 vài lần thì họ
mới tung hàng ra bán để thu tiền về trả nợ ngân hàng và kiếm lời. Nếu một xí
nghiệp quốc doanh trong năm 1987 vay của ngân hàng 10 triệu đồng sau một
năm họ đã kiếm lợi khoảng 6 triệu và kiềm chế vòng quay của đồng tiền về
ngân hàng.
20



NGUYỄN KHÁNH LY

QT18E

Do vậy giải pháp cho tình trạng thiếu tiền không phải chỉ bằng cách ném tiền
thêm nữa cho lưu thông đã đầy ắp tiền mất giá. Thực tế cho thấy là càng ném
thêm tiền, càng thiếu tiền.Theo chúng tôi, chính việc nâng cao lãi suất ngân
hàng sẽ làm giảm nhu cầu về tiền tệ, tăng khối lượng tiền tệ thu về ngân hàng –
sẽ là giải pháp chính cho việc thiếu tiền.Đương nhiên có thể phải phát hành
thêm một lượng tiền nào đó nhưng không thể xem đó là giải pháp chính. Còn
như nếu cứ để tình trạng lãi suất thấp như hiện nay thì ném thêm bao nhiêu tiền
nữa thì vẫn thiếu.
Để giảm việc phát hành tiền, phải tiến hành kiên quyết việc cải tổ hệ thống
ngân hàng quốc gia. Theo chúng tôi, hướng cải tổ chủ yếu là:


Giới hạn chức năng của ngân hàng quốc gia Việt Nam trong 4 chức năng

chủ yếu sau: phát hành tiền tệ; dự trữ tiền tệ; cấp tín dụng lớn với lãi suất chỉ
đạo; nhận ký thác tiền.


Chức năng kinh doanh tiền tệ trao cho các ngân hàng kinh doanh, cho

phép các thành phần kinh tế được mở ngân hàng kinh doanh kể cả tư nhân và
được phép kinh doanh cả vàng và ngoại tệ.


Tỷ giá đồng tiền của ta với các đồng tiền khác được xác định theo giá thị


trường, thay đổi hàng ngay, do các ngân hàng kinh doanh quyết định dưới sự
kiểm soát và điều tiết của ngân hàng quốc gia


Ban hành ngay một đạo luật về tiền tệ và tín dụng quy định từ nay các

ngân hàng phải có trách nhiệm bảo vệ quyền tư hữu giá trị tài sản của công dân
gửi tiền vào ngân hàng, quy định viêc đổi tiền phải được tiến hành công khai và
bảo vệ giá trị tài sản bằng tiền của các công dân khi đổi tiền
Về vấn đề xác định giá cả
Điều quan trọng trong việc xác định giá cả là phải có 1 cơ chế định giá sao cho
giá cả có thể phản ánh được chi phí kinh doanh, cung cầu, giá trị tiền tệ và có
tác dụng khuyến khích các hướng kinh doanh có hiệu quả. Cơ chế nhà nước
định giá hiện nay dù đã phân quyền bớt cho các bộ và chính quyền các địa
phương vẫn không đáp ứng được các yếu cầu trên. Tính quan liêu và hành
21


NGUYỄN KHÁNH LY

QT18E

chính trong việc định giá không giảm mà tăng lên, chỉ khác là căn bệnh này
chuyển từ trung ương xuống các cấp dưới. Các cơ sở kinh doanh chưa có quyền
định giá .Do vậy cơ chế định giá, theo chúng tôi phải cải tổ theo hướng :


Trao quyền định giá cho những người kinh doanh và tiêu dùng, chứ


không phải là cho các bộ và uỷ ban nhân dân địa phương, nhà nước chỉ định
một số giá.


Để ngăn chặn tình trạng độc quyền định giá nâng giá, phải mở rộng cạnh

tranh,mà giá cả sẽ hạ xuống.


Việc ổn định giá cả từng đợt rồi lại tăng giá , nếu bằng cách đó mà ép

được các xí nghiệp giảm chi phí sản xuất, nâng cao hiệu qua thì đó là biện pháp
lý tưởng. Nhưng thực tế những năm qua cho thấy , những đợt ổn định giá rồi
bất ngờ tăng giá vùn vụt đã gây ra những “cơn co giật” bất thần của nền kinh tế,
vừa không ép được các xí nghiệp nâng cao hiệu quả kinh tế , vừa đẩy họ vào
tình trạng bế tắc và phải đối phó với nhà nước. Do vậy, không nên áp dụng biện
pháp này nữa. Hơn nữa khi trao quyền định giá cho những người kinh doanh và
tiêu dùng, họ sẽ không làm như vậy.Các nước TBCN cũng đã từng áp dụng
biện pháp “đông giá”, nhưng khi tăng giá, họ cũng chỉ dám tăng 5-10% chứ
chưa có nước nào mỗi đợt tăng giá lại cao tới 2-3 lần như nước ta. Biện pháp
chủ yếu ngăn việc tăng giá là giảm việc ném tiền vào lưu thông.


Vai trò kiểm soát và điều tiết giá cả của nhà nước rất quan trọng . Nhà

nước phải có trách nhiệm thông báo về tình hình giá cả trong nước và thế giới
hàng ngày, xác định các chính sách kiểm soát và điều tiết thông qua chế độ thuế
, thông qua các biện pháp chống đầu cơ và ấn định một số giá.
Về chế độ tiền lương phải được cải tổ theo hướng
Nhà nước chịu trách nhiệm trả lương cho bộ máy hành chính, an ninh, quốc

phòng, y tế, giáo dục…và tạm thời nâng mức lương của họ lên mức tối thiểu và
điều chỉnh mức đó cùng với lạm phát. Còn những người làm việc trong các xí
nghiệp kinh doanh , do các xí nghiệp đó tự trả, xoá bỏ chế độ bao cấp qua
lương
22


NGUYỄN KHÁNH LY

QT18E

Nhà nước chuyển phần chi cho một số quỹ phúc lợi xã hội như : giáo dục, y
tế…vào quỹ lương và mọi công dân phải trả các phí giáo dục và y tế…..
Thành lập các công ty kinh doanh bảo hiểm sức khoẻ, việc làm….
Thành lập quỹ từ thiện và cứu tế xã hội có thể của nhà nước, cũng có thể của tư
nhân.
Ban hành chính sách thuế thu nhập để điều tiết các thu nhập bất hợp lý
Nghiên cứu thi hành chính sách xoá bỏ bao cấp về nhà ở và các bất động sản
khác.
Về chính sách tài chính
Cần cải tổ công tác tài chính theo hướng tăng thu giảm chi nuôi dưỡng và phát
triển các nguồn thu và giảm các nhu cầu chi.Những biện pháp cần chú ý :


Chấm dứt việc phát hành tiền bù cho bội chi cho ngân sách .Sự thiếu hụt

trong ngân sách chỉ được bù bằng cách nhà nước phải vay các ngân hàng và
nhân dân với lãi suất cao hơn mức lạm phát



Cải tổ các hệ thống thuế sao cho người tự kiểm soát lẫn nhau và buộc

nhau phải nộp thuế cho nhà nước, nên đánh thuế thu nhập.


Tính đến việc thu phí giáo dục, y tế giải trí, sách báo văn nghệ…



Thu về chênh lệch hối suất.



Theo ước tính tổng số tăng thu này có thể lên tới 722 tỷ.Ta cứ giả định là

chỉ tăng thu được một nửa thì đã là 361 tỷ vượt quá mức thiếu hụt ngân sách .
Các biện pháp giảm chi có thể kể ra là :


Giảm chi bù giá lương thực; nếu nhà nước không bù giá lương thực cho

những người làm trong khu vực sản xuất mà giao cho các xí nghiệp phải bù
(60% lao động) , đã có thể giảm chi khoảng 177 tỷ.


Nếu chuyển được 20% lao động thuộc khu vực nhà nước sang cho các

khu vực khác, đã giảm được khoảng 1.3 triệu, do vậy giảm chi cho quỹ lương
khoảng 300-400 tỷ.


23


NGUYỄN KHÁNH LY



QT18E

Giảm chi cho thu mua lương thực, nhà nước hàng năm phải chi cho thu

mua lương thực cả trăm tỷ .Để giảm khoản chi này, nhà nước phải bãi bỏ chế
độ độc quyền kinh doanh lương thực. Nhà nước chỉ tạm giữ độc quyền kinh
doanh việc nhập khẩu lương thực, còn việc mua bán lương thực trong nước sẽ
trao cho các thành phần kinh tế tham gia. Để điều tiết giá lương thực, nhà nước
phải có 1 số lương thực dự trữ va có 1 chính sách trợ giá. Nhà nước trợ giá để
giữ giá thị trường, chứ không tìm giá thoát ly khỏi giá thị trường. Nhà nước
phải thi hành chính sách bù giá vào lương thực , khi giá gạo tăng, chứ không
nên thi hành chính sách 2 giá


Giảm chi tiêu quốc phòng, an ninh và các chi tiêu cho khu vực hành

chính, thi hành chính sách tiết kiệm chống tham ô lãng phí
Cho phép tự do di chuyển lao động và tiền vốn
Để cho các khu vực kinh doanh có hiệu quả của nền kinh tế nước ta có thể mở
rộng và thu hẹp được các khu vực kinh doanh kém hiệu quả, phải có các quy
định cho phép tự do di chuyển lao động và tiền vốn .Chính sách hộ khẩu, bao
cấp lương thực, cấp giấy phép kinh doanh “hiện hành” ở nước ta đang cột chặt
người lao động vào một cơ sở, ở một địa phương, tiền vốn cũng bị chôn chặt ở

một chỗ. Người lao động hay các chủ kinh doanh thấy bị chèn ép, kinh doanh
kém hiệu quả cũng không thể chuyển đi chỗ khác. Do vậy , họ đành kéo dài
tình cảnh làm việc kém hiệu quả. Chính quyền địa phương và lãnh đạo cơ sở
kinh doanh không bị một sức ép kinh tế nào đòi phải cải tổ . Để chấm tình trạng
này, có thể áp dụng các biện pháp sau :


Bãi bỏ chế độ hộ tịch hiện hành, cho phép mọi công dân chỉ cần có giấy

chứng minh thư có đủ quyền cư trú và kinh doanh ở mọi nơi trên lãnh thổ Việt
Nam.


Giấy phép kinh doanh sẽ cấp cho mọi công dân, chỉ cần họ phải thường

trú ở nơi kinh doanh .


Vốn của mọi công dân được phép tự do di chuyển từ công ty này sang

công ty khác, từ địa phương này sang địa phương khác.
24


NGUYỄN KHÁNH LY



QT18E


Mọi người lao động có quyền chuyển nơi công tác, khi họ có yêu cầu.

Lập quỹ dự trữ tài chính và hàng hóa
Để tiến hành chương trình chống lạm phát này, cần lập 1 quỹ dự trữ tài chính
và hàng hóa để ứng phó với những tình thế cấp bách xảy ra do thực thi các giải
pháp trên.
Quỹ này có thể vay từ các nước XHCN, có thể vay của các tổ chức quốc tế và
chủ yếu là bằng cách vay của nhân dân với lãi suất cao hơn lạm phát.
Bộ tài chánh có thể phát hành công trái thời hạn 1 năm với mức lãi suất cao hơn
lạm phát.
Có thể thấy thực hiện kiểm soát lạm phát không phải dễ dàng bới việc lựa chọn
phương thức phù hợp là điều vô cùng cần thiết và khó khăn. Không đơn giản
chỉ là áp dụng những giải pháp tiên tiến của các nước bạn mà còn phải biết phối
kết hợp với các phương thức khác cho phù hợp với hoàn cảnh nước nhà.
Trên đây là những biện pháp mà Chính phủ nước ta đã đưa ra nhằm kiểm soát
lạm phát phát triển kinh tế đất nước.
Tổng kết :
Trong thời gian tới Việt Nam cần thực hiện đồng bộ những giải pháp điều tiết
kinh tế vĩ mô như sau:
- Điều hành chính sách tiền tệ thận trọng, linh hoạt phù hợp với diễn biến thị
trường tiền tệ để ổn định lãi suất nhằm đạt mục tiêu tăng trưởng tín dụng, thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, trường hợp có nhiều yếu tố bất lợi làm cho
chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng vượt khỏi tầm kiểm soát,cần áp dụng kịp thời
các giải pháp thắt chặt tiền tệ trên cơ sở sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ,
như tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc để kiểm soát tín dụng, đồng thời tiếp tục sử dụng
nghiệp vụ thị trường mở như công cụ chủ đạo trong việc điều tiết tiền tệ của
Ngân hàng Nhà nước (NHNN), trong đó lãi suất nghiệp vụ thị trường mở được
điều chỉnh tăng trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc thị trường để phát tín hiệu điều
hành chính sách tiền tệ thận trọng và thúc đẩy các tổ chức tín dụng tập trung
huy động vốn từ các tổ chức kinh tế và dân cư.

25


×