1
MỤC LỤC Trang
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC 1
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 4
DANH MỤC CÁC BẢNG
5
1/ LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 7
2/ ĐỐI TƯNG NGHIÊN CỨU 8
3/ MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI 8
4/ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 9
4.1/ Phương pháp luận 9
4.2/ Phương pháp 9
5/ Ý NGHIÃ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 11
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LẠM PHÁT 13
1.1/CÁC QUAN ĐIỂM VỀ LẠM PHÁT–ĐO LƯỜNG LẠM PHÁT
13
1.1.1/ Các quan điểm về lạm phát 13
1.1.2/ Đo lường lạm phát
13
1.2/ CÁC LOẠI LẠM PHÁT 14
1.2.1/ Lạm phát vừa phải 14
1.2.2/ Lạm phi mã 14
1.2.3/ Siêu lạm phát 15
1.3/ NGUYÊN NHÂN GÂY RA LẠM PHÁT 16
1.3.1/ Lạm phát cầu kéo 16
1.3.2/ Lạm phát chi phí đẩy 18
1.4/ TÁC ĐỘNG CỦA LẠM PHÁT
19
1.5/ CÁC NHÓM GIẢI PHÁP KIỀM CHẾ Ở CÁC NƯỚC 21
2
1.5.1/ Nhóm giải pháp tác động vào tổng cầu 22
1.5.2/ Nhóm giải pháp tác động vào cung 22
CHƯƠNG II
LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM VỪA QUA 24
2.1/ KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM TỪ NĂM
1976 ĐẾN 2006 24
2.1.1/ Khái quát tình hình lạm phát ở Việt Nam từ 1976 đến 1995 24
2.1.2/ Khái quát tình hình lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 1996 đến 2000 6
2.1.3/ Tình hình lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2001 đến 2006 27
2.2/ TÁC ĐỘNG CỦA LẠM PHÁT TỚI CÁC BIẾN SỐ KINH TẾ VĨ
MÔ 30
2.2.1/ Tác động của lạm phát đối với tăng trưởng kinh tế 31
2.2.2/ Tác động của lạm phát đối với tỷ lệ thất nghiệp 33
2.2.3/ Tác động của lạm phát đối với cán cân thanh toán 35
2.3/ NHỮNG NGUYÊN NHÂN CƠ BẢN TÁC ĐỘNG TỚI
LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM 37
2.3.1/ Xét trên góc độ cầu kéo 37
2.3.2/ Xét trên góc độ chi phí đẩy 40
2.4/ ĐÁNG GIÁ CÁC NGUYÊN NHÂN TÁC ĐỘNG ĐẾN LẠM PHÁT
NĂM 2006 45
2.4.1/ Các yếu tố làm giảm lạm phát 45
2.4.2/ các yếu tố làm tăng lạm phát 49
CHƯƠNG III
CÁC GIẢI PHÁP ĐỂ KIỂM SOÁT LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM 53
3.1/ MỤC TIÊU VÀ PHƯƠNG HƯỚNG TỔNG QUÁT 5 NĂM 2006 –
2010 CỦA VIỆT NAM 53
3.2/ ĐO LƯỜNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN
HIỆN NAY 54
3.2.1/ Cách tính lạm phát hiện nay 54
3.2.2/ Đo lường lạm phát ở Việt nam bằng lạm phát cơ bản 56
3
3.2.3/ Xác đònh lại rổ hàng hoá 58
3.3/ CÁC GIẢI PHÁP KIỂM SOÁT LẠM PHÁT GÓP PHẦN ỔN
ĐỊNH VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2006 –
2010 58
3.3.1/ Chính phủ kiểm soát lạm phát 59
3.2.1.1 Chống những hành vi trục lợi 59
3.2.1.2Cải cách tiền lương 61
3.2.1.3 Cải cách hành chính 61
3.2.1.4 Xây dựng một quy chế quản lý giá cả hợp lý 62
3.3.2/ Ngân hàng nhà nước trong việc kiểm soát lạm phát 66
3.2.2.1 Điều hành chính sách tiền tệ 66
3.2.2.2 Những vấn đề cần phải có sự phối kết hợp đồng bộ 70
3.3.3/ Doanh nghiệp cũng phải tự chống lạm phát 73
3.3.3.1 Doanh nghiệp tiết kiệm, (cắt giảm) chi phí 73
3.3.3.2 Xây dựng và hoạch đònh chiến lược phát triển lâu dài 74
3.3.3.3 Doanh nghiệp cần sử dụng các công cụ phòng chống rủi ro 75
KẾT LUẬN 76
PHỤ LỤC 77 - 91
TÀI LIỆU THAM KHẢO 92
4
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ADB Ngân hàng phát triển Châu Á
CPI Chỉ số giá tiêu dùng
CSTT Chính sách tiền tệ
DNNN Doanh nghiệp nhà nước
DTBB Dữ trữ bắt buộc
ĐTNN Đầu tư nước ngoài
GDP Tổng sản phẩm quốc nội
NHNN Ngân hàng nhà nước
NHTM Ngân hàng thương mại
NHTƯ Ngân hàng trung ương
NSNN Ngân sách nhà nước
OTC Thò trường phi tập trung
TCTD Tổ chức tín dụng
TNQD Thu nhập quốc dân
VND Đồng Việt Nam
XDCB Xây dựng cơ bản
XNK Xuất nhập khẩu
UBND Uỷ ban nhân dân
USD Đôla Mó
WFE Diễn đàn kinh tế thế giới
WTO Tổ chức thương mại thế giới
M Số lượng tiền tệ
ICOR Tỷ lệ thu nhập tăng thêm trên đầu tư
EC Khối tiền tệ chung Châu âu
LTTP Lương thực thực phẩm
5
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1 Chỉ số giá bán lẻ giai đoạn 1976 – 1980 Trang 23
Bảng 2.2 Mức tăng GDP và TNQD thời kỳ 1977 – 1980 Trang 23
Bảng 2.3 Chỉ số giá bán lẻ giai đoạn 1981 – 1988 Trang 23
Bảng 2.4 Tốc độ tăng giá giai đoan 1989 – 1995 Trang 24
Bảng 2.5 Tốc độ tăng giá giai đoạn 1996 – 2000 Trang 25
Bảng 2.6 Vốn đầu tư phát triển phân theo thành phần kinh tế:
so sánh qua hai năm 2001 năm 2002 Trang 25
Bảng 2.7 Tổng mức bàn lẻ hàng hoá và dòch vụ tiêu dùng giai đoạn
1996 – 2002 Trang 26
Bảng 2.8 Tốc độ tăng giá tiêu dùng qua các q giai đoạn 1996 – 2006
Trang 27
Bảng 2.9 Tình hình thực hiện một số chỉ tiêu kinh tế – xã hội chủ yếu
năm 2004 Trang 27
Bảng 2.10 Tình hình thực hiện một số chỉ tiêu kinh tế-xã hội chủ yếu
năm 2006 Trang 28
Bảng 2.11 Chỉ số giá tiêu dùng qua các tháng trong năm 2006 Trang 28
Bảng 2.12 Lạm phát và tăng trưởng kinh tế giai đoạn
1996-2000 Trang 29
Bảng 2.13 Tỷ lệ lạm phát trung bình các giai đoạn Trang 31
Bảng 2.14 Lạm phát, thất nghiệp giai đoạn 1996-2006 Trang 32
Bảng 2.15 Lạm phát và cán cân thương mại Việt Nam giai đoạn 1996-
2006 Trang 34
Bảng 2.16 Một số chỉ số xếp hạng của Việt Nam theo đánh giá của WFE
so với một vài nước trong khu vực(tính trên 104 quốc gia được
khảo sát) Trang 37
Bảng 2.17 Tốc độ huy động vốn và cho vay giai đoạn
2002-2006 Trang 39
Bảng 2.19 Diễn biến lạm phát từ năm 2003-2006 Trang 43
Bảng 2.20 Diễn biến giá một số mặt hàng trên thế giới,
2003-2006 Trang 44
Bảng 2.21 Diễn biến giá cả một số mặt hàng của Việt Nam,
2004-2006 Trang 44
6
Bảng 2.22 Điều chỉnh thuế một số mặt hàng, 2005-2006 Trang 44
Bảng 2.23 Điều hành CSTT của NHNN 205-2006 Trang 46
Bảng 3.1 Quyền số giá tiêu dùng năm 2000 Trang 51
Bảng 3.2 Lãi suất ngân hàng nào cao nhất Trang67
Bảng PL1 Tốc độ tăng giá tiêu dùng qua cáctháng trong năm 2001
Trang75
Bảng PL2 Tốc độ tăng giá tiêu dùng qua các tháng trong năm 2002
Trang76
Bảng PL3 Tốc độ tăng giá tiêu dùng qua các tháng trong năm 2003
Trang77
Bảng PL4 Tốc độ tăng giá tiêu dùng qua các tháng trong năm 2004
Trang78
Bảng PL5 Tốc độ tăng giá tiêu dùng qua các tháng trong 6 tháng đầu
năm 2005 Trang79
Bảng PL6 Tỷ lệ lạm phát và tăng trưởng kinh tế Việt Nam từ 1986 đến
2006 Trang80
Bảng PL7 Kết qủa phân tích hồi quy giữa lạm phát và tăng trưởng kinh
tế theo phương pháp bình phương nhỏ nhất Trang 82
Bảng PL8 Kết qủa phân tích hồi quy giữa lạm phát và tỷ lệ thất nghiệp
theo phương pháp bình phương nhỏ nhất Trang 83
Bảng PL9 Kết qủa phân tích hồi quy giữa lạm phát và tỷ lệ sử dụng thời
gian lao động ở nông thôn theo phương pháp bình phương nhỏ
nhất Trang 84
BảngPL10 Những đòa chỉ thất thoát, lãng phí Trang 85
BảngPL11 Tốc độ tang giá tiêu dùng, giá lương thực thực phẩm từ 1990-
2006 Trang 88
BảngPL12 Xác đònh lạm phát cơ bản bằng phương pháp điều chỉnh trung
bình Trang 89
7
MỞ
ĐẦU
1/ LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Theo quan điểm của các nhà kinh tế học hiện đại thì lạm phát là
một căn bệnh kinh niên của mọi nền kinh tế hàng hoá – tiền tệ; nó không
có bản chất giai cấp mà chỉ có bản chất kinh tế. Nó có tính thường trực,
nếu không thường xuyên kiểm soát, không có những giải pháp chống lạm
phát thường trực, đồng bộ và hữu hiệu thì lạm phát có thể xảy ra ở bất cứ
nền kinh tế hàng hoá nào với bất kỳ chế độ xã hội nào. Các nhà kinh tế
này cho rằng biểu hiện của lạm phát là: khi mức chung của giá cả hàng
hoá và chi phí sản xuất đồng thời tăng lên một cách phổ biến trong một
khoảng thời gian đủ dài để nhận rõ xu hướng này
1
. Tác giả hoàn toàn
đồng tình với quan điểm này.
Có thể nói lạm phát luôn là một vấn đề làm đau đầu các nhà hoạch
đònh chính sách kinh tế, và nhất là trong tình hình hiện nay, Việt Nam đã
trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới( WTO) thì
vấn đề này lại càng được các nhà hoạch đònh chính sách quan tâm nhiều
hơn. Trong năm 2004, chỉ số giá tiêu dùng của nước ta tăng 9,5 %, có
người nói chúng ta lên cơn sốt lạm phát và có người nói chúng ta chưa lạm
phát mặc dù chỉ số giá này đã tăng vượt quá ngưỡng mục tiêu đề ra ban
đầu (4- 5%), đến 2005 thì chỉ số giá tiêu dùng lại được khống chế chỉ còn
8,4% bằng với tốc độ tăng trưởng kinh tế, năm 2006 chỉ số giá tiêu dùng
được khống chế ở mức 6,6% thấp hơn 1,6% so với tốc độ tăng trưởng kinh
tế. Diễn biến tình hình thay đổi của chỉ số giá tiêu dùng nước ta đã làm cho
các nhà hoạch đònh, nhà nghiên cứu phải tốn nhiều công sức để khống chế
nó.
Vậy nền kinh tế nước ta trong năm 2004, 2005, 2006 và những năm
trước đó có lạm phát hay không, và nếu có là bao nhiêu, là cao hay thấp,
mức lạm phát đó có ảnh hưởng như thế nào đến nền kinh tế, những nguyên
nhân nào gây ra lạm phát ở nước ta, là những vấn đề cần phải làm sáng tỏ,
để trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp thích hợp để kiểm soát lạm phát
góp phần thực hiện thắng lợi chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10
năm 2001 – 2010 mà Đại hội IX của Đảng đã đề ra.
8
Lạm phát là một vấn đề phức tạp, có liên quan đến nhiều lónh vực,
nhưng với mong muốn bằng những kiến thức đã học được để đưa ra những
giải pháp, mặc dù có những giải pháp mới chỉ dừng lại ở những ý tưởng,
1
Website của NHNN
nhưng đây cũng là những giải pháp nhằm kiểm soát lạm phát được tốt hơn
và góp phần vào mục tiêu nêu trên nên tác giả quyết đònh chọn
giải pháp để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam làm đề tài luận văn tốt
nghiệp cao học kinh tế.
2/ ĐỐI TƯNG NGHIÊN CỨU
Xuất phát từ lý do trên, đề tài đi vào nghiên cứu những vấn đề sau
:
Thứ nhất: Làm rõ những quan điểm, lý luận về lạm phát, từ đó
xem những quan điểm nào được vận dụng phổ biến và phù hợp với nền
kinh tế Việt Nam.
Thứ hai: Khái quát lại tình hình lạm phát của Việt Nam từ sau khi
thống nhất(1976) đến nay (2006), đặc biệt là giai đoạn 2001 – 2006.
Thứ ba: Chỉ ra được ảnh hưởng của lạm phát tới 3 biến số kinh tế
vó mô quan trọng còn lại trong tứ giác kinh tế, đó là : Tăng trưởng kinh tế,
tỷ lệ thất nghiệp và cán cân thanh toán (đối với các biến số khác mà lạm
phát có mối quan hệ mật thiết như lãi suất, tỷ giá hối đoái … trong phạm vi
luận văn chưa đi vào nghiên cứu). Đồng thời, bước đầu xem xét mối quan
hệ hồi quy giữa lạm phát với 3 biến số trên và đi tìm một ngưỡng lạm phát
mà ở đó khi lạm phát vượt qua thì có ảnh hưởng không tốt tới tăng trưởng
kinh tế.
Thứ tư: Trên cơ sở diễn biến tình hình lạm phát thực tế rút ra được
những nguyên nhân cơ bản tác động tới lạm phát ở nước ta nhằm đề xuất
các giải pháp kiểm soát lạm phát. Ngoài những nguyên nhân cơ bản được
phân tích trong bài, luận văn cũng bước đầu hệ thống nguyên nhân gây ra
lạm phát ở nước ta theo nhiều hướng khác nhau.
Thứ năm: Xem xét lại cách đo lường lạm phát ở nước ta hiện nay,
từ đó rút ra những hạn chế để đề xuất một cách đo lường tốt hơn.
9
Thứ sáu: Đề xuất các giải pháp nhằm kiểm soát lạm phát để ổn
đònh kinh tế vó mô giai đoạn 2007 – 2010, góp phần thực hiện thắng lợi
chiến lược phát triển kinh tế – xã gội 10 năm 2001 – 2010.
3/ MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI :
Để giải quyết những vấn đề đặt ra ở trên, luận văn cần trả lời được
những câu hỏi sau:
Một là: Nền kinh tế Việt Nam có bò lạm phát hay không ? Trong
đó tập trung vào trả lời cho giai đoạn 2001 – 2006, nổi lên là năm 2004,
mà cho đến nay vẫn còn hai luồng ý kiến trái ngược nhau.
Hai là: Lạm phát có ảnh hưởng như thế nào đối với tăng trưởng
kinh tế? Tỷ lệ thất nghiệp và cán cân thanh toán? Phương trình hồi quy xác
đònh mức độ tương quan giữa lạm phát với các nhân tố trên như thế nào ?
Bøa là: Có tồn tại một ngưỡng lạm phát ở nước ta hay không? Nếu
có thì ngưỡng đó là bao nhiêu ?
Bốn là: Những nguyên nhân chủ yếu nào gây ra lạm phát ở Việt
Nam thời gian qua ?
Năm là: Cách tính lạm phát ở Việt nam hiện nay có phù hợp với
điều kiện kinh tế – xã hội ở nước ta nữa hay không ? Nếu không thì nên
chọn cách tính nào khác (bước đầu đối chiếu với cách tính lạm phát của
một số nước trên thế giới). Nếu còn phù hợp thì có phải điều chỉnh gì
không ?
Sáu là: Lạm phát ở Việt Nam có chòu ảnh hưởng bới những biến
động kinh tế khu vực và thế giới hay không ?
4/ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU :
4.1/ Phương pháp luận :
Do vấn đề lạm phát có liên quan mật thiết đến nhiều vấn đề khác
như tỷ giá, lãi suất, tăng trưởng kinh tế, thất nghiệp, cán cân thanh toán …
thuộc nhiều lónh vực khác nhau như tài chính Nhà nước, tín dụng ngân
hàng … nên khi nghiên cứu lạm phát phải đặt trong mối quan hệ tương hỗ
qua lại giữa các yếu tố trên, giữa các lónh vực trên. Do vậy, phương pháp
luận chủ đạo của luận văn là vận dụng phép duy vật biện chứng.
Tuy nhiên, trong phạm vi một luận văn, để đơn giản vấn đề
nghiên cứu, luận văn chỉ đi vào nghiên cứu sự tác động của lạm phát lên
10
các yếu tố khác hoặc tác động của các nhân tố đến lạm phát, tức là nghiên
cứu sự tác động một chiều và trong khi nghiên cứu yếu tố nào thì các yếu
tố khác được giả đònh là không đổi .
Tuy nhiên, vận dụng phương pháp nghiên cứu như thế nào đi nữa
thì cũng không thể xa rời, thoát ly khỏi thực tiễn. Do vậy, phải căn cứ vào
tình hình thực tiễn kinh tế - xã hội và hướng phát triển kinh tế – xã hội
Việt Nam. Do vậy, phương pháp luận của luận văn là kết hợp lý luận và
thực tế.
4.2/ Phương pháp:
Trên cơ sở các phương pháp luận chủ đạo, trước tiên luận văn đi
vào thu thập các số liệu về lạm phát, tăng trưởng kinh tế ...và các số liệu
cần thiết khác cho nghiên cứu. Do vậy, phương pháp nghiên cứu của luận
văn là phương pháp nghiên cứu tại bàn, phương pháp thống kê, sưu tầm
các số liệu được phổ biến trên các phương tiện thông tin đại chúng, đặc
biệt là từ các bộ, ban, ngành. Công việc này tiến hành qua 2 bước như sau :
+ Thống kế các số liệu cần thiết cho nghiên cứu như tỷ lệ lạm
phát, tỷ lệ thất nghiệp, tốc độ tăng trưởng kinh tế … qua các năm từ 1976
đến 2006.
+ Tuỳ vào mục đích nghiên cứu mà trích dẫn số liệu theo từng giai
đoạn khác nhau.
Dựa trên số liệu thống kê có được, luận văn sử dụng các phương
pháp phân tích, tổng hợp, hồi quy, để xử lý và biểu diễn số liệu có được
theo các nội dung cần thiết. Riêng trong phương pháp hồi quy, tác giả chọn
sai số cho phép là 5% (độ tin cậy đạt 95% trong các phân tích). Nếu phân
tích hồi quy cho kết quả nhưng không đảm bảo độ tin cậy thì kết luận kết
quả hồi quy không có ý nghóa về mặt thống kê. Cũng trong phương pháp
hồi quy, để đơn giản dãy số phân tích nhưng vẫn đảm bảo độ tin cậy, tác
giả chọn số liệu trong vòng 11 năm 1996 đến 2006 để chạy hàm hồi quy.
Tuy nhiên, chuỗi số liệu có thể mở rộng ra hoặc thu hẹp lại trong từng tình
huống nghiên cứu.
Để có thể thấy được vấn đề nghiên cứu có thể thay đổi như thế
nào qua thời gian, luận văn sử dụng phương pháp so sánh – đối chiếu
nhằm xem xét vấn đề trong mối tương quan, so sánh đối chiếu giữa những
thời kỳ khác nhau.
11
Ngoài ra, để mổ xẻ vấn đề nghiên cứu một cách tỷ mỉ, luận văn sử
dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành : Xem xét, nghiên cứu vấn đề
dưới nhiều góc độ, từ nhiều ngành khác nhau.
Do bản chất nghiên cứu khoa học bao giờ cũng có tính kế thừa,
nên trong luận văn có vận dụng kết quả nghiên cứu của một số chuyên gia
về các vấn đề có liên quan.
Cuối cùng, một phương pháp khác không kém phần quan trọng là
phương pháp chuyên gia : Tìm hiểu vấn đề thông qua hình thức thu thập ý
kiến của những người có nhiều kinh nghiệm (đặc biệt là các thầy cô giảng
viên), am tường trên từng lónh vực để từ đó rút ra những kết luận xác thực.
5/ Ý NGHĨA THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI :
Trong bối cảnh khu vực và thế giới có nhiều bất ổn do chiến
tranh, xung đột, thiên tai, đặc biệt là nạn khủng bố thì Việt Nam trong
những năm gần đây được xem là điểm đến an toàn nhất, có tình hình
chính trò ổn đònh nhất. Nếu như chúng ta tạo được một sự ổn đònh nữa về
mặt kinh tế thì khả năng thu hút đầu tư nước ngoài là rất lớn, nhưng trước
hết là tạo được một tâm lý ổn đònh trong nước, khuyến khích mọi tầng lớp
dân cư an tâm làm ăn lâu dài vì quốc tế dân sinh, từ đó góp phần vào việc
phát triển kinh tế một cách ổn đònh, bền vững.
Để tạo được một sự ổn đònh về kinh tế, cần phải thực hiện nhiều
giải pháp đồng bộ trên mọi lónh vực của đời sống kinh tế – xã hội. Trong
đó, một trong những vấn đề quan trọng hàng đầu đặt ra là phải ổn đònh nền
tài chính tiền tệ của quốc gia mà đặc biệt là vấn đề kiểm soát lạm phát, ổn
đònh giá cả tiền tệ để tăng trưởng ổn đònh, bền vững và có hiệu quả.
Việt Nam đã chính thức là thành viên thứ 150 của WTO( tổ chúc
thương mại quốc tế). Như vậy, sau khu vực mậu dòch tự do Đông nam Á
(AETA), hiệp đònh thương mại Việt – Mỹ (BTA) rồi đến WTO, đến hội
nghò lãnh đạo kinh tế APEC lần thứ 14 tổ chức tại Việt Nam đã thành công
tốt đẹp, khép lại Năm APEC Việt Nam 2006 đầy sôi động, với những
thành qủa đáng tự hào. Giới truyền thông quốc tế cho rằng, đây là bước
đột phá cả về ngoại giao và kinh tế của Việt Nam, góp phần quan trọng
vào việc quảng bá tới cộng đồng quốc tế về hình ảnh một đất nước Việt
Nam năng động, thân thiện và đang phát triển mạnh mẽ. Như vậy mức độ
hòa nhập vào nền kinh tế thế giới của nước ta rộng hơn bao giờ hết, mà
12
như thế thì nền kinh tế của nước ta cũng phải gánh chòu những tác động
của kinh tế khu vực và thế giới ở một mức độ cao hơn bao giờ hết. Chỉ mới
có sự lên xuống của giá dầu, giá vàng, giá đôla Mỹ… trong thời gian qua
đã khiến cho chỉ số giá tiêu dùng của nước ta cũng dao động theo. Có
nhiều biến số kinh tế vó mô cần thiết phải dao động lên xuống như một
điện tâm đồ. Như tỷ giá chẳng hạn, nhưng riêng đối với tỷ lệ lạm phát thì
nếu nó thường xuyên thay đổi và dao động ở biên độ lớn, tức là mọi mặt
của đời sống kinh tế – xã hội đều dao động theo, tính không ổn đònh gia
tăng, bất ổn luôn là mầm móng cho mọi cuộc khủng hoảng.
Do vậy, đề tài đi vào nghiên cứu lạm phát với mong muốn nắm
vững hơn về diễn biến tình hình lạm phát ở Việt Nam thời gian qua và
những nhân tố tác động tới lạm phát để từ đó kiểm soát lạm phát tốt hơn,
góp phần tạo nên một sự ổn đònh về kinh tế, cùng với sự ổn đònh chính trò
giúp chúng ta thực hiện thắng lợi các mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đặt
ra.
Với những mục đích như trên, đề tài mang ý nghóa thiết thực đối
với công cuộc phát triển kinh tế hiện nay.
Toàn bộ nội dung của đề tài được thể hiện trong 3 chương :
Chương I
:
LÝ LUẬN VỀ LẠM PHÁT
Chương II
:
LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM QUA
Chương III : GIẢI PHÁP ĐỂ KIỂM SOÁT LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM
13
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN VỀ LẠM PHÁT
1.1/ CÁC QUAN ĐIỂM VỀ LẠM PHÁT – ĐO LƯỜNG LẠM PHÁT
1.1.1/ Các quan điểm về lạm phát
Cho đến thời điểm này, nhiều nhà kinh tế học đã đưa ra các khái
niệm về lạm phát. Song, chúng ta vẫn chưa được thống nhất hoàn toàn về
lạm phát. Có người tiếp cận lạm phát theo những nguyên nhân của nó, có
người tiếp cận lạm phát theo hướng tập trung vào những ảnh hưởng của
lạm phát. Có thể kể ra một số quan điểm về lạm phát rất khác nhau như
sau
1
:
Thứ nhất: Lạm phát là sự tăng lên liên tục của giá cả. Theo quan điểm
này thì không kể giá cả tăng lên do nguyên nhân nào đều là lạm phát.
Thứ hai: Lạm phát là việc phát hành tiền giấy vượt quá mức đảm
bảo, vì vậy gây ra sự mất giá của tiền giấy làm cho giá cả hàng hóa bò
đẩy lên cao.
Thứ ba: Lạm phát là sự mất cân đối nghiêm trọng giữa tiền và hàng
trong nền kinh tế, sự mất cân đối với tiền lớn hơn hàng khiến cho giá cả
tăng lên ở mọi lúc mọi nơi.
Như vậy, dù khác nhau về quan điểm nhìn nhận, nhưng chúng ta
thấy các quan điểm đềâu đề cập đến một khía cạnh đó là sư tăng lên của
giá cả là một trong những biểu hiện cơ bản của lạm phát. Do vậy, hiện nay
gần như các nhà kinh tế khi xem lạm phát chủ yếu thiên về những biểu
hiện của lạm phát, họ xem lạm phát là hiện tượng mức giá cả chung tăng
lên. Sự gia tăng này diễn ra với tốc độ cao và kéo dài.
1.1.2/ Đo lường lạm phát
Hiện nay, có nhiều phương pháp và mô hình dùng để tính lạm phát
cơ bản như :
- Phương pháp loại trừ (Exclusion method)
- Phương pháp điều chỉnh trung bình và phương pháp quyền số
điểm giữa.
- Mô hình cấu trúc VAR (Vector Autoregresion).
- Mô hình tham số cho việc dự đoán lạm phát cơ bản và diễn dòch
1
Lý thuyết tài chính – tiền tệ năm 1999. TS . Nguyễn Đức Thanh
quy trình lạm phát.
14
- Mô hình tham số của quy trình lạm phát.
Mỗi phương pháp, mô hình có những ưu điểm, nhược điểm riêng
và khó khăn riêng. Trong đó, phương pháp điều chỉnh trung bình được
công nhận rộng rãi và dễ áp dụng(phụ lục 12: xác đònh lạm phát cơ bản
bằng phương pháp điều chỉnh trung bình). Muốn sử dụng phương pháp này
trước hết cần thu thập thông tin về sự thay đổi giá cả hàng tháng của từng
mặt hàng có trong rổ hàng hóa. Để có được thông tin này, hiện nay ở Việt
Nam chỉ có Tổng cục thống kế mới nắm được. Do vậy, trong thời gian tới
Tổng cục thống kê và NHNN cần thu thập thông tin để tính lạm phát cơ
bản theo phương pháp điều chỉnh trung bình hoặc nghiên cứu sử dụng
phương pháp hoặc mô hình thích hợp để tính lạm phát cơ bản.
1.2/ CÁC LOẠI LẠM PHÁT
Căn cứ vào tốc độ lạm phát, lạm phát được chia thành 3 loại như
sau :
- Lạm phát vừa phải.
- Lạm phát phi mã.
- Siêu lạm phát.
1.2.1/ Lạm phát vừa phải (Reasonable Inflation)
Lạm phát vừa phải là lạm phát ở mức 1 con số nguyên (tỷ lệ tăng
giá cả hàng hóa trong khoảng 10% trở lại). Ở mức độ lạm phát vừa phải,
giá cả tăng chậm dao động xung quanh mức tăng tiền lương. Trong điều
kiện như thế, giá trò tiền tệ không biến động nhiều, tạo điều kiện thuận lợi
cho kinh tế phát triển.
Khi giá cả tăng vượt ra khỏi mức độ hợp lý trên, người ta nói lạm
phát đang bước vào giai đoạn tăng cao.
1.2.2/ Lạm phát phi mã
Lạm phát cao là lạm phát ở mức độ 2 con số (dưới 100% năm),
mức độ tăng của giá cả hàng hóa lúc này cũng giống như ” Một con ngựa
bất kham đang tung vó để chạy”. Khi lạm phát phi mã xảy ra, sản xuất bò
đình trệ, nền tài chính bò phá hoại và nếu không có biện pháp thích hợp để
“ghìm chân chú ngựa” thì nền kinh tế sẽ dễ dàng rơi vào tình trạng siêu
lạm phát.
1.2.3 Siêu lạm phát (Hyperinflation)
Siêu lạm phát là lạm phát xảy ra ở mức độ lớn hơn lạm phát phi
mã. Siêu lạm phát thường xảy ra do các biến cố lớn dẫn đến đảo lộn trật tự
15
xã hội như : Chiến tranh, khủng hoảng chính trò. Khi những biến cố lớn xảy
ra, sự thâm thụt ngân sách khiến chính phủ phải phát hành tiền giấy để bù
đắp dẫn đến siêu lạm phát. Siêu lạm phát có sức phá huỷ toàn bộ hoạt
động kinh tế và nền kinh tế bò suy thoái nghiêm trọng. Có thể ví siêu lạm
phát như cơn sóng thần trong kinh tế.
Trong lòch sử tiền tệ thế giới, người ta chia lạm phát ra thành 4 cấp
độ khác nhau để có những giải pháp chống lạm phát thích ứng: Các cấp độ
của lạm phát gồm: lạm phát ỳ – Là mức độ lạm phát thấp nhất từ 0% đến
không quá vài % - Cấp độ lạm phát này chủ yếu phản ánh tính khách quan
tuyệt đối của hiện tượng lưu thông hàng hoá – tiền tệ trong điều kiện chế
độ tiền giấy. Lạm phát này có thể lặp đi lặp lại trong một chuỗi thời gian
dài và nếu chỉ có nó, người ta có thể chủ động tính vào thành các chỉ tiêu
cân bằng trung hoà của nền kinh tế – Người ta chấp nhận và sẵn sàng
chung sống hoà bình với loại lạm phát được ví như căn bệnh kinh niên này
của lưu thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ.
Mức độ cao hơn từ trên vài % đến mức lớn hơn không nhiều so với
tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm được gọi là lạm phát vừa phải hay
kiển soát lạm phát được. Đối với loại này thì tuỳ theo chiến lược và chiến
thuật phát triển kinh tế mỗi thời kỳ mà các Chính phủ có thể chủ động
đònh hướng mức khống chế trên cơ sở duy trì một tỷ lệ lạm phát là bao
nhiêu để gắn với một số mục tiêu kinh tế khác: Kích thích tăng trưởng kinh
tế, tăng cường xuất khẩu và giảm tỷ lệ thất nghiệp trong các năm tài khoá
nhất đònh. Tuy nhiên chỉ có thể chấp nhận có lạm phát vừa phải trong điều
kiện nền kinh tế chưa đạt tới trò giá sản lượng tiền năng so với điều kiện
hiện tại – Khi mà nhiều nhân tố của sản xuất vẫn còn nằm trong tình
trạng ngủ yên hoặc chưa có phương án khả thi để phát huy các tiềm năng
đó.
Lạm phát phi mã là cấp độ cao thứ 3 có tỷ lệ lạm phát bình quân/
năm từ mức trung bình của 2 con số đến đỉnh cao của 3 con số. Đây là tỷ lệ
lạm phát vượt ra ngoài khả năng kiểm soát của NHTƯ.
Cấp độ siêu lạm phát là hiện tượng khủng hoảng kinh tế đã đến
mức rất nghiêm trọng – Tỷ lệ lạm phát đã lên đến trên 3 con số – Thậm
chí người ta không thể đo lạm phát bằng số % mà bằng số lần tăng giá
trong năm. Điển hình là ở Đức trong các năm từ 1921 đến 1923 sau đại
chiến thế giới lần thứ nhất.
16
Như vậy, có thể phân loại lạm phát theo nhiều mức độ khác nhau
để có những biện pháp điều kiểm soát thích hợp. Song, biện pháp “phòng
chống” hay “chữa trò”cũng còn phải căn cứ vào nguyên nhân gây “bệnh”.
1.3/ NGUYÊN NHÂN GÂY RA LẠM PHÁT
Có nhiều nguyên nhân gây ra lạm phát, song nguyên nhân trực tiếp
của bất kỳ cuộc lạm phát nào cũng xuất phát từ các lý do đẩy tổng cầu
tăng quá mức (lạm phát do cầu kéo) hoặc tổng cung giảm do chi phí tăng
lên (lạm phát chi phí đẩy).
Nghiên cứu học thuyết khối lượng tiền tệ của Fisher, chúng ta sẽ
thấy rõ hơn bản chất của vấn đề. Đối với công thức khối lượng tiền tệ: MV
= PY, trong đó M: cung tiền tệ, V: tốc độ vòng quay, P: mức giá cả, Y:
tổng sản phẩm( không đổi trong ngắn hạn), PY ~ GNP danh nghiã. Học
thuyết này cho rằng khi tăng lượng tiền cung ứng thì mức giá cả cũng
thăng theo tương ứng( vì V và Y gần như không đổi trong ngắn hạn).
Nội dung học thuyết tập trung luận giải những yếu tố hình thành
giá cả có liên quan trực tiếp đến: (i) quá trình hình thành và phát triển thò
trường tiêu dùng; (ii) cung hàng hoá và dòch vụ; (iii) mối tương quan giữa
cung và cầu hàng hoá; (iiii) giá cả sản xuất. Tất cả các yếu tố hình thành
giá cả được xen xét như là nguyên nhân tăng giá. Về cảm giác thì ai cũng
có thể nhận thấy rằng giá cả năng lượng, nguyên liệu…có tác động đến lạm
phát. Nhưng sự tác động này phải nằm trong mối liên hệ của 4 yếu tố nêu
trên( thò trường tiêu dùng, cung, mối tương quan giữa cung cầu, giá cả sản
xuất).
Trên nền tảng học thuyết về giá đã hình thành hai luận điểm về
lạm phát: lạm phát chi phí đẩy và lạm phát cầu kéo. Nhận biết nguyên
nhân nào thì người ta đề xuất các giải pháp thích hợp để kiểm soát lạm
phát.
1.3.1/ Lạm phát cầu kéo ( Demand Pull Inflation)
Lạm phát cầu kéo hay lạm phát nhu cầu là lạm phát xảy ra do
tổng cầu tăng vượt quá mức cung hàng hóa của xã hội, dẫn đến áp lực làm
tăng giá cả.
Khi nghiên cứu về lạm phát, Bentet Hanxen
1
đã viết “ Bởi vì nhu cầu quá
mức có thể coi là nguyên nhân của lạm phát cho nên chúng ta có thể công
nhận rằng lạm phát, đó là tình huống ở đó tồn tại quá mức rộng
17
khắp đối với nhiều mặt hàng trên thò trường”. Trong lạm phát cầu kéo, tiền
tệ đồng thời có 2 vai trò: vừa là nền tảng, vừa là nguyên nhân cực.Trong
lạm phát chi phí đẩy tiền tệ cũng là cơ sở của lạm phát nhưng đóng vai trò
thụ động, nghiã là tiền tệ sẽ bò cuốn vào dòng xoáy của giá cả sản xuất.
Vậy, nguyên nhân nào làm cho tổng cầu tăng lên? Có thể chỉ ra
một số nguyên nhân cơ bản như sau :
- Chi tiêu của Chính phủ tăng lên dẫn đến số lượng tiền tệ M gia
tăng, làm cho mức cầu về hàng hoá tăng.
- Thâm hụt ngân sách kéo dài và được đài thọ bằng cách vay mượn
ở trong nước, ngoài nước hoặc NHTƯ. NHTƯ ứng trước cho NSNN tức là
NHTƯ đã phát hành tiền qua ngõ chính phủ, vì vậy khối lượng tiền tệ lưu
thông tăng. Vay nước ngoài cũng làm khối lượng tiền tệ tăng. Vay trong
nước khi trả mà thu không đủ chi cũng phải phát hành và làm cho khối
lượng tiền tệ tăng.Khối lượng tiền tệ tăng làm cho tổng chi tiêu bằng tiền
tăng.
- Chi tiêu dùng của các hộ gia đình tăng lên do mức thu thập tăng
hoặc lãi suất giảm.
- Tâm lý thích tiêu dùng hay tiết kiệm của dân chúng đưa đến sự
gia tăng tốc độ lưu thông tiền tệ. Nếu dân chúng có khuynh hướng thích
tiêu dùng, tốc độ lưu thông tiền tệ gia tăng.
- Đầu tư của các doanh nghiệp tăng lên do dự đoán về triển vọng
phát triển kinh tế trong nước và cả ngoài nước hay do lãi suất giảm.
- Do chính sách tiền tệ mở rộng tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp, người dân dễ tiếp cận nguồn vốn, có thể vay dễ dàng hơn, vay
nhiều hơn dẫn đến nhu cầu chi tiêu nhiều hơn.
- Các yếu tố liên quan đến nhu cầu nước ngoài như : Tỷ giá hối
đoái, mức thu nhập của cư dân nước ngoài … làm gia tăng nhu cầu hàng
hóa xuất khẩu kéo theo tổng cầu gia tăng.
Trong các phân tích trên, tổng cầu tăng gây áp lực tăng giá làm
xảy ra tình trạng lạm phát trong ngắn hạn. Song, nếu nền kinh tế chưa đạt
được
1
Nhà kinh tế học Thụy Điển
18
mức sản lượng tiềm năng, thì việc tăng tổng cầu trong trường hợp này trở
thành một chính sách lạm phát có hiệu quả để thúc đẩy sản xuất xã hội
làm cho kinh tế tăng trưởng, khi đó tổng cung sẽ tăng, sản lượng của nền
kinh tế tăng lên.
Ngược lại với lạm phát do nguyên nhân từ phía cầu là lạm phát do
nguyên nhân từ phía cung, gọi là lạm phát chi phí đẩy.
1.3.2/ Lạm phát chi phí đẩy (Cost Push Inflation)
Trong hoàn cảnh sản xuất không tăng hoặc tăng ít trong khi chi phí
tăng lên (chi phí sản xuất tăng vượt quá mức tăng của năng suất lao động)
thì sẽ sinh ra lạm phát chi chí đẩy. Chi phí sản xuất tăng lên tạo áp lực “
Đẩy” giá bán sản phẩm tăng lên hay có thể làm giảm mức cung ứng hàng
hoá của xã hội, như vậy trong trường hợp này là do các yếu tố sản suất và
tiêu thụ hàng hoá gây ra.
Chi phí tăng lên có thể xuất phát từ những nguyên nhân sau :
- Mức tăng tiền lương vượt quá mức tăng năng suất lao động : Các
doanh nghiệp trong nền kinh tế thò trường thường phải chòu rất nhiều áp lực
về vấn đề lương tiền. Trong ngắn hạn chi phí nhân công ổn đònh do bò hạn
chế bởi hợp đồng lao động nhưng trong dài hạn do áp lực của công đoàn,
do thuế thu nhập và các yếu tố khác làm cho nhân viên tạo sức ép nâng
tiền lương lên, khi lương tăng, giá cả hàng hoá sẽ tăng. Quy trình này tác
động bởi yếu tố hành chính, có nghóa khi giá cả tăng lên, các doanh nghiệp
phải tăng giá bán để đảm bảo lợi nhuận. Khi giá cả hàng hoá nói chung và
tiêu dùng nói riêng tăng lên thì người lao động tìm mọi cách để tăng lương.
Khi lương tăng, giá cả lại tăng. Đến lượt mình, các doanh nghiệp lại tăng
giá bán để đảm bảo lợi nhuận. Adam Smit
1
gọi sự vận hành của cơ chế
này là đường xoáy trôn ốc.
- Do giá nhập khẩu tăng lên tác động trực tiếp tới giá cả trong nước
(nếu là hàng tiêu dùng trực tiếp) hoặc tác động gián tiếp thông qua việc
làm tăng chi phí sản xuất (nếu là đầu vào của quá trình sản xuất). Giá
hàng nhập khẩu tăng lên có thể do lạm phát của nước ngoài cao làm cho
giá nguyên liệu ở nước xuất khẩu tăng, hay do đồng nội tệ bò mất giá so
với đồng tiền của những nước có quan hệ mậu dòch…
- Do thuế suất tăng lên làm ảnh hưởng tới mức sinh lời của các nhà
1
Nhà kinh tế học người Scotland
19
đầu tư do vậy đẩy giá cả tăng lên. Để duy trì mức sinh lời mong muốn,
hoặc các doanh nghiệp tăng tỷ lệ lợi nhuận bằng biện pháp tăng giá bán
hàng hoá sẽ làm cho giá cả tăng, việc tăng giá trong trường hợp này mang
tính chất hành chính tích cực nhằm duy trì lợi nhuận ở mức mong muốn.
Việc này thường xảy ra trong điều kiện độc quyền. Một số nước gọi là “
lạm phát hành chính”.
Như vậy, một lần nữa khi phân tích về lạm phát cầu kéo và lạm
phát chi phí đẩy đều cho thấy lạm phát xảy ra sẽ làm cho giá cả hàng hoá
tăng lên. Trong khi phân tích về các loại lạm phát, nguyên nhân của lạm
phát, các nhà kinh tế thừa nhận rằng không phải lạm phát lúc nào cũng
gây ra hậu quả xấu đối với nền kinh tế xã hội. Lạm phát tác động tích cực
hay tiêu cực đến nền kinh tế phụ thuộc vào mức độ nghiêm trọng của nó,
song nhìn chung khi lạm phát cao xảy ra nó thường để lại, không nhiều thì
ít , những hậu quả cho nền kinh tế .
1.4/ TÁC ĐỘNG CỦA LẠM PHÁT
Lạm phát có thể tác động tích cực lẫn tiêu cực đối với tốc độ
tăng trưởng kinh tế thông qua nhiều kênh khác nhau, với mức độ ảnh
hưởng tổng thể khác nhau đáng kể phụ thuộc vào cơ cấu thể chế (cả
nhà nước và tư nhân) của nền kinh tế, phụ thuộc vào khả năng thích
nghi với mức lạm phát hiện hành và khả năng dự báo lạm phát. Lạm
phát được xem là giúp tăng trưởng kinh tế thông qua việc khuyến
khích huy động vốn và tăng tính linh hoạt giá cả. Tỷ lệ lạm phát thấp có
thể giúp “bôi trơn” thò trường hàng hoá, lao động và tăng tính linh hoạt
tương đối đối với giá cả. Nếu giá cả kể cả tiền lương và giá cả của các
nhân tố khác giảm xuống với tính linh hoạt thấp và nếu các ngành sản xuất
khác nhau có mức cầu và năng suất tăng không đồng đều thì giá cả tăng
nhẹ có thể tạo ra một mức độ linh hoạt giá cả tương đối lớn cần thiết cho
việc phân bổ hiệu qủa các nguồn lực. Một tỷ lệ lạm phát thấp và ổn đònh
sẽ tạo ra một trong những động lực mạnh nhất để giúp đạt được mức tăng
trưởng ổn đònh.
Ngược lại khi lạm phát xảy ra ngoài dự tính, nó tạo nên sự biến
động bất thường về giá trò tiền tệ và làm sai lệch toàn bộ thước đo các
quan hệ giá trò, ảnh hưởng đến mọi hoạt động kinh tế xã hội. Có thể kể ra
một số hậu quả của lạm phát như sau :
20
Một là: Lạm phát kìm hãm tăng trưởng kinh tế, ảnh hưởng đến
mọi
lónh vực của đời sống kinh tế xã hội.
Lạm phát làm cho thu nhập thực của người lao động bò giảm sút,
có thể kéo theo các cuộc đình công đòi tăng lương với qui mô lớn, dài
ngày làm ngừng trệ sự tăng trưởng kinh tế.
Lạm phát còn làm cho lãi suất danh nghóa tăng lên bởi tỷ lệ lạm
phát dự tính tăng lên( lãi suất thực = lãi suất danh nghiã – tỷ lệ lạm phát),
nếu lạm phát dự tính không phù hợp với lạm phát thực tế nó sẽ làm ảnh
hưởng đến mức lãi suất thực. Kết quả là ảnh hưởng đến tiết kiệm và đầu
tư, cuối cùng là ảnh hưởng đến mức tăng trưởng kinh tế.
Trong lónh vực sản xuất kinh doanh, do lạm phát, giá cả vật tư
hàng hoá, nguyên liệu tăng, làm cho khu vực sản xuất kinh doanh mỗi
ngày một thu hẹp, ngượv lại dòch vụ, thương mại lại phát triển(buôn bán có
lợi hơn)dẫn đến khủng hoảng kinh tế và trật tự kinh tế bò rối loạn.
Trong lónh vực đầu tư, sự biến động bất thường của lạm phát gây
khó khăn cho việc xác đònh mức sinh lợi chính xác của các khoản đầu tư,
khiến cho các nhà đầu tư ngần ngại khi tiến hành đầu tư, nhất là đầu tư
vào các dự án dài hạn, làm ảnh hưởng đến sự tăng trưởng kinh tế.
Trong lónh vực lưu thông phân phối, giá cả hàng hoá tăng đã gây
nên tình trạng đầu cơ tích trữ hàng hoá vì thế làm mất cân đối giả tạo quan
hệ cung cầu làm cho lónh vực lưu thông bò rối loạn.
Hai là: Lạm phát làm cho đời sống dân cư gặp khó khăn hơn.
Khi lạm phát tăng lên, tổng thu nhập danh nghóa tăng lên, giá cả
hàng hoá tăng, trong khi thu nhập không tăng, hoặc tăng chậm(đặc biệt là
những người làm công ăn lương) ngày càng gặp khó khăn.
Ba là
: Lạm phát làm rối loạn hệ thống tiền tệ.
Trong lónh vực tiền tệ tín dụng, lạm phát làm cho sức mua đồng
tiền giảm, lưu thông tiền tệ diễn biến khác thường, tốc độ lưu thông của
tiền tệ tăng lên một cách đột biến càng làm cho sức mua của đồng tiền
giảm xuống nhanh chóng hơn. Hoạt động của hệ thống tín dụng ngân hàng
rơi vào tình trạng khủng hoảng, do nguồn tiền gửi trong xã hội bò sụt giảm
nhanh chóng, nhiều nhân hàng bò phá sản do mất khả năng thanh toán và
thua lỗ trong kinh doanh. Tình hình đó làm cho hệ thống tiền tệ bò rối loạn
và không thể kiểm soát nổi.
21
Bốn là : Lạm phát làm xấu đi tình trạng của cán cân thanh toán
quốc tế
Nếu tỷ lệ lạm phát trong nước cao hơn tỷ lệ lạm phát nước ngoài
(có quan hệ mậu dòch) thì giá cả hàng hoá trong nước trở nên mắc hơn so
với giá cả hàng hoá nước ngoài, do đó làm giảm xuất khẩu, tăng nhập
khẩu, làm xấu đi tình trạng của tài khoản vãng lai. Tỷ lệ lạm phát cao
cùng với bội chi tài khoản vãng lai có thể tạo nên tâm lý trông đợi một sự
giảm giá của đồng nội tệ so với ngoại tệ tạo nên áp lực tăng tỷ giá, tỷ giá
tăng càng đẩy mức giá cả chung tăng lên.
Năm là: Lạm phát làm gia tăng tỷ lệ thất nghiệp
Mức giá chung tăng lên có thể gây nên sự giảm sút của tổng cầu
và công ăn việc làm, do đó gia tăng tỷ lệ thất nghiệp(vì lý do khu vực sản
xuấy sẽ bò thu hẹp).
Như vậy, có thể thấy ngoại trừ trường hợp lạm phát vừa phải còn
có tác động tích cực đến nền kinh tế còn lại nói chung lạm phát đều gây
ảnh hưởng xấu đến quá trình phát triển của nền kinh tế xã hội. Vì vậy,
việc tìm ra giải pháp thích hợp để kiềm chế lạm phát là một vấn đề cần
thiết.
1.5 / CÁC NHÓM GIẢI PHÁP KIỀM CHẾ LẠM PHÁT Ở CÁC
NƯỚC
Việc đưa ra các giải pháp kiểm soát lạm phát thường xuất phát từ
sự phân tích đúng đắn nguyên nhân gây nên lạm phát, bao gồm nguyên
nhân sâu xa và nguyên nhân trực tiếp. Để giải quyết các nguyên nhân sâu
xa cần phải có thời gian và đi kèm với các cuộc cải cách lớn. Còn nguyên
nhân trực tiếp của bất kỳ cuộc lạm phát nào cũng xuất phát từ các lý do
đẩy tổng cầu tăng quá mức hoặc tổng cung giảm do chi phí tăng lên.
Thông thường để tác động vào các nguyên nhân trực tiếp của lạm phát và
kiềm chế lạm phát ở tỷ lệ mong muốn, Chính phủ các nước sử dụng một
hệ thống các giải pháp tác động vào tổng cầu hoặc tổng cung nhằm làm
giảm sự gia tăng của tổng cầu hoặc khắc phục các nguyên nhân làm gia
tăng chi phí.
Nước Mỹ rất sợ lạm phát, nhưng họ vẫn không sợ vay nợ, phải
chăng là họ quản lý tốt và chi tiêu có hiệu quả nguồn vốn vay… chỉ khi
kinh tế suy thoái mới đẩy tiền ra để kích thích kinh tế tăng trưởng, nhưng
22
khi nền kinh tế vừa có dấu hiệu của lạm phát (mới chỉ có 2,5%/ năm) họ
đã tăng lãi xuất để kiềm chế lạm phát. Lạm phát ở Trung Quốc vừa mới
xuất hiện và cũng chỉ ở dưới mức 4%, họ đã giảm đầu tư để giảm nóng cho
nền kinh tế. Những quốc gia thò thò trường mới nổi trong đó có Chilê(từ
1980), Thái Lan(từ 2000) đã áp dụng rất thành công cơ chế lạm phát mục
tiêu( Inflation Targeting).
1.5.1/ Nhóm giải pháp tác động vào tổng cầu
Về phía chính phủ
: Chính phủ các nước có lạm phát thường tìm
cách ngăn chặn các nguyên nhân dẫn đến gia tăng khối tiền, đồng thời
tăng thu cho ngân sách nhằm rút ngắn cách biệt giữa thu và chi(giảm bội
chi), dần dần tiến đến cân bằng thu chi ngân sách.
Về phía NHTƯ: NHTƯ các nước thông qua việc quản lý và sử
dụng các công cụ của chính sách tiền tệ để tác động trực tiếp làm giảm
khối tiền trong lưu thông, tức là thực hiện một chính sách tiền tệ thắt chặt
vừa thu hút bớt tiền từ lưu thông vừa hạn chế cung ứng tiền ra lưu thông.
1.5.2/ Nhóm giải pháp tác động vào cung
Về giải pháp hạn chế sự gia tăng của chi phí: Giải pháp cơ bản là
tác động vào mối quan hệ giữa mức tăng tiền lương và mức tăng năng suất
lao động xã hội. Nếu thành công, giải pháp này sẽ hạn chế những đòi hỏi
tăng tiền lương bất hợp lý dẫn đến vòng luẩn quẩn lương – tiền – giá. Đi
kèm với cơ chế tiền lương, các nước tiến hành chính sách kiểm soát giá cả
nhằm hạn chế sự biến động của tiền lương thực tế, tránh rơi vào vòng xoáy
lạm phát lương – giá – tiền.
Về giải pháp nhằm mở rộng khả năng cung ứng hàng hoá : Nhằm
chặn đứng nhanh chóng và hiệu quả cơn sốt giá cả vì khan hiếm hàng hoá,
các nước thường cho nhập khẩu các mặt hàng đang thiếu và lên giá. Tuy
nhiên giải pháp này chứa đựng nguy cơ tiềm tàng như làm cạn kiệt dự trữ
ngoại hối, tạo thói quen tiêu dùng hàng ngoại, làm suy giảm sức sản xuất
trong nước. Do vậy về lâu dài các quốc gia bò lạm phát đều tìm cách gia
tăng khả năng sản xuất hàng hoá trong nước.
Ngoài hai nhóm biện pháp tác động vào cung cầu như ở trên các
nước còn áp dụng nhiều biện pháp khác như : Kềm giữ giá cả, cải cách tiền
tệ … Mỗi biện pháp đều có mặt tích cực và tiêu cực nhất đònh, vấn đề là
phải biết kết hợp hài hòa giữa các biện pháp nhằm đạt mục tiêu trước mắt
lẫn lâu dài .
23
Kết luận chương I:
Chương I cho thấy cho đến nay lạm phát vẫn là một đề tài được
tranh luận sôi nổi, hầu như các nhà kinh tế đều đồng ý khi lạm phát xảy ra
sẽ kéo theo tình trạng leo thang của giá cả, do vậy để đo lường lạm phát
người ta sử dụng các chỉ số giá trong đó thông dụng nhất là CPI. Lạm phát
tác động xấu hay tốt đối với nền kinh tế còn tùy thuộc vào mức độ của nó,
khi nhắc đến lạm phát người ta đều hình dung đến những hậu quả mà nó
để lại cho nền kinh tế, vì vậy các quốc gia có lạm phát đều tìm cách kiểm
soát lạm phát. Dựa trên hai nguyên nhân cơ bản gây ra lạm phát là cầu
kéo và chi phí đẩy mà các quốc gia đưa ra các giải pháp tác động vào tổng
cầu và tác động vào cung cùng với một hệ thống đồng bộ các giải pháp
khác.
24
CHƯƠNG II
LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM
TRONG NHỮNG NĂM VỪA QUA
2.1/ KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM TỪ 1976
ĐẾN 2006
Tình hình lạm phát ở Việt Nam từ 1976 đến 2006 có thể chia thành
3 giai đoạn như sau :
- Giai đoạn 1976 – 1995: đánh dấu công việc kiểm soát được lạm
phát của nước ta, bắt đầu từ lạm phát phi mã và đi đến kiểm soát được lạm
phát vào những năm cuối giai đoạn.
- Giai đoạn 1996 – 2000: được đánh dấu bằng cuộc khủng hoảng
tài chính tiền tệ Châu Á; Tỷ lệ lạm phát ở Việt Nam đã giảm dần qua các
năm, Việt Nam rơi vào tình trạng giảm phát, thuật ngữ “ kích cầu” lần đầu
tiên xuất hiện trong các chính sách điều hành kinh tế của Chính phủ.
- Giai đoạn 2001 – 2006: đánh dấu chặng đầu tiên trong việc thực
hiện chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2001 – 2010. Tỷ lệ lạm
phát của Việt Nam sau một thời gian “hạ nhiệt” và có khi chuyển sang
thiểu phát đã bắt đầu “ấm” dần lên và chuyển sang “sốt” vào cuối năm
2004 và trở lại ổn đònh vào năm 2005, đồng thời giảm xuống vào năm
2006.
2.1.1/ Khát quát tình hình lạm phát Việt Nam từ 1976 đến 1995
Sau chiến tranh, dưới sự lãnh đạo của Đảng và nhà nước, nhân dân
ta bắt tay vào công cuộc tái thiết đất nước, xây dựng nền kinh tế XHCN.
Nhà nước bên cạnh vai trò là bộ máy quyền lực tối cao còn đảm nhiệm vai
trò quản lý kinh tế, nền kinh tế được kế hoạch hoá tập trung ở mức cao độ.
Trong lónh vực giao thông phân phối, từ năm 1976 đến năm 1980,
Chính phủ Việt Nam thực thi chính sách kiềm chế giá cả, cơ chế đó làm
chỉ số giá cả ở thò trường có tổ chức tăng không nhiều, nhưng chỉ số giá cả
ở thò trường tự do lại tăng khá cao, do vậy lạm phát ở Việt Nam trong giai
đoạn này là lạm phát“ngầm”. Do việc phát hành tiền bù đắp thiếu hụt
ngân sách liên tục với số lượng ngày càng lớn nhằm bù lỗ, bù giá và thực
hiện các dự án phát triển sau chiến tranh dã làm cho chỉ số giá tăng cao.
25
Bảng 2.1 : Chỉ số giá bán lẻ giai đoạn 1976 – 1980 (năm trước bằng 100%)
Năm Thò trường xã hội Thò trường có tổ
chức
Thò trường tự
do
1976 121,9 99,1 150,3
1977 118,6 101,0 138,0
1978 120,9 104,3 139,0
1979 125,2 103,3 140,0
1980 169,6 109,8 143,8
Nguồn: Ban vật giá Chính phủ(nay nhập vào cục quản lý giá thuộc Bộ
tài chính)
Bảng 2.2: Mức tăng GDP và TNQD thời kỳ 1977 – 1980 ( %)
Năm Mức tăng GDP Mức tăng TNQD
1977 4,4 2,8
1978 4,0 2,3
1979 - 1,7 - 2,0
1980 - 1,0 -1,4
Cộng 5,7 1,7
Nguồn : Tổng cục thống kê
Bước sang giai đoạn 1981 – 1988, chỉ số giá cả thường xuyên ở
mức 2 đến 3 con số, đánh dấu thời kỳ lạm phát phi mã; đỉnh cao là năm
1986, tốc độ tăng giá lên tới 587,2%. Nguyên nhân của lạm phát thời kỳ
này xuất phát từ những yếu kém nội tại của nền kinh tế, tình trạng lạm
phát tiền bù đắp thiếu hụt ngân sách, cơ chế quản lý kinh tế quan liêu, bao
cấp…