Tải bản đầy đủ (.doc) (120 trang)

Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh ở trường trung học phổ thông bùi thị xuân, quận 1, thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (656.77 KB, 120 trang )

LỜI CẢM ƠN


LỜI CAM ĐOAN


MỤC LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


DANH MỤC CÁC BẢNG


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1 Bác Hồ kính yêu của chúng ta sinh thời rất coi trọng việc giáo dục con
người toàn diện. Người chỉ rõ "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có
những con người xã hội chủ nghĩa". Đó là những con người có lý tưởng Cách mạng
vững vàng, đạo đức trong sáng, có kiến thức văn hoá khoa học kỹ thuật và có kỹ năng
lao động cao, có sức khoẻ dồi dào, có ý chí vươn tới cái hay, cái cao cả. Đó là sự phát
triển cân đối, hài hoà giữa đức và tài, phẩm chất và năng lực, hồng và chuyên.
Trong những năm qua thực hiện đường lối đổi mới do Đảng Cộng sản Việt
Nam vạch ra, đất nước ta đang chuyển mình và bước đầu đã đạt được những thành tựu
trong tất cả mọi lĩnh vực. Sự mở cửa hội nhập của nền kinh tế thị trường đã và đang tạo
ra bước phát triển trong đời sống kinh tế. Nhưng nền kinh tế thị trường cũng có mặt trái
của nó, dễ lôi kéo con người có cuộc sống "thực dụng". Vậy làm thế nào để đất nước
vừa hội nhập để đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, lại vừa giữ nguyên được
truyền thống văn hoá dân tộc, những giá trị tốt đẹp của con người Việt Nam? Điều đó
tuỳ thuộc vào việc giáo dục thế hệ trẻ mà trong đó nhà trường nói chung, trường THPT


nói riêng giữ một vai trò vô cùng quan trọng.
Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 cũng khẳng
định: "Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo
đức, có tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ, nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội, hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phâm chất và năng lực của
công dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc".
Như vậy Đảng và Nhà nước ta đã chỉ rõ mục tiêu giáo dục con người Việt
Nam là phát triển toàn diện, trong đó vấn đề đạo đức được đặt lên hàng đầu.
1.2 Những năm gần đây một bộ phận học sinh, sinh viên có biểu hiện suy
thoái về đạo đức, mờ nhạt lý tưởng, theo lối sống thực dụng. Vì vậy hơn bao giờ hết việc
giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức phải chiếm hàng đầu trong công tác giáo dục học
sinh, đặc biệt học sinh trung học phổ thông ở độ tuổi 16 - 18 là lứa tuổi giao thời giữa trẻ
em và người lớn, lứa tuổi chuẩn bị bước vào đời. Xong trong thực tế chúng ta lại vẫn
thấy một điều: Học sinh ngày càng chịu nhiều tác động từ xã hội; Những tác động này
ngày càng phức tạp của một xã hội ngày càng phát triển và hội nhập đó chính là sự lệch


chuẩn về đạo đức của một số thanh thiếu niên: Liên tục trong thời gian qua trên các mặt
báo đăng những "Hung tin", kể về những đứa con nghịch tử, những học trò chưa ngoan,
khiến tất cả mọi người không khỏi giật mình, đó là những điều ảnh hưởng rất xấu đến
đạo đức của các em. Trong nhà trường không ít các em học sinh cuả chúng ta vẫn vi
phạm pháp luật, vẫn sống thiếu trách nhiệm và thiếu trách nhiệm với chính cả bản thân
mình, vẫn khẳng định mình bằng những trò nghiện ngập, dối thầy cô, lừa bạn bè, gia
đình. Thậm trí có những em học sinh được coi là học giỏi, thông minh nhưng vẫn vi
phạm pháp luật, vẫn có những hành vi côn đồ với chính bạn của mình, rồi những hình
ảnh học sinh xông lên tận bục giảng đánh lại thầy, đã có những vụ học sinh của trường
đánh nhau có cả học sinh nữ tham gia, đã có những học sinh nghiện game phải nghỉ
học, học sinh nữ yêu đương “quan hệ” sớm phải nghỉ học để lấy chồng, học sinh vô lễ
với thầy cô giáo, học sinh trấn lột điện thoại, lấy cắp xe đạp của bạn bán lấy tiền tiêu xài,
học sinh vi phạm luật giao thông, vi phạm pháp luật… Trách nhiệm đầu tiên phải thuộc

về những người làm công tác giáo dục. Điều đó đòi hỏi phải đánh giá đúng thực trạng
việc quản lý hoạt động giáo dục đạo đức; tìm ra biện pháp tháo gỡ, khắc phục để nâng
cao chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh nói chung và ở trường trung học phổ
thông Bùi Thị Xuân, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh nói riêng.
1.3 Hiện nay, đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về giáo dục đạo
đức và quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh; tuy nhiên việc nghiên cứu cụ
thể về thực trạng và các biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh
trung học phổ thông nói chung và cho học sinh ở trường trung học phổ thông Bùi Thị
Xuân, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh nói riêng đến nay vẫn chưa có công trình khoa
học nào cụ thể. Xuất phát từ những vấn đề trên, tác giả chọn nghiên cứu đề tài: “Quản lý
hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh ở trường trung học phổ thông Bùi Thị
Xuân, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh".
2. Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng quản lý hoạt động GDĐĐ cho học sinh
ở trường Trung học phổ thông Bùi Thị Xuân, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh, đề xuất
các biện pháp quản lý hoạt động GDĐĐ cho học sinh nhằm góp phần nâng cao chất
lượng giáo dục đạo đức tại trường Trung học phổ thông Bùi Thị Xuân, quận 1, thành
phố Hồ Chí Minh.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu


Hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trường THPT
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh tại trường Trung học phổ thông
Bùi Thị Xuân, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh.
4. Giả thuyết khoa học.
Hiện nay đạo đức của học sinh nói chung, của học sinh THPT nói riêng còn nhiều
vấn đề cần được quan tâm của gia đình, nhà trường và xã hội. Trong nhà trường, việc
quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh, đặc biệt là học sinh THPT chưa đạt được kết quả

như mong muốn. Nếu các biện pháp quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh nói chung,
cho học sinh THPT trường Bùi Thị Xuân, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh nói riêng
được tổ chức thực hiện đồng bộ, thống nhất trong các lực lượng giáo dục thì sẽ góp
phần nâng cao kết quả giáo dục đạo đức cho các em.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1 Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh
THPT.
5.2 Khảo sát, đánh giá thực trạng GDĐĐ cho học sinh THPT và thực trạng quản lý
hoạt động GDĐĐ cho học sinh trường Trung học phổ thông Bùi Thị Xuân, quận 1,
thành phố Hồ Chí Minh.
5.3 Đề xuất biện pháp quản lý hoạt động GDĐĐ cho học sinh trường Trung học phổ
thông Bùi Thị Xuân, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh.
6. Phạm vi nghiên cứu
- Giới hạn về địa bàn nghiên cứu:
Đề tài chỉ nghiên cứu tại trường THPT Bùi Thị Xuân, quận 1, thành phố Hồ Chí
Minh
- Đối tượng khảo sát: Hiệu trưởng nhà trường và các thành viên khác trong BGH,
GVCN, GVBM, CB Đoàn đội, cha mẹ học sinh và học sinh: 500 HS
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Sử dụng các phương pháp : phân tích, tổng hợp, hệ thống hoá, khái quát hoá …
trong quá trình nghiên cứu các văn kiện ở Trung Ương, Bộ giáo dục và đào tạo, nghiên
cứu các tài liệu có liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp điều tra khảo sát
- Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia


7.3 Phương pháp thống kê toán học trong khoa học giáo dục.
8. Những đóng góp của luận văn

Về mặt lý luận giúp cho nhà quản lý có cách nhìn nhận , thực hiện và đánh
giá công tác quản lý giáo dục đạo đức ở nhà trường phổ thông trên cơ sở khoa học giáo
dục.
Về mặt thực tiễn đóng góp tích cực vào mục tiêu giáo dục hài hoà toàn diện ở
trường THPT Bùi Thị Xuân, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh , nhất là vấn đề giáo dục
đạo đức.
9. Câu hỏi nghiên cứu
9.1. Công tác giáo dục đạo đức cho học sinh ở trường THPT Bùi Thị Xuân
quận 1,thành phố Hồ Chí Minh chưa được như mong muốn, phải chăng công tác quản lý
những hoạt động đó chưa phù hợp?
9.2. Cần có những biện pháp quản lý phù hợp nào để nâng cao chất lượng
giáo dục đạo đức cho học sinh tại trường THPT Bùi Thị Xuân, Quận 1, Thành phố
HCM?
10. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn
được trình bày trong 3 chương :
Chương 1 : Cơ sở lý luận về quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh
THPT.
Chương 2 : Thực trạng quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh tại
trường THPT Bùi Thị Xuân, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh.
Chương 3 : Biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh tại
trường THPT Bùi Thị Xuân, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh.


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HỌAT ĐỘNG GIÁO DỤC ĐẠO
ĐỨC CHO HỌC SINH THPT
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề
Ở mọi thời đại, ở bất cứ quốc gia nào thì đạo đức vẫn luôn giữ vai trò đặc biệt
quan trọng trong đời sống xã hội, với những chuẩn mực, giá trị đúng đắn. Cho dù ở

giai đoạn nào của lịch sử loài người thì chuẩn mực chung của đạo đức vẫn là hướng
thiện, chống lại cái ác hướng tới quan hệ tốt đẹp giữa con người với con người, giữa
con người với tự nhiên và xã hội. Đồng thời đạo đức cũng khẳng định khả năng tự
tu dưỡng, tự giáo dục của mỗi cá nhân, cho nên đạo đức và giáo dục đạo đức luôn
luôn được quan tâm, trú trọng ở mọi thời đại.
Ở phương Tây, nhà triết học Socrate (469-399 TCN) cho rằng, cái gốc của đạo
đức là tính thiện, bản tính con người vốn thiện, nếu tính thiện ấy được nuôi dưỡng,
phát triển thì con người sẽ có hạnh phúc. Theo ông, chuẩn mực đạo đức phải được
nhận thức bằng lý tính kết hợp với phương pháp nhận thức khoa học.
Theo Rabơlen (1494-1553), nhà tư tưởng giáo dục thời kỳ phục hưng và là đại
biểu xuất sắc của chủ nghĩa nhân đạo Pháp thì giáo dục phải bao hàm cả “Trí dục,
Đức dục, Thể dục, Mỹ dục” và ông đã có sáng kiến tổ chức các hình thức giáo dục
như việc học tập ở lớp, ở nhà, ngoài ra còn có các buổi tham quan ở xưởng thợ, các
cửa hàng, với các nhà văn, các nghệ sĩ, đặc biệt là mỗi tháng một lần thầy, cô và học
trò về sống ở nông thôn một ngày.
Vào thế kỷ XX, nhà giáo dục nổi tiếng người Nga A.S. Makarenko đã nêu lên
nguyên tắc giáo dục tập thể và thông qua tập thể. Trong tác phẩm “Bài ca sư phạm”
ông đặc biệt nhấn mạnh vai trò của giáo dục đạo đức.
Ở phương Đông, vấn đề giáo dục đạo đức được quan tâm từ rất sớm. Khổng
Tử (551-479 TCN), nhà giáo dục lớn của Trung hoa phong kiến mà tư tưởng của
ông đã trở thành một “Đạo” có ảnh hưởng sâu rộng không chỉ ở Trung Quốc mà ở
nhiều quốc gia khác. Ông đề cao đường lối “Đức trị” để trị quốc an dân, phát triển


đất nước. Theo quan điểm “Ngũ thường” của ông thì yếu tố đạo đức được đặt lên
hàng đầu “Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín”. Ông coi “Nhân” là gốc rễ của các đức khác.
Ông được người đời tôn làm “Vạn thế sư biểu”.
Như vậy có thể thấy cả ở phương Đông lẫn phương Tây đều rất chú trọng đề
cao vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức qua đó hình thành và phát triển nhân cách
của con người.

Vai trò, động lực tinh thần to lớn của đạo đức đối với sự phát triển, tiến bộ xã
hội được nhiều nhà khoa học ngày nay thừa nhận và các quốc gia trên thế giới quan
tâm sâu sắc. Ở nước ta, Đảng và Bác Hồ luôn thường xuyên quan tâm đến vấn đề
đạo đức và việc tu dưỡng đạo đức. Những tư tưởng đạo đức cũng như tấm gương
đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh gắn liền với quá trình phát triển tư tưởng đạo
đức và việc xây dựng nền đạo đức cách mạng mà Người là tấm gương tiêu biểu,
sinh động và trong sáng nhất của nền đạo đức cách mạng đó. Sinh thời, Chủ tịch Hồ
Chí Minh từng nói: “Có tài mà không có đức thì là người vô dụng” hay “Đạo đức
cách mạng không phải từ trên trời rơi xuống mà do đấu tranh rèn luyện bền bỉ hàng
ngày mà phát triển, củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện
càng trong” [32]
Một số tác giả khác như Phạm Khắc Chương và Trần Văn Chương trong cuốn
tài liệu bồi dưỡng thường xuyên dành cho GV THPT chu kỳ 1997-2000 “Đạo đức
học” [10] đã phân tích quá trình phát triển tâm sinh lý của học sinh THPT, về tình
bạn, tình yêu, khẳng định đại đa số học sinh là hiếu học, ngoan ngoãn, thông minh
và chỉ có một bộ phận học sinh hư mà người có lỗi lại chính là người lớn chúng ta.
Trong chương VI đề cập một số vấn đề cần quan tâm trong giảng dạy và giáo dục
đạo đức cho học sinh, trong đó các tác giả cũng đã xây dựng chuẩn mực về đạo đức
mới trong gia đình, trong học tập, trong tình bạn, tình yêu và trong giao tiếp. Trong
chương VII đề cập đến việc học tập, tu dưỡng đạo đức theo gương cách mạng của
Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Đặc biệt trong chương VIII các tác giả đề xuất một số phương pháp giảng dạy
và giáo dục đạo đức cho học sinh trong nhà trường THPT bằng một số nhóm


phương pháp cụ thể và bằng hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp cũng như mối
quan hệ giữa các phương pháp đó.
Trong công trình nghiên cứu của mình: “Những vấn đề cơ bản của giáo dục
hiện đại" tác giả Thái Duy Tuyên đã đánh giá về thực trạng và tỏ ra rất lo lắng trước
sự sa sút về đạo đức ngày càng gia tăng cả về số lượng lẫn chất lượng và mức độ

nguy hại của một bộ phận học sinh. Tác giả kết luận: đạo đức học sinh đang trên đà
giảm sút và cho rằng giáo dục đạo đức là nhiệm vụ quan trọng của toàn xã hội đồng
thời cũng kiến nghị cần đẩy mạnh hơn nữa công tác nghiên cứu về giáo dục đạo đức.
[34]
Trong tác phẩm: “Về phát triển toàn diện con người thời kỳ công nghiệp hoá,
hiện đại hoá" [17] của một nhóm tác giả do GS.VS Phạm Minh Hạc làm chủ biên,
trong chương VII nói về định hướng chiến lược xây dựng đạo đức con người Việt
Nam trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng đã đánh giá thực trạng đạo
đức học sinh, sinh viên hiện nay có một khoảng cách khá xa mới tiếp cận được với
mục tiêu giáo dục giá trị đạo đức so với yêu cầu của thời kỳ mới.
Trong cuốn: “Văn hoá với thanh niên - Thanh niên với văn hoá" [4] do
Ban tư tưởng -Văn hoá Trung ương biên soạn, tác giả Hà Nhật Thăng trong bài viết
của mình đã nêu lên thực trạng đạo đức, tư tưởng chính trị, lối sống của thanh niên,
học sinh, sinh viên hiện nay và đi đến nhận định: Trong học sinh, sinh viên có sự
phân hoá khá rõ rệt, tỷ lệ giữa các nhóm có đạo đức tốt, chậm tiến, bình thường có
sự chênh lệch khá lớn. Tuy nhiên các giá trị đạo đức, tư tưởng chính trị, lối sống
được đa số học sinh, sinh viên quan tâm vẫn là các giá trị đạo đức cốt lõi của nhân
cách con người Việt Nam; cũng có những giá trị mới do yêu cầu của CNH, HĐH
chưa được học sinh, sinh viên coi trọng. Một bộ phận không nhỏ học sinh, sinh viên
có sự giao động về nhận thức có hành vi sai trái liên quan tới một số giá trị quan
trọng như: Trung thực, thẳng thắn, tinh thần trách nhiệm, lòng nhân ái. Tác giả cũng
nêu lên các nguyên nhân, đó là: công tác giáo dục đạo đức còn chưa được coi trọng
đúng mức, chưa đồng bộ; quá trình giáo dục còn nặng về kết quả học tập văn hoá,


coi nhẹ việc rèn luyện đạo đức; hình thức giáo dục còn khô cứng, áp đặt, không phù
hợp tâm lý lứa tuổi. Từ thực trạng và nguyên nhân trên, tác giả đề xuất nhiều giải
pháp khắc phục nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh, sinh viên.
Như vậy, có thể thấy, mặc dù có những quan điểm chưa thống nhất nhưng
phần lớn các tác giả đều khẳng định: Đa số học sinh, sinh viên có phẩm chất đạo đức

và lối sống tốt, ham hiểu biết, ham học hỏi, tôn trọng đạo lý, vẫn giữ gìn được bản
sắc và truyền thống văn hoá của dân tộc, mặc dù nhận thức và hành động của một bộ
phận học sinh chưa đạt những chuẩn mực đạo đức hiện nay. Đặc biệt đáng lo ngại là
một bộ phận thanh niên, học sinh sa sút về phẩm chất đạo đức, chạy theo lối sống
thực dụng, coi thường luân thường đạo lý, phai nhạt lý tưởng XHCN, vi phạm pháp
luật và sa vào các tệ nạn xã hội, có các hành vi lệch so với chuẩn mực đạo đức và
truyền thống văn hoá của dân tộc.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Đạo đức
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt, biểu hiện dưới dạng các
nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực giúp điều chỉnh hành vi của con người trong các
mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với tự nhiên và xã hội,
giữa con người với chính bản thân mình.
Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về đạo đức, một số định nghĩa được hiểu
như sau:
Theo “Từ điển Tiếng Việt" [38] định nghĩa: “Đạo đức là những tiêu chuẩn,
nguyên tắc được xã hội thừa nhận, quy định hành vi, quan hệ của con người đối với
nhau và đối với xã hội”.
Theo tài liệu “Giáo dục công dân lớp 10" do Mai Văn Bính chủ biên và các
tác giả khác định nghĩa: “Đạo đức là hệ thống các quy tắc, chuẩn mực xã hội mà
nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với lợi ích chung
của cộng đồng, của xã hội”.
Theo GS.VS Phạm Minh Hạc định nghĩa: “Đạo đức, theo nghĩa hẹp là luân lý,
những quy định, những chuẩn mực ứng xử trong quan hệ của con người. Nhưng


trong điều kiện hiện nay, chính quan hệ của con người cũng đã mở rộng đạo đức bao
gồm những quy định, những chuẩn mực ứng xử của con người với con người, với
công việc và với bản thân, kể cả với thiên nhiên và môi trường sống”.
Theo tác giả Phạm Khắc Chương: “Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội

phản ánh những tồn tại xã hội, phản ánh những quan hệ xã hội thực hiện trên cơ sở
kinh tế. Sự phát triển của đạo đức xã hội từ thấp đến cao như những nấc thang giá trị
của văn minh con người, trên cơ sở phát triển của sức sản xuất và thông qua sự đấu
tranh, gạn lọc, kế thừa mà nội dung đạo đức ngày càng phong phú và hoàn thiện
hơn” [11, tr.25].
Trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội hiện nay, có thể thấy
vấn đề cấp bách là cần xây dựng một số chuẩn mực đạo đức mới, nhằm phát triển
toàn diện con người thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, bên cạnh đó
chúng ta cũng cần loại bỏ một số chuẩn mực đạo đức cũ đã lạc hậu không phù hợp.
Các chuẩn mực đạo đức mới được xây dựng trên cơ sở kế thừa các giá trị đạo đức
truyền thống tốt dẹp của dân tộc Việt Nam, phù hợp xu thế phát triển của thời đại.
Như vậy, có thể thấy có nhiều cách định nghĩa khác nhau về đạo đức, song có
thể khái quát lại: Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, tập hợp những nguyên tắc,
quy tắc, chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người
trong quan hệ với nhau và quan hệ với tự nhiên, xã hội, chúng được thực hiện bởi
niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội.
1.2.2. Giáo dục đạo đức
Giáo dục đạo đức là hình thành cho con người những quan điểm cơ bản nhất,
những nguyên tắc chuẩn mực đạo đức cơ bản của xã hội. Nhờ đó con người có khả
năng lựa chọn, đánh giá đúng đắn các hiện tượng đạo đức xã hội cũng như tự đánh
giá suy nghĩ về hành vi của bản thân mình. Vì thế, công tác giáo dục đạo đức góp
phần vào việc hình thành phát triển nhân cách phù hợp với từng giai đoạn phát triển.
“Giáo dục đạo đức là quá trình tác động tới người học để hình thành cho họ ý thức,
tình cảm, niềm tin đạo đức, đích cuối cùng quan trọng nhất là tạo lập được những


thói quen hành vi đạo đức” [39, tr.85].
Theo tác giả Hà Nhật Thăng: “Giáo dục hệ thống giá trị đạo đức nhân văn là
một quá trình tổ chức hoạt động giáo dục bằng nhiều con đường, nhiều biện pháp
giúp mọi người hiểu biết hệ thống giá trị chuẩn mực đạo đức nhân văn theo yêu cầu

của sự phát triển xã hội và giúp mọi người tự giác có nhu cầu thực hiện những chuẩn
mực đó. Hệ thống giá trị đó định hướng, điều chỉnh hành vi của con người”
[35,tr.52].
Tác giả Hà Thế Ngữ và Đặng Vũ Hoạt đã định nghĩa: “Giáo dục đạo đức là
quá trình biến các chuẩn mực đạo đức, từ những đòi hỏi bên ngoài của xã hội đối với
cá nhân thành những đòi hỏi bên trong của bản thân, thành niềm tin, nhu cầu, thói
quen của người được giáo dục”. [21]
Như vậy ở bất cứ thời đại nào, việc giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ cũng luôn
luôn được coi trọng. Ngày nay khi nền kinh tế của nước ta đang phát triển, đời sống
của nhân dân được nâng lên rõ rệt, các hiện tượng tiêu cực, suy thoái về mặt đạo đức
vẫn còn tồn tại. Vì vậy, trong các trường học việc tăng cường công tác giáo dục đạo
đức cho người học là rất cần thiết, góp phần định hướng và trang bị cho người học
những tri thức, niềm tin, tính trung thực, giúp cho nhân cách ngày càng hoàn thiện.
1.2.3. Quản lý giáo dục đạo đức
1.2.3.1. Quản lý
Quản lý là một khái niệm rộng lớn được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác
nhau. Vì vậy, khi đưa ra khái niệm về quản lý, các tác giả thường gắn với các loại
hình quản lý cụ thể phụ thuộc vào lĩnh vực nghiên cứu hay thực tế công việc quản lý
của mình. Cụ thể:
Frederick Winslow Taylor (1856-1915) là người sáng lập ra thuyết quản lý
theo khoa học, theo ông thì: “Quản lý là biết được chính xác điều bạn muốn người
khác làm, và sau đó hiểu được rằng đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất và rẻ
nhất” [12, tr.89]
Henry Fayon (1845-1925), cha đẻ của thuyết quản lý hành chính lại cho rằng:


“Quản lý là một hoạt động mà mọi tổ chức đều có, nó gồm 5 yếu tố tạo thành là: kế
hoạch, tổ chức, chỉ đạo, điều chỉnh và kiểm soát. Quản lý chính là thực hiện kế
hoạch, tổ chức, chỉ đạo điều chỉnh và kiểm soát” [9, tr.3-5].
Harold Koontz, được coi là người tiên phong của lý luận quản lý hiện đại

viết: “Quản lý là một hoạt động thiết yếu, nó đảm bảo phối hợp những nỗ lực cá
nhân nhằm đạt được các mục đích của nhóm. Mục tiêu của mọi cá thể đạt được mục
đích của nhóm với thời gian, tiền bạc, vật chất và sự bất mãn của cá nhân ít nhất”
[24, tr.20].
Các nhà nghiên cứu trong nước cũng đưa ra những quan điểm khác nhau về
quản lý:
Theo PGS. TS Nguyễn Thị Mỹ Lộc và TS Nguyễn Quốc Chí thì Quản lý là
“tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý (người quản lý) đến khách
thể quản lý (người bị quản lý) trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành và
đạt được mục đích của tổ chức”[8, tr.1].
Theo GS. Đặng Vũ Hoạt và GS. Hà Thế Ngữ thì: “Quản lý là một quá trình
định hướng, quá trình có mục tiêu. Quản lý một hệ thống là một quá trình tác động
đến hệ thống nhằm đạt được những mục tiêu nhất định. Những mục tiêu này đặc
trưng cho trạng thái mới của hệ thống mà người quản lý mong muốn”[20, tr.32-36].
Theo GS. Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý là tác động có mục đích, có kế
hoạch của chủ thể quản lý đến tập thể những người lao động nói chung là khách thể
quản lý nhằm thực hiện mục tiêu đã dự kiến” [33, tr.56].
Theo PGS. Nguyễn Văn Lê: “Quản lý là một hệ thống tác động khoa học
nghệ thuật vào từng thành tố của hệ thống bằng phương pháp thích hợp nhằm đạt
được những mục tiêu đề ra của hệ thống và cho từng thành tố của hệ thống”[29, tr.1]
Theo từ điển Tiếng Việt thì Quản lý là: “Tổ chức, điều khiển hoạt động của
một đơn vị, một cơ quan” [38]
Như vậy, khái niệm quản lý được diễn đạt bằng nhiều cách khác nhau tùy
theo từng cách tiếp cận khác nhau. Tuy nhiên các quan điểm trên đều đề cập đến bản
chất chung của khái niệm quản lý:


- Quản lý là sự tác động liên tục có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản
lý lên khách thể quản lý trong một tổ chức thông qua quá trình lập kế hoạch, tổ chức
lãnh đạo và kiểm tra nhằm đạt được mục tiêu đặt ra trong điều kiện biến động của

môi trường.

- Quản lý vừa là khoa học vừa là nghệ thuật. Quản lý mang tính khoa học vì nó
luôn là hoạt động có tổ chức, có định hướng dựa trên những quy luật, những nguyên
tắc và phương pháp hoạt động cụ thể. Quản lý còn mang tính nghệ thuật vì nó là một
hoạt động thực tiễn vô cùng phong phú đầy biến động, không có những nguyên tắc
chung cho mọi tình huống. Để đạt được mục tiêu đề ra của tổ chức, người quản lý
cần có những bí quyết sắp xếp nguồn nhân lực, nghệ thuật giao tiếp, kỹ năng ứng
xử, khả năng thuyết phục đối với mọi thành viên trong tổ chức.
Cùng với sự phát triển chung của xã hội hiện nay, vai trò của quản lý ngày
càng được nâng cao. Vì vậy, mỗi cấp quản lý, mỗi lĩnh vực hoạt động cần vận dụng
lý luận chung và lý luận cụ thể để phù hợp với quy mô và đặc thù của tổ chức mình
qua đó nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý.
1.2.3.2. Quản lý giáo dục
Quản lý giáo dục là bộ phận quan trọng của hệ thống quản lý xã hội, nó xuất
hiện từ lâu và tồn tại dưới mọi chế độ xã hội. Vì vậy, khoa học quản lý giáo dục trở
thành một bộ phận của quản lý nói chung nhưng nó là một khoa học tương đối độc
lập vì tính chất đặc thù của nền giáo dục quốc dân.
Theo M. I. Kônđacốp, chuyên gia giáo dục Liên Xô cũ: “Quản lý giáo dục là
tác động có hệ thống, có kế hoạch, có ý thức và hướng đích của chủ thể quản lý ở
các cấp khác nhau đến tất cả các mắt xích của hệ thống (từ Bộ đến trường) nhằm
mục đích đảm bảo việc hình thành nhân cách cho thế hệ trẻ trên cơ sở nhận thức và
vận dụng những quy tắc chung của xã hội cũng như những quy luật của quá trình
giáo dục, của sự phát triển tâm thế và tâm lý trẻ em” [18].
Ở Việt Nam theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý giáo dục là hệ thống
những tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý (hệ


thống giáo dục) nhằm làm cho hệ thống vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo
dục của Đảng, thực hiện được các tính chất của nhà trường XHCN Việt Nam, mà

tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy học - giáo dục thế hệ trẻ, đưa giáo dục tới mục tiêu
dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất” [33, tr.35].
Tác giả Đặng Quốc Bảo cũng đưa ra một nội dung khái quát: “Quản lý giáo
dục là hoạt động điều hành, phối hợp các lực lượng xã hội nhằm đẩy mạnh công tác
đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển xã hội” [2, tr.4].
Theo PGS. TS. Nguyễn Thị Mỹ Lộc và TS. Nguyễn Quốc Chí cho rằng:
“Quản lý giáo dục là hoạt động có ý thức bằng cách vận dụng các quy luật khách
quan của các cấp quản lý giáo dục tác động đến toàn bộ hệ thống giáo dục nhằm làm
cho hệ thống đạt được mục tiêu của nó” [27]
Như vậy, có thể nói hệ thống giáo dục là một hệ thống mở, luôn vận động và
phát triển theo quy luật chung và chịu sự quy định của điều kiện kinh tế - xã hội.
Các định nghĩa trên cũng cho thấy quản lý giáo dục luôn luôn phải đổi mới, đảm bảo
tính năng động, khả năng tự điều chỉnh, thích ứng của giáo dục đối với sự vận động
và phát triển chung.
Tùy theo đối tượng quản lý mà quản lý giáo dục có nhiều cấp độ khác nhau.
Theo TS. Nguyễn Phúc Châu thì quản lý giáo dục được chia ra:

-

Quản lý giáo dục ở cấp độ vĩ mô (quản lý hệ thống giáo dục): Ở cấp

độ này, “Quản lý giáo dục” được hiểu là những tác động tự giác, có ý thức, có mục
dích, có kế hoạch, có hệ thống và hợp quy luật,... của chủ thể quản lý giáo dục các
cấp đến các mắt xích của hệ thống giáo dục nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu
quả việc tổ chức, huy động, điều phối, giám sát và điều chỉnh,. các nguồn lực giáo
dục (nhân lực, vật lực, tài lực và thông tin) để hệ thống giáo dục vận hành đạt được
mục tiêu phát triển giáo dục.

-


Quản lý giáo dục ở cấp độ vi mô (quản lý một cơ sở giáo dục): Ở cấp

độ này, quản lý giáo dục được hiểu là hệ thống những tác động tự giác, có ý thức, có
mục đích, có kế hoạch, có hệ thống và hợp quy luật,. của chủ thể quản lý một cơ sở


giáo dục đến tập thể GV, CNV, tập thể người học và các lực lượng tham gia giáo
dục khác trong và ngoài cơ sở giáo dục đó, để thực hiện có chất lượng và hiệu quả
hoạt động giáo dục và dạy học, nhằm làm cho cơ sở giáo dục vận hành luôn luôn ổn
định và phát triển để đạt tới mục tiêu đào tạo của cơ sở giáo dục đó.
1.2.3.3. Quản lý trường học
Vấn đề cơ bản của quản lý giáo dục là quản lý nhà trường, vì nhà trường là cơ
sở giáo dục, là nơi diễn ra các hoạt động và thực hiện các mục tiêu giáo dục. Vì vậy,
quản lý nhà trường là một loại quản lý giáo dục đặc thù được thực hiện ở tầm vi mô.
Theo M.I.Kônđacôp: “Quản lý nhà trường là quản lý hoạt động dạy và học, tức
là làm sao đưa hoạt động đó từ trạng thái này sang trạng thái khác để dần dần tiến
tới mục tiêu giáo dục” [26, tr. 112].
Theo GS. Phạm Minh Hạc: “Quản lý nhà trường ở Việt Nam là thực hiện
đường lối của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, đưa nhà trường vận hành
theo nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo với thế hệ trẻ
và với từng học sinh” [16, tr.2].
Theo GS. Phạm Viết Vượng: “Quản lý trường học là lao động của các cơ
quan quản lý nhằm tập hợp và tổ chức các hoạt động của GV và các lực lượng giáo
dục khác, cũng như huy động tối đa các nguồn lực giáo dục và đào tạo trong nhà
trường” [40, tr.17-19].
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý nhà trường là tập hợp những tác
động tối ưu của chủ thể quản lý đến tập thể GV, học sinh và cán bộ khác nhằm tận
dụng các nguồn dự trữ do Nhà nước đầu tư, lực lượng xã hội đóng góp và do lao
động xây dựng vốn tự có, hướng vào việc đẩy mạnh mọi hoạt động của nhà trường
mà điểm hội tụ là quá trình đào tạo thế hệ trẻ. Thực hiện có chất lượng, mục tiêu và

kế hoạch đào tạo, đưa nhà trường tiến lên trạng thái mới” [33, tr.34].
Như vậy, quản lý nhà trường là hoạt động được thực hiện trên cơ sở những
quy luật chung của quản lý, đồng thời có những nét riêng đặc thù của nó. Quản lý
nhà trường khác với các loại quản lý xã hội khác, được quy định bởi bản chất sư


phạm của người GV, bản chất của quá trình dạy học, giáo dục trong đó mọi thành
viên của nhà trường vừa là đối tượng quản lý vừa là chủ thể hoạt động của bản thân
mình. Sản phẩm tạo ra của nhà trường là nhân cách của người học được hình thành
trong quá trình học tập, tu dưỡng và rèn luyện theo yêu cầu xã hội và được xã hội
thừa nhận.
Quản lý nhà trường phải là quản lý toàn diện nhằm hoàn thiện và phát triển
nhân cách của thế hệ trẻ một cách hợp lý, khoa học và hiệu quả. Thành công hay
thất bại của nhiệm vụ đổi mới, nâng cao hiệu quả giáo dục đòi hỏi người quản lý
phải xem xét đến những điều kiện đặc thù của nhà trường, phải chú trọng tới việc
cải tiến công tác quản lý giáo dục, để quản lý có hiệu quả các hoạt động giáo dục
trong nhà trường.
1.2.3.4. Quản lý giáo dục đạo đức
Quản lý đối tượng GDĐĐ là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý tới đối
tượng quản lý nhằm đưa hoạt động GDĐĐ đạt kết quả mong muốn bằng cách hiệu
quả nhất.
Về bản chất, quản lý hoạt động GDĐĐ là quá trình tác động có định hướng của
chủ thể quản lý lên các thành tố tham gia vào quá trình hoạt động nhằm thực hiện có
hiệu quả mục tiêu GDĐĐ (nhằm hình thành niềm tin, lý tưởng, động cơ thái độ, tình
cảm, hành vi, và thói quen. Đó là những nét tính cách của nhân cách, ứng xử đúng
đắn trong XH )
1.3. Giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông
1.3.1. Đặc điểm học sinh trung học phổ thông
Các nhà nghiên cứu cho rằng giữa giáo dục và phát triển nhân cách có tác động
qua lại với nhau rất mật thiết. Chính vì vậy, để có thể tác động có hiệu quả đến sự

phát triển nhân cách, giáo dục phải dựa vào những đặc điểm nhân cách của từng lứa
tuổi nhất định, thậm chí của từng cá nhân.
Theo tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc: “Các nhà tâm lý học trên thế giới đều chung
một quan niệm cho rằng tuổi thanh niên là giai đoạn chuyển tiếp từ trẻ em sang
người lớn và bao gồm một khoảng đời từ 11,12 tuổi đến 23, 24 hoặc 25 tuổi. Giai


đoạn này có thể chia làm hai thời kỳ: thời kỳ chuyển tiếp trước từ
12 tuổi và kết thúc vào 16, 17 tuổi và thời kỳ chuyển tiếp sau từ 17, 18 tuổi và kết
thúc vào lúc thành người lớn thật sự 24,25 tuổi” [28, tr. 88].
Như vậy, học sinh THPT là thời kỳ chuyển tiếp có độ tuổi từ 15 đến 18 tuổi. Các
em đang trong giai đoạn phát triển mạnh về thể lực, tâm lý, sinh lý, đang ở thời kỳ
chuyển tiếp từ trẻ em sang người lớn. Đây là thời kỳ các em gia nhập tích cực vào
đời sống xã hội và hình thành cơ sở nhân cách của người công dân trong tương lai.
Đặc điểm của sự phát triển nhân cách là tự ý thức gắn liền với nhu cầu nhận thức và
đánh giá các phẩm chất tâm lý, đạo đức trong nhân cách của mình. Sự đánh giá đó
không phải là cái đã qua mà là cái hiện tại và tương lai. Nét đặc trưng của sự phát
triển các phẩm chất đạo đức là sự tăng cường vai trò của các niềm tin đạo đức, ý
thức đạo đức trong hành vi. Cuộc sống học tập, lao động xã hội trong các tập thể
lành mạnh, có yêu cầu cao sẽ có tác dụng tích cực đến các thành viên, ngăn ngừa,
hạn chế và cải tạo những yếu tố tiêu cực trong ý thức và hành vi của học sinh. Cũng
ở lứa tuổi này, học sinh có nhu cầu mạnh về tình bạn, tình yêu. Các em cũng đang tự
xây dựng cho mình những kế hoạch và viễn cảnh cuộc sống của bản thân trong
tương lai.
Trong thời đại khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ như ngày nay cùng với sự
phức tạp của nền kinh tế thị trường đã dẫn đến những biến đổi sâu sắc trên mọi lĩnh
vực của đời sống như: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, kéo theo đó là sự biến đổi
về tâm lý, hành vi đạo đức của thế hệ trẻ Việt Nam mà chủ yếu là học sinh. Các em
có những đặc điểm tâm lý đạo đức nói chung của thế hệ, mang truyền thống của dân
tộc, song cũng có những nét mới mang dấu ấn của thời đại. Cụ thể:


-

Đây là lứa tuổi giàu ước mơ hoài bão, có khát vọng được cống hiến, mong

muốn được xã hội ghi nhận. Đa số học sinh có ý thức rèn luyện phẩm chất đạo đức,
có ý chí vươn lên trong học tập, chiếm lĩnh tri thức khoa học và có ý thức sẽ tiếp tục
học lên cao hơn nữa để lập thân, lập nghiệp. Đó là ước mơ, nguyện vọng chính
đáng, hợp quy luật của tuổi trẻ trong sự phát triển chung của xã hội.


-

Là lứa tuổi dồi dào về thể lực, trí tuệ, cảm xúc, nhạy bén, sáng tạo, thích tìm

tòi, khám phá những điều mới mẻ. Các em có ý thức học hỏi, có khát vọng tìm đến
các giá trị “chân, thiện, mỹ”, mong muốn tự khẳng định bản thân và có ý thức của
người lớn nên tích cực tham gia vào các hoạt động xã hội, đặc biệt là hoạt động văn
hóa văn nghệ, TDTT, các hoạt động nhân đạo, từ thiện.. .Lứa tuổi này cũng nhận
thức được các quy tắc, các chuẩn mực đạo đức xã hội, có ý thức chính trị rõ nét, có
lý tưởng và lẽ sống đúng đắn, có ý thức tự học và tu dưỡng phẩm chất đạo đức. Mặt
khác, các em có khả năng giao lưu phong phú, tự tôn, phóng khoáng, hào hiệp, nhiệt
tình, hăng hái trước những khó khăn, thử thách của cuộc sống.

-

Đây cũng là lứa tuổi phát triển tình cảm phong phú: Do đặc điểm tâm sinh

lý nên đối với lứa tuổi học sinh THPT, bên cạnh những tình cảm lớn như tình cảm
dân tộc, quốc gia, nhân loại như lòng nhân ái, vị tha, biết sống có nghĩa tình, có ý

thức làm việc thiện các em đã bắt đầu có những tình bạn phát triển mạnh mẽ, tình
yêu nam nữ bắt đầu nảy nở.
Bên cạnh những đặc điểm về đạo đức mang tính tích cực của học sinh THPT có
thể thấy một số hạn chế: Một bộ phận học sinh ý thức chính trị - xã hội còn mờ nhạt,
niềm tin, lý tưởng, chưa vững chắc, ý thức tổ chức kỷ luật và trách nhiệm công dân
chưa cao, còn mơ hồ, bàng quan với xung quanh, có xu hướng thực dụng, đua đòi
chạy theo cái mới, chạy theo thị hiếu tầm thường, dễ bị sa ngã, bị cuốn vào những
tiêu cực về đạo đức của xã hội.
Tóm lại, học sinh ở lứa tuổi này dồi dào về thể lực, phong phú về tinh thần, phức
tạp về tính cách và hành vi. Tuy nhiên, đây cũng là thời kỳ nhận thức và hiểu biết
các phẩm chất đạo đức của nhân cách sâu sắc hơn trước. Hơn nữa, con người không
phải là một thực thể thụ động mà là một chủ thể tích cực. Do đó, việc giáo dục đạo
đức cho học sinh ở lứa tuổi này phải căn cứ vào các đặc điểm tâm, sinh lý và đặc
điểm đạo đức của các em để xác định phương châm giáo dục phù hợp. Bên cạnh đó
cũng cần hiểu rằng mỗi cá nhân lại có những đặc điểm riêng về tâm, sinh lý và có
vốn sống riêng của mình, cho nên quá trình giáo dục đạo đức cho học sinh, đặc biệt


là học sinh ở lứa tuổi có nhiều biến đổi về tâm, sinh lý như học sinh THPT là hết sức
phức tạp và cần thiết.
1.3.2. Mục tiêu, nhiệm vụ giáo dục đaọ đức cho học sinh trung học phổ thông
trong giai đoạn công nghiệp hoá – hiện đại hoá
1.3.2.1. Mục tiêu giáo dục đạo đức
Giáo dục đạo đức là một bộ phận của quá trình giáo dục toàn diện trong nhà
trường phổ thông nói chung và của cấp THPT nói riêng, giúp cho mỗi học sinh nhận
thức đúng các giá trị đạo đức, biết hành động theo lẽ phải, theo công bằng và nhân
đạo, biết sống vì mọi người, vì gia đình, vì sự tiến bộ xã hội và phồn vinh của đất
nước, tạo lập cho học sinh được những thói quen, hành vi đạo đức. Mục tiêu trên đã
được Luật Giáo dục khẳng định: “Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam
phát triển toàn diện có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung

thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng
nhân cách, phẩm chất năng lực công dân đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc”. [30] Như vậy, giáo dục đạo đức cần đạt được các mục tiêu chính sau đây:

- Về mặt nhận thức: Hiểu bản chất của đạo đức, các nguyên tắc, nội dung,
chuẩn mực đạo đức của con người Việt Nam trong thời kỳ mới phù hợp với mức độ
yêu cầu của lứa tuổi, đồng thời hiểu sự cần thiết phải tự rèn luyện mình theo các yêu
cầu của chuẩn mực đạo đức để trở thành những công dân có lối sống tốt, có tình cảm
đẹp, xứng đáng là chủ nhân tương lai của đất nước. Nâng cao nhận thức chính trị,
hiểu rõ các yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, nắm vững những quan
điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề phát triển con
người toàn diện, gắn liền với sự nghiệp đổi mới của đất nước, có quan điểm rõ ràng
về lối sống, thích ứng với những yêu cầu của xã hội trong giai đoạn mới.

- Về thái độ tình cảm: Có thái độ tình cảm đạo đức đúng đắn, trong sáng trong
các mối quan hệ xã hội. Có tình cảm và lòng biết ơn sâu sắc đối với các thế hệ cha
anh đã hy sinh xương máu vì độc lập tự do của Tổ quốc. Có thái độ rõ ràng đối với
các hiện tượng đạo đức chính trị trong xã hội.


- Về kỹ năng và hành vi: Tích cực học tập rèn luyện trong lao động, hoạt động
tập thể, hoạt động xã hội. Có thói quen thường xuyên rèn luyện hành vi đạo đức
trong ứng xử, trong hoạt động. Tự giác thực hiện những chuẩn mực đạo đức, luật
pháp, ứng xử văn hóa, có thói quen chấp hành pháp luật. Biết sống lành mạnh, trong
sáng, thể hiện được tư cách của người học sinh. Tích cực đấu tranh với những biểu
hiện của lối sống sa dọa, đồi trụy chỉ biết hưởng thụ, chạy theo đồng tiền, theo chủ
nghĩa thực dụng, thờ ơ với các vấn đề của cuộc sống, không nghĩ đến sự hy sinh mất
mát của thế hệ cha anh. Thường xuyên tích cực rèn luyện trong học tập, lao động
sản xuất, hoạt động xã hội để chuẩn bị cho ngày mai lập nghiệp.
1.3.2.2. Nhiệm vụ giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông giai đọan

công nghiệp hoá – hiện đại hoá
Mục tiêu của giáo dục là giúp cho học sinh được phát triển toàn diện. Vì vậy
giáo dục đạo đức trong nhà trường là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng và rất nặng
nề. Để đạt được mục tiêu đã đề ra, giáo dục đạo đức có nhiệm vụ:

- Giáo dục về chính trị, tư tưởng: Giáo dục thế giới quan, nhân sinh quan khoa
học, lòng yêu nước, tự hào dân tộc, niềm tin vào chế độ XHCN. Trang bị cho học
sinh những hiểu biết sâu sắc về các phạm trù cơ bản của đạo đức như nghĩa vụ,
lương tâm, nhân phẩm, danh dự, hạnh phúc...

- Giáo dục về pháp luật: Giáo dục ý thức sống và làm việc theo hiến pháp và
pháp luật. Chấp hành nghiêm chỉnh nội quy của nhà trường, giáo dục ý thức thực
hiện tốt các quy định của cộng đồng và của địa phương.

- Giáo dục về đạo đức gia đình: Lòng hiếu thảo, thái độ kính trọng lễ phép với
ông bà, cha mẹ, người thân. Tinh thần đoàn kết, nhường nhịn, yêu thương, quan tâm
giúp đỡ mọi người. Giáo dục ý thức trách nhiệm của bản thân với gia đình, họ hàng.

- Giáo dục đạo đức trong các mối quan hệ xã hội: Đó là các mối quan hệ giữa
cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với cộng đồng, quan hệ giữa cá nhân với môi
trường tự nhiên, với hoạt động học tập và lao động. Qua đó, hình thành cho các em
những phẩm chất, thói quen, hành vi đạo đức cá nhân như tính thật thà, khiêm tốn,
lòng tự trọng, đức tính kiên trì, dũng cảm, lạc quan. và có thái độ hành vi đúng đắn


phù hợp với các chuẩn mực đạo đức của xã hội.

- Giáo dục về giá trị sống và kỹ năng sống: Giáo dục cho học sinh nhận biết,
giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống của nhân cách con người Việt Nam và
những giá trị toàn cầu. Giáo dục cho các em những kỹ năng sống cần có, các hành vi

lành mạnh, tích cực, nhằm giúp các em đối mặt với thách thức của cuộc sống hằng
ngày như kỹ năng nhận biết và sống với chính mình, nhận biết và sống với người
khác, kỹ năng ra quyết định một cách hiệu quả.
1.3.3. Nội dung giáo dục đạo đức
Nội dung của giáo dục đạo đức là những chuẩn mực đạo đức truyền thống tốt
đẹp của dân tộc, những giá trị đạo đức cần thiết của con người Việt Nam trong thời
kỳ CNH - HĐH cần trang bị cho học sinh nhằm đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực
phục vụ cho sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Trên cơ sở kế thừa những
chuẩn mực đạo đức truyền thống, kết hợp với lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh, có thể phân chia thành năm nhóm chuẩn mực của nội dung
giáo dục đạo đức sau đây:

- Nhóm chuẩn mực đạo đức thể hiện nhận thức tư tưởng chính trị: bao gồm
giáo dục lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với xây dựng CNXH, tình yêu quê hương
đất nước, niềm tự hào dân tộc,.

- Nhóm chuẩn mực đạo đức, lối sống hướng vào sự hoàn thiện của bản thân:
Lòng tự trọng, tự tin, tự lập, sống giản dị, kiết kiệm, trung thực, siêng năng, hướng
thiện, nhân ái, giàu lòng vị tha, ...

- Nhóm những chuẩn mực đạo đức lối sống thể hiện quan hệ với mọi người:
Đó là lòng nhân nghĩa, lòng biết ơn đối với tổ tiên, cha mẹ, thầy cô, người có công
với đất nước. Biết kính trọng người già, yêu thương trẻ nhỏ,.

- Nhóm chuẩn mực đạo đức thể hiện quan hệ với công việc: Đó là làm việc có
tinh thần hợp tác và trách nhiệm cao, có lương tâm nghề nghiệp, tôn trọng pháp luật,
lẽ phải, dũng cảm, liêm khiết,...

- Nhóm chuẩn mực đạo đức liên quan đến xây dựng môi trường sống tự nhiên



×