Tải bản đầy đủ (.pdf) (141 trang)

Thực trạng và giải pháp quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp của hiệu trưởng các trường trung học phổ thông quận Thốt Nốt thành phô Cần Thơ hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.26 MB, 141 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
--------------------------------


Nhan Ngọc Hà








LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC





Thành phố Hồ Chí Minh - 2009

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
--------------------------------


Nhan Ngọc Hà









Chuyên ngành : Quản lý Giáo dục
Mã số : 60 14 05


LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. TRẦN TUẤN LỘ




Thành phố Hồ Chí Minh - 2009
LỜI CAM ĐOAN
--- *** ---

Tác giả xin cam đoan tất cả công trình nghiên cứu của bản thân dưới sự
hướng dẫn của PGS. TS. TRẦN TUẤN LỘ.
Tất cả các thông tin, dữ liệu và kết quả nghiên cứu được tác giả thu thập và
trình bày trong đề tài là hoàn toàn trung thực, thực tiễn và chưa được công bố bởi
bất cứ ai trong một công trình nào khác.

Tác giả!




LỜI CẢM ƠN
--- *** ---
Trong quá trình học tập và nghiên cứu luận văn, tôi đã nhận được sự giúp
đỡ và ủng hộ của nhiều tập thể và cá nhân.
Tôi xin trân trọng cám ơn Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh,
Phòng Khoa học công nghệ & Sau đại học Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ
Chí Minh đã nhiệt tình tổ chức giảng dạy, tạo điều kiện học tập - nghiên cứu và
chấp nhận cho tôi t
hực hiện luận văn này.
Tôi xin trân trọng cám ơn PGS. TS. TRẦN TUẤN LỘ - Trưởng khoa Tâm lý
học Trường Đại học Văn Hiến thành phố Hồ Chí Minh đã nhiệt tình hướng dẫn tôi
thực hiện luận văn.
Tôi xin trân trọng cám ơn tất cả Quý Thầy, Cô đã giảng dạy và hướng dẫn
tôi trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn.
Tôi xin trân trọng cám ơn Sở G
iáo dục – Đào tạo thành phố Cần Thơ, Sở
Nội vụ thành phố Cần Thơ, Ủy ban nhân dân quận Thốt Nốt, các trường THPT của
quận Thốt Nốt, trường THPT Thốt Nốt đã chấp thuận và tạo điều kiện cho tôi được
tham gia và hoàn thành tốt khóa học này.
Tôi xin trân trọng cám ơn lãnh đạo nhà trường cùng toàn thể giáo viên các
trường THPT của quận Thốt Nốt, đã cung cấp cho tôi những thông tin, tài liệu và
những ý kiến đóng góp quý báu cho đề tài; các thầy - cô đồng nghiệp cùng khóa đã
cung cấp những thông tin, tài liệu và những đóng góp quý báu cho luận văn; các
cha mẹ học
sinh và học sinh đã đóng góp cho tôi những ý kiến chân tình nhằm đem
lại ý nghĩa thực tiễn và khoa học cho luận văn.
Song, do trình độ và năng lực còn hạn chế nên luận văn khó tránh khỏi

những thiếu sót. Tác giả kính mong nhận được sự đóng góp ý kiến, phê bình của
quý
Thầy – Cô, Hội đồng chấm, các bạn đồng nghiệp để đề tài được hoàn chỉnh
hơn.
Tôi xin chân thành cám ơn tất cả!
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế khách quan, vừa là quá
trình hợp tác để phát triển, vừa là quá trình đấu tranh của các nước đang phát triển
để bảo vệ lợi ích quốc gia. Nhằm đi tắt đón đầu từ một đất nước kém phát triển thì
vai trò của GD và khoa học công nghệ càng có tính quyết định. GD phải đi trước
một bước, nâng cao dân trí, ĐT nhân lực, bồi dưỡng nhân tài nhằm thực hiện thành
công các mục tiêu của chiến lược phát triển KT-
XH.
Ở nước ta, quá trình CNH-HĐH được tiến hành trong điều kiện tồn tại nhiều
hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, vận hành theo cơ chế thị trường định
hướng XH chủ nghĩa. Sản xuất hàng hóa phát triển làm cho thị trường lao động mở
rộng, nhu cầu học tập tăng lên, mặt khác cũng làm thay đổi quan niệm về giá trị,
ảnh hưởng đến việc lựa chọn ngà
nh nghề, động cơ học tập, các mối quan hệ trong
nhà trường và ngoài XH.
Tình hình trên đòi hỏi ngành GD-ĐT phải ĐT ra những lớp người lao động
“Có trí tuệ cao, có tay nghề thành thạo, có phẩm chất tốt đẹp, được ĐT, bồi dưỡng
và phát huy bởi một nền GD tiên tiến gắn liền với một nền khoa học công nghệ hiện
đại” [21, tr. 9]. Song song, nguồn nhâ
n lực này phải là một đội ngũ lao động có
năng lực thực sự đáp ứng nhu cầu phát triển KT-XH của cả nước cũng như ở từng
địa phương.
Một trong những giải pháp phát triển GD-ĐT mà Đại hội X đã đề ra là đổi
mới toàn diện GD-ĐT, phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao. Để việc thực

hiện mục tiêu đó Ðại hội c
òn xác định sự cần thiết phải đẩy mạnh công tác HN và
DN cho HSPT nhằm tạo điều kiện cho việc phân luồng sau tốt nghiệp THPT, để HS
vào đời tham gia lao động sản xuất hoặc chọn ngành, nghề học tiếp sau tốt nghiệp.
Trước thế giới nghề nghiệp đa dạng, phong phú, HS rất lúng túng trong việc
lựa chọn ngành nghề phù hợp. Phần lớn các em chọn nghề theo nhu cầu cá nhân, gia
đình, bạn bè hoặc theo thị hiếu…
chưa đáp ứng đúng năng lực, sở trường của bản
thân hay nhu cầu phát triển KT-XH của địa phương cũng như của đất nước. Nguyên
nhân của tình trạng này là do bản thân các em chưa được trang bị đầy đủ những
kiến thức về thế giới nghề nghiệp, thiếu hiểu biết về tiêu chuẩn hay những yêu cầu
của ngành nghề mình chọn và thường chưa đánh giá đúng năng lực của bản thân.
Điều này cần có sự quan tâm đúng mức của các cấp QLGD đối với công tác GDHN
trong nhà trường, đặc biệt là những nhà QL trực tiếp chỉ đạo thực hiện c
ông tác
GDHN trong trường phổ thông nói chung, ở các trường THPT của quận Thốt Nốt
nói riêng. Nói cách khác, công tác QLHĐGDHN ở các trường THPT quận Thốt Nốt
chưa thực sự được quan tâm đúng mức và hiệu quả chưa cao.
Những vấn đề nêu trên đã thôi thúc tôi chọn đề tài “Thực trạng và giải
pháp quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp của hiệu trưởng các trường
THPT quận Thốt Nốt, thành phố Cần Thơ hiện nay”.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý l
uận và thực trạng QLHĐGDHN của HT các
trường THPT quận Thốt Nốt, thành phố Cần Thơ hiện nay, để từ đó đề ra các giải
pháp góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác QLHĐGDHN của HT ở
các trường này.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Hoạt động

QL GDHN của HT các trường THPT tại quận Thốt Nốt, thành
phố Cần Thơ hiện nay.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Thực trạng và giải pháp QLHĐGDHN của HT các trường THPT quận Thốt
Nốt, thành phố Cần Thơ hiện nay.
4. Giả thuyết khoa học
Thực trạng công tác QLHĐGDHN của HT các trường THPT ở quận Thốt
Nốt hiện nay còn yếu kém. Do đó, chất lượng và hiệu quả GDHN cho HS chưa cao
,
phần lớn các em chưa định hướng đúng trong việc lựa chọn ngành, nghề phù hợp
với năng lực bản thân. Nếu có những giải pháp đúng đắn và khả thi thì có thể nâng
cao chất lượng và hiệu quả công tác QLHĐGDHN của HT ở các trường THPT
trong quận Thốt Nốt.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Tìm hiểu cơ sở lý luận về công tác QL của HT các trường THPT nói chung,
công tác QLHĐGDHN của HT các trường THPT nói riêng.
5.2. Tìm hiểu thực trạng công tác QLHĐGDHN của HT các trường THPT quận
Thốt Nốt, thành phố Cần Thơ hiện nay. Phân tích nguyên nhân của thực trạng.
5.3. Đề xuất một số giải pháp tăng cường công tác QLHĐGDHN của HT các
trường THPT quận Thốt Nốt, thành phố Cần Thơ.
6. Phương pháp nghi
ên cứu
6.1. Cơ sở phương pháp luận
6.1.1. Quan điểm hệ thống cấu trúc
Mỗi trường THPT trong quận Thốt Nốt có những nét hoạt động đặc
trưng riêng về GDHN tùy thuộc vào hoạt động của bộ môn và ứng với điều kiện cụ
thể của từng trường. Vì vậy, việc đánh giá công tác QLHĐGDHN của quận phải
đư
ợc xem xét trong mối quan hệ các nhiệm vụ GD chung của các trường THPT
trong quận. Ngoài ra, cũng phải xem xét mối tương quan trong công tác

QLHĐGDHN giữa các trường THPT trong quận, đồng thời cũng xem xét trong mối
tương quan với các hoạt động GD khác trong nhà trường để tìm ra những giải pháp
nhằm đẩy mạnh công tác QLHĐGDHN ở các trường này.
6.1.2. Quan điểm lịch sử và thực tiễn

Nghiên cứu và đánh giá thực trạng QLHĐGDHN của HT các trường
THPT trong quận trong những điều kiện cụ thể của từng trường, trong tình hình
phát triển KT-XH hiện tại của quận Thốt Nốt, thành phố Cần Thơ, để đưa ra những
giải pháp QL đảm bảo tính khoa học, phù hợp với thực tiễn GDHN của địa phương,
góp phần đẩy mạnh nhiệm vụ GDHN của cả nước, đồng thời đảm bảo việc thực
hiện mục tiêu GD THPT.


6.1.3. Quan điểm toàn diện
Các giải pháp đưa ra được xét trên cơ sở tổng hợp từ nhiều khía cạnh
của vấn đề và mang tính toàn diện, trong mối tương quan phụ thuộc lẫn nhau giữa
GD với tình hình kinh tế, văn hóa và XH hiện tại của vùng, để nâng cao hiệu quả
công tác QLHĐGDHN của các trường THPT trong quận Thốt Nốt, thành phố Cần
Thơ.
6.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
6.2.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận

Nghiên cứu, phân tích, tổng hợp các văn kiện, văn bản, các Nghị
quyết, các tài liệu, sách, báo, thông tin trên mạng, tham khảo các vấn đề có liên
quan để làm cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu đề tài.
6.2.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp quan sát: Quan sát công tác QL của HT, các
HĐGDHN của người GV, việc HN của cha mẹ đối với con, việc định hướng và lựa
chọn các ngành nghề của HS THPT cũng như hiệu quả GDHN của 3 trường THPT
trong quận Thốt Nốt.

- Phương pháp điều tra: Xây dựng 4 phiếu trưng cầu ý kiến với: phiếu
số 1 thăm
dò ý kiến ngẩu nhiên 100 HS của khối 12/mỗi trường; phiếu số 2 thăm dò
ý kiến của 100 cha mẹ của những HS này/mỗi trường ; phiếu số 3 thăm dò ý kiến
đối với toàn thể GV của 3 trường (190 GV); phiếu số 4 thăm dò ý kiến của tất cả 49
CBQL (
3 HT, 6 Phó HT và các tổ trưởng chuyên môn và các bộ phận khác) ở 3
trường THPT trong quận Thốt Nốt. Việc xây dựng phiếu trưng cầu ý kiến chủ yếu
dựa trên cơ sở lý luận, mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.
- Phương pháp phỏng vấn: Phỏng vấn CBQL (HT, Phó HT) của 3
trường THPT trong quận Thốt Nốt về những vấn đề nghiên cứu của đề tài.
- Phương pháp xin ý kiến chuyê
n gia: Tác giả đã xin ý kiến của các
chuyên gia: Thạc sĩ Trần Đình Lý – Giám đốc Trung tâm quan hệ doanh nghiệp và
QL sinh viên trường ĐH Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh; Giảng viên tư vấn HN
Nguyễn Đăng Lập của khoa tâm lý học trường ĐH Văn Hiến thành phố Hồ Chí
Minh; Giám đốc Trung tâm kỹ thuật tổng hợp – HN thành phố Cần Thơ; Giám đốc
Trung tâm GD thường xuyên quận Thốt Nốt… nhằm đúc kết thêm cơ sở khoa học
và những kinh nghiệm thực tiễn về công tác QLHĐGDHN cho HSPT, đồng thời
mang lại ý nghĩa khoa học cho các giải pháp tăng cường công tác QLHĐGDHN của
đề tài.
6.2.3. Phương pháp thống kê toán học
Sử dụng các phép toán thống kê để xử lý số liệu thu thập được từ các
điều tra bằng bảng hỏi.

7. Giới hạn nghiên cứu
Do điều kiện nghiên cứu còn hạn chế nên đề tài được nghiên cứu chủ yếu về
thực trạng công tác QLHĐGDHN cho HS ở 3 trường THPT thuộc quận Thốt Nốt,
thành phố Cần Thơ hiện nay, trên cơ sở đó chỉ đề xuất một số giải pháp chung nhất
để tăng cường một bước công tác QLHĐGDHN của HT ở 3 trường này.

Đối với hai đối tượng HS và CM
HS thì đề tài chỉ nghiên cứu ngẩu nhiên ở
100 HS khối 12 và 100 vị cha mẹ của những HS này ứng với mỗi trường THPT
trong quận Thốt Nốt.













Chương 1 - CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CÔNG TÁC QUẢN LÝ HOẠT
ĐỘNG GIÁO DỤC HƯỚNG NGHIỆP TRONG CÁC TRƯỜNG THPT
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp trong
nhà trường THPT
Ở nước ta, Đảng ta đã có nhiều văn kiện, Nghị quyết về GD nhấn mạnh ý
nghĩa, tầm quan trọng của việc GDHN, phân luồng HS các cấp nhằm góp phần GD
toàn diện, chuẩn bị nguồn nhân lực cho sự nghiệp đổi mới, CNH-HĐH đất nước.
Những quan điểm của Đảng về GDHN đã được cụ thể hóa bằng những Nghị quyết,
Luật của Quốc hội, Nghị định, C
hỉ thị của Chính phủ và các văn bản chỉ đạo của Bộ
GD-ĐT. Cụ thể như:
Ở Nghị quyết Trung Ương 2 khóa VIII trong văn kiện của Đảng, đã đề ra
nhiệm vụ cho ngành GD cần mở rộng và nâng cao chất lượng GD kỹ thuật tổng hợp

– H
N; ở Nghị quyết Trung Ương 6 khóa IX tiếp tục khẳng định lại những mục tiêu
và yêu cầu về GD kỹ thuật tổng hợp – HN. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X của Đảng cũng có thông qua văn kiện xác định đổi mới toàn diện GD-ĐT, trong
đó yêu cầu dạy học phân ban và tự chọn ở cấp THPT trên cơ sở làm tốt công tá
c HN
và phân luồng HS từ THCS.
Quyết định 126/CP ngày 19/3/1981 của Thủ tướng Chính phủ về công tác HN
cho HSPT và sử dụng HS các cấp THCS và THPT ra trường cũng có quy định rõ về
mục đích, nhiệm vụ của công tác HN, biện pháp thực hiện và giao nhiệm vụ cho các
Bộ, ngành, địa phương phối hợp với ngành GD thực hiện. Thông tư 31/TT ngày
17/8/1981 của Bộ GD-ĐT có hướng dẫn thực hiện Quyết định 126/CP với những
nội dung về vị trí, nhiệm vụ của công tác HN; thực hiện công tác HN c
ho HSPT có
4 con đường… Trong các quan điểm chỉ đạo của chiến lược phát triển GD 2001 –
2010 do Chính phủ phê duyệt tại Quyết định 201/2001/QĐ-TTg ngày 28/12/2001,
có nêu rõ: “Thực hiện nguyên lý học đi đôi với hành, GD kết hợp với lao động sản
xuất, lý luận gắn liền với thực tiễn, GD nhà trường kết hợp với GD gia đình và GD
XH”. Trong mục tiêu phát triển GD đến 2010 đối với TH
CS và THPT cũng như
trong Luật GD 2005, ở Điều 27 có nêu “Mục tiêu GD phổ thông là chuẩn bị cho HS
tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ tổ
quốc”, “GD THPT nhằm giúp cho HS… có những hiểu biết thông thường về kỹ
thuật và HN, có điều kiện phát huy năng lực cá nhân để lựa chọn hướng phát triển,
tiếp tục học lên ĐH, cao đẳng, trung cấp, học nghề hoặc đi vào lao động cuộc
sống”; ở Điều 28 cũng có ghi “… Nội dung GD phổ thông đảm bảo tính phổ thông,
cơ bản, toàn diện
, HN và có hệ thống…”. Ở Nghị định quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật GD cũng đề cập đến nội dung HN và phân luồng
HS trong GD.

Bộ trưởng Bộ GD-ĐT đã chỉ đạo việc xây dựng chương trình GD THCS,
THPT theo mục tiêu quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 27 của Luật GD có ch
ú
trọng việc đổi mới nội dung, phương pháp GD, cụ thể hóa chuẩn kiến thức, kỹ năng
GD kỹ thuật tổng hợp – HN. Đối với cấp THCS, các nội dung HN được lồng ghép
vào các môn học, đặc biệt là môn công nghệ; đối với cấp THPT các nội dung HN
được bố trí thành môn học cụ thể. Theo Chỉ thị 33/2003/CT-BGD&ĐT ngày
23/7/2003 cũng đã đề cập về việc tăng cường GDHN cho HS. Quyết định số
16/
2006/QĐ–BGD&ĐT ngày 5/6/2006 cũng đề cập về việc ban hành chương trình
GD phổ thông và trong chương trình GD phổ thông cũng có chương trình chuẩn
“HĐGDHN”.
Bên cạnh đó là những nghiên cứu của nhiều Nhà GD và các chuyên gia phần
lớn tập trung nghiên cứu về xu hướng chọn nghề, hứng thú nghề nghiệp, định
hướng và tư vấn nghề nghiệp cho HS việc ĐT chuyên gia tư vấn HN hay một số
vấn đề chung nhất về công tác HN. Chẳng hạn như đề tài: “Nghiên cứu một số đặc
điểm tâm lý HSPT trung học tại thành phố Hồ C
hí Minh và bước đầu xây dựng bộ
trắc nghiệm HN và chọn nghề” của Quang Dương ở Viện Nghiên cứu GD-ĐT phía
Nam, thành phố Hồ Chí Minh 1998. Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu thực trạng tâm
lý chọn nghề của HS lúc này chủ yếu cũng có hướng chọn nghề nhằm chạy đua vào
các trường ĐH và đa phần c
họn nghề theo cảm tính.
Vấn đề QLHĐGDHN cho HSPT trong những năm qua cũng đang là mối quan
tâm nghiên cứu của rất nhiều Nhà khoa học, Nhà GD và các Nhà QLGD như:
- GD lao động, kỹ thuật tổng hợp, HN trường phổ thông (1985) của Nguyễn
Trọng Bảo.
- Đổi mới công tác HN phục vụ sự nghiệp CNH-HĐH đất nước (1996) của
Phạm Tất Dong.
- Đề tài “QL công tác HN cho HSPT bậc trung học tại các Trung tâm GD

thường xuyên trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, Thực trạng và giải pháp”, Luận văn
Thạc sĩ khoa học QL, Trường ĐH Sư phạm th
ành phố Hồ Chí Minh - Huỳnh Thị
Tam Thanh (2003). Ở đề tài này chỉ tập trung làm rõ thực trạng QL công tác HN
cho HS tại các trung tâm GD thường xuyên trên địa bàn thành phố Đà Nẵng và đưa
ra giải pháp nhằm tăng cường việc QL công tác này. Đề tài còn khảo sát về thực
trạng phân luồng HS sau bậc trung học, sự bất cập về tỉ lệ lao động kỹ thuật trong
tổng số lao động, sự không phù hợp về trình độ trong cơ cấu lao động, việc tổ chức
và QL công tác HN chưa đồng bộ của thành phố Đà Nẵng… Tuy vậy, cơ sở lý luận
đề tài chưa đáp ứng cho việc giải quyết sâu sát cá
c nội dung của thực trạng, như
phần lý luận chưa nêu rõ tính chất HN trong nhà trường phổ thông đối với từng cấp
học, chưa chỉ rõ mục đích, phương hướng và nhiệm vụ GDHN trong trường THPT
cho từng thành viên của nhà trường.
- Đề tài “Tìm h
iểu thực trạng công tác QL hoạt động HN cho HS THPT tại
thành phố Hồ Chí Minh và đề xuất một số biện pháp”, Luận văn Thạc sĩ khoa học
QL, Trường ĐH Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh - Nguyễn Hữu Thiện (2004). Đề
tài chỉ tập trung nghiên cứu thực trạng về công tác QL hoạt động HN cho HS THPT
tại thành phố Hồ Chí Minh chưa đạt hiệu quả cao trên cơ sở phân tích các thực trạng
về sự thiếu thông ti
n, sự thiếu hiểu biết của HS về các ngành, nghề trong XH dẫn
đến việc chọn nghề nghiệp tương lai của các em HS không phù hợp, các HTGDHN
trong nhà trường THPT còn nhiều hạn chế. Bên cạnh, đề tài chưa đề cập đến sự lãnh
đạo phối hợp GD của nhà trường – gia đình – XH trong công tác GDHN cho HS. Vì
công tác GDHN trong nhà trường THPT là một bộ phận của công tác HN của toàn
XH. Gia đình lại là cái nôi đầu đời có ảnh hưởng lớn tới sự chọn lựa nghề nghiệp
tương lai của HS. Ở đây đề tài chưa đề cập đến nhiệm vụ của CMHS trong việc
GDHN và chưa có sự phối hợp GD của nhà trường với gia đình để HN cho các em.
Nhìn chung, chưa có công trình nghiên cứu nào nghiên cứu một cách đầy đủ

về công tác QLHĐGDHN nói chung và rất ít công trình nghiên cứu về công tác
QLHĐGDHN của HT các trường THPT nói riêng. Hiện tại, ở Cần Thơ chưa có
công trình nghiên cứu nào đề cập đến thực trạng công tác QLHĐGDHN của H
T các
trường THPT trong quận Thốt Nốt một cách hoàn chỉnh.
1.2. Một số khái niệm và lý luận về quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp
trong trường THPT
1.2.1. Một số khái niệm
1.2.1.1. Khái niệm quản lý
Có nhiều quan niệm tiếp cận khác nhau:
Theo Từ điển Tiếng Việt căn bản (1998) của Nhà xuất bản GD, QL là tổ
chức, điều khiển hoạt động của một đơn vị, cơ quan. [ 44, tr. 583]

Theo F.W.Taylor: “QL là nghệ thuật biết rõ ràng, chính xác cái gì cần
làm và làm cái đó thế nào bằng phương pháp tốt nhất và rẻ nhất”.
Theo Kozlova O. V. và Kuznelsov I. N: “QL là sự tác động có mục đích
đến những tập thể con người để tổ chức và phối hợp hoạt động của họ trong quá
trình sản xuất”.
Theo Glushkov A. A. và Eitingon V. N: “QL là một hoạt động đa diện
phức tạp, bảo đảm sự phối hợp c
ó chủ định, sự ăn nhịp của lao động XH”.
Cũng vậy, Tereebnenko. V. I. cho “QL tập hợp các biện pháp phối hợp
nhằm đạt mục đích xác định”.
QL là một hoạt động thiết yếu, nó đảm bảo phối hợp những nỗ lực cá nhân
nhằm đạt được các mục đích của nhóm. [45, tr. 29]
QL là một quá trình tác động có định hướng, có tổ chức, lựa chọn tr
ong số
tác động có thể có dựa trên các thông tin về tình trạng của đối tượng và môi trường
nhằm giữ cho sự vận hành của đối tượng được ổn định làm cho nó phát triển đến
mục đích đã định. [25, tr. 28]

QL là sự tác động có ý thức của chủ thể QL lên đối tượng QL nhằm chỉ
huy, điều hành, hướng dẫn các quá trình XH và hành vi của cá nhân hướng đến mục
đích hoạt động chung và phù hợp với quy luật khách quan. [29, tr. 40]
Theo các khái niệm trên đây có thể hiểu khái niệm QL như sau:
QL là một hoạt động đa diện phức tạp, là sự tác động có tổ chức, có
hướng đích, hợp quy luật của chủ thể QL đến đối tượng bị QL cùng nhằm thực hiện
mục tiêu chung.
1.2.
1.2. Khái niệm quản lý giáo dục
Khái niệm QLGD cũng giống như khái niệm QL, được tiếp cận theo nhiều
quan niệm khác nhau:
Theo P.V. Khuđôminxky: QLGD là tác động có hệ thống, có kế hoạch, có
ý thức và có mục đích của chủ thể QL, ở các cấp độ khác nhau đến tất cả các khâu
của hệ thống nhằm mục đích đảm bảo việc GD cộng sản chủ nghĩa cho thế hệ trẻ,
đảm bảo sự phát triển toàn diện và hài hòa của họ. [37, tr. 28]

QLGD là hệ thống những tác động tự giác (có ý thức, có mục đích, có kế
hoạch, có hệ thống, hợp quy luật) của chủ thể QL đến tập thể GV, công nhân viên,
tập thể HS, CMHS và các lực lượng XH trong và ngoài nhà trường nhằm thực hiện
có chất lượng và hiệu quả mục tiêu GD của nhà trường. [
29, tr. 38]
QLGD nằm trong QL văn hóa - tinh thần. QL hệ thống GD là tác động
của hệ thống có kế hoạch, có ý thức và hướng đích của chủ thể QL ở các cấp khác
nhau đến tất cả các mắt xích của hệ thống (từ Bộ đến trường) nhằm mục đích đảm
bảo việc hình thành nhân cách cho thế hệ trẻ trên cơ sở nhận thức và vận dụng
những qui l
uật chung của XH cũng như các qui luật của quá trình GD, của sự phát
triển thể lực và tâm lý trẻ em. [28, tr. 16]
Từ các quan niệm trên ta có thể hiểu khái niệm QLGD là hệ thống những
tác động có định hướng, có kế hoạch, có ý thức của chủ thể QL lên các hệ thống vận

hành GD trong và ngoài nhà trường nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục
tiêu GD của nhà trường.

1.2.1.3. Khái niệm quản lý trường học
QL trường học là QL vi mô, nó là một hệ thống con của QL vĩ mô:
QLGD, QL trường học là một chuổi tác động hợp lý (có mục đích, tự giác, hệ
thống, có kế hoạch) mang tính tổ chức - sư phạm của chủ thể QL đến tập thể GV và
HS, đến những lực lượng GD trong và ngoài nhà trường nhằm huy động họ cùng
cộng tác, phối hợp, tham gia vào mọi hoạt động của nhà trường nhằm
làm cho quá
trình này vận hành tối ưu tới việc hoàn thành những mục tiêu dự kiến. [28, tr. 16]
1.2.1.4. Khái niệm giáo dục hướng nghiệp trong trường THPT
Theo Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam định nghĩa: “HN là hệ thống
các biện pháp giúp cho con người lựa chọn và xác định nghề nghiệp của bản thân
trong cuộc sống tương lai trên cơ sở kết hợp nguyện vọng, sở trường của cá nhân
với nhu cầu XH”

Xét trên bình diện XH: HN là hệ thống tác động của XH về GD học, y
học, XH học, kinh tế học… nhằm giúp cho thế hệ trẻ chọn được nghề vừa phù hợp
hứng thú, năng lực, nguyện vọng, sở trường của cá nhân, vừa đáp ứng được nhu cầu
nhân lực của các lĩnh vực sản xuất trong nền kinh tế quốc dân. [8, tr. 42]
HN là quá trình dẫn dắt thế hệ trẻ đi vào thế giới nghề nghiệp, gi
úp cho
họ phát huy được hết năng lực lao động trong thế giới đó, có được cuộc sống thỏa
mãn với lao động nghề nghiệp.
Xét trên bình diện trường phổ thông: HN là một hình thức hoạt động dạy
của thầy và hoạt động học của trò. Với tư cách là hoạt động dạy của thầy, HN được
coi như là công việc của tập t
hể GV, tập thể sư phạm có mục đích GD HS trong
việc chọn nghề, giúp các em tự quyết định nghề nghiệp tương lai trên cơ sở phân

tích khoa học về năng lực, hứng thú của bản thân và nhu cầu nhân lực của các
ngành sản xuất trong XH. [8, tr. 43]
GDHN là một hệ thống các biện pháp GD nhằm chuẩn bị cho HS sớm có
ý thức chọn ngành, nghề vừa phù hợp với nguyện vọng cá nhân vừa phù hợp với sự
phâ
n công lao động XH ngay từ khi còn học ở trường phổ thông. [4, tr. 29]
Như vậy, GDHN là một hệ thống các biện pháp GD của nhà trường, gia
đình và XH, nhằm dẫn dắt thế hệ trẻ đi vào thế giới nghề nghiệp, giúp cho các em
có định hướng đúng trong việc lựa chọn nghề phù hợp với nguyện vọng, sở trường
của bản thân, đáp ứng được nhu cầu nhân lực mà XH đang đặt ra. Đồng thời, giúp
các em phát huy hết năng lực của mình với nghề đã chọn.
1.2.
1.5. Khái niệm về quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp trong trường
học
Từ khái niệm QLGD và QL trường học, ta có thể hiểu khái niệm
QLHĐGDHN trong nhà trường là tập hợp các tác động có tổ chức, có kế hoạch, có
định hướng của chủ thể QL đến tập thể GV, HS, các lực lượng GD trong và ngoài
nhà trường, nhằm thực hiện mục đích GD HS trong việc chọn nghề vừa đáp
ứng
được nhu cầu của XH và yêu cầu của nghề, vừa phù hợp với nguyện vọng, hứng
thú, năng lực, sở trường của bản thân.
1.2.2. Một số kiến thức lý luận về giáo dục hướng nghiệp trong trường THPT
1.2.2.1. Mục đích của công tác giáo dục hướng nghiệp trong nhà trường phổ
thông nhằm bồi dưỡng, hướng dẫn HS chọn nghề phù hợp với yêu cầu phát triển
của XH, đồng thời phù hợp với thể lực và năng khiếu của cá nhân. (Theo thông tư
31/
TT của Bộ GD-ĐT ban hành ngày 17/11/1981)
1.2.2.2. Nội dung giáo dục hướng nghiệp cho học sinh phổ thông
a). Mục tiêu
Mục tiêu GDHN cho HSPT là phát hiện và bồi dưỡng phẩm chất nhân

cách nghề nghiệp cho HS, giúp các em hiểu mình, hiểu yêu cầu của nghề, hiểu được
xu thế phát triển hệ thống nghề trong XH. Thông qua HĐGDHN, GV giúp HS điều
chỉnh động cơ học nghề, trên cơ sở đó các em định hướng đi vào lĩnh vực sản xuất
mà XH đang có nhu cầu nhân lực. [10, tr. 10]
b)
. Nội dung hướng nghiệp ở cấp THCS và THPT
Nội dung HN ở cấp THCS và THPT gồm những mạch nội dung sau:
- Định hướng phát triển KT-XH của địa phương, cả nước.
- Nhu cầu về thị trường lao động.
- Thông tin nghề nghiệp và cơ sở ĐT.
- Năng lực bản thân, hoàn cảnh và truyền thống nghề nghiệp gia đình.
- Lập kế hoạch lựa chọn hướng đi và chọn nghề sau khi tốt nghiệp
THCS và THPT.
Những nội dung được thể hiện thành những chủ đề trong chương
trình. Trong một số chủ đề, HS phải lập kế hoạch lựa chọn hướng đi và chọn nghề
sau khi tốt nghiệp TH
CS và THPT. Nội dung chương trình lớp 9 giúp HS có được
những kiến thức cơ sở; nội dung chương trình lớp 10, 11 giúp các em tìm hiểu
thông tin nghề nghiệp cụ thể; nội dung chương trình lớp 12 tập trung vào tìm hiểu
thông tin ĐT và hướng phát triển kinh tế nhằm giúp cho việc quyết định chọn nghề.
[10, tr. 13]
1.2.2.3. Phương hướng chủ yếu của nội dung hướng nghiệp hiện nay
a). Công tác hướng nghiệp góp phần điều chỉnh việc lựa chọn nghề của
thanh t
hiếu niên, học sinh theo hướng chuyển đổi cơ cấu kinh tế
Một trong những mục đích chính của công tác HN là điều chỉnh
hướng chọn nghề của thế hệ trẻ cho phù hợp với những yêu cầu phát triển của kinh
tế. Vì thế, trong công tác HN Nhà GD luôn đòi hỏi thanh thiếu niên, HS phải trả lời
được câu hỏi: “Nghề định chọn có nằm tr
ong những nghề mà XH đang cần phát

triển hay không?”
Đất nước ta đang trong giai đoạn đẩy mạnh sự nghiệp CNH-HĐH, cơ
cấu kinh tế sẽ chuyển đổi theo hướng giảm tỉ trọng nông nghiệp, tăng tỉ trọng công
nghiệp và dịch vụ trong thu nhập quốc nội. Xu hướng chọn nghề của thanh thiếu
niên, HS phải phù hợp với xu hướng dịch chuyển cơ cấu kinh tế là một yê
u cầu của
HN. Chính điều này đã đặt ra trong GD phải thông tin chính xác về yêu cầu chuyển
dịch cơ cấu kinh tế để thế hệ trẻ có cơ sở cân nhắc định hướng chọn nghề cho bản
thân. Và vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải được nhà trường quan tâm như là
một định hướng chuẩn bị cho HS ra trường.


b). Hướng nghiệp phát huy tác động giáo dục ý thức chính trị và lý
tưởng nghề nghiệp cho người lao động
Trong GDHN những bài toán tăng trưởng kinh tế, phát triển XH phải
được đặt ra trước cho HS khi các em quyết định con đường lao động nghề nghiệp
của mình.
Hiện nay, nước ta đang bước vào thời kỳ mở cửa, mở rộng thị trường
ra bên ngoài, sự cạnh tranh về thị trường hàng hóa trong quá trình phát triển kinh tế
giữa quốc gia càng quyết liệt. Đòi hỏi thị trường la
o động phải đáp ứng nhu cầu
phát triển KT-XH của quốc gia. Thông qua những thông tin về thị trường lao động,
phân tích cho HS thấy sự cần thiết phải vươn lên nắm lấy những công nghệ cao…
Bởi các công nghệ lạc hậu sẽ làm chi phí đầu tư quá lớn, từ đó năng suất lao động
và chất lượng sản phẩm thấp. Bên cạnh, cũng cho H
S thấy sự cần thiết phải nâng
cao năng lực sản xuất, năng lực tiếp thị và năng lực sáng tạo. Đó là những yếu tố sẽ
quyết định năng lực cạnh tranh của CSSX, của doanh nghiệp.
Là một nước nông nghiệp lạc hậu, trên con đường CNH-HĐH đất
nước, cần phải thật sự có một cuộc cách mạng trong nông nghiệp, phát triển nền

nông nghiệp sinh t
hái, nền nông nghiệp sạch, bảo đảm chất lượng cao về những mặt
hàng nông sản. Chúng ta không chỉ quan tâm đến an ninh lương thực mà còn phải
đề cao an toàn thực phẩm, đây là vấn đề quyết định đến việc phát triển thị trường
hàng hoá nông nghiệp.
Mặt khác, qua HN và các hoạt động khác trong nhà trường nhằm cho
HS thấy tính tất yếu của việc chuyển nhà nông sang các nghề thuộc lĩnh vực phi
nông nghiệp với khẩu hiệu “ly nông bất ly hương”. N
gay trong quá trình học ở
trường phổ thông, HS phải được định hướng đi vào những nghề mà chính địa
phương đang có, các khu công nghiệp hoặc các khu chế xuất mọc lên…
c). Hướng nghiệp gắn với việc học tập làm chủ công nghệ mới
Thông qua HN, HS thấy được sự sống còn của nghề nghiệp gắn bó
chặt chẽ với đổi mới công nghệ với việc làm chủ những tri thức hiện đại, với việc
học hỏi liên tục và ĐT suốt đời.
Nền sản xuất hiện nay đang thừa hưởng thành quả của cuộc cách
mạng khoa học công nghệ hiện đại. Với vòng đời của công nghệ rút ngắn, các sản
phẩm có mặt hàng trên thị trường không thể kéo dài hàng năm, mà là hàng tháng,
hàng tuần. Các doanh nghiệp buộc phải nâng cao tính cạnh tranh trên cơ sở nâng
cao năng lực làm chủ những công nghệ mới. Lẽ sống của các doanh nghiệp là đổi
mới công nghệ, mở rộng t
hị trường. Trong điều kiện này, hệ thống trường học, bệnh
viện, nhà in, nhà xuất bản, các nhà hát, thư viện, câu lạc bộ…cũng thay đổi về nội
dung và hình thức hoạt động theo nhịp độ đổi mới công nghệ.
HN trong giai đoạn hiện nay phải chỉ ra hướng phát triển của các nghề
theo hướng ứng dụng những tri thức mới, những công nghệ mới và vẽ nê
n viễn
cảnh phát triển của nghề. Đây là chỗ khó của HN và cũng là lẽ tồn tại của HN. HS
chỉ thấy được thực trạng của nghề trong hiện tại, không thấy được những biến đổi
mau lẹ của nội dung, hình thức, phương pháp công tác trong nghề bằng những công

nghệ mới, không mường tượng được con đường hiện đại hoá của nghề nên khó có
thể quyết định việc lựa chọn lĩnh vực lao động sau khi rời trường học.
d)
. Hướng nghiệp chuẩn bị con người năng động thích ứng với thị
trường
Việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế đã đặt ra cho công tác HN những yêu
cầu mới như cùng với việc giới thiệu nghề cụ thể cho HS còn phải cho HS thấy
rằng, thiếu năng lực sáng tạo sẽ không bảo đảm được sức cạnh tranh trên thị trường.

Song song, trong quá trình làm một nghề, người lao động còn phải tăng tính thích
ứng của mình với những thay đổi lớn lao của thị trường hàng hoá, có những trường
hợp còn phải có năng lực chuyển sang nghề khác. Đây là tinh thần mới của HN.
Trong thời đại mới, do sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ, rất nhiều thành tựu khoa học mới được ứng dụng rộng rãi
trong đó có công nghệ thông tin. Việc “máy tính hoá” các hoạt động nghề nghiệp và

phổ cập Internet đang ngày càng bức bách buộc người lao động phải nắm chắc việc
sử dụng máy tính và ngoại ngữ, nhất là tiếng Anh trước khi dự tuyển vào bất kỳ
ngành, nghề nào.
Trong điều kiện phát triển của thị trường, công tác HN cần hướng một
bộ phận không nhỏ những HS tốt nghiệp phổ thông đi vào lĩnh vực kinh doanh. Đây
là đội ngũ có một vị trí quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế của nước nhà.
Chân dung các nhà doanh nghiệp được mô tả khoa học trong các giờ HN để HS có
năng khiếu kinh doanh chú ý đến các nghề thuộc lĩnh vực này.
Trên đường tiếp cận với kinh tế tri thức, trong sinh hoạt HN cần dành
một thời gian thích đáng cho việc làm que
n với những lĩnh vực công nghệ mũi
nhọn: như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới và công
nghệ tự động hoá nhằm giúp cho HS hiểu được phương hướng và các mục tiêu phát
triển các công nghệ này ở nước ta. Mặt khác, trong nội dung HN cũng cần nói đến

những đặc điểm kinh tế tri thức và những yêu cầu đặt ra trước cho người lao động
phục vụ nền ki
nh tế này.
1.2.2.4. Những hình thức giáo dục hướng nghiệp trong trường phổ thông
GDHN cho HS được tiến hành dưới nhiều hình thức ở gia đình, nhà
trường và XH, trong đó các HTGDHN ở trường phổ thông giữ vai trò chủ đạo.
Những HTGDHN cơ bản trong trường phổ thông có tính hệ thống, liên
quan chặt chẽ và hỗ trợ lẫn nhau.
a). Hướng nghiệp t
hông qua các môn học
Việc chọn nghề của HS phụ thuộc vào sự hiểu biết chung về hệ thống
nghề nghiệp và phụ thuộc vào những tri thức khoa học khác, vào kỹ năng, kỹ xảo
được hình thành. Bởi vậy cần phải cố gắng dạy các môn học theo tinh thần GD kỹ
thuật tổng hợp – HN.
Những môn khoa học tự nhiên có khả năng HN rất lớn. Qua mối liên
hệ chặt chẽ giữa nội dung các môn học với hoạt động lao động sản xuất của ngành
kỹ th
uật, HS sẽ thấy những tri thức về toán, lý, hoá, sinh vật được dùng trong những
ngành sản xuất nào? Việc nắm những tri thức sẽ mở đường đi vào những nghề gì?
Việc dạy và học các môn khoa học XH có nhiều ý nghĩa chuẩn bị cho
HS đi vào các lĩnh vực XH như: công tác GD, công tác Đoàn - Đội, công tác báo trí,
thư viện, xuất bản, c
ông tác trong lĩnh vực điều khiển, QL, lãnh đạo.
Các môn văn học có khả năng hình thành những kỹ năng, kỹ xảo cần
thiết cho công tác viết văn bản, sách báo, thông tin…
Môn ngoại ngữ giúp cho HS hình thành những kỹ năng, kỹ xảo cần
thiết cho nghiên cứu văn học nước ngoài, nghiên cứu các tư liệu, sách, báo khoa
học, dịch thuật, phiên dịch, phục vụ các khách quốc tế, phóng viên thường trú ở
nước ngoài.
Qua việc học môn lịch sử, GD công dân, HS hiểu được vai trò của lao

động trong sự phát triển X
H, những mục tiêu KT-XH mà cả nước và địa phương, sẽ
hiểu rõ truyền thống và vị trí của giai cấp nông dân, của người lao động. Bản thân
những môn học này có khả năng tạo điều kiện để một số HS trở thành những người
nghiên cứu và giảng dạy các môn nhân văn.
b). Hướng nghiệp thông qua học tập lao động kỹ thuật và lao động sản
xuất
Việc dạy m
ôn kỹ thuật và lao động sản xuất nhằm trang bị những tri
thức về các nguyên lý kỹ thuật, QL sản xuất, tổ chức lao động và hình thành một số
kỹ năng, kỹ xảo lao động, kỹ thuật với một số công cụ kỹ thuật phổ biến.
Như vậy có nghĩa là phải đảm bảo tinh thần GD kỹ thuật tổng hợp –
HN qua dạy lao động kỹ th
uật cho HS. Việc tổ chức lao động tạo ra của cải vật chất
cũng được coi là hoạt động dạy và học theo tinh thần GD kỹ thuật tổng hợp – HN.
Khi tổ chức cho HS tham gia lao động với nông dân, công dân cần có
kế hoạch tỉ mỉ, tổ chức chặt chẽ, lao động khoa học, được tiếp xúc với kỹ thuật mới
để đảm bảo năng s
uất cao, chất lượng tốt và hình thành những hiểu biết mới trong
lao động, gây cho các em có hứng thú với lao động sản xuất công, nông nghiệp.
c). Giới thiệu các ngành, nghề và hướng dẫn chọn nghề dưới hình thức
các buổi sinh hoạt hướng nghiệp
Theo quy định của Bộ GD, để giúp cho HS hiểu biết các ngành, các
nghề, các trường tạm thời sử dụng mỗi tháng một buổi lao động để giới thiệu, tuyên
truyền, giải thích ngành, nghề.
Chương trình sinh hoạt HN có tính hệ thống, liên tục chặt chẽ nhằm
cung cấp cho HS biểu biết về:
- Cách lựa chọn nghề nghiệp cho tương lai.
- Tình hình và yêu cầu phát triển kinh tế, nghề nghiệp của đất nước và
của địa phương trong thời gian tới.

- Đặc điểm, yêu cầu tâm - sinh lý của hệ thống nghề cơ bản trong XH
và địa phương.
- Hệ thống trường, lớp DN của Trung Ương và của địa phương đối
với khu vực kinh tế Nh
à nước, kinh tế tập thể và nhân dân.
- Các hướng đi của HS sau khi ra trường.
d). Hướng nghiệp qua các hoạt động ngoại khoá
Có rất nhiều hoạt động ngoại khoá về GDHN như:
- Cho HS tham quan các CSSX, các trường học nghề.
- Tổ chức các buổi gặp gỡ, trao đổi về nghề nghiệp với cán bộ lãnh
đạo địa phương, cán bộ kinh tế, kỹ thuật, những người lao động giỏi, HSPT
đã ra
trường đang lao động sản xuất hay đang học tập trong các trường học nghề, trường
chuyên nghiệp.
- Phối hợp với Đoàn, Đội tổ chức các buổi tọa đàm, diễn đàn, ra báo
tường để tranh luận về lựa chọn nghề nghiệp.
- Tổ chức các nhóm nghiên cứu, sưu tầm các tài liệu có liên quan với
nghề nghiệp m
à mình thích thú.
- Tổ chức đọc báo, nghe đài, giới thiệu sách, xem phim để tìm hiểu
đặc điểm và yêu cầu của các nghề đang cần phát triển.
1.2.2.5. Một số phương pháp tổ chức hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho
học sinh phổ thông
HN là một hoạt động GD nhằm mục đích hình thành ở HS năng lực hành
động, phát triển ở các em tính tích cực XH, nhằm ĐT những con người năng động,
thích ứng và góp phần phát triển cộng đồng. Vì vậy, phương pháp tổ chức
HĐGDHN có những đặc thù riêng và gồm một số phương pháp đặc thù sau:
- Thuyết trình nêu vấn đề.
- Dạy học theo tình huống.
- Dạy học dự án.

- Dạy học theo nhóm nhỏ.
- Tổ chức thảo luận lớp về nội dung HN.
- Tổ chức trò chơi theo chủ đề HN.
- Đóng vai, mô phỏng.
- Soạn bài giảng bằng phần mềm MS PowerPoint. [39, tr. 62 - 76]
1.2.2.6. Tính chất hướng nghiệp của nhà trường phổ thông Việt Nam
Trong quá trình GD ở trường phổ thông, HS đều chịu những tác động
GDHN, đều đư
ợc chuẩn bị để sẵn sàng tham gia lao động nghề nghiệp sau khi tốt
nghiệp cấp học.
Ở trường tiểu học, thông qua nhiều hoạt động khác nhau HS sẽ được GD
ý thức tôn trọng và gần gũi với người lao động, giúp cho HS hiểu được các nghề ở
địa phương, yêu mến nghề và người lao động của những nghề đó, tự hào với những
nghề truyền thống của địa phương.
Ở trường THCS, HS đư
ợc làm quen với lao động của một nghề, được
định hướng vào những nghề cần phát triển của địa phương. Tính chất HN ở THCS
đã được thể hiện sâu sắc hơn, đậm nét hơn so với ở tiểu học. Công tác HN đã gắn
với định hướng chọn nghề của HS.
Ở trường THPT, vấn đề học nghề cũng như cô
ng tác HN được đặt ra bức
thiết hơn. Một bộ phận HS tốt nghiệp THPT sẽ học tiếp lên, do đó công tác HN có
trách nhiệm giúp cho các em định hướng vào các trường ĐH, cao đẳng hoặc TCCN
nào đó. Đối với bộ phận HS còn lại, công tác HN chuẩn bị cho các em đi vào những
ngành, nghề ở địa phương và trên cơ sở đó sẽ DN cho các em. [8, tr. 44]



1.2.3. Một số kiến thức lý luận về quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp
trong trường THPT

1.2.3.1. Chức năng của công tác hướng nghiệp trong trường phổ thông
Trong công tác GD, HN là quá trình chuẩn bị cho HS đi vào cuộc sống
lao động nghề nghiệp. Nghề nghiệp là vị trí chiến đấu của người lao động trên mặt
trận sản xuất. Trong quá trình này, hình thành ở các em tâm lý sẵn sàng đi vào lao
động sản xuất trong một nghề cụ thể. Sự sẵn sàng tâm lý đi và
o lao động sản xuất là
một khái niệm cơ bản trong lĩnh vực HN, là trạng thái tích cực của nhân cách cụ thể
trước nghề nghiệp tương lai và là trạng thái tâm lý cần có của thanh niên, HS phấn
khởi bước vào nghề, cống hiến được nhiều nhất cho nghề, làm tăng năng suất lao
động XH, đưa nền sản xuất nước nhà ra khỏi tình trạng trì trệ và thấp kém
… Sự sẵn
sàng tâm lý được thể hiện ở nhiều phương diện khác nhau: sẵn sàng về đạo đức, về
tri thức, về tình cảm, về tư tưởng… Vì vậy, HN không đơn thuần là việc chuẩn bị
cho HS năng lực lao động, năng lực tiếp thu kỹ thuật sản xuất, mà còn chuẩn bị về
đạo đức và lương tâm nghề nghiệp, về ý thức và lòng yêu nghề, về tình cảm gắn bó
với nghề… [8, tr. 46 - 47]
1.2.
3.2. Nhiệm vụ của giáo dục hướng nghiệp trong trường phổ thông
Dưới góc độ XH, công tác HN có ba nhiệm vụ chủ yếu:
a). Định hướng nghề nghiệp cho học sinh
Cuộc đời lập nghiệp của thanh niên, HS thường trải qua bốn giai
đoạn: Định hướng nghề, chọn nghề, học nghề và hành nghề.
Định hướng nghề là một quá trình hoạt động tích cực, tự giác của HS
dưới sự hướng dẫn của nhà trường, của gia đình cùng sự hỗ trợ của các Trung tâm

kỹ thuật HN và của các tổ chức XH để giúp HS tìm hiểu về thế giới nghề nghiệp để
sau này chọn được một nghề phù hợp trong kỳ thi tuyển sinh hằng năm hay trực tiếp
tham gia lao động sau khi rời khỏi trường phổ thông.
Công việc chủ yếu của định hướng nghề trong nhà trường phổ thông
bao gồm:

- GD nghề nghiệp cho HS làm quen với một số nghề cơ bản, phổ
biến ở XH và địa phương, tìm hiểu xu thế phát triển các nghề và những yêu cầu tâm
- sinh lý của nghề. Tạo điều kiện ban đầu để HS phát triển năng lực tương ứng với
hứng thú nghề nghiệp đã hình thành.
- GD thái độ lao động đúng đắn, uốn nắn những biểu hiện lệch
lạc
trong dự định chọn nghề của HS.
- Tuyên truyền nghề nghiệp nhằm làm cho HS chú ý với những nghề
đang có nhu cầu cấp thiết về nhân lực đang cần lao động trẻ tuổi; định hướng chú ý
của HS vào những ngành, nghề hay lĩnh vực kinh tế mà nhà nước địa phương đang
cần phát triển. Đồng thời, điều chỉnh húng thú, động cơ nghề nghiệp của HS thông
qua các gương lao động dũng cảm
, sáng tạo trong sản xuất và đời sống XH.
b). Tư vấn nghề nghiệp cho HS nhằm xác lập tương quan giữa những đặc
điểm của nhân cách HS với những yêu cầu tâm – sinh lý của nghề nghiệp. Trên cơ
sở đó cho những lời khuyên bổ ích, chỉ ra hướng đi và sự lựa chọn nghề nghiệp
thích hợp cho từng HS.
Tư vấn HN
là mảng thứ hai giúp cho HS định hướng nghề, bao gồm
bốn hoạt động chính:
- Một là tư vấn tuyển sinh trong kỳ thi ĐH, cao đẳng và TCCN hàng
năm
- Hai là tư vấn HN để giúp HS tìm hiểu thế giới nghề nghiệp, tìm hiểu
và đối chiếu giữa năng lực của bản thân với những nhu cầu đòi hỏi khách quan của
nghề để từ đó có sự lựa chọn cho mình một nghề phù hợp.

- Ba là giới thiệu về gương người thật, việc thật tiêu biểu, giới thiệu về
một số nghề phổ biến ở địa phương và trong XH, giới thiệu về một số nghề thủ
công trong các làng nghề truyền thống. Đây là hoạt động giúp cho HS có ý chí phấn
đấu vươn lên và có kinh nghiệm trong cuộc sống tương lai.

- Bốn là cung cấp cho HS những kiến thức, kỹ năng sống để HS dễ
hòa nhập vào nhịp sống mà không bị những s
ai lầm trên đường lập nghiệp.

×