Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Tiểu luận Ý thức và sự vận dụng của ý thức vào học tập của sinh viên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.84 KB, 28 trang )

NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

Học viện ngân hàng
*****





Tiểu luận triết học
TÊN ĐỀ TÀI: Ý THỨC VÀ SỰ VẬN DỤNG CỦA Ý THỨC VÀO HỌC TẬP
CỦA SINH VIÊN

Người hướng dẫn: Cô giáoTrần Thị Thảo Nguyên.
Sinh viên thực hiện: Lê Thị Hồng
Líp: 7041
Khoa: Ngân hàng

Hà nội, ngày tháng năm


Ý thức và sự vận dụng ý thức vào học tập của sinh viên.

Mục lục
Trang

Mở đầu

3

Chương I: Lí luận về ý thức và vai trò của sinh viên



5

I: Lí luận về ý thức5

5

A:Nguồn gốc của ý thức5

5

B:Bản chất của ý thức10

10

C:Kết cấu của ý thức 12

12

II: Lí luận về sinh viên15

15

III: Lí luận về vai trò của ý thức đối với sinh viên16

16

Chương II: Sự vận dụng của ý thức vào học tập của sinh
viên


18

I:Thực trạng của sinh viên18

18

II: Những giải pháp chủ yếu để nâng cao chất lượng sinh viên23

23

Kết luận

29

Tài liệu tham khảo

30

2


Ý thức và sự vận dụng ý thức vào học tập của sinh viên.

Phần mở đầu
Nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bắt đầu tiến lên công nghiệp
hoá hiện đại hoá đất nước, vì vậy bước đầu còn gặp rất nhiều khó khăn về cơ
sở vật chất cũng như về năng lực người lao động. Cùng với mặt bằng dân trí
còn thấp, số người được đào tạo có trình độ tay nghề cao cũng như số người
có trình độ đại học và sau đại học còn Ýt. Trước tình hình đó chúng ta cần
phải làm gì để tránh khỏi nguy cơ tụt hậu so với các nước trong khu vực và

trên thế giới? Câu hỏi này đặt ra cho chóng ta một vấn đề đó là sự lùa chọn
bước đi và trình tự ưu tiên phát triển khoa học – công nghệ . Nghĩa là cần
phải có tri thức vì tri thức là khoa học chúng ta phải không ngừng nâng cao
khả năng nhận thức của mỗi người.
Đảng nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu bắt đầu tiến lên công
nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước, vì vậy bước đầu còn gặp rất nhiều khó
khăn về cơ sở vật chất cũng như về năng lực người lao động. Đến nay phần
đông người lao động là lao động chưa được đào tạo. Mà sự nghiệp công
nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước đang đòi hỏi rất cao và gay gắt vốn trí tuệ
và tầm cao phẩm chất của toàn dân. Nhà nước ta đã và đang thực hiện chủ
trương, định hướng chính sách mới để phát huy vai trò của nhân tố con
người nói chung và của toàn thể sinh viên nói riêng. Song quá trình đó đã
gặp không Ýt khó khăn, điều này đã dẫn tới việc quán triệt đường lối chính
sách của đảng chỉ mang tính hình thức, chưa thực sự hiệu quả. Do vậy một
đòi hỏi cấp bách đối với đảng và nhà nước là phải làm sao đưa ra đường lối
đúng đắn, quán triệt thực hiện một cách triệt để những gì đã đề ra, tiếp tục
sửa sai, đổi mới phát huy mặt tích cực để hợp lý hoá chủ trương chính sách .
Đối với mỗi con người chúng ta rất nên quan tâm đến việc phát huy vai trò
3


Ý thức và sự vận dụng ý thức vào học tập của sinh viên.

của bản thân, đóng góp năng lực, trí tuệ, lao động, cho xã hội, cống hiến hết
mình cho xứng đáng là con người của công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước
mạnh.Trên cơ sở lý luận biện chứng của triết học Mac-Lênin kết hợp với
nhiều phương pháp nghiên cứu, trình bày, em hy vọng đề tài này sẽ giúp cho
các bạn sinh viên có được sự vận dụng tốt hơn những kiến thức của triết học
trong việc tìm kiếm những tri thức.


4


Ý thức và sự vận dụng ý thức vào học tập của sinh viên.

CHƯƠNGI. LÝ LUẬN VỀ Ý THỨC VÀ VAI TRÒ CỦA SINH VIÊN
I.

LÝ LUẬN VỀ Ý THỨC

A. NGUỒN GỐC CỦA Ý THỨC :

* Về nguồn gốc tự nhiên: dùa trên cơ sở của những thành tựu khoa học tự
nhiên , nhất là sinh lý học thần kinh, chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng,
ý thức không phải có nguồn gốc siêu tự nhiên, không phải ý thức sản sinh ra
vật chất, mà chỉ là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc
người. Bộ óc người là cơ quan vật chất của ý thức. ý thức là chức năng của
bộ óc người. Ý thức phụ thuộc vào hoạt động bộ óc con người , do đó khi bộ
óc người bị tổn thương thì hoạt động của ý thức sẽ không bình thường. Vì
vậy không thể tách rời ý thức ra khỏi hoạt động của bộ óc. ý thức không thể
diễn ra, tách rời hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc người .
Khoa học đã xác định con người là sản phẩm cao nhất của quá trình phát
triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp của vật chất vận động, đồng
thời đã xác định bộ óc của con người là một tổ chức sống đặc biệt có cấu
trúc tinh vi và phức tạp bao gồm khoảng 14-15 tỷ tế bào thần kinh. Các tế
bào này có liên hệ với nhau và với các giác quan, tạo thành vô số những mối
liên hệ với nhau, điều khiển hoạt động của cơ thể trong quan hệ với thế giới
bên ngoài qua các phản xạ mang tính ý thức. Khi khoa học kỹ thuật tạo ra
những máy móc thay thế cho một phần lao động trí óc của con người thì
không có nghĩa là máy móc có ý thức như con người. Máy móc là một kết

cấu kỹ thuật do con người tạo ra, còn con người là một thực thể xã hội. Máy
móc không thể thay thế cho hoạt động trí tuệ của con người, không thể sáng
tạo lại hiện thực dưới dạng tinh thần trong bản thân nó như trong con người.
Do đó chỉ có con người với bộ óc mới có ý thức.
Nhưng tại sao bộ óc con người – một tổ chức vật chất cao – lại có thể sinh
5


Ý thức và sự vận dụng ý thức vào học tập của sinh viên.

ra được ý thức? Để trả lời câu hỏi này chúng ta phải nghiên cứu mối liên hệ
vật chất giữa bộ óc với thế giới khách quan. Chính mối liên hệ vật chất Êy
hình thành nên quá trình phản ánh thế giới vật chất vào bộ óc người.
Phản ánh là thuộc tính phổ biến trong mọi dạng vật chất. Phản ánh là sự tái
tạo những đặc điểm của một hệ thống vật chất này ở một hệ thống vật chất
khác trong quá trình tác động qua lại giữa chúng. Kết quả của sự phản ánh
phụ thuộc vào cả hai vật (vật tác động và vật nhận tác động). Trong quá trình
Êy, vật nhận tác động bao giê cũng mang thông tin của vật tác động. Đây là
điều quan trọng để làm sáng tỏ nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
Trong quá trình tiến hoá của thế giới vật chất, các vật thể càng ở nấc
thang cao bao nhiêu thì hình thức phản ánh của nó càng phức tạp bấy nhiêu.
Hình thức phản ánh đơn giản nhất, đặc trưng cho giới tự nhiên vô sinh là
những phản ánh vật lý, hoá học. Những hình thức phản ánh này có tính chất
thụ động, chưa có định hướng sự lùa chọn. Hình thức phản ánh sinh học đặc
trưng cho giới tự nhiên sống là bước phát triển mới về chất trong sự tiến hoá
của các hình thức phản ánh.
Hình thức phản ánh của các cơ thể sống đơn giản nhất là biểu hiện ở tính
kích thích, tức là phản ứng trả lời tác động của môi trường bên ngoài có ảnh
hưởng trực tiếp đến quá trình trao đổi chất của chúng. Hình thức phản ánh
tiếp theo của các động vật chưa có hệ thần kinh là tính cảm ứng, tính nhạy

cảm đối với sự thay đổi của môi trường. Hình thức phản ánh của các động
vật có hệ thống thần kinh là các phản xạ. Hình thức phản ánh ở động vật bậc
cao khi có hệ thần kinh trung ương xuất hiện là tâm lý.

6


Ý thức và sự vận dụng ý thức vào học tập của sinh viên.

Như vậy, phản ánh sinh học trong các cơ thể sống đã có sự định hướng, sự
lùa chọn, nhờ đó các sinh vật thích nghi với môi trường để duy trì sự tồn tại
của mình. Phản ánh sinh học được thực hiện thông qua các hình thức thích
nghi ở thực vật, các phản xạ ở động vật có hệ thống thần kinh và tâm lý ở
động vật bậc cao. Tâm lý động vật chưa phải là ý thức, nó mới là sự phản
ánh có tính chất bản năng do nhu cầu trực tiếp của sinh lý cơ thể và do quy
luật của sinh học chi phối.
Hình thức cao nhất của sự phản ánh hiện thực là ý thức. ý thức chỉ nảy
sinh ở giai đoạn phát triển cao của thế giới vật chất cùng với sự xuất hiện
con người. ý thức bắt nguồn từ thuộc tính của vật chất – thuộc tính phản ánh
phát triển thành. ý thức ra đời là kết quả phát triển lâu dài của thuộc tính
phản ánh của vật chất. Nội dung của ý thức là thông tin về thế giới bên ngoài
, về vật được phản ánh. ý thức là sự phản ánh thế giới bên ngoài vào đầu óc
con người. Bộ óc là cơ quan phản ánh, song chỉ riêng bộ óc thôi thì chưa thể
có ý thức. Không có sự tác động bên ngoài của thế giới khách quan lên các
giác quan và qua đó đến bộ óc thì hoạt động của ý thức không thể xảy ra.
Như vậy bộ óc con người (cơ quan phản ánh thế giới vật chất xung quanh)
cùng với thế giới bên ngoài tác động lên bộ óc - đó là nguồn gốc tự nhiên
của ý thức.
* Nguồn gốc xã hội: để cho ý thức ra đời những tiền đề nguồn gốc tự
nhiên là rất quan trọng, song là chưa đủ nêu không có nguồn gốc xã hội. ý

thức ra đời cùng với quá trình hình thành bộ óc con người nhờ lao động,
ngôn ngữ và các quan hệ xã hội.

7


Ý thức và sự vận dụng ý thức vào học tập của sinh viên.

Lao động theo Mac là một quá trình diễn biến giữa người với tự nhiên,
một quá trình trong đó bản thân con người đóng góp vào quá trình môi giới,
điều tiết và giám sát trong sù trao đổi vật chât và tự nhiên. Lao động là điều
kiện đầu tiên và chủ yếu để con người tồn tại. Lao động cung cấp cho con
người những phương tiện cần thiết để sống , đồng thời lao động sáng tạo ra
cả bản thân con người. Nhờ có lao động con người tách ra khỏi giới động
vật.
Mét trong những sự khác nhau căn bản giữa con người với động vật là ở
chỗ động vật sử dụng các sản phẩm có sẵn trong giới tự nhiên, còn con
người thì nhờ lao động mà bắt giới tự nhiên phục vụ lợi Ých của mình.
Chính thông qua hoạt động lao động nhằm cải tạo thế giới khách quan mà
con người có thể phản ánh được thế giới khách quan, mới có ý thức về thế
giới đó.

Sự hình thành ý thức không phải là quá trình thu nhận thụ động, mà đó là
kết quả hoạt động của con người. Nhờ có lao động, con người tác động vào
thế giới khách quan, bắt thế giới khách quan bộc lé những thuộc tính những
kết cấu, những quy luật vận động của mình thành những hiện tượng nhất
định và các hiện tượng Êy tác động vào bộ óc con người, hình thành dần
những tri thức về tự nhiên và xã hội. Như vậy, nếu không có lao động thì thế
giới tự nhiên vẫn xa lạ, vẫn bí Èn đối với con người, con người không thể có
cách nào khác ngoài lao động để có thể phản ánh đúng đắn thế giới khách

quan .
Như vậy, ý thức được hình thành chủ yếu do hoạt động cải tạo thế giới
8


Ý thức và sự vận dụng ý thức vào học tập của sinh viên.

khách quan của con người, làm biến đổi thế giới đó. ý thức với tư cách là
hoạt động phản ánh sáng tạo không thể có được ở bên ngoài quá trình con
người lao động làm biến đổi thế giới xung quanh. Vì thế, có thể nói khái
quát rằng lao động tạo ra ý thức, tư tưởng, hoặc nguồn gốc cơ bản của ý thức
tư tưởng là sự phản ánh thế giới khách quan vào đầu óc con người trong quá
trình lao động của con người .
Lao động không xuất hiện ở trạng thái đơn nhất, ngay từ đầu nó đã mang
tính tập thể xã hội. Vì vậy, nhu cầu trao đổi kinh nghiệm và nhu cầu trao đổi
tư tưởng cho nhau xuất hiện. Chính nhu cầu đó đòi hỏi xuất hiện ngôn ngữ.
Ngôn ngữ do nhu cầu của lao động và nhờ lao động mà hình thành nên.
Nên ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức. Không có
ngôn ngữ thì ý thức không thể tồn tại và phát triển được.
Ngôn ngữ cũng cổ xưa như ý thức. Ngôn ngữ vừa là phương tiện giao tiếp
trong xã hội, vừa là công cụ tư duy nhằm khái quát hoá,trừa tượng hoá hiện
thực. Nhờ ngôn ngữ mà con người tổng kết được thực tiễn, trao đổi thông
tin, trao đổi tri thức từ thế hệ này sang thế hệ khác. Ý thức không phải thuần
tuý là hiện tượng cá nhân mà là hiện tượng xã hội, do đó không có phương
tiện xã hội về mặt ngôn ngữ thì ý thức không thể hình thành và phát triển
được .
Như vậy, nguồn gốc trực tiếp quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát
triển của ý thức là lao động, là thực tiễn xã hội. Ý thức phản ánh hiện thực
khách quan vào bộ óc con người thông qua lao động, ngôn ngữ và các quan
hệ xã hội, ý thức là sản phẩm cuả xã hội, là một hiện tượng xã hội.


B-BẢN CHẤT CỦA Ý THỨC
Dùa trên cơ sở lý luận phản ánh, chủ nghĩa duy vật biện chứng coi ý thức
là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc người một cách năng
động sáng tạo:
9


Ý thức và sự vận dụng ý thức vào học tập của sinh viên.

Trước hết, để hiểu bản chất của ý thức, chúng ta thừa nhận cả vật chất và ý
thức đều là hiện thực nghĩa là đều tồn tại nhưng giữa chúng có sự khác nhau
mang tính đối lập. Ý thức là sự phản ánh, là cái phản ánh còn vật chất là cái
được phản ánh. Cái được phản ánh tức là vật chất, tồn tại khách quan ở
ngoài và độc lập với cái phản ánh tức là ý thức. Cái phản ánh tức là ý thức là
hiện thực chủ quan, là hình ảnh chủ quan hay là hình ảnh tinh thần của sự
vật khách quan lấy cái khách quan làm tiền đề bị cái khách quan quy định
không có tính vật chất.
Vì vậy, không thể đồng nhất hoặc tách rời cái được phản ánh tức vật chất
với cái phản ánh tức ý thức, nếu coi phản ánh tức ý thức là hiện tượng vật
chất thì sẽ lẫn lộn giữa vật chất và ý thức, từ đó dẫn đến làm mất ý nghĩa
duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
Thứ hai: khi nói đến cái phản ánh– tức ý thức –là hình ảnh của thế giới
khách quan, thì đó không phải là hình ảnh vật lý hay hình ảnh tâm lý động
vật về sự vật. Ý thức là của con người, mà con người là một thực thể xã hội
năng động sáng tạo. Ý thức ra đời trong quá trình con người hoạt động cải
tạo thế giới, cho nên ý thức con người mang tính năng động, sáng tạo, lại
hiện thực theo nhu cầu của xã hội. Theo C-Mac, ý thức chẳng qua là vật chất
được đem chuyển vào đầu óc con người và được cải biến đi trong đó.
Tính sáng tạo của ý thức thể hiện rất phong phú. Trên cơ sở những cái đã

có trước, ý thức có khả năng tạo ra tri thức mới về sự vật, có thể tưởng
tượng ra cái không có trong thực tế, có thể tiên đoán, dự báo tương lai, có
thể tạo ra những ảo tượng, những huyền thoại, những giả thuyết khoa học
hết sức trừu tượng và khái quát cao. Những khả năng Êy càng nói lên tính
phức tạp và phong phú của đời sống tâm lý–ý thức ở con người mà khoa học
con phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu để làm sáng tỏ bản chất của những hiện
10


Ý thức và sự vận dụng ý thức vào học tập của sinh viên.

tượng Êy.
Trong quá trình hoạt động cải tạo thế giới , ý thức đã ra đời. Cho nên quá
trình phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người là quá trình lao
động sáng tạo , thống nhất giữa ba mặt sau:
1- Trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh. Sự trao đổi
thông tin này mang tính hai chiều, có định hướng, có chọn lọc thông tin cần
thiết
2- Mô hình hoá đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần.
Thực chất đây là quá trình “ sáng tạo” lại hiện thực theo nghĩa mã hoá các
đối tượng vật chất thành các ý tưởng tinh thần phi vật chất.
3- Chuyển mô hình từ tư duy sang hiện thực khách quan tức là quá trình
hiện thực hoá tư tưởng, thông qua những hoạt động thực tiễn biến đổi quan
niệm thành cái thực tại, biến đổi các ý tưởng phi vật chất trong tư duy thành
các dạng vật chất ngoài hiện thực. Trong giai đoạn này, con người lùa chọn
những phương pháp, phương tiện, công cụ để tác động vào hiện thực khách
quan nhằm hiện thực hoá mục đích của mình.
Tính sáng tạo của ý thức không có nghĩa là ý thức tạo ra vật chất. Sáng tạo
Êy của ý thức là sáng tạo của sự phản ánh, theo quy luật và trong khuôn khổ
của sự phản ánh mà kết quả bao giê cũng là những khách thể tinh thần. Sáng

tạo và phản ánh là hai mặt của bản chất ý thức. Ý thức là sự phản ánh và
chính thực tiễn xã hội đã tạo ra sự phản ánh phức tạp , năng động , sáng tạo
của bộ óc .
Tính xã hội của ý thức: sự ra đời tồn tại của ý thức gắn liền với hoạt động
thực tiễn lịch sử, chịu sự chi phối không chỉ của các quy luật sinh học mà
chủ yếu là các quy luật xã hội và các điều kiện sinh hoạt của hoạt động con
người quy định. Ý thức mang tính xã hội.
C-KẾT CẤU CỦA Ý THỨC
11


Ý thức và sự vận dụng ý thức vào học tập của sinh viên.

Theo chiều ngang, ý thức bao gồm các yếu tố cấu thành như tri thức, tình
cảm niềm tin, lý trí ….trong đó tri thức là yếu tố cơ bản, cốt lõi.
Tri thức là kết quả của quá trình nhận thức của con người về thế giới hiện
thực, làm tái hiện trong tư tưởng những thuộc tính, những quy luật của thế
giới Êy và diễn đạt chúng dưới hình thức ngôn ngữ hoặc các hệ thống ký
hiệu khác.
Tri thức có nhiều loại khác nhau: tri thức về tự nhiên, về xã hội, vế con
người. Tri thức có nhiều cấp độ khác nhau như: tri thức thông thường được
hình thành do hoạt động hàng ngày của mỗi cá nhân, mang tính chất cảm
tính trực tiếp, bề ngoài và rời rạc. Tri thức khoa học phản ánh trình độ con
người đi sâu nhận thức thế giới hiện thực.
Ngày nay, vai trò động lực của tri thức với sự phát triển kinh tế, xã hội trở
nên rõ ràng, nổi bật . Loài người đang bước vào nền kinh tế tri thức, là nền
kinh tế trong đó sự sản sinh ra tri thức giữ vai trò quyết định. Trong nền kinh
tế tri thức , đa số các ngành kinh tế dùa vào tri thức, dùa vào thành tựu mới
nhất của khoa học và công nghệ, vì vậy đầu tư vào tri thức là yếu tố then
chốt cho sự tăng trưởng kinh tế dài hạn.

Nhấn mạnh yếu tố tri thức là yếu tố cơ bản nhất của ý thức giúp chúng ta
tránh được quan điểm giản đơn coi tri thức những yếu tố tình cảm, niềm
tin… ý thức mà không bao giê hàm tri thức, không dùa vào tri thức thì đó là
hiện tượng trừa tượng trống rỗng, không giúp gì cho con người trong hoạt
động thực tiễn.
Tình cảm là sự cảm động của con người trong quan hệ của mình với thực
tế xung quanh và đối với bản thân mình. Tình cảm là một thái độ đặc biệt
của sự phản ánh thực tại, nó phản ánh quan hệ của con người đối với nhau,
cũng như đối với thế giới khách quan. Tình cảm tham gia vào mọi hoạt động
của con người và giữ một vị trí quan trọng trong việc điều chỉnh hoạt động
12


Ý thức và sự vận dụng ý thức vào học tập của sinh viên.

của con người. Tình cảm có thể mang tính chất chủ động,chứa đựng sắc thái
tình cảm tích cực, hoặc thụ động chứa sắc thái tiêu cực. Tình cảm tích cực là
một trong những động lực nâng cao năng lực sống của con người. Tri thức
kết hợp với xúc cảm, tình cảm hình thành nên niềm tin, nâng cao ý trí tích
cực biến thành hành động thực tế mới phát huy được sức mạnh của mình.
Theo chiều dọc: đó là cách tiếp cận theo chiều sâu của thế giới con người.
Đồng thời cũng tự nhận thức bản thân mình. Đó chính là ý thức, như vậy, tự
ý thức cũng là ý thức, là một trong những yếu tố rất quan trọng của ý thức ,
nhưng đây là ý thức về bản thân mình trong mối quan hệ với thế giới bên
ngoài. Nhờ vậy ,con người tự nhận thức về bản thân mình như một thực thể
hoạt động có cảm giác tư duy, có hành vi đạo đức và có một vị trí trong xã
hội .
Những cảm giác của con người về bản thân mình trên mọi phương tiện
giữ vai trò quan trọng trong việc hình thành tự ý thức. Con người chỉ có thể
tự ý thức được bản thân mình trong quan hệ với người khác, trong quá trình

hoạt động cải tạo thế giới. Chính trong quan hệ xã hội, trong hoạt động thực
tiễn xã hội và qua những giá trị văn hoá vật chất và tinh thần do con người
tạo ra, con người phải tự ý thức về mình để nhận rõ bản thân mình, tự điều
chỉnh bản thân theo quy tắc, các chuẩn mực mà xã hội đề ra.
Tù ý thức không chỉ là tự ý thức cá nhân mà còn là tự ý thức của một xã
hội, của một giai cấp hay một tầng líp xã hội về địa vị và về vai trò của mình
trong hệ thống những mối quan hệ sản xuất xác định, về lý tưởng và lợi Ých
chung của xã hội mình, của giai cấp mình. Trong quá trình thực hiện sự
nghiệp công nghiệp, hiện đại hoá đất nước, trên cơ sở lý luận Mac-Lênin và
13


Ý thức và sự vận dụng ý thức vào học tập của sinh viên.

tư tưởng Hồ Chí Minh đòi hỏi mỗi chúng ta tù ý thức được vai trò của mình
đối với đất nước.
II-LÝ LUẬN VỀ SINH VIÊN
Sinh viên là từ ngữ dùng để chỉ những người đang theo học ở bậc đại học
và cao đẳng ( gọi chung là đại học), điều đó cũng có nghĩa là hoạt động lao
động chủ yếu của họ là học tập và môi trường học tập của họ là ở các trường
đại học. Nghiên cứu về sinh viên ta thấy họ có những đặc điểm chủ yếu sau
đây:
-

Sinh viên là bộ phận ưu tó của thanh niên nói chung, vì họ học lực từ

khá trở lên, có chứng nhận về đạo đức tốt và tất cả đã được sàng lọc qua các
kỳ thi tuyển sinh quốc gia .
-


Trong xu hướng phát triển của xã hội, lực lượng sinh viên ngày càng

tăng trong cơ cấu dân cư. Họ xuất thân từ mọi tầng líp khác nhau trong xã
hội và cùng nhau học tập trong môi trường đại học. Trong trường đại học,
lực lượng này được tập hợp có tổ chức, có sự quản lý chặt chẽ của nhà
trường và các tổ chức đoàn thể như đoàn thanh niên, hội sinh viên, do đó dễ
thống nhất hành động theo những mục tiêu chung. Hơn nữa, sinh viên là líp
người có khả năng tiếp thu nhanh những cái mới, nhạy cảm với những biến
động của tình hình kinh tế – xã hội. Cuộc sống trong trường đại học làm nảy
sinh ở sinh viên những nhu cầu mới như nhu cầu tìm hiểu để mở rộng kiến
thức, nhu cầu tự học ,tự đào tạo , nhu cầu NCKH, nhu cầu tự khẳng định
bản thân trước tâp thể sinh viên và trước xã hội, nhu cầu về văn hoá nghệ
thuật, thể thao , về tình bạn, tình yêu… các nhu cầu này ngày càng phát triển
cao theo định hướng nghề nghiệp trong quá trình học đại học .
-

Ngoài ra , ở sinh viên cũng có những biểu hiện tâm lý như bốc đồng,

cả tin, tò mò, hiếu kỳ, dễ bị kích động, hiếu thắng, a dua,đánh giá các hiện
tượng xã hội một cách nông cạn, dễ có thái độ cực đoan …
14


Ý thức và sự vận dụng ý thức vào học tập của sinh viên.

-

Với những đặc điểm chính đó, ta thấy thế giới nội tâm của sinh viên

hết sức phức tạp và có nhiều mâu thuẫn như: mâu thuẫn giữa ước mơ và

hiện thực , mâu thuẫn giữa khối lượng thông tin với khả năng tiếp nhận và
chuyển hoá thông tin đó thành tri thức của bản thân; mâu thuẫn giữa thực lực
kinh tế còn phụ thuộc và han hẹp với mong muốn khẳng định mình về mặt
kinh tế …những mâu thuẫn này thường biểu hiện ra ở mỗi cá nhân bằng
những hành vi có tính đạo đức.

III- LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA Ý THỨC ĐỐI VỚI SINH VIÊN
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định vai trò quyết định của vật chất
đối với ý thức đồng thời cũng vạch rõ sự tác động ngược lại vô cùng quan
trọng của ý thức đối với vật chất. Ý thức do vật chất sinh ra và quyết định,
song sau khi ra đời, ý thức có tính độc lập tương đối nên có sự tác động
ngược trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
Nói tới vai trò của ý thức là nói tới vai trò của con người vì ý thức là ý
thức của con người. Bản thân ý thức không không thể thay đổi được gì trong
hiện thực. Ý thức muốn tác động trở lại đời sống hiện thực phải bằng lực
lượng vật chất, nghĩa là phải được con người hoạt động trong thực tế. Điều
Êy có nghĩa là sự tác độngtrở lại của ý thức với vật chất phải thông qua hoạt
động của con người được bắt đầu bằng khâu nhận thức quy luật khách quan,
biết vận dụng đúng đắn quy luật khách quan, phải có phương pháp để tổ
chức hành động.
Vai trò của ý thức là ở chỗ trang bị cho con người những tri thức cơ bản về
quy luật khách quan của đối tượng, trên cơ sở Êy, con người xác định đúng
đắn mục tiêu và đề ra phương hướng hoạt động phù hợp. Tiếp theo là con
người với ý thức của mình xác định các biện pháp thực hiện tổ chức các hoạt
động thực tiễn. Cuối cùng bằng sự nỗ lực và ý trí của mình. Con người có
15


Ý thức và sự vận dụng ý thức vào học tập của sinh viên.


thể quyết định làm cho mình hoạt động đúng và thành công khi phản ánh
đúng thế giới khách quan, vì đó là cơ sở quan trọng trong việc xác định mục
tiêu, phương hướng, biện pháp chính xác.
Thực tế cho thấy ý thức của sinh viên thường biến đổi theo hai xu hướng
chính sau:
-

Xu hướng tích cực: khi đứng trước những mâu thuẫn, bằng sự thông

minh, sức sáng tạo và nghị lực, nhiều sinh viên biết tận dụng mọi cơ hội,
mọi khả năng để vượt qua những thử thách của cuộc sống sinh viên và đi từ
thành công trong học tập đến những thành công trong nghiên cứu khoa học,
trong hoạt động đoàn thể, do đó họ có thể tự tin bước vào đời.
-

Xu hướng tiêu cực: Biểu hiện ở thái độ thờ ơ, vô trách nhiệm, ở sự bi

quan, chán nản, trông chờ, ỷ lại hay ở những hành động có tính cực đoan,
chạy theo lợi Ých của cá nhân, cơ hội, vụ lợi, a dua theo cái xấu, đua đòi, giả
dối, gian lận trong thi cử ….

16


Ý thức và sự vận dụng ý thức vào học tập của sinh viên.

CHƯƠNG II: Sự

vận dụng của ý thức vào học tập của sinh
viên


i. Thực trạng giáo dục
A.Những thành tựu đạt được.
Trong sự nghiệp giáo dục, nước ta đã thu được những thành công đáng kể.
Trong thành tích chung Êy có sự đóng góp đáng kể của những cán bộ khoa
học trẻ là những cựu sinh viên hoặc của tất cả các trường đại học trong cả
nước. Những thành công mà họ đạt được là biểu hiện của những nhận thức
về giá trị đạo đức nói riêng và về ý thức nói chung, và những việc làm của
họ chính là hành vi đạo đức trong thực tiễn. Nhắc đến sinh viên hôm nay
chóng ta không thể phủ nhận kết quả của phong trào thanh niên tình nguyện,
phong trào thi đua nghiên cứu khoa học của sinh viên đã đem về các giải
thưởng trí tuệ Việt Nam, giải nhất cuộc thi quốc tế về chế tạo RôBốt tại Nhật
Bản … sinh viên đang từng ngày khẳng định những giá trị đạo đức của mình
trong cơ chế mới .
Trong những năm gần đây, số lượng sinh viên đã tăng đáng kể. So với
năm1991-1992 thì năm học 1995-1996 sè sinh viên đại học đã tăng 2,7 lần .
Giáo dục sau đại học đã đào tạo được một số lượng đáng kể cán bộ có trình
độ cao mà trước đây ta phải dùa chủ yếu vào nước ngoài.
Giáo dục đào tạo đã góp phần nâng cao dân trí, đào tạo đội ngò lao động
và đội ngò đông đảo cán bộ phục vụ cho các nhu cầu phát triển kinh tế– xã
hội.
Chất lượng giáo dục đào tạo có tiến bộ bước đầu, xuất hiện nhiều nhân tố
mới, nguyên nhân là do các sinh viên khuấy động phong trào học tập của các

17


Ý thức và sự vận dụng ý thức vào học tập của sinh viên.

cán bộ và nhân dân. Nhờ kết quả đổi mới, các mặt kinh tế–xã hội phát triển,

đời sống nhân dân khá lên làm nảy sinh nhu cầu học tập ngày càng tăng.
Các loại hình trường lóp từ phổ thông tới đại học đã đa dạng hơn, tạo cơ
hội để mỗi người dân có thể học tập theo hình thức phù hợp. Đã huy động
được thêm các nguồn lực ngoài ngân sách nhà nước để phát triển giáo dục
-đào tạo. Các phương tiện thông tin đại chóng đã xây dựng các chuyên mục
phục vụ giáo dục, rồi hợp tác quốc tế về giáo dục được mở rộng…Tất cả
những thuận lợi kể trên đã phần nào làm cho chất lượng học tập của sinh
viên được cải thiện đáng kể.
* Nguyên nhân của những thành tựu:
Trước hết là do có đường lối giáo dục- đúng đắn của đảng và nhà nước ta,
chính sách đổi mới giáo dục- đào tạo thể hiện tập trung ở nghị quyết hội
nghị lần thứ tư ban chấp hành trung ương đảng.
Hai là: Truyền thống hiếu học của nhân dân ta được phát huy, nhu cầu học
tập của nhân dân ta không ngừng tăng lên, nhân dân đóng góp rất nhiều vào
công cuộc xây dựng trường líp và chăm lo cho sự nghiệp giáo dục.
Ba là: Đội ngò giáo viên cán bộ quản lý giáo dục và số đông học sinh, sinh
viên có những cố gắng rất lớn. Đại bộ phận các thầy cô giáo có tâm huyết
gắn bó với nghề, các giáo viên ở vùng sâu, vùng xa nêu cao tinh thần chịu
đựng gian nan, hy sinh nhiều .
Bốn là: các cấp chính uỷ đảng, chính quyền đoàn thể và nhân dân nhận
thức rõ hơn về vai trò của giáo dục đối với tương lai của đất nước, đã khắc
phục được nhiều khó khăn, tích cực, thực hiện được nhiều chủ trương, chính
sách của đảng và nhà nước về phát triển giáo dục.
Năm là: Những thành quả phát triển kinh tế, ổn định chính trị, nâng cao
đời sống nhân dân qua nhiều năm đổi mới đã tạo điều kiện thuận lợi cho
giáo dục.
18


Ý thức và sự vận dụng ý thức vào học tập của sinh viên.

B-YÕu kém và những nguyên nhân.

hội nghị lần thứ hai ban chấp hành trung ương đảng khoá 8 đã chỉ rõ “
giáo dục đào tạo nước ta còn nhiều yếu kém, bất cập cả về quy mô, cơ cấu
và nhất là về chất lượng chưa đáp ứng kịp được những đòi hỏi lớn và ngày
càng cao về nhân lực của công cụôc đổi mới kinh tế và xã hội, xây dựng và
bảo vệ Tổ Quốc, thực hiện công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước, theo
định hướng xã hội chủ nghĩa”
Hiện nay nước ta còn khoảng 9% dân số mù chữ, chưa phổ cập tiểu học: tỉ
lệ sinh viên trên tổng số dân còn rất thấp: 0,36% kém 10lần so với Xingapo,
Hàn Quốc …tỷ lệ lao động qua đào tạo mới đạt hơn 10% ; nền kinh tế quốc
dân còn thiếu nhiều lao động, cán bộ có tay nghề và trình độ kỹ thuật cao.
Cơ cấu quy mô giáo dục -đào tạo chưa hợp lý, số lượng đào tạo ở đại học
nhiều hơn ở lĩnh vực dạy nghề . quy mô đào tạo nghề hiện nay vẫn quá
nhỏbé, trình độ, thiết bị lạc hậu, không đáp ứng được yêu cầu công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước.
Đáng quan tâm nhất là chất lượng và hiệu quả giáo dục- đào tạo còn thấp ,
cô thể là:
-Trình độ kiến thức, kỹ năng thực hành, phương pháp tư duy, trình độ
ngoại ngữ và thể lực của đa số sinh viên còn yếu.
-Khả năng vận dụng kiến thức vào sản xuất và đời sống của nhiều học sinh
còn nhiều hạn chế.
-

Số đông sinh viên tốt nghiệp chưa có khả năng thích ứng với những

biến đổi nhanh chóng trong ngành nghề và trong công việc.
-

Đặc biệt đáng lo ngại là một bộ phận trong số học sinh, sinh viên thoái


hoá đạo đức, mờ nhạt lý tưởng, chạy theo lối sống thực dụng, thiếu hoài bão
lập thân, lập nghiệp, vì tương lai của bản thân, đất nước.
-

Đào tạo chưa gắn với người sử dụng.
19


Ý thức và sự vận dụng ý thức vào học tập của sinh viên.

Những biểu hiện tiêu cực, thiếu kỷ cương trong giáo dục có chiều hướng
gia tăng:
-

Tình trạng dạy thêm và học thêm tràn lan, tốn nhiều thời gian và tiền

bạc của học sinh, ảnh hưởng xấu đến phát triển toàn diện của học sinh và
quan hệ thầy trò.
-

Một số trường có hiện tượng mua bán điểm, và mua bán bằng cấp ,

nhiều trường đã tăng quy mô tuyển sinh vượt quá khả năng đào tạo, mở quá
nhiều lóp tại chức ở các địa phương mà không thực hiện đúng quy chế, đúng
chương trình, không đảm bảo chất lượng.
-

Tệ nạn xã hội, kể cả nghiện hót , tiêm chích ma tuý , mại dâm nhập


một số trường học.
Chưa thực hiện tốt công bằng xã hội trong giáo dục:
-

Con em gia đình nghèo gặp nhiều khó khăn khi muốn học lên cao .ở

các trường đại học, tỷ lệ sinh viên là con em nghèo, con em xuất thân từ
nông nghiệp , nhất là con em của vùng sâu, vùng xa ngày càng giảm dần.
-

Đội ngò giáo viên vừa thiếu, vừa yếu. Năm học 1995-1996 cả nước

còn thiếu gần 120.000 giáo viên phổ thông. Trong những năm trước mắt sẽ
có tình trạng hẫng hụt, thiếu người thay thế cho các cán bộ nghỉ hưu. Chất
lượng của đội ngò giáo viên chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển giáo dụcđào tạo trong giai đoạn mới. Ở bậc đại học trình độ giáo viên có trình độ sau
đại học còn qúa thấp. Một số cán bộ giáo viên và cán bộ quản lý trong giáo
dục thiếu gương mẫu về đạo đức và lối sống.

*Nguyên nhân của những yếu kém
Hội nghị lần thứ hai ban chấp hành trung ương đảng đã chỉ ra 5 nguyên
nhân của yếu kém trong giáo dục -đào tạo, đặc biệt là những nguyên nhân
chủ quan,cụ thể:
Thứ nhất:
20


Ý thức và sự vận dụng ý thức vào học tập của sinh viên.

-


Mấy năm gần đây, có nhiều chủ trương đổi mới, nhưng một số chủ

trương chưa được nghiên cứu, chuẩn bị chu đáo trước khi áp dụng, tổ chức
thực hiện lại càng nhiều thiếu sót.
-

Mở rộng quy mô giáo dục và phát triển nhiều loại hình giáo dục đào

tạo nhưng có nhiếu thiếu sót trong việc quản lý chương trình, nội dung và
chất lượng.
-

Công tác thanh tra giáo dục còn quá yếu, thiếu những biện pháp hữu

hiệu để kiểm tra, đánh giá chất lượng giáo dục đào tạo, đặc biệt là đối với
hình thức trường mở, bán công, dân lập.
-

Chậm phát triển và thiếu kiên quyết, nghiêm túc trong quá trình xử lý

và khắc phục các biểu hiện tiêu cực trong ngành.
-

Cơ chế quản lý của ngánh giáo dục- đào tạo chưa hợp lý, có tình trạng

ôm đồm sự vụ, vừa buông lỏng chức năng quản lý nhà nước, chưa thực hiện
tốt sự quản lý thống nhất, giữ vững kỷ cương trong công tác giáo dục , đồng
thời chưa phát huy được quyền chủ động và trách nhiệm của địa phương và
nhà trường.
-


Phương pháp giáo dục chậm đổi mới, chưa phát huy được tính chủ

động của ngừơi học .
Thứ hai: Giáo dục–đào tạo chưa kết hợp được với lao động sản xuất, nhà
trường chưa gắn với gia đình và xã hội .
Thứ ba: Có thể nói đây chính là nguyên nhân quan trọng nhất: đó chính là
do bản thân mỗi sinh viên chưa tự giác, chưa có ý thức tự học, chưa nhận
thức được vai trò quan trọng của việc học tập.họ vẫn còn những ý nghĩ như :
“ việc học không phải là học cho mình mà là học cho bố mẹ…..”

ii. Những giải pháp chủ yếu chủ yếu để nâng cao chất
21


Ý thức và sự vận dụng ý thức vào học tập của sinh viên.

lượng của sinh viên.
1-Đối với sinh viên:
Hơn lúc nào hết, hiện nay xã hội đang quan tâm đến sự nghiệp giáo dục
nói chung, và với giáo dục sinh viên nói riêng. Với cương vị là một sinh
viên, theo em để nâng cao chất lượng sinh viên thì phải thực hiện những
biện pháp sau:
Thứ nhất: Cần phải thay đổi nhận thức của sinh viên về việc “ học đại
học” . Học đại học khác học phổ thông ở chỗ lên đại học thì tự học là chính,
thời gian học ở nhà phải chiếm đa số. Nhưng phần lớn sinh viên hiện nay
vẫn còn dành quá nhiều thời gian của mình để phục vụ cho việc giải trí như
là: sinh nhật, tiệc tùng, đi chơi …
Thứ hai:Triết học đã chỉ ra rằng mọi sự vật, hiện tượng tồn tại khách quan
trong thế giới đều có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Các môn học cũng vậy,

chúng ta có thể bắt gặp nhiều sự liên kết kiến thức giữa các môn học, lấy ví
dụ các phạm trù “Quan hệ sản xuất”, “Lực lượng sản xuất”, “Phương thức
sản xuất” trong môn kinh tế-chính trị có thể bắt gặp trong triểt học. Chỉ ra
như vậy để thấy rằng chúng ta cần có sự liên hệ giữa các môn học với nhau,
giữa các bài học với nhau bởi hệ thống kiến thức được trình bày theo mét
logic một trật tự nhất định, bài sau có liên quan tới bài trước. Chúng ta cần
tránh tình trạng tách rời các môn học với nhau, coi như không có liên quan
tới nhau.
Thứ ba: Sự liên hệ trong suy nghĩ và trong nhận thức khi học về một vấn
đề nào đó là rất quan trọng nhưng như vậy là chưa đủ bởi đó mới chỉ là mối
liên hệ bên trong. Chóng ta còn cần phải mạnh dạn nói lên suy nghĩ của
mình, cần thẳng thắn trao đổi và bàn luận với bạn bè, với giảng viên. Cần
đối chiếu lập trường, quan điểm của mình với mọi người để tìm ra cái đúng,
22


Ý thức và sự vận dụng ý thức vào học tập của sinh viên.

cái sai trong nhận thức về vấn đề bàn luận, đó chính là mối liên hệ bên
ngoài. Như vậy liên hệ là một cách học mà chúng ta nên vận dụng. Cần phải
có cả liên hệ bên trong và liên hệ bên ngoài để nhằm bổ sung và hoàn chỉnh
hiểu biết của mình.
Thứ tư: Sự học sẽ là không đầy đủ nếu chúng ta chỉ tiếp thu kiến thức trên
líp và dừng lại ở đó. Cái quan trọng là phải biết vận dụng được những điều
mình đã học vào thực tế cuộc sống và liên hệ với thực tế để làm rõ hơn kiến
thức ở trên líp. Bác Hồ đã từng dạy chúng ta: “Học phải đi đôi với hành, lý
thuyết phải gắn liền với thực tế”. Lý thuyết mà không đựoc thực tế chứng
minh thì chỉ là lý thuyết suông, còn thực tiễn mà không dùa trên cơ sở của lý
thuyết thì chỉ là lý thuyết sáo rỗng.
Thứ năm: Cần có sự nghiên cứu trước bài học ở nhà để lên líp ta chỉ cần

lắng nghe và ghi chép ý chính, như vậy đã có thể giúp sinh viên nắm chắc
đựoc bài ngay trên líp, khi về nhà chỉ cần xem lại một lượt là có thể hiểu
toàn bộ bài giảng. Ngoài ra cần có sự nghiên cứu thêm tài liệu từ các nguồn
khác nhau để bổ sung và hoàn thiện hơn kiến thức của mình.
Thứ sáu: Trên líp cần đổi mới cả cách giảng dạy của giảng viên và cách
tiếp thu của sinh viên, chúng ta cần thẳng thắn loại bỏ phương pháp học
đọc–chép truyền thống rất dễ gây nhàm chán cho cả người dạy và người học.
Chúng ta cần có thêm nhiều sự trao đổi, thảo luận giữa các sinh viên và giữa
sinh viên với giảng viên để biến cách học một chiều thành cách học hai
chiều có hiệu quả hơn.
Thứ bảy: Một điều rất quan trọng nhưng có lẽ không phải ai cũng biết đó
là học ở trên líp không bao giê là đầy đủ. Có lẽ một thãi quen đã ăn sâu
trong ý nghĩ các bạn sinh viên đó là cứ phải đến trường thì mới gọi là học
còn khi ở ngoài trường thì việc học đối với chúng ta chỉ là thứ yếu. Chúng ta
23


Ý thức và sự vận dụng ý thức vào học tập của sinh viên.

cần thay đổi suy nghĩ tiêu cực này bởi như Galileo đã từng nói: “Anh không
thể dạy cho người khác bất cứ điều gì, mà anh chỉ có thể giúp cho người Êy
tìm ra chân lý”. Vì vậy giáo dục nhà trưòng chỉ mang tính chất gợi mở còn
tương lai của chúng ta phụ thuộc vào chính chúng ta. Những con người
thành công trong cuộc sống là những con người biết học ở mọi nơi, mọi lúc,
học mọi người, bằng mọi cách và qua mọi nội dung.
Vấn đề cuối cùng em muốn đưa ra trong nhóm giải pháp truyền thống đó
là sự quản lý thời gian học tập của sinh viên hiện nay. Từ thực trạng đáng
buồn là ngoài thời gian trên líp còn khi đã về nhà thì thời gian học tập một
cách tự giác của sinh viên là rất hạn chế. Vậy họ lãng phí thời gian đó vào
việc gì, có nghìn lẻ một lý do cho câu hỏi trên: Ngủ, Sinh nhật, Đi chơi, Đi

shopping và thậm chí là những việc không lành mạnh khác. Do đó khi ngồi
vào bàn học là chân tay rã rời, hao mắt, mệt mỏi và chẳng mấy chốc là
không thể cưỡng lại cơn buồn ngủ ập đến. Bao nhiêu kiến thức họ tích luỹ
dược trên líp không có cơ hội đựoc củng cố. Bài học rót ra ở đây là cần phải
sắp xếp thời gian giữa học tập và các hoạt động khác trong đó thời gian dành
cho học tập phải chiếm đa số và chúng ta cần phải tuân thủ chặt chẽ thời
gian biểu đó.

2-Hội nghị lần thứ hai ban chấp hành trung ương đảng đã đề
ra 4 giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng cho ngành
giáo dục , đó là:
1- Tăng cường nguồn lực cho giáo dục đào tạo: Nghị quyết đã xác định
cụ thể các nguồn lưc cho giáo dục đó là:
-Ngân sách nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong tổng nguồn lực cho giáo
dục-đào tạo và phải tập trung cho việc đào tạo, bồi dưỡng giáo viên, đào tạo
cán bộ cho một số ngành trọng điểm, bồi dưỡng nhân tài. Tăng dần tỉ trọng

24


Ý thức và sự vận dụng ý thức vào học tập của sinh viên.

chi ngân sách cho giáo dục-đào tạo để đạt được 15% tổng chi phí ngân sách
vào năm 2000
-Thực hiện xã hội hoá giáo dục. Cụ thể là những nội dung sau:
+Huy động sự đóng góp tiền bạc cho giáo dục của nhân dân; của các đoàn
thể xã hội trong và ngoài nước.
+Tạo nên môi trường giáo dục lành mạnh, môi trường này phải được gia
đình , nhà trường xã hội cùng lo.
+ Phát triển phong trào toàn dân học tập, học suốt đời.

+ Toàn xã hội làm giáo dục với những hình thức đa dạng hoá các loại hình
giáo dục.
2-Xây dựng đội ngò giáo viên, tạo động lực cho người dạy, người học:
củng cố, nâng cấp một số trường đại học sư phạm để đào tạo giáo viên có
chất lượng cao: vừa có khả năng sư phạm, vừa có khả năng nghiên cứu khoa
học.
Có chính sách sử dụng và đãi ngộ đúng giá trị nguồn nhân lực được đào
tạo.Trọng dụng người tài, khuyến khích mọi người, nhất là thanh niên say
mê học tập và tự tu dưỡng vì tiền đồ bản thân và đất nước.
3 -Tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục- đào tạo và tăng
cường cơ sở vật chất cho các trường học.


Về nội dung:

-

Nâng cao chất lượng đảm bảo tương đối về nội dung chương

trình,tăng cường giáo dục công dân ,giáo dục tư tưởng đạo đức, lòng yêu
nước, chủ nghĩa Mac-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Coi trọng hơn nữa các
môn học về xã hội nhân văn, nhất là tiếng việ , lịch sử dân téc, địa lý và văn
hoá Việt Nam


Về phương pháp giáo dục-đào tạo: đổi mới mạnh mẽ phương pháp

giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư
25



×