Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Mối Quan Hệ Biện Chứng Giữa Vật Chất Và Ý Thức Và Sự Vận Dụng Của Đảng Trong Thực Tiễn Cách Mạng Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.11 KB, 26 trang )

Tiểu luận triết học
Lời mở đầu
Những thành tựu trong công cuộc đổi mới của nớc ta trong thời gian qua
đã tạo ra thế và lực mới, cả bên trong và bên ngoài để chúng ta bớc vào một
thời kỳ phát triển mới. Nhiều tiền đề cần thiết cho công nghiệp hoá và hiện đại
hoá đã đợc tạo ra. Quan hệ của nớc ta với các nớc trên thế giới mở rộng hơn
bao giờ hết. Khả năng giữ vững độc lập tự chủ và hội nhập với cộng đồng thế
giới tăng thêm. Cách mạng khoa học và công nghệ phát triển nhanh với trình
độ ngày càng cao, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đời sống
xã hội. Các nớc đều có cơ hội phát triển. Tuy nhiên u thế về vốn, công nghệ,
thị trờng thuộc các nớc phát triển, khiến cho những nớc chậm phát triển và
đang phát triển đứng trớc những thử thách to lớn. Nguy cơ tụt hậu xa hơn về
kinh tế so với nhiều nớc trong khu vực vẫn là thử thách to lớn và gay gắt do
điểm xuất phát của chúng ta quá thấp, lại đi trong môi trờng cạnh tranh quyết
liệt.
Trớc tính hình đó, cùng với xu thế phát triển của thời đại. Đảng và nhà nớc ta cần liên tục tiến hành và đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện đất nớc,
trong đó đổi mới kinh tế đóng vai trò then chốt và chủ đạo. Đồng thời đổi mới
về chính trị cũng mang tính cấp bách bởi giữa đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị có mối liên hệ chặt chẽ với nhau không thể tách rời. Chính vì vậy,
tìm hiểu mối quan hệ giữa vật chất và ý thức sẽ cho phép ta vận dụng nó vào
mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị của đất nớc, giúp cho công cuộc xây
dựng nền kinh tế nớc ta ngày càng giàu mạnh.
Với ý nghĩa đó sau một thời gian nghiên cứu và học tập với sự hớng dẫn
nhiệt tình của các thầy cô giáo, em đã quyết định chọn đề tài : "Mối quan hệ
biện chứng giữa vật chất và ý thức và sự vận dụng của Đảng trong thực
tiễn cách mạng Việt Nam".

1


Tiểu luận triết học


Phần I: Lý luận chung về mối quan hệ giữa vật
chất và ý thức.
1. Vật chất
1.1. Định nghĩa vật chất
Vật chất là phạm trù rất phức tạp và có rất nhiều quan niệm khác nhau vè
vật chất đứng trên các gíac độ khác nhau. Nhng theo Lênin định nghĩa:"vật
chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan đợc đem lại
cho con ngời trong cảm giác, đợc cảm giác của chúng ghép lại, chúp lại, phản
ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào giảm giác".
Lênin chỉ rõ rằng, để định nghĩa vật chất, không thể làm theo cách thông
thờng là quy một khái niệm cần định nghĩa sang một khái niệm khác rộng hơn
vì khái niệm vật chất là một khái niệm rộng nhất. Để định nghĩa vật chất.
Lênin đã đối lập vật chất với ý thức, hiểu vật chất là thực tại khách quan đợc
đem lại cho con ngời trong cảm giác, vật chất tồn tại độc lập đối với cảm giác,
với ý thức,còn cảm giác, ý thức phụ thuộc vào vật chất, phản ánh vật chất.
Khi định nghĩa "vật chất là một phạm trù triết học". Lênin một năm
muốn chỉ rõ vật chất là một khái niệm rộng nhất, rộng vô hạn và muốn phân
biệt vật chất với t cách là một phạm trù triết học, là kết quả của sự khái quát
và trừu tợng, với những dạng vật chất cụ thể, với những "hạt nhỏ" cảm tính.
Vật chất với t cách là một phạm trù triết học không có những đặc trng cụ thể
có thể cảm thụ đợc. Định nghĩa vật chất nh vậy khắc phục đợc những quan
niệm siêu hình của chủ nghĩa duy vật cũ đồng nhất vật chất với những tri thức
biểu hiện của nó.
Lênin cho rằng vật chất vốn tự nó không do ai sinh ra không thể tiêu diệt
đợc, nó tồn tại bên ngoài và không lệ thuộc vào cảm giác ý thức con ngời, vật
chất là một thực tại khách quan. Khác với quan niệm "ý niệm tuyệt đối" của
chủ nghĩa duy tâm khách quan. Trái lại, phạm trù vật chất không phải là kết
2



Tiểu luận triết học
quả của sự khái quát của cái sự vật hiện tợng có thành hiện thực và do đó các
đối tợng của sự khái quát các sự vật, hiện tợng có khả năng tác động vào giác
man để gây ra cảm giác, và nhờ đó mà ta có thể biết đợc, hiểu đợc, nắm bắt đợc đối tợng này. Định nghĩa vật chất của Lênin đã khẳng định đợc câu trả lời
chủ nghĩa duy vật cả hai mặt của vấn đề cơ bản của triết học, phân biệt về
nguyên tắc của chủ nghĩa duy tâm chủ quan và chủ nghĩa duy tâm khách quan
cũng nh không thể biết.
Hơn thế nữa, Lênin còn khẳng định, cảm giác lại, chụp lại phản ánh vật
chất, những vật chất tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác. Khẳng định nh vậy,
một mặt Lênin muốn nhấn mạnh tính thứ nhất của vật chất, vai trò quyết định
của nó đối với ý thức, và mặt khác khẳng định phơng pháp và khả năng nhận
thức khách quan của con ngời. Điều này không chỉ phân biệt chủ nghĩa duy
vật vói chủ nghĩa duy tâm, với thuyết không thể biết mà còn phân biệt chủ
nghĩa duy vật với nhị ngôn luận.
Nh vậy, chúng ta thấy rằng, định nghĩa vật chất của Lênin một định
nghĩa toàn diện và triệt để, nó giải đáp đợc cả hai mặt vấn đề cơ bản về triết
học trên lập trờng của chủ nghĩa duy vật biện chứng, đồng thời nó còn khắc
phục lý thuyết siêu hình, hẹp hòi trong quan niệm về vật chất của chủ nghĩa
duy vật cũ.
Định nghĩa vật chất của Lênin còn giúp chúng ta xác định rõ vật chất
trong đời sống xã hội, và nó có ý thức trực tiếp định hớng khoa học tự nhiên,
giúp khoa học tự nhiên ngày càng đi sâu vào nghiên cứu đa dạng cụ thể của
vật chất trong giới vi mô. Nó còn giúp chúng ta có thái độ khách quan và đòi
hỏi chúng ta phải xuất phát từ thực té khách quan trong suy nghĩa cảm động.
1.2. Các đặc tính của vật chất
* Vận động là phơng thức tồn tại của vật chất và là thuộc tính cố hữu của
vật thể.
Theo quan điểm của chủ nghia duy vật biện chứng, vanạ động của mọi sự
3



Tiểu luận triết học
biến đổi nói chung chứ không phải chỉ là sự dịch chuyển vị trí trong không
gian, Ăng ghen cho rằng vận động là một phơng thức tồn tại của vật chất là
một thuộc tính cố hữu của vật chất nó bao gồm tất cả mọi sự thay đổi mọi quá
trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến t duy. Vận
động có nhiều hình thức trong đó có năm hình thức cơ bản: Thứ nhất vận động
cơ học (sự di chuyển vị trí các vật thể trong không gian): Thứ hai sự vận động
vật lý (vận động của các phân tử, các hạt cơ bản vận động điện tử, các quá
trình nhiệt điện) : thứ ba vận động hoá học (vận động của các nguyên tử, các
quá trình hoá hợp và phân giải các chất): Thứ ht vận động sinh học (trao đổi
các chất giữa các cơ thể sống và môi trờng): thứ năm, vận động xã hội (sự
biến đổi thay thế các hình thái kinh tế xã hội). Các hình thái kinh tế xã hội này
đều có quan hệ chặt chẽ với nhau. Một hình thức vận động nào đó đợc thực
hiện là ở sự tác động qua lại với các hình thức vận động khác, trong đó hình
thức vận động cao bao giờ cũng bao hàm những vận động thấp hơn, nhng
cũng không thể có hình thức vận động cao là tổng số đơn giản của các vận
động thấp. Mỗi sự vật hiện tợng cụ thể gắn với nhiều hình thức vận động nhng
bao giờ cũng đợc đặc trng bằng một hình thức vận động cơ bản.
Thế giới vật chất bao giờ cũng ờ trong quá trình vận động không ngừng
không thể có vật chất không vận động, tức là vật chất tồn tại bằng cách vận
động và thông qua vận động mà biểu hiện sự tồn tại, hay nói cách khác vận
động là hình thức tồn tại của vật chất. Ăng ghen nhận định rằng các hình thức
và các hình thức khác nhau của vật chất chỉ có thể nhận thức đợc thông qua
vận động, chỉ có thể thông qua vận động mới có thể thấy đợc thuộc tính của
vật thể. Trong thế giới vật chất từ các hạt cơ bản trong thế giới vi mô đến các
hệ thống các hành tinh khổng lồ trong thế giới vĩ mô. Bất cứ một dạng vật chất
nào cũng là một thể thống nhất có kết cấu xác định, gồm những nhân tố,
những bộ phận, nhng xu hớng khác nhau, cùng tồn tại, ảnh hởng và tác động
lẫn nhau.


4


Tiểu luận triết học
Vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất, không thể có vận động bên
ngoài của vật chất, vận động không do ai sáng tạo ra và không thể tiêu diệt đợc, do đó vận động đợc bảo toàn cả về số lợng lẫn chất lợng. Khoa học đã
chứng minh đợc rằng nếu một hình thức vận động nào đó của sự vật nhất định
mất đi thì tất yếu nảy sinh một hình thức vận động khác thay thế nó. Các hình
thức vận động chuyển hoá lẫn nhau, còn vận động của vật chất nói chung thì
vĩnh viễn tồn tại với sự tồn tại vĩnh viễn của vật chất.
Mặc dù vật chất luôn ở trong quá trình vận động không ngừng nhng điều
đó không loại trừ mà còn bao hàm hiện tợng đứng im đối tợng. Không có hiện
tợng đứng im tơng đối thì không có sự phân hoá thế giới vật chất thành các sự
vật hiện tợng phong phú và đa dạng. Ăng ghen khẳng định rằng khả năng
đứng im tơng đối của các vật thể, khả năng cân bằng tạm thời là những điều
kiện chủ yếu của sự phân hoá vật chất.
* Không gian và thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất
Không gian phản ánh thuộc tính của các vật chất có vị trí, có hình thức
kết cấu có độ dài, ngắn cao thấp. Không gian biểu hiện sự cùng tồn tại và tách
biệt của các sự vật lẫn nhau, biểu hiện quán tính của chúng, trật t phân bố
chúng. Còn thời gian phản ánh thuộc tính của các quá trình vật chất diễn ra
nhanh hay chậm kế tiếp nhau theo một trật tự nhất định. Thời gian biểu hiện
tốc độ trình tự diễn biến của các quá trình vật chất, tính tách biệt các giai đoạn
khác nhau của quá trình đó, trình tự xuất hiện và mất đi các sự vật, hiện tợng.
Không gian và thời gian là hình thức cơ bản của vật chất đang tác động
Lênin đã chỉ ra không có gì ngoài vật chất đang vận động và vật chất đang vận
động không thể vận động ở đâu ngoài không gian và thời gian. Không gian và
thời gian là tồn tại khách quan. Nó không phải là hình thức chủ quan sếp đặt
các cảm giác mà ta thu nhận một cách lộn xộn nh chủ nghĩa duy tâm quan

niệm, cũng nh nó không thể đứng gnoài vật chất. Không có không gian trống
rỗng, không gian và thời gian không phải là bất biến, tuyệt đối mà trái lại,
5


Tiểu luận triết học
không gian và thời gian có sự biến đổi phụ thuộc vào vật chất vận động.
* Tính thống nhất vật chất của thế giới.
Chủ nghĩa duy tâm coi ý thức, tinh thần có trớc, quyết định vật chất do
đó cũng cho rằng thế giới thống nhất ở tinh thần. Chủ nghĩa duy vật biện
chứng lại khẳng định rằng tính thống nhất chân chính của thế giới là ở tính vật
chất của nó. Triết học Mác - lênin khẳng định chỉ có một thế giới duy nhất là
thế giới vật chất không có thế giói tinh thần, ma quỷ tồn tại ở đâu, ỏ bộ phận
thế giới đều là những dạng cụ thể của vật chất, có liên hệ vật chất với nhau nh
liên hệ về cơ cấu tổ chức, liên hệ về lịch sử phát triển và đều tuân thủ theo
những quy luật khách quan của thế giới vật chất. Do đó, thế giới vật chất tồn
tại vĩnh viễn, vô hạn, và vô tận, không do ai sinh ra và cũng không mất đi
trong thế giới đó, không có cái gì khác ngoài các quá trình vật chất đang biến
đổi và chuyển hoá lẫn nhau là nguyên nhân là kết quả của nhau.
2. ý thức
2.1. Kết cấu của ý thức
Cũng nh vật chất, có rất nhiều quan niệm về ý thức theo các trờng phái
khác nhau. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định
rằng ý thức là đặc tính là sản phẩm của vật chất, ý thức là sự phản ánh thế giới
khách quan vào bộ óc của con ngời thông qua lao động và ngôn ngữ. Mác
nhấn mạnh rằng tinh thần, ý thức chẳng qua chỉ là vật chất đợc di chuyển vào
bộ óc của con ngời và đợc cải biến đi trong nó.
ý thức là một tâm lý xã hội có kết cấu phức tạp bao gồm tự ý thức tri
thức tình cảm, ý thức, trong đó tri thức là quan trọng nhất là phơng thức tồn tại
của ý thức.

Tri thức là phơng thức tồn tại của ý thức vì sự hình thành và phát triển
của ý thức có liên quan mật thiết với nhau quá trình con ngời nhận thức và cải
biến giới tự nhiện. Tri thức càng đợc tích luỹ, con ngời ngày càng đi sâu vào
bản chất sự vật và cải tạo sự vật có hiệu quả hơn, tính năng động của ý thức
6


Tiểu luận triết học
cũng nhờ đó mà tăng hơn. Việc nhấn mạnh tri thức là yếu tố cơ bản quan
trọng nhất ý thức có ý nghĩa chống quan điểm giản đơn coi ý thức chỉ là tình
cảm, là niềm tin, ý trí. Quan niệm đó chính là biểu hiện của bệnh chủ quan ý
trí, của niềm tin mù quáng, của sự tởng tởng chủ quan. Tuy nhiên việc nhấn
mạnh yếu tố tri thức cũng không đồng nghĩa với việc phủ nhận hoặc coi nhẹ
via trò của các nhân tố tình cảm ý trí.
Tự ý thức cũng là một yếu tố quan trọng của ý thức. Chủ nghĩa duy tâm
coi tự ý thức là một thực thể độc lập tự nó có sẵn trong các cá nhân, điều kiện
sự hớng về bản thân mình tự khẳng định "cái tôi" riêng biệt tách rời những
quan hệ xã hội. Trái lại chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng tự ý thức là ý
thức hớng về bản thân mình thông qua quan hệ với thế giới bên ngoài khi phản
ánh thế giới khách quan con ngời tự phân biệt mình đối lập mình với thế giới
đó và tự nhận thức mình nh là một thực thể hoạt động có cảm giác có t duy, có
các hành vi đạo đức và có vị trí trong xã hội. Mặt khác sự giao tiếp trong xã
họi và hoạt động thực tiễn xã hội đòi hỏi con ngời phải nhận rõ bản thân mình
và tự điều chỉnh bản thân theo các quy tắc, các tiêu chuẩn mà xã hội đề ra.
Ngoài ra văn hoá cũng đóng vai trò là cái "gơng soi" giúp cho con ngời tự ý
thức về bản thân.
Vô thức là một hiện tợng tâm lý có liên quan đến những hoạt động xảy ra
ở ngoài phạm vi của ú thức. Có hai loại thứ nhất liên quan đến các hành vi cha
đợc con ngời ý thức loại thứ hai liên quan đến các hành vi trớc kia đã đợc ý
thức nhng do lặp lại đã trở thành thói quen, có thể diễn ra "tự động" bên ngoài

sự chỉ đạo của ý thức. Vô thức ảnh hởng đến nhiều phạm vi hoạt động của con
ngời. Trong những hoàn cảnh nào đó giúp con ngời giảm bởi sự căng thẳng
trong hoạt động. Để biến những hành vi tích cực thành thói quen có vai trò rất
quan trọng trong đời sống của con ngời. Trong con ngời ý thức vẫn là chủ đạo,
cái quyết định hành vi cá nhân.
2.2. Nguồn gốc của ý thức
7


Tiểu luận triết học
* Nguồn gốc tự nhiên:
ý thức ra đời kết quả của sự phát triển lâu dài của giới tự nhiên cho tới
kỳ xuất hiện con ngời và bộ óc ngời. Khoa học đã chứng minh rằng thế giới
vật chất nói chung và trái đất nói riêng đã từ tồn tại rất lâu trớc khi xuất hiện
con ngời, rằng hoạt động ý thức của con ngời diễn ra trên cơ sở hoạt động sinh
lý thần kinh của bộ não con ngời. Không thể tách rời ý thức ra khỏi hoạt động
của bộ não vì ý thức là chức năng của bộ não, bộ não là phí quan của ý thức.
Sự phụ thuộc của ý thức vào sự hoạt động của bộ não thể hiện ở chỗ khi bộ
não bị tổn thơng thì hoạt động ý thức sẽ bị rối loạn. Tuy nhiên không thể quy
một cách đơn giản ý thức của các quá trình sin lý bởi vì óc chỉ là cơ quan phản
ánh ý thức là sự phản ánh khách quan vào bộ óc con ngời. Sự xuất hiện của ý
thức gắn liền sự phát triển của đặc tính phản ánh đặc tính này phát triển cùng
với sự phát triển của thể giới tự nhiên. Sự xuất hiện của con ngời và xã hội
loài ngời đa lại hình thức cao nhất của sự phản ánh đó là sự phản ánh ý thức.
Sự phản ánh ý thức luôn gắn liền với làm cho sự tự nhiên thích nghi với nhu
cầu phát triển của xã hội.
* Nguồn gốc xã hội:
Sự ra đời của ý thức gắn liền với qúa trình hình thành và phát triển của bộ
óc ngời dới sự ảnh hởng của lao động, của giao tiếp và các quan hệ xã hội.
Lao động của con ngời là nguồn gốc vật chất có tính chất xã hội nhằm

cải tạo tự nhiên, thoả mãn nhu cầu và phục vụ mục đích của bản thân con ngời. Chính nhờ lao động, con ngời và xã hội loài ngời mới hình thành và phát
triển. Lao động là phơng thức tồn tại cơ bản đầu tiên của con ngời, lao động
đồng thời ngay từ đầu đã liên kết những con ngời với nhau trong mối quan hệ
khách quan, tất yếu mối quan hệ này đến lợt nó làm nảy sinh nhu cầu trao đổi
kinh nghiệm và tổ chức lao động nhu cầu" cần phải nói với nhau một cái gì".
Và kết quả là ngôn ngữ ra đời. Ngôn ngữ đợc coi là cái vỏ vật chất của t duy.
Với sự xuất hiện của ngôn ngữ, t tởng của con ngời có khả năng biểu hiện
8


Tiểu luận triết học
thành hiện thực trực tiếp, trở thành tín hiệu vật chất tác động tới các cơ quan
con ngời và gây cảm giác. Nhờ có ngôn ngữ, con ngời có thể giao tiếp, trao
đổi t tởng, tình cảm với nhau, truyền đạt kinh nghiệm cho nhau, thông qua đó
mà ý thức cá nhân trở thành ý thức xã hội và ngợc lại, ý thức xã hội thâm nhập
vào ý thức cá nhân. Ngôn ngữ đã trở thành một phơng tiện vật chất không thể
thiếu đợc nhờ sự trừu tợng hoá và khaí quát hoá mà con ngời có thể đi sâu vào
bản chất của sự vật hiện tợng đồng thời tổng kết hoạt động của mình trong
toàn bộ quá trình phát triển lịch sử.
2.3. Bản chất của ý thức:
Từ việc xem xét nguồn gốc của ý thứ có thể thấy rõ ý thức có bản tính
phản ánh, sáng tạo và bản tính xã hội.
Bản tính phản ánh thể hiện thông tin về thế giới bên ngoài, là biểu thị nội
dung nhận đợc từ vật gây tác động và đợc truyền đi trong quá trình phản ánh.
Bản tính phản ánh quy định mặt khách quan của ý thức, tức là ý thức phải lấy
cái khách quan làm tiền đề, bị khách quan quy định và có nội dung phản ánh
là thế giới khách quan.
ý thức ngay từ đầu đã gắn liền với lao động, với hoạt động sáng tạo cải
biến và thống trị tự nhiên của con ngời và trở thành mặt không thể thiếu đọc
của hoạt động đó. Tính sáng tạo của ý thức thể hiện ở chỗ, nó không chúp lại

một cách thụ động, nguyên xi sự vật mà phản ánh gắn liền vói cải biến, quá
trình thu thập thông tin gắn liền vói quá trình xử lý thông tin. Tính sáng tạo
của ý thức còn thể hiện ở khả năng gián tiếp khái quát thế giới khách quan, ở
quá trình chủ động tác động vào thế giới để phản ánh thế giới đó.
Phản ánh và sáng tạo liên quan chặt chẽ với nhau, không thể tách rời.
Không có sự phản ánh thì không có sáng tạo vì phản ánh là điểm xuất phát, là
cơ sở của sáng tạo. Ngợc lại không có sự sáng tạo thì không phải là sự phản
ánh ý thức. Đó là mối quan hệ giữa hai quá trình thu nhận xử lý thông tin, là
sự thống nhất giữa mặt khách quan và chủ quan trong ý thức.
9


Tiểu luận triết học
ý thức chỉ đợc nảy sinh trong lao động, trong hoạt động cải tạo thế giới
của con ngời. Hoạt động đó không thể là hoạt động đơn lử là hoạt động xã hội.
Do đó ý thức ngay từ đầu đã là sản phẩm của xã hội. ý thức trớc hết là tri thức
của con ngời về xã hội và hoàn cảnh, về những gì đang diễn ra ở thế giới
khách quan, về mối liên hệ giữa ngời với ngời trong xã hội. Do đó, ý thức xã
hội hình thành và bị chi phối bởi tồn tại xã hội cùng các quy luật của sự tồn tại
xã hội đó... và ý thức của mỗi cá nhân mang trong lòng nó ý thức xã hội. Bản
tính xã hội của ý thức cũng thống nhất với bản tính phản ánh và sáng tạo. Sự
thống nhất đó thể hiện ở tính năng động chủ quan của ý thức, quan hệ giữa
nhân tố vật chất và nhân tố ý thức trong hoạt động cải tạo thế giới của con ngời.
3. Mối quan hệ giữa vật chất ý thức:
Lê-nin đã chỉ ra rằng, sự đối lập giữa vật chất và ý thức có ý nghĩa tuyệt
đối trong phạm vi hết sức hạn chế, trong trờng hợp này, chỉ giới hạn trong vấn
đề nhận thức luận cơ bản là thừa nhận cái gì là cái có trớc cái gì là caí có sau.
Ngoài giới hạn đó thì không còn nghi ngờ gì nữa rằng sự đối lập đó chỉ là tơng
đối. Nh vậy, để phân ranh giới của thế giới, cần có sự đối lập tuyệt đối giữa
vật chất và ý thức trong khi trả lời câu hỏi cái nào có trớc, cái nào quyết định.

Không nh vậy sẽ lẫn lộn hai đờng lỗi cơ bản trong triết học, lẫn lộn vật chất và
ý thức chỉ là tơng đối nếu nh chúng ta chỉ xét chúng nh là những nhân tố
những mặt không thể thiếu đợc trong hoạt động của con ngời, đặc biệt là hoạt
động thực tiễn cải tạo thế giới của con ngời. Bởi vì, ý thức nó không thể cải
biến đợc sự vật không có khả năng tự biến thành hiện thực, nhng thông qua
hoạt động thực tiễn của con ngời, ý thức có thể cải biến đợc tự nhiên, thâm
nhập vào sự vật, hiện thực hoá những mục đích mà nó đề ra cho hoạt động của
mình. Điều này bắt nguồn từ chính ngay bản tính phản ánh, sáng tạo và xã hội
của ý thức và chính nhờ bản tính đó mà chỉ có con ngời có ý thức mới có khả
năng cải biến và thống trị tự nhiên, biến tự nhiên xa lạ, hoang rã thành tự
nhiên trù phú và sinh động, tự nhiên của con ngời. Vì vậy tính tơng đối trong
10


Tiểu luận triết học
sự đối lập giữa vật chất và ý thực thể hiện tính độc lập tơng đối tính năng động
của ý thức. Mặt khác đời sống con ngời là sự thống nhất không thể tách rời
giữa đời sống vật chất vật chất và đời sống tinh thần trong đó những nhu cầu
tinh thần ngày càng phong phú và đa dạng, những nhu cầu vật chất cũng bị
nhu cầu tinh thần hoá. Khẳng định tính tơng đối của sự đối lập giữa vật chất
và ý thức không có nghĩa là khẳng định rằng cả hai nhân tố có vai trò nh nhau
trong đời sống và hoạt động của con ngời. Trái lại triết học Mác- Lênin khẳng
định rằng trong hoạt động của con ngời những nhân tố vật chất và ý thức có
tác động qua laị song sự tác động diễn ra trên cơ sở tính thứ nhất của nhân tố
vật chất so với tính thứ hai của nhân tố ý thức.
Trong hoạt động của con ngời những nhu cầu vật chất xét đến cũng bao
giờ cũng giữ vai trò quyết định chi phối và quy định mục đích hoạt động của
con ngời vì nhân tố vật chất quy định khả năng các nhân tố tinh thần có thể
tham gia hoạt động của con ngời, tạo điều kiện cho nhân tố tinh thần hoặc
nhân tố tinh thần khác biến thành hiện thực và qua đó quy định mục đích, chủ

trơng biện pháp mà con ngời đề ra cho hoạt động của mình bằng cách chọn
lực sửa chữa, bổ sung, cụ thể hoá mục đích chủ trơng biện pháp đó. Hoạt động
nhận thức của con ngời bao giờ cũng hớng đến mục tiêu cải biến tự nhiên
nhằm thoả mãn nhu càau sống, hơn nữa cuộc sống tinh thần của con ngời xét
đến cùng bị chi phối và phụ thuộc vào việc thoả manx những nhu cầu vật chất
và những điều kiện vật chất hiện có. Khẳng định vai trò cơ sở quyết định trực
tiếp của nhân tố vật chất. Hơn nữa trong hoạt động của mình con ngời không
thể để cho thế giới khách quan quy luật khách quan chi phối mà chủ động hớng nó đi theo con đờng có lợi của mình. ý thức con ngời không thể tạo ra các
đối tợng vật chất, cũng không thể thay đổi đợc quy luật vận động của nó. Do
đó, trong quá trình hoạt động của mình con ngời phải tuân theo quy luật khách
quan và chỉ có thể thoả mãn mục đích chủ trơng trong phạm vi hoàn cảnh cho
phép.
Phần II. Vận dụng mối quan hệ vật chất và ý thức
11


Tiểu luận triết học
trong việc xây dựng nền kinh tế ở nớc ta hiện nay.
1. Vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vào mối quan hệ
biện chứng giữa kinh tế và chính trị.
Nh chúng ta đã biết vật chất và ý thức có quan hệ biện chứng với nhau.
Nhân tố vật chất giữ vai trò cơ sở quyết định, còn nhân tố ý thức có tác dụng
trở lại đối với nhân tố vật chất. Trong nhiều trờng hợp nhân tố có tác dụng
quyết định đến sự thành bại của sự hoạt động cải tạo con ngời. Điều nàythể
hiện rõ trong tác động của đờng lối, chủ trơng, chính sách đổi mói kinh tế của
Đảng. Song xét đến cùng tác động của ý thức chỉ có tính tơng đối, có điều
kiện. Vai trò tích cực hay tiêu cực của ý thức chỉ đợc trong một thời gian nhất
định và điều kiện cụ thể vì thế giới vẫn tồn tại khách quan và vận động theo
quy luật khách quan đòi hỏi ý thức phải biến đổi phù hợp với nó, nếu là tiêu
cực ý thức sớm muộn cũng bị đào thảo. Mặt khác ý thức là cái có sau, là cái

phản ánh hơn nữa vai trò của nó còn tuỳ thuộc vào mức độ chính xác trong
phản ánh hiện thực. Do vậy xét toàn cục ý thức vẫn là nhân tố thứ hai bị quyết
định, cần chú ý rằng vai trò của ý thức chỉ có đợc nếu nó thâm nhập vào quần
chúng và tổ chức xã hội. Nếu nh chúng ta đa nó vào điều kiện và hoàn cảnh cụ
thể thì chúng ta có thể thấy rằng giữa kinh tế (biểu hiện của vật chất) và chính
trị (biểu hiện của ý thức) cũng có mối quan hệ dàng buộc lẫn nhau. Bởi vì
chúng ta thấy rằng tình hình kinh tế của một nớc là cơ bản quyết định còn
chính trị là cơ bản. Nếu kinh tế của một nớc mà giàu mạnh nhng chính trị thì
luôn bất ổn: đấu tranh giai cấp, tôn giáo, giữa các đảng phái khác nhau của
một quốc gia thì cũng không thể tồn tại lâu dài đợc, cuộc sống của nhân dân
sung túc, đầy đủ nhng luôn phải sống trong lo âu sợ hãi vì chiến tranh và chết
chóc. Do đó chính trị của một nớc mà ổn định, tuy nhiên đảng khác nhau nhng
vẫn quy về một chính đảng thống nhất đất nớc và đảng này vẫn đem lại sự yên
ấm cho nhân dân, đất nớc đó giàu mạnh cuộc sống nhân dân ấm lo hạnh phúc,
ngợc lại nếu nh đất nớc đó nghèo cho dù chính trị ổn định đến đâu thì cuộc
12


Tiểu luận triết học
sống của nhân dân cũng trở lên khó khăn và ắt sẽ dẫn đến đảo chính sụp đổ
chính quyền để thay thế một chính quyền mơí đem lại nhiều lợi ích cho nhân
dân hơn.
Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị thay đổi theo từng hình thái kinh tế
chính trị xã hội. Con ngời trải qua năm hình thái kinh tế xã hội. Thời kỳ
nguyên thuỷ, nô lệ, phong kiến, t bản chủ nghĩa, xã hội chủ nghĩa. Trình độ tổ
chức quản lý và tính chất hiện đại của nền sản xuất sẽ là nhân tố quy định
trình độ hiện đại và mức sống xã hội. Sản xuất vật chất còn nền tảng hình
thành tất cả các quan hệ xã hội và đời sống tinh thần xã hội. Hiện thực lịch sử
đã chỉ ra rằng mọi quan hệ của đời sống xã hội bao gồm: quan hệ chính trị,
nhà nớc pháp quyền, đạo đức, khoa học, nghệ thuật tôn giáo.... đều hình thành

và biến đổi và phát triển gắn liền với cơ sở kinh tế và sản xuất nhất định.
Trong xã hội đó theo Mác quan hệ giữa ngời với ngời trong quá trình sản xuất
(quan hệ kinh tế) là quan hệ cơ bản nhất quyết định tất cả quan hệ cơ bản
khác. Một khi sản xuất phát triển cách thức sản xuất của con ngời thay đổi,
năng suất lao động tăng, mức sống đợc nâng cao thì các mối quan hệ và mọi
mặt của đời sống cũng đợc thay đổi theo. Sản xuất vật chất hay kinh tế là cơ
sở đầu tiên quan trọng nhất tham gia vào quá trình phân hoá và hoàn thiện
chức năng của con ngời, thoả mãn nhu cầu của con ngời và xã hội. sản xuất
vật chất môi trờng tự nhiên, điều kiện xã hội... đòi hỏi thể lực trí tuệ và nhân
cách của con ngời phải phát triển thích ứng với nó. Yêu cầu khách quan cuqr
sự phát triển kinh tế, phát triển sản xuất làm cho khoa học kỹ thuật và điều
kiện sinh hoạt xã hội ngày càng phát triển hoàn thiện. Đó chính là cơ sở quyết
định sự phát triển hoàn thiện các kỹ năng của con ngời, của chính trị của xã
hội là nhân tố quan trọng hàng đầu của lực lợng sản xuất xã hội. Sự phong phú
và đa dạng của những quan hệ vật chất, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học
kỹ thuật và đời sống tinh thần trong quá trình sản xuất vật chất năng lực và
tinh thần của con ngời.
Nền kinh tế của một nớc là cơ sở để nớc đó thực hiện những chủ trơng,
13


Tiểu luận triết học
biện pháp trong việc quản lý đề ra những chiến lợc phát triển kinh tế, chiến lợc phát triển quân đội để đảm bảo an ninh và chủ quyền quốc gia. Căn cứ vào
thực trạng của nền kinh tế, các t tởng và chính sách đổi mới phát triển kinh tế
đợc đa ra phù hợp và hiệu quả nhằm đem lại lợi ích kinh tế cao cho xã hội đợc
đa ra phù hợp và hiệu quả nhằm đem lại lợi ích kinh tế cao cho xã hội cũng
đồng thời cho nhân dân. Tác dụng ngợc trở lại, thể chế chính trị (ý thức) của
một nớc rất quan trọng trong việc xây dựng đất nớc. Chính trị ổn định là điều
kiện tốt, tạo không khí yên ấm, thoả mái và tự do để mọi ngời, nhà nhà, các
công ty, các tổ chức, hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội cống hiến và

phát triển hết khả năng của mình để đem lại lợi ích cho bản thân mình và lợi
ích cho xã hội.
Nguyên lý triết học Mác - lênin là mối quan hệ biện chứng giữa vật chất
và ý thức đòi hỏi chúng ta phải xem xét tình hình các sự vật (ở đây là nền kinh
tế) từ thực tế khách quan, tránh chủ nghĩa chủ quan, duy ý chí, đồng thời phát
huy vai trò năng động sáng tạo của ý thức, phát huy nỗ lực hoạt động chủ
quan trong hoạt động của con ngời (nh trong hoạt động kinh tế của nớc ta,
trong công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xớng đã rất chú
trọng trong việc đề cao yếu tố của con ngời, làm cho ý thức thay đổi mới thâm
nhập vào cơ sở kinh tế, và động viên quần chúng).
Nh chúng ta đã biết, sau khi giải phóng Miền nam thống nhất đất nớc,
nền kinh tế miền Bắc còn nhiều nhợc điểm. Cơ sở vật chất kỹ thuật yếu kém,
cơ cấu kinh tế nhiều mặt mất cân đối, năng suất lao động thấp, sản xuất cha
đảm bảo nhu cầu đời sống, sản xuất cha đảm bảo nhu cầu đời sống, sản xuất
nông nghiệp cha cung cấp đủ thực phẩm cho nhân dân, nguyên liệu cho công
nghiệp, hàng hoá cho xuất khẩu. Mặt khác, nền kinh tế miền Bắc còn bị chiến
tranh phá hoại bằng không quân của đến quốc Mỹ tàn phá nặng nề. ở miền
Nam, sau 20 năm chiến tranh, nền kinh tế bị đảo nộn và suy sụp, nông nghiệp
nhiều vùng hoang hoá, lạm phát trầm trọng...
Trớc tình hình đó, Đại hội Đảng lần thứ IV lại đề ra những chỉ tiêu kế
14


Tiểu luận triết học
hoạch năm 1976 - 1980 quá cao và phát triển sản xuất quá khả năng của nền
kinh tế, nh năm 1975, phấn đấu đạt 21 triệu tấn lơng thực, 1 triệu tấn cá biển,
1 triệu héc ta khai hoang, 1 triệu 200 héc ta rừng mới trồng..., 10 triệu tấn than
sạch, 2 triệu tấn xi mâng.... Đặc biệt là đã đề ra việc xây dựng thêm nhiều cơ
sở mới về công nghiệp nặng, đặc biệt là cơ khí và đặc nhiệm vụ hoàn thành về
cơ bản cải tạo xã hội chủ nghĩa ở niềm Nam. Những chủ trơng sai lầm do

cùng với cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp đã tác động xấu đến nền
kinh tế, ảnh hởng không tốt tới đời sống của nhân dân... Đến hết năm 1980,
nhiều chỉ tiêu kinh tế chỉ đạt khoảng 5 -60% mức đề ra, nền kinh tế tăng trởng
rất chậm chạp: tổng sản phẩm xã hội tăng bình quân 1,5%, công nghiệp tăng
2,6% nông nghiệp giảm 0,15%.
Đại hội Đảng lần thứ V cũng cha tìm ra đợc đầy đủ những nguyên nhân
đích thực sự trì trệ trong nền kinh tế của nớc ta và cũng cha đề ra các chủ trơng chính sách và toàn diện về đổi mới, nhất là về kinh tế. Trong năm năm
1981 - 1985 chúng ta cha kiên quyết khắc phục chủ quan, trì trệ trong bố trí
cơ cấu kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế, lại phạm những sai
lầm mới nghiêm trọng trong lĩnh vực phân phối lu thông. Nhìn chung, chúng
ta cha thực hiện đợc mục tiêu tổng quát do Đại hội lần thứ V đề ra là cơ bản
ổn định tình hình kinh tế, ổn định đời sống nhân dân.
Trong cơng lĩnh xây dựng đất nớc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội đã nhận định "trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đảng ta đã có nhiều cố
gắng nghiên cứu, tìm tòi, xây dựng đờng lối, xác định đúng mục tiêu và phơng
hớng xã hội chủ nghĩa. Nhng Đảng đã phạm sai lầm chủ quan duy ý chí, vi
phạm quy luật khách quan: Nóng vội trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, xoá bỏ
ngay nền kinh tế nhiều thành phần: có lúc đẩy mạnh quá trình mức xây dựng
công việc nặng: duy trì quá lâu cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp, có
nhiều chủ trơng sai trong việc cải cách giá cả, tiền tệ, tiền lơng.
Tất nhiên, ngoài những khuyết điểm chủ quan nêu trên, còn có những
nguyên nhân khách quan nh hậu quả của nhiều năm chiến tranh, bố cảnh quốc
15


Tiểu luận triết học
tế... song chủ yếu là do chúng ta phạm sai lầm chủ quan, những ai lầm cùng
với trì trệ công tác tổ chức, cán bộ đã kìm hãm lực lợng sản xuất và triệt tiêu
nhiều động lực phát triển.
Nhắc lại tình hình trên để thấy rõ tác động tiêu cực của ý thức (ở đây là

các chủ trơng chính sách về quản lý) đối với vật chất (là nền kinh tế) và thấy
tác động qua lại giữa kinh tế và chính trị trớc khi có cuộc đổi mới. Phép biện
chứng duy vật khẳng định rằng nếu ý thức là tiêu cực thì sớm muộn sẽ bị đào
thải.
Trớc tình hình ngày càng nghiêm trọng trong khủng hoảng kinh tế xã hội
ở nớc ta, Đảng và Nhà nớc đã đi sâu nghiên cứu, phân tích tình hình, lấy ý
kiến rộng rãi của cơ sở, của nhân dân, và đặc biệt là đổi mới t duy về kinh tế.
Đại hội lần thứ VI của Đảng đã rút ra bốn kinh nghiệm lớn, trong đó kinh
nghiệm: phải luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật
khách quan. Đảng đã đề ra đờng lối đổi mới, mở ra bớc ngoặt trong sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nớc ta. Tại Đại hội VI, Đảng đã tự phê bình một
cách nghiêm khắc, đã phân tích đúng nguyên nhân của tình hình khủng hoảng
kinh tế xã hội, đề ra các định hớng lớn và xác định chủ trơng đổi mới, đặc biệt
là đổi mới về kinh tế, đã thực hiện mục tiêu của ba chơng trình kinh tế: lơng
thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu: tình hình nền kinh tế hàng
hoá nhiều thànhphần, đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, sử dụng đúng đắn quan
hệ hàng hoá - tiền tệ. Trong quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VIII, ta đã đánh giá tình hình chính trị xã hội Việt Nam sau
hơn bốn năm thực hiện đờng lối đổi mới: công cuộc đổi mới bớc đầu hình
thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trờng
có sự quản lý của nhà nớc, nguồn lực sản xuất của xã hội đợc huy động tốt
hơn, tốc độ lạm phát đợc hạn chế bớt: đời sống vật chất tinh thần của một bộ
phận nhân dân có phần đợc cải thiện. So với trớc đây thì mức khủng hoảng đã
giảm bớt. Sinh hoạt dân chủ trong xã hội ngày càng đợc phát huy...
Qua những dẫn chứng trên, ta thấy rõ tác động qua lại giữa ý thức và vật
16


Tiểu luận triết học
chất, giữa kinh tế và chính trị, nhờ có đờng lối đổi mới, sản xuất phát triển, đòi

sống nhân nói chung đợc cải thiện, mức khủng hoảng đã giảm bớt, do đó góp
phần ổn định tình hình chính trị đất nớc, góp phần vào việc phát huy dân chủ
trong xã hội. Không chủ quan với những thành tựu đã đạt đợc. Đại hội VII chỉ
ra những tồn tại lớn cần giải quyết, đặc biệt về mặt kinh tế đó là: lạm phạt còn
ở mức cao nhiều cơ sở sản xuất đình đốn kéo dài, lao động thiếu việc làm tăng
lên, đồng thời cũng tự phê bình về việc chậm xác định rõ yêu cầu và nội dung
đổi mới, còn nhiều lúng túng và nhiều sơ hở trong điều hành, quản lý vĩ mô
nền kinh tế thị trờng... đặc biệt, đại hội cũng xác định: "Về quan hệ đổi mới
kinh tế và đổi mới chính trị phải tập chung sức đổi mới kinh tế, đáp ứng đòi
hỏi cấp bách của nhân dân về đời sống và làm việc, các nhu cầu xã hội khác,
xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, coi đó là điều kiện
quan trọng để tiến hành đổi mới trong lĩnh vực chính trị".
Nh vậy, rõ ràng Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng vận dụng đúng đắn
phơng pháp luận duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
vào công cuộc đổi mới, tiến hành đổi mới kinh tế trớc để tạo điều kiện đổi mới
trong lĩnh vực chính trị, Đại hội VII, sau khi đã phân tích sâu sắc đặc điểm
tình hình quốc tế và trong nớc đã đề ra mục tiêu tổng quát và các mục tiêu cụ
thể, những phơng châm chỉ đạo trong năm năm 1991 - 1995, đặc biệt đáng
chú ý là phơng châm kết hợp động lực kinh tế và động lực chính trị tinh thần,
phơng châm tiếp tục đổi mới toàn diện và đồng bộ đa công tác đổi mới vào
chiều sâu với bớc đi vững chắc, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm đồng thời
thúc đẩy mạnh mẽ việc đổi mới lĩnh vực khác.
Nói về Đảng trong công cuộc đổi mới, báo cáo chính trị trớc Đại hội đã
nhận xét:" Nét nổi bật là trong Đảng đã có sự đổi mới t duy về kinh tế với tinh
thần độc lập sáng tạo, Đảng đã cụ thể hoá và phát triển nghị quyết Đại hội
VIII bớc đầu hình thành hệ thống các quan điểm các nguyên tắc chỉ đạo sự
nghiệp đổi mới ở nớc ta". Sau Đại hội lần thứ VIII, Ban chấp hành TW Đảng
(Khoá VIII) đã đề ra các nghị quyết hội nghị trung ơng 2, 3, 4 và 5 để cụ thể
17



Tiểu luận triết học
hoá và phát triển đờng lối Đại hội VI, giải quyết một loạt vấn đề cụ thể trên
nhiều lĩnh vực đối nội và đối ngoại, hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ đã đánh
giá những thành tựu to lớn có ý nghĩa hàng đầu là đã khác phục một bớc rất
quan trọng tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội....khắc phục đợc nhiều mặt
đình đốn, suy thoái, tốc độ tăng trởng khá và liên tục trong ba năm qua. Lạm
phát đợc đẩy lùi từ 67% năm 1991 xuống 17,5% năm 1992 và còn 5,2% năm
1993. Tổng sản lơng thực năm năm qua đã tăng 26 so với năm năm trớc, tạo
điều kiện cơ bản để ổn định đời sống nhân dân, phát triển ngành nghề chuyển
dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn, vấn đề lơng thực đợc giải quyết
tốt. Sản xuất công nghiệp đạt nhịp độ tăng trởng bình quân hàng năm 13,3%
(mức kế hoạch là 7,5 - 8,5%). Quan hệ kinh tế đối ngoại mở rộng theo hớng
đa dạng hoá và đa phơng hoá, thị trờng xuất nhập khẩu đợc củng cố và mở
rộng nguồn đầu t vốn từ nớc ngoài tăng mạnh... tăng trởng kim ngạch xuất
khẩu trong 5 năm 1991 - 1995 đạt trên 17 tỷ USD (kế hoạch 12 -15 tỷ USD),
đảm bảo nhập các loại vật t, thiết bị và hàng hoá đáp ứng nhu cầu của sản xuất
và đời sống, góp phần cải thiện cán cân thanh toán thơng mại... Khoa học
công nghệ có bớc phát triển, đã tập chung nghiên cứu các vấn đề lý luận và
thực tiễn trong sự nghiệpđổi mới và phát triển của nớc ta, phục vụ cho việc
xây dựng đờng lối, chính sách của Đảng và Nhà nớc, lĩnh vực văn hoá -xã hội
có nhiều chuyển biến tích cực, đời sống nhân dân đợc cải thiện một bớc. Quốc
phòng an ninh đợc giữ vững.
Hội nghị đại biểu toàn quốc cũng nêu nên thành tựu về tiếp tục giữ vững
và củng cố sự ổn định chính trị, về mở rộng quan hệ đối ngoại, tạo môi tr ờng
thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Nh vậy, ở đây lại càng thấy rõ tác động của kinh tế đối với chính trị và xã
hội, đối với công tác đối ngoại và công tác quốc phòng an ninh... đổi mới kinh
tế quyết định nhng các nhân tố chính trị, xã hội, đối ngoại.... cũng ảnh hởng
tích cực trở lại một cách biện chứng đối với kinh tế. Vận dụng đúng đắn quy

luật của phép biện chứng. Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ cũng
18


Tiểu luận triết học
vạch ra những mặt yếu kém về kinh tế "nền kinh tế vẫn còn mang tính chất
nông nghiệp lạc hậu, công nghiệp nhỏ bé, kết cấu hạ tầng kém phát triển, kinh
tế tuy tăng trởng khá nhng năng suất, chất lợng và hiệu quả còn thấp..." và
những vấn đề tồn tại lớn trong thời gian tới, từ đó đề ra những nhiệm vụ chủ
yếu: thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hớng công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, thực hiện chính sách nhất quán phát triển kinh tế nhiều thành phần,
xây dựng đồng bộ cơ chế thị trờng có sự quản lý của nhà nớc theo định hớng
xã hội chủ nghĩa chăm lo các vấn đề văn hoá - xã hội, bảo đảm quốc phòng
và an ninh, xây dựng nhà nớc pháp quyền Việt Nam của dân, do dân và vì dân,
đổi mới chỉnh đốn đảng củng cố mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân.
Sau hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ, TW Đảng (Khoá VIII) ra
nghị quyết về phát triển công nghiệp, công nghệ mới đến năm 2000 theo hớng
công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nớc, xây dựng giai cấp công nhân trong
giai đoạn mới. Cải cách một bớc nền hành chính nhà nớc (Hội nghị lần thứ
VIII ban chấp hành trung ơng đảng từ 16-23/1/1995). Với nội dung của Hội
nghị trung ơng lần thứ VIII, có thể nó là đã hoàn thành chơng trình cụ thể hoá
một bớc cơng lĩnh và chiến lợc phát triển kinh tế xã hội mà Đại hội VII đã
thông qua.
Với sự thành công của công cuộc đổi mới hơn mời năm (1986 - 1995),
chúng ta càng có cơ sở để khẳng định rằng, công cuộc đổi mới của Đảng và
Nhà nớc ta đã hoàn thành đúng đắn "phù hợp với xu thế phát triển khách quan
của lịch sử tức là chúng ta phải thừa nhận giai đoạn phát triển kinh tế thị trờng
mà trớc đây chúng ta đã phủ nhận.
Trên tinh thần đó, cùng với những kinh nghiệm đã thu đợc những năm
đổi mới, ở đại hội VIII lần này cũng đã đi thực tế khách quan, đánh giá những

đặc đỉem của tình hình kinh tế, chính trị xã hội Việt Nam, những thuận lợi và
khó khăn, thời cơ và nguy cơ, Đảng ta cũng đã nhận định thuận lợi và khó
khăn, thời cơ và nguy cơ đan xen vì vậy chúng ta phải chủ động nắm thời cơ,
vơn lên phát triển nhanh và vững chắ, tạo ra thế và lực mới: đồng thời luôn
19


Tiểu luận triết học
luôn tỉnh táo, kiên quyết đẩy lùi và khắc phục các nguy cơ, kể cả những nguy
cơ mới nảy sinh, bảo đảm phát triển đúng hớng. Xuất phát từ tình hình nói
trên và căn cứ vào cơng lĩnh của Đảng, cần tiếp tục nắm vững hai nhiệm vụ
chiến lợc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc, đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá là xây dựng nớc ta thành một nớc công nghiệp có cơ sở vật
chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp
với trình độ phát triển của lực lợng sản xuất đời sống vật chất và tinh thần
nâng cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nớc mạnh xã hội công
bằng văn minh. Từ nay đến năm 2020, ra sức phấn đấu đa nớc ta cơ bản trở
thành một nớc công nghiệp.
Và thực tế trong những năm qua với những chính sách chơng trình phát
triển kinh tế chính trị xã hội, chính sách ngoại giao hợp lý, chúng ta đã đạt đợc những bớc tiến rất quan trọng, bình thờng hoá quan hệ với Mỹ, là thành
viên của Khối ASEAN (Hiệp hội các nớc đông nam á), đặc biệt năm 1998 ta
đã trở thành thành viên của khối APEC (diễn đàn hợp tác kinh tế châu á - thái
bình dơng).... từ chỗ bị bao vây cấm vận nay đã đợc bình thờng hoá đợc tất cả
các nớc lớn, có quan hệ ngoại giao với 167 nớc, quan hệ thơng mại với 120 nớc đồng thời cân bằng quan hệ với các nớc lớn, phát triển quan hệ tốt đẹp với
các nớc láng giềng khu vực. Điều đó có ý nghĩa to lớn trong việc giữ vững môi
trờng hoà bình ổn định, là nền tảng xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Tăng trởng GDP tiếp tục tăng cao, năm 1996 là 9,3% năm 1987 là 8,2%
năm 1998 là 5,8% (do ảnh hởng của khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu
vực). Lạm phát vẫn đợc giữ ở mức dới 10%, tốc độ tăng trởng của công nghiệp
vẫn đạt hai con số.... đời sống của nhân dân ngày càng đợc ổn định và nâng

cao.
Nh vậy công cuộc đổi mới do Đảng cộng sản Việt Nam khởi xớng và
lãnh đạo ngày càng đợc cụ thể hoá và đi vào chiều sâu đợc nhân dân nhiệt liẹt
hởng ứng và hăng hái thực hiện, chính vì Đảng ngày càng nắm vững và vận
dụng đúng đắn sáng tạo phơng pháp luận triết học toàn diện Mác - lên nin và
20


Tiểu luận triết học
t tởng Hồ Chí Minh. Mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị trong
công cuộc đổi mới nhằm tăng trởng nền kinh tế là rất rõ ràng. Chỉ xin đơn cử
một ví trị về sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là sản xuất lơng thực trong tình
trạng triền miên thiếu lơng thực. Mỗi năm phải nhập khẩu hơn hàng chục vạn
tấn lơng tực cho nhu cầu trong nớc, năm cao nhất phải nhập khẩu hơn một
triệu tấn. Tình hình đó đã là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến
khủng hoảng kinh tế xã hội ngày càng nghiêm trọng. Các đồng chí trung ơng
Đảng và một số địa phơng (vĩnh yên, hải hng)...đã đi sâu tìm hiểu nguyên
nhân và biện pháp giải quyết. Sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là sản xuất lơng
thực chỉ thực sự từng bớc khởi sắc kể từ khi thực hiện chỉ thị 100 của ban Bí
thi trung ơng Đảng về khoản sản phẩm đến nhóm và ngời lao động, đặc biệt là
khi thực hiện nghị quyết 10 của Bộ chính trị trung ơng Đảng (5/4/1988) về đổi
mới quản lý nông nghiệp. Chỉ một năm sau khi thực hiện nghị quyết 10 của
Bộ chính trị, sản xuất lơng thực đạt 21 triệu 516 ngàn tấn, bình quân lơng thực
đầu ngời đạt 333kg, xuất khẩu 1 triệu 405 tấn gạo. Những năm tiếp theo đó
cho đến nay, sản xuất lơng thực, cũng nh sản xuất nông nghiệp nói chung vẫn
tiếp tục phát triển, năm sau cao hơn năm trớc từ 1,2 đến 10%. Năm 1994, mặc
dù thiên tại gay gắt ở cả 2 miền làm thiệt hại đến hơn 1 triệu tấn nhng sản lơng lơng thực vẫn đạt 26 triệu tấn, mức cao nhất từ trớc tới nay, tăng 2,7% so
với năm trớc, lợng gạo xuất khẩu vẫn đạt hơn 2 triệu tấn. Từ thiếu ăn triển
miên. Việt Nam trong 6 năm qua đã vợt lên đứng thứ 3 trong những nớc xuất
khẩu gaọ trên thế giới. Do sản xuất nông nghiệp phát triển, bộ mặt nông thôn

ngày càng thay đổi, đời sống nông dân ngày càng đợc cải thiện, lòng tin vào
chế độ đợc củng cố. Thắng lợi trên mặt trận sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là
sản xuất lơng thực là thành tích nổi bật trong quá trình đổi mới nền kinh tế đất
nớc, góp phần đa đất nớc ta thoát khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, và là biểu
hiện rất rõ nét của mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị trong công
cuộc đổi mới nhằm tăng trởng nền kinh tế đất nớc nh về tăng trởng tổng sản
phẩm quốc dân, về tốc độ thu hút vốn đầu t trực tiếp nớc ngoài, về xuất khẩu...
21


Tiểu luận triết học
Đổi mới là sự nghiệp khó khăn cha có tiền lệ nhng thực tiễn những năm
qua đã chứng tỏ đờng lối đổi mới chủ trơng chính sách lớn về đổi mới, chủ trơng chính sách lớn về đổi mới là rất đúng đắn, bớc đi là thích hợp. Xây dựng
chủ nghĩa xã hội còn là sự nghiệp rất mới mẻ, khó khăn, phức tạp, đòi hỏi phải
phát huy cao độ vai trò của nhân tố chủ quan, của tính năng động chủ quan,
đòi hỏi nhiều công phu nghiên cứu để khám phá, tìm tòi ra mô hình thích hợp
với thực tiễn Việt Nam. Những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới,
những biến động nhiều mặt của đất nớc ta trong quá trình đổi mới toàn diện xã
hội càng đòi hỏi chúng ta phải kiên trì, giữ lòng tự tin, quyết tâm khắc phục
khó khăn đồng thời phải tỉnh táo, thông minh, nhậy bén để thích hợp kịp thời
với tình hình thực tế biến đổi ừng ngày, từng giờ. Để phát huy tính năng động
chủ quan kếp phải kết hợp chặt chẽ giữa nhiệt tình cách mạng và tri thức khoa
học. Rõ ràng việc đảm bảo sự thống nhất giữa nhiệt tình, ý thức cách mạng và
tri thức khoa học là hết sức cấp bách và cần thiết. Bởi vì, tri thức khoa học có
đợc hay không cũng nhờ lòng hiểu biết, trí thông minh, ý trí quyết tâm học tập
và nhận thức khoa học: ngợc lại nếu trí thức khoa học phát huy đợc tác dụng
trong thực tế thì nó lại trở thành động lực tăng thêm ý trí và nhiệt tình cách
mạng.
Ngời cán bộ kinh tế phải quán triệt sâu sắc và vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác- Lênin và t tởng Hồ Chí Minh, trớc hết là phơng pháp luận toàn

diện và phép biện chứng duy vật vào việc nghiên cứu, đề xuất và áp dụng các
chủ trơng chính sấch về kinh tế, các phơng pháp, cơ chế quản lý kinh tế tài
chính theo tinh thần đổi mới để thúc đẩy nền kinh tế của nớc ta vợt qua tình
trạng nớc nghèo và kém phát triển, tránh khỏi nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh
tế so với nhiều nớc trong khu vực và nguy cơ chệch hớng xã hội chủ nghĩa.
Trong điều kiện xoá bỏ cơ chế quan liêu, bao cấp cũng có nghĩa là đòi hỏi ngời làm công tác quản lý kinh tế, tài chính phải năng động sáng tạo, nhạy bén,
nắm bắt đợc thực tế và quy luật vận động và phát triển của nó. Kinh nghiệm
cho thấy rằng, đôi khi chỉ cần một nhận định không đúng, một thông tin
22


Tiểu luận triết học
xuyên tạc, một từ ngữ không đợc chú ý đầy đủ trong bản hợp đồng kinh tế....
hoặc chỉ cần hành động chậm hoặc hành động quá vội vã là đã có thể dẫn đến
thiệt hại lớn về kinh tế: ngợc lại, khi chỉ cần nhanh một chút, chỉ cần biết cách
quảng cáo kịp thời và đúng đắn, chỉ cần một thông tin kịp thời, chính xác cũng
có thể đạt tới thắng lợi không nhỏ. Sự két hợp giữa xuất phát từ thực tế khách
quan và phát huy nỗ lực chủ quan, kết hợp giữa tình cảm, ý chí với trí tuệ ở
đây phải đạt đến độ thành thực và nhuần nhuyễn, phải đạt đến nghệ thuận.
Muốn vậy, trớc hết cần xuất phát từ những biện pháp hành động phân tích các
số liệu, nắm bắt mọi tình hình, đề xuất những biện pháp hành động cho lãnh
đạo. Muốn vậy, trớc hết cần xuất phatừ từ thực tế khách quan, đồng thời phát
huy nỗ lực chủ quan, đảm bảo sự thống nhất giữa nhiệt tình, ý trí cách mạng
và tri thức khoa học trong công tác nghiên cứu cụ thể. Cần đấu tranh chống
chủ nghĩa chủ quan, duy ý chí, t tởng nóng vội, phiêu lực, mạo hiểm, bất chấp
quy luật khách quan, cần rèn luyện tính kiên nhẫn, chăm chỉ, cẩn thận, tinh
thần thực sự cầu thị, tinh thần ham học hỏi, tính chủ động, nhạy bén, dám
nghĩ, dám làm, chủ động sáng tạo ra thờicơ, giành lấy thời cơ. Rèn luyện đợc
những phẩm chất ấy, ngời cán bộ khoa học kinh tế không những sẽ đứng vững
trên vị trí của mình và còn có thể vợt xa lên để có thể trở thành những nhà

kinh doanh, những cán bộ quản lý giỏi.

Kết luận

Xây dựng chủ nghĩa xã hội ỏ Việt Nam là sự nghiệp rất khó khăn, phức
tạp có thể coi nó nh một công cuộc kháng chiến trờng kỳ của Đảng, Nhà nớc
23


Tiểu luận triết học
và nhân dân ta. Những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, những biến
động nhiều mặt của đất nớc ta trong quá trình đổi mới toàn diện xã hội càng
đòi hỏi Đảng và Nhà nớc ta phải kiên trì, kiên định, giữ vững lòng tin, quyết
tâm khắc phục khó khăn đồng thời phải tỉnh táo, thông minh, nhạy bén để
thích ứng kịp thời với tình hình thực tế biến đổi từng ngày, từng giờ.
Quán triẹt phơng pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lênin và t tởng Hồ Chí
Minh, vận dụng thành thạo phép duy vật biện chứng vào việc nghiên cứu và
quản lý kinh tế, phát huy mạnh mẽ hơn nữa quan hệ biện chứng giữa kinh tế
và chính trị trong công cuộc đổi mới nhằm tăng trởng nền kinh tế quốc dân,
nhất định chúng ta sẽ trở thành những cán bộ quản lý kinh tế tốt, góp phần
xứng đáng vào công cuộc đổi mới kinh tế đất nớc, tạo điều kiện cho nền kinh
tế Việt Nam cất cánh, để từ đó nâng cao hơn nữa vị trí của Việt Nam trên
chính trờng quốc tế, góp phần củng cố hơn nữa sự ổn định về chính trị đất nớc.
Đó là lơng tâm, là trách nhiệm của những cán bộ quản lý kinh tế, chính trị của
chúng ta.

24


Tiểu luận triết học


Tài liệu tham khảo

1. V.I. Lênin toàn tập
2. Đảng cộng sản Việt Nam - cơng lĩnh xây dựng đất nớc trong thời kỳ
quá độ lên XHCN.
NXB sự thật/ 1991
3. Chiến lợc ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000
NXB sự thật 1991
4. Giáo trình triết học Mác - Lênin
NXB Chính trị Quốc gia
5. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI.
6. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII.
7. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII.
8. Kinh tế 98 - 99 Việt Nam và Thế giới.
9. Thời báo kinh tế Việt Nam.
10. Tạp chí nghiên cứu thế giới.
11. Tạp chí Cộng sản.

25


×