Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

SKKN XÂY DỰNG HỆ THỐNG CÂU HỎI ĐỂ DẠY HỌC TRUYỆN NGẮN “HAI ĐỨA TRẺ” CỦA THẠCH LAM THEO ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (303.39 KB, 34 trang )

SỞ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO HÀ TĨNH
TRƯỜNG THPT LÊ QUẢNG CHÍ



SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
XÂY DỰNG HỆ THỐNG CÂU HỎI ĐỂ DẠY
HỌC TRUYỆN NGẮN “HAI ĐỨA TRẺ” CỦA
THẠCH LAM THEO ĐẶC TRƯNG THỂ
LOẠI

Họ và tên: Nguyễn Thị Lệ Thanh
Địa chỉ: Trường THPT Lê Quảng Chí
Thị xã Kỳ Anh - Tỉnh Hà Tĩnh

Thị xã Kỳ Anh, tháng 10 năm 2015

1


A – ĐẶT VẤN ĐỀ
I – Lí do chọn đề tài
Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân đang bước vào công cuộc đổi mới căn bản
và toàn diện giáo dục. Trước xu thế đó, mỗi người giáo viên phải thay đổi tiên
phong để làm cho công cuộc đổi mới đạt hiệu quả. Một trong những công việc
cần làm ngay đó là đổi mới phương pháp dạy học, theo hướng hiện đại hoá, tiếp
cận với các phương pháp dạy học tiến bộ trên thế giới. Bộ Giáo dục đã chỉ ra
rằng: "Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tự
sáng tạo của người học, bồi dưỡng cho người học năng lực tự học, lòng say mê
học tập và ý chí vươn lên"
Với yêu cầu đổi mới phương pháp giáo dục đã đánh giá lại vai trò của


người học, coi học sinh là chủ thể tiếp nhận, là trung tâm của quá trình tiếp
nhận và là người đồng sáng tạo trong quá trình dạy học văn. Trước thực tế đó
người giáo viên cần chỉ ra cho học sinh con đường đến với tác phẩm văn học, tự
tìm thấy những vẻ đẹp, có những cảm thụ rất riêng, chất chứa tầng sâu ý nghĩa.
Kho tàng kiến thức bao la, người thầy không thể đi cùng các em đến hết tất cả
các tác phẩm, chính vì vậy yêu cầu đặt ra là phải làm sao thông qua một số tác
phẩm tiêu biểu trong nhà trường để giúp các em tìm ra con đường đến thế giới
của văn học. Con đường sáng suốt nhất, khoa học nhất đó chính là dựa vào đặc
trưng thể loại của tác phẩm văn học.
Tuy nhiên để đến với tác phẩm văn học, người thầy không chỉ giới thiệu
thuyết giảng suông cho học sinh được, mà phải kích thích được hứng thú học
hỏi, tìm tòi, phát hiện ra những vẻ đẹp đó. Vậy nên một người thầy giỏi là
người biết tạo nên hệ thống câu hỏi hay, hấp dẫn để đưa học sinh vào thế giới
của văn chương một cách tự nhiên và say mê nhất. Bởi thế một trong những
mấu chốt của đổi mới phương pháp là đổi mới phương pháp tạo câu hỏi để xây
dựng bài học.
Đặc thù của chương trình Ngữ Văn THPT là nơi cung cấp cho học sinh tri
thức khá toàn diện về tiến trình phát triển của văn học Việt Nam từ VHDG đến
văn học viết. Từ văn học trung đại đến văn học hiện đại và đương đại. Về phân
phối chương trình học như sau: VHDG có 18 tiết; VHTĐ có 45 tiết và VHHĐ có
61 tiết. Như vậy văn học hiện đại chiếm một số lượng khá lớn và là phần kiến
thức quan trọng trong toàn bộ chương trình Ngữ Văn. Đặc biệt trong phạm vi nội
dung thi ĐH – CĐ thì môn Văn chỉ thi phần văn học hiện đại. Như vậy bắt đầu từ
nửa sau của chương trình học kì I lớp 11 học sinh bắt đầu tiếp cận những tác
phẩm với yêu cầu cao hơn: phải tìm hiểu sâu, kiến thức vững chắc mới có thể
làm bài thi tốt. Chính vì vậy người giáo viên cần phải có sự đầu tư kĩ lưỡng vào
phần văn học giai đoạn này.
Truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam là tác phẩm mở đầu cho phần
văn học hiện đại trong chương trình THPT. Không phải ngẫu nhiên mà các nhà


2


soạn sách lại chọn tác phẩm, bởi ở nó chứa đựng những đặc trưng của văn xuôi
Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945. Tuy nhiên trong thực tế giảng dạy vẫn còn
không ít giáo viên chưa định hình được vấn đề này; học sinh chưa biết dùng tri
thức của bài để tiếp nhận tác phẩm văn học khác. Từ lí luận dạy học đến thực
tiễn giảng dạy tại trường THPT, tôi quyết định chọn đề tài: Xây dựng hệ thống
câu hỏi để dạy – học truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam theo đặc trưng
thể loại. Thông qua đề tài này có thể đánh giá được vai trò mở đầu của tác
phẩm, giúp học sinh và giáo viên nắm được phương pháp để tiếp cận những tác
phẩm văn học cùng thời kì một cách dễ dàng, khoa học và có hệ thống hơn. Đặc
biệt là biết cách xây dựng bài học qua hệ thống câu hỏi hợp lí.
II – Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1. Đối tượng nghiên cứu: Hệ thống câu hỏi để dạy học truyện ngắn theo
đặc trưng thể loại
2. Phạm vi nghiên cứu: truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam
III – Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài
1. Mục tiêu của đề tài: Đề tài đặt ra vấn đề hệ thống câu hỏi để dạy – học
tác phẩm văn học theo đặc trưng thể loại. Trên cơ sở lí luận và thực tiễn, qua
truyện ngắn Hai đứa trẻ người viết muốn rút ra một số kinh nghiệm để giảng
dạy phần văn xuôi 1930 – 1945 tốt hơn, phù hợp với xu hướng đổi mới phương
pháp dạy học hiện nay.
2. Nhiệm vụ của đề tài
- Xây dựng hệ thống câu hỏi trong dạy học truyện ngắn
- Tìm hiểu những đặc trưng thể loại của truyện ngắn, cụ thể là truyện
ngắn giai đoạn 1930 – 1945 để vận dụng vào việc xác định hướng tiếp cận tác
phẩm.
- Đưa ra một số nội dung cần lưu ý khi dạy học truyện ngắn Hai đứa trẻ
của Thạch Lam.

- Đề xuất hướng dạy học nhằm nâng cao hiệu quả khi tìm hiểu truyện
ngắn Hai đứa trẻ nói riêng và văn xuôi 1930 – 1945 nói chung.
- Tiến hành thực nghiệm sư phạm
IV – Giả thiết khoa học của đề tài
Trên cơ sở nghiên cứu về đặc trưng thể loại truyện ngắn cũng như hệ
thống câu hỏi khoa học, hợp lí qua các hoạt động dạy học, nếu các biện pháp
mà người viết đề xuất có tính thực tiễn cao thì sẽ góp phần thúc đẩy, nâng cao
chất lượng dạy học văn trong nhà trường THPT. Đặc biệt là hình thành cho HS
phương pháp tiếp cận và làm bài thi ĐH – CĐ tốt hơn, năng lực cảm thụ văn
chương được nâng lên.
V – Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lí thuyết: phân tích, tổng hợp lí luận nhằm tìm
hiểu cơ sở lí luận của đề tài
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: điều tra, khảo sát, thống kê, thực
nghiệm sư phạm...
3


VI – Đóng góp mới của đề tài
Hai đứa trẻ của Thạch Lam là tác phẩm quen thuộc đối với giáo viên và
học sinh; đặc trưng thể loại của truyện ngắn của là vấn đề được bàn luận nhiều.
Tuy nhiên chúng tôi nhận thấy tác phẩm Hai đứa trẻ có đặc trưng khác biệt: vừa
là truyện ngắn lãng mạn vừa là truyện ngắn hiện thực. Do đó cái mới của đề tài
là nhìn nhận tác phẩm dưới góc độ định hướng, thông qua tác phẩm này người
học và người dạy có được cơ sở lí luận về loại thể để tiếp nhận những tác phẩm
văn xuôi 1930 – 1945. Đặc biệt là thông qua hệ thống câu hỏi, giáo viên không
chỉ biết tạo được bài dạy tốt, mà còn thế áp dụng cho những bài học khác.
VII – Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài gồm những nội dung chính sau:
Chương I – Cơ sở lí luận và thực tiễn của đề tài

Chương II – Hệ thống câu hỏi để dạy – học truyện ngắn Hai đứa trẻ theo
đặc trưng thể loại
Chương III – Thực nghiệm sư phạm

4


B – GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
CHƯƠNG I – CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lí luận của đề tài
1.1. Vài nét cơ bản về câu hỏi trong dạy học
1.1.1. Khái niệm câu hỏi trong dạy học
Câu hỏi là một dạng cấu trúc ngôn ngữ diễn đạt một yêu cầu, một “mệnh
lệnh” của giáo viên, đòi hỏi học sinh cần giải quyết nội dung kiến thức bài học.
Mục đích của việc đặt câu hỏi trong dạy học: giúp giáo viên thực hiện việc
giảng bài, nhằm luyện tập, thực hành, nhằm hướng dẫn tổ chức học sinh học,
nhằm khích lệ và kích thích suy nghĩ, nhằm đánh giá học sinh.
1.1.2. Vai trò cuả việc đặt câu hỏi trong dạy học
- Đối với học sinh: Đặt câu hỏi được sử dụng như một phương tiện để tổ
chức, hướng dẫn quá trình nhận thức; câu hỏi giúp học sinh lĩnh hội tri thức một
cách có hệ thống, tránh tình trạng ghi nhớ máy móc và tạo không khí học tập
sôi nổi.
- Đối với giáo viên: Đặt câu hỏi giúp giáo viên đánh giá được năng lực
của học sinh, giúp người dạy có thông tin phản hồi từ phía người học để có
những điều chỉnh phù hợp. Việc đặt câu hỏi còn nâng cao tầm hiểu biết của
giáo viên bởi vì hỏi cũng là một cách bổ ích cho việc giáo viên đi sâu vào việc
hiểu bài học.
1.1.3. Thiết kế câu hỏi trong dạy học
- Nguyên tắc thiết kế
+ Quán triệt mục tiêu dạy học

+ Đảm bảo tính chính xác của nội dung
+ Đảm bảo phát huy tính tích cực của học sinh
+ Đảm bảo nguyên tắc hệ thống
+ Đảm bảo tính thực tiễn
- Quy trình thiết kế
+ Xác định mục tiêu dạy học
+ Phân tích logic nội dung dạy học
+ Xác định tri thức đã có của học sinh liên quan đến câu hỏi
+ Xác định nội dung kiến thức có thể mã hóa thành câu hỏi tương ứng
với các khâu của quá trình dạy học
+ Diễn đạt các khả năng mã hóa nội dung kiến thức đó thành câu hỏi
+ Soạn đáp án cho câu hỏi
+ Lựa chọn, sắp xếp câu hỏi thành hệ thống theo mục đích lý luận dạy
học
- Quy trình sử dụng câu hỏi
+ Nêu câu hỏi

5


+ Hướng dẫn nghiên cứu tài liệu cần thiết
+ Tổ chức thảo luận
+ Kết luận chính xác hóa kiến thức
+ Vận dụng kiến thức mới và yêu cầu học sinh nêu câu hỏi (nếu có)
1.1.4. Đánh giá câu hỏi có hiệu quả trong dạy học
- Nguyên tắc sư phạm: Muốn đặt câu hỏi có hiệu quả trong dạy học, câu
hỏi phải được chuẩn bị trước chu đáo, phải dự kiến được những khả năng và
mức độ trả lời. Những câu hỏi đưa ra cần có mối liên hệ chặt chẽ cho mạch suy
nghĩ của học sinh và phải tạo được hứng thú trao đổi, tranh luận.
- Tiêu chí đánh giá:

+ Yếu tố thứ nhất là chất lượng của câu hỏi, thể hiện ở phạm vi kiểm tra
kiến thức cho học sinh rộng, huy động được nhiều thao tác, nhiều hoạt động
tâm lý, trí tuệ của học sinh và giáo viên.
+ Yếu tố thứ hai là chất lượng của câu trả lời, thể hiện ở việc học sinh
phải đáp ứng được ba khía cạnh: tính cụ thể, tính logic hệ thống và lập luận có
minh chứng thuyết phục. Tính cụ thể biểu hiện ở việc người nghe biết chính xác
những gì học sinh nói. Tính hệ thống đòi hỏi học sinh trả lời đầy đủ và logic các
ý của phương án trả lời. Sự đánh giá kèm theo minh chứng yêu cầu học sinh
diễn giải, đưa ra các lý lẽ, lập luận có sức thuyết phục.
+ Yếu tố thứ ba là khả năng lôi cuốn học sinh tham gia vào bài học.
1.1.5. Những yêu cầu khi xây dựng câu hỏi trong dạy học môn Ngữ văn
- Phân loại câu hỏi: Mục đích của việc đặt câu hỏi là phải làm nổi bật
đặc trưng bộ môn Ngữ văn nói chung cũng như đặc trưng kiểu bài phân tích tác
phẩm nói riêng. Từ mục đích đó, ta có thể xác định được hệ thống câu hỏi cho
kiểu bài này thường như sau:
+ Hệ thống câu hỏi tìm những chi tiết liên quan đến nội dung và nghệ
thuật của tác phẩm
+ Hệ thống câu hỏi bộc lộ cảm nhận, cảm xúc của học sinh từ những chi
tiết của tác phẩm
+ Hệ thống câu hỏi phát triển trí tưởng tượng, sáng tạo của học sinh.
- Yêu cầu về nội dung:
+ Câu hỏi khai thác được đặc sắc nổi bật thể loại tác phẩm.
+ Câu hỏi có tính dẫn dắt, gợi mở để học sinh khám phá vẻ đẹp về nội
dung và nghệ thuật của tác phẩm.
+ Câu hỏi khai thác được cảm nhận và sự đa dạng trong tiếp nhận của
học sinh và có khả năng phân hóa học sinh
- Yêu cầu về hình thức
+ Cấu trúc ngắn gọn, rõ ràng, trực tiếp
+ Câu hỏi được diễn đạt hấp dẫn, kích thích năng lực tư duy của học sinh
- Yêu cầu về phương pháp sử dụng:

+ Hệ thống câu hỏi đa dạng, phù hợp với các khâu, các phần mục của quá
trình đọc hiểu văn bản; phù hợp với đặc trưng thể loại và mục tiêu bài học
6


+ Thường xuyên đặt học sinh vào trong các tình huống thực tế, xử lý câu
trả lời của học sinh có tính sư phạm và sáng tạo
1.2. Vài nét cơ bản về truyện ngắn
1.2.1. Đặc trưng thể loại của truyện ngắn
Theo từ điển thuật ngữ văn học: "Truyện ngắn là tác phẩm tự sự cỡ nhỏ.
Nội dung thể loại của truyện ngắn bao trùm hầu hết các phương diện của đời
sống: đời tư, thế sự hay sử thi, nhưng cái độc đáo của nó là ngắn gọn. Bởi
truyện ngắn được viết ra để tiếp thu liền một mạch, đọc một hơi không nghỉ"
Truyện ngắn hiện đại là một kiểu tư duy mới, một cách nhìn cuộc đời,
một cách nắm bắt đời sống rất riêng mang tính chất thể loại. Truyện ngắn so với
tiểu thuyết thường ít nhân vật, ít sự kiện, biến cố. Truyện ngắn chỉ phát hiện
một nét bản chất trong mối quan hệ nhân sinh hay đời sống tâm hồn con người.
Khi xét về đặc trưng thể loại truyện ngắn, người ta thường xét tới các yếu tố cốt
truyện, kết cấu, nhân vật, tình huống truyện, không – thời gian nghệ thuật, ngôn
ngữ...Đó những yếu tố cơ bản nhất của đặc trưng thể loại truyện ngắn
Về cốt truyện là một đặc trưng thi pháp của truyện ngắn vì nó là kết quả
của sự sáng tạo của nhà văn, là một phương thức khắc họa số phận và tính cách
nhân vật, qua đó thể hiện đời sống một cách chân thực. Dựa vào cốt truyện, có
thể chia làm hai loại truyện: Truyện không có cốt truyện (hoặc cốt truyện rất
mờ nhạt): do chủ ý nghệ thuật của nhà văn chỉ nhằm thể hiện diễn biến tâm
trạng nhân vật trong mối liên hệ với hoàn cảnh. Truyện chỉ có những ý tưởng,
không có sự kiện gay cấn, thời gian cụ thể, thậm chí không có đầu đuôi (truyện
ngắn Thạch Lam); truyện ngắn có cốt truyện rất chú ý xây dựng những tình tiết,
sự kiện bộc lộ tính cách của nhân vật và thúc đẩy hướng phát triển, vận động
của mạch truyện. Bản thân cốt truyện là hệ thống các sự kiện, được chia theo

lớp lang từ đầu đến cuối truyện. Các sự kiện càng gay cấn, nổi bật càng tạo kịch
tính, sức hấp dẫn cho truyện (Chí Phèo - Nam Cao)
Về kết cấu: Tuy dung lượng nhỏ nhưng truyện ngắn có thể có những kết
cấu linh hoạt. Kết cấu truyện ngắn không gồm không gian, thời gian nhiều tầng
bậc, nhiều tuyến, mà được tổ chức theo kiểu tương phản, liên tưởng. truyện
ngắn có thể có các kiểu kết cấu sau đây:Kết cấu vòng tròn (đầu cuối tương
ứng): Chí Phèo (Nam Cao); Kết cấu theo trục thời gian: Truyện được kể theo
thời gian, theo diễn biến của dòng sự kiện: Chữ người tử tù(Nguyễn Tuân); Kết
cấu tâm lý: Truyện được kể men theo dòng tâm lý nhân vật, làm sáng rõ nội tâm
nhân vật và tạo sức hấp dẫn cho câu chuyện: Đời thừa (Nam Cao); Kết cấu
đồng hiện: Nhà văn miêu tả sự kiện, quan sát tình huống ở các địa điểm khác
nhau trong cùng một thời điểm. Kiểu kết cấu này đem lại khả năng mở rộng
dung lượng cho tác phẩm: Những đứa con trong gia đình (Nguyễn Thi); Kết
cấu trùng phức (kết cấu truyện lồng trong truyện): Người kể chuyện đứng ra
ngoài, đóng vai trò là đạo diễn để tổ chức diễn biến câu chuyện qua lời kể, qua
đó hoàn thiện chân dung nhân vật; Kết cấu mở: Truyện kết thúc nhưng cái kết

7


còn để ngỏ, mở ra những khả năng liên tưởng rộng lớn: Chí Phèo (Nam
Cao) Vợ nhặt (Kim Lân)
Về nhân vật: Nhân vật là linh hồn của tác phẩm, là người phát ngôn cho
tư tưởng của nhà văn. Do đó, xây dựng nhân vật là điểm quan trọng của truyện
ngắn. Nhân vật truyện ngắn ít hơn tiểu thuyết và thường bắt buộc phải được xây
dựng theo nguyên tắc điển hình hóa. Nhân vật phải được đặt trong một hoàn
cảnh cụ thể, vừa mang tính chung phổ quát vừa mang tính riêng độc đáo. Trong
truyện ngắn, nhân vật là một mảnh nhỏ của thế giới, là hiện thân cho một trạng
thái quan hệ xã hội, ý thức xã hội hoặc trạng thái tồn tại của con người, phát
ngôn trực tiếp hoặc gián tiếp cho tư tưởng nhà văn.

Về tình huống truyện: Tình huống là thời điểm, khoảnh khắc nhất định
trong tác phẩm, ở đó tập trung điểm nút chủ đạo trong tác phẩm của nhà văn.
Tạo tình huống là một đặc điểm thi pháp truyện ngắn. Do dung lượng nhỏ,
truyện ngắn buộc phải tìm đến một tình huống – tức là một khoảnh khắc đặc
biệt trong đời sống – để thể hiện tập trung mối quan hệ con người, bật sáng tư
tưởng của bản thân tác giả. Truyện ngắn có thể có một hay nhiều tình huống,
tạo thành một hệ thống. Các kiểu tình huống truyện tiêu biểu là: tình huống
nhận thức, tình huống tâm lý, tình huống lựa chọn... Tình huống trong truyện
ngắn thường rất độc đáo, ấn tượng, gây hiệu quả thẩm mĩ cao.
Về không – thời gian nghệ thuật: nghĩa là không – thời gian được xây
dựng trong tác phẩm nghệ thuật. Trong truyện ngắn đó là bối cảnh để nhân vật
sinh sống, hoạt động. Tuy nhiên không – gian đó còn thể hiện dụng ý nghệ
thuật của nhà văn. Như vậy không – thời gian nghệ thuật là một phương diện để
thể hiện ý nghĩa thẩm mỹ, chủ đề tư tưởng của tác phẩm.
Về ngôn ngữ: Ngôn ngữ truyện ngắn rất chọn lọc, cô đúc. Ngôn ngữ
truyện ngắn hiện đại còn có các tính chất: tính biểu cảm, tính chính xác, tính
hình tượng, tính hệ thống, tính đa thanh, tính đối thoại. Đặc điểm trần thuật của
truyện ngắn: Tính chấm phá. Do không phản ánh cả một quá trình cuộc sống
trong không gian rộng, thời gian dài như ở tiểu thuyết nên truyện ngắn thiên về
lối hành văn khơi gợi hơn là miêu tả tỉ mỉ, câu văn nhiều ẩn ý, tạo chiều sâu
cho tác phẩm.
1.2.2. Đặc trưng trào lưu, trường phái của truyện ngắn
Đứng trên bình diện này ta có các kiểu truyện ngắn như: truyện ngắn lãng
mạn, truyện ngắn hiện thực, truyện ngắn hiện đại và hậu hiện đại... Tuy nhiên
trong phạm vi nghiên cứu đề tài người viết chỉ tìm hiểu ở hai trường phái:
truyện ngắn lãng mạn và truyện ngắn hiện thực
Về truyện ngắn lãng mạn:Chủ nghĩa văn học lãng mạn (romanticism) đề
cao cá nhân, tự do sáng tạo, chủ trương phóng túng, không để tâm hồn bị ràng
buộc trong khuôn khổ cũ. Tác phẩm là tiếng lòng được thể hiện toàn vẹn, triệt
để và vô hạn bằng sự tưởng tượng và xúc động không che dấu, không bị trói

buộc bởi những ước lệ luân lý của xã hội. Bên cạnh những nét chung đó thì
truyện ngắn lãng mạn có đặc thù riêng như: chất trữ tình tha thiết, thế giới nội
8


tâm được khai thác một cách tinh vi, thế giới thiên thơ mộng, tình yêu lứa đôi,
môn hình muôn vẻ. Do đó truyện ngắn lãng mạn thường giàu chất thơ, hấp dẫn,
làm đắm say lòng người.
Về đặc trưng nghệ thuật, trong truyện ngắn lãng mạn thường sử dụng
hình thức độc thoại nội tâm để bật nổi được những xúc cảm, rung động thẩm
mỹ, và cả những giằng xé nội tâm của nhân vật. Bên cạnh đó nhà văn cũng
thường sử dụng các biệt pháp tương phản, cường điệu, lí tưởng hóa...
Với quan niệm: Cái bình thường sẽ là cái chết của nghệ thuật truyện
ngắn lãng mạn với lí tưởng đưa người đọc vượt lên cái tầm thường, cái bình
thường để vươn tới những ước mơ lớn lao, vỹ đại....
Về truyện ngắn hiện thực: trào lưu văn học nghệ thuật lấy hiện thực xã
hội và những vấn đề có thực của con người làm đối tượng sáng tác nhằm cung
cấp cho người đọc những bức tranh chân thực, sống động, quen thuộc về cuộc
sống, về môi trường xã hội xung quanh.
Đặc điểm về nội dung của truyện ngắn hiện thực: Quan tâm đến sự thật
đời sống xã hội, muốn phản ánh nó một cách chân thật, khách quan, vì thế rất
chú ý đến cái thường thấy, cái quen thuộc có tính phổ biến, của cuộc sống; Nó
có tham vọng đi tìm chân lí, bản chất và qui luật nằm ở bề sâu các hiện tượng.
Nó phân tích lí giải để soi sáng những chân lí ấy.
Đặc điểm về nghệ thuật: xây dưng những tính cách điển hình, có tính
khái quát tổng hợp rất cao, nhưng rất chân thực và sinh động, có cá tính riêng
độc đáo nhưng lại như đầy rẫy trong xã hội. Qua đó ta hiểu được bản chất của
con người và xã hội. Qua nghệ thuật điển hình hoá, nó phát hiện ra mối quan hệ
giữa có tính qui luật giữa hoàn cảnh và tâm lí, tính cách con người; Khuynh
hướng tư tưởng là đấu tranh cho nền dân chủ và cho chủ nghĩa nhân đạo. Cảm

hứng chủ yếu là thể hiện sinh động sâu sắc cuộc sống cơ cực đến thê thảm của
người dân lao động trước cách mạng, đặc biệt là trẻ em, phụ nữ và nông dân,
đồng thời khẳng định vẻ đẹp trong nhân cách, trong tâm hồn cao quí của họ;
qua đó bày tỏ sự đồng cảm sâu sắc, sự trân trọng ca ngợi đồng tình cao độ.
Khắc hoạ bộ mặt tàn bạo, đê tiện , bỉ ổi của bọn thực dân phong kiến đặc biệt là
tầng lớp địa chủ cường hào gian ác, chúng đã dùng mọi thủ đoạn bóc lột tàn ác
dể đày đoạ người lao động, đưa họ đến những bi kịch đau thương; qua đó các
nhà văn thể hiện thái độ lên án tố cáo gay gắt mãnh liệt.
1.3. Lí luận về dạy học tác phẩm văn học theo đặc trưng thể loại
1.3.1. Khái niệm
Loại thể văn học thuộc về ý thức, về cách thể hiện cuộc sống trong văn
học cũng như cách cấu tạo và biểu hiện nội dung trong tác phẩm văn học cụ thể.
Tác phẩm văn học tồn tại trong những hình thức của các loại thể văn học.
Không có tác phẩm nào tồn tại ngoài hình thức quen thuộc của loại thể. Phân
tích một tác phẩm về nội dung cũng như nghệ thuật không thể xem nhẹ đặc
trưng loại thể. Như vậy dạy học theo đặc trưng thể loại là giáo viên cung cấp
cho học sinh những đặc trưng của thể loại, học sinh dựa đặc điểm đó để tiếp
9


nhận tác phẩm văn học một cách chủ động, sáng tạo hơn. Việc xác định loại thể
là vấn đề mấu chốt trong dạy học tác phẩm văn chương.
1.3.2. Một số yêu cầu khi dạy thể loại truyện ngắn
Khi dạy truyện ngắn cần: cho học sinh nắm toàn bộ biến của câu chuyện.
Đây là yêu cầu có nghĩa quyết định quá trình cảm thụ tác phẩm của học sinh.
Nghĩa là học sinh phải nắm được nội dung cốt truyện.
Khi tìm hiểu nhân vật cần xác định nhân vật trung tâm, phân tích nhân
vật trong tác phẩm truyện ngắn cần chú ý: Thứ nhất tìm hiểu chung về nhân vật:
nhân vật thuộc tác phẩm nào, của tác giả nào, vào thời đại nào,…Ví dụ khi tìm
hiểu “Chữ người tử tù” (Nguyễn Tuân) cần biết nghệ thuật viết thư pháp của

người xưa. Thứ hai phát hiện cách khắc họa nhân vật của nhà văn: trực tiếp
(qua ngoại hình, cử chỉ, hành động, ngôn ngữ) hay gián tiếp (qua nhân vật khác,
qua lời bình luận của nhân vật khác hoặc đám đông).
Xác định được tình huống truyện. Dạy truyện ngắn là phải bật lên được tình
huống truyện, định danh và ý nghĩa của nó. Ngoài các yếu tố đó ra thì làm cho học sinh
cảm và hiểu được ngôn ngữ nghệ thuật của là một yêu cầu qua trọng.
Tìm hiểu ngôn ngữ nghệ thuật của truyện là đi tìm cái hay trong lời kể,
như sự linh hoạt đan xen giữa lời và lời tả, sức mạnh gợi tả của ngôn từ, cách sử
dụng từ ngữ, câu văn để làm hiện lên cảnh, việc và người, đem lại xúc mạnh
cho người đọc.
2. Cơ sở thực tiễn của đề tài
2.1. Thực tế sử dụng câu hỏi đạt hiệu quả trong dạy học
Thực tế giảng dạy tác phẩm văn học theo đặc thể loại trong nhà
trường THPT
Bộ sách giáo khoa hiện hành, được áp dụng trong nhà trường THPT hiện
nay là một sách có sự đổi mới, với tinh thần tích hợp kiến thức, kĩ năng. Nghĩa
là mỗi bài luôn có sự tổng hợp, liên đới nhiều kiến thức. Tuy nhiên, trên thực tế
thì sự tích hợp trong giảng dạy còn ít, học sinh chưa sự liên kết các thức đã học
một cách linh hoạt. Đa số còn máy móc, thậm chí còn học lệch, khi thi cử, hoặc
làm bài kiểm tra ít đạt được điểm cao.
Do đặc thù giảng dạy ở nhà trường THPT nên truyện ngắn chiếm một tỉ
lệ khá cao trong chương trình. Nhìn chung đa số giáo viên đã biết khắc sâu
những kiến thức cơ bản về tác phẩm cho học sinh: nôi dung tư tưởng, đặc điểm
nhân vật... Tuy nhiên khi học sinh được hỏi Em hiểu gì về thể loại truyện ngắn
qua một số tác phẩm đã học? hoặc khi đưa ra những câu hỏi đi nghệ thuật để
phát hiện nội dung, thì còn mơ hồ, lúng túng, chưa hiểu vấn đề. Học sinh đa số
chỉ nắm được những vấn đề cụ thể, nhỏ trong tác phẩm, chưa có cái nhìn bao
quát tổng thể, nên khi gặp những đề thi mang tính tổng hợp hoặc so sánh là làm
chưa tốt.
Về phía giáo viên, qua phiếu điều tra thăm dò cho thấy: giáo viên biết về

đặc trưng thể loại truyện ngắn, và trào lưu văn học là 95%, nhưng áp dụng
10


phương pháp này để giảng dạy thì chỉ là 60%. Nguyên nhân là bởi cần nhiều
thời gian soạn giáo án, ngại thay đổi kết cấu mạch bài…
2.2. Thực tế dạy – học truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam
Trong chương trình Ngữ Văn THPT Hai đứa trẻ là tác phẩm đại diện cho
sáng tác của Thạch Lam. Tác phẩm nằm trong nội dung thi ĐH – CĐ nên được
giáo viên và học sinh chú ý nhiều. Có nhiều tài liệu, sách tham khảo về truyện
ngắn này. Đó là lợi thế, nhưng cũng là khó khăn, bởi vì có quá nhiều tài liệu
nên gây nhiễu cho học sinh. Đây là tác phẩm hay, nhưng hay thì thường khó
dạy, giáo viên thường lúng túng trong cách dạy, mạch dạy của bài. Cộng thêm
phân phối bài này chỉ 2 tiết. Là mở đầu cho một giai đoạn văn học mới, giáo
viên rất khó có thể hướng dẫn học sinh tiếp nhận được đầy đủ cái hay, cái đẹp
của bài.
Trước thực tế đó, tôi nhận thấy cần phải có tìm tòi phương pháp dạy tối ưu
nhất để có thể truyền đạt cho học sinh những kiến thức cơ bản nhưng đầy đủ về
tác phẩm. Và dạy học theo trưng thể loại là lựa chọn phù hợp để giải quyết những
khó khăn của giáo viên và học sinh khi tiếp nhận tác phẩm này.

11


CHƯƠNG II – XÂY DỰNG HỆ THỐNG CÂU HỎI
ĐỂ DẠY HỌC TRUYỆN NGẮN HAI ĐỨA TRẺ
THEO ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI
1. Vài nét về tác giả Thạch Lam
1.1. Cuộc đời và sự nghiệp
Thạch Lam là một trong những cây bút xuất sắc của văn học Việt Nam

trong chặng đường nửa đầu thế kỉ XX. Tác phẩm của ông đem đến cho văn xuôi
nước nhà một phong cách mới, góp phần làm phong phú hơn diện mạo văn học
nước ta trong quá trình chuyển mình đi lên con đường hiện đại hóa. Thạch Lam
- Tên thật là Nguyễn Tường Vinh, sau đổi là Nguyễn Tường Lân, sinh năm
1909. Ông sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh gia đình bắt đầu sa sút về kinh tế.
Thuở nhỏ có thời gian ông chuyển về sống ở huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải
Dương, một phố huyện nhỏ, nơi Thạch Lam gắn bó nửa cuộc đời mình, và cũng
chính nơi đây đã để lại dấu ấn sâu sắc trong sáng tác của ông, từ cảnh vật thiên
nhiên đến cuộc sống con người.
Thạch Lam bắt đầu hoạt động văn học từ 1932, thành viên của Tự lực
văn đoàn. Ông tham gia biên tập các tờ tuần báo Phong hóa, Ngày nay. Ông đã
để lại một số tác phẩm chính như: Gió đầu mùa (1937); Nắng trong vườn
(1938); Sợi tóc (1942); Tiểu thuyết Ngày mới (1939); Tập tiểu luận Theo dòng
(1941); Tập bút ký Hà Nội băm sáu phố phường (1943). Thạch Lam mất vì
bệnh lao năm 1942 tại Hà Nội.
Nhìn chung về cuộc đời và sự nghiệp văn chương của Thạch Lam vẫn
còn nhiều khía cạnh để ta bàn bạc, chia sẻ. Trong phạm vi đề tài này, người viết
chỉ điểm qua một số nét cơ bản để có khám phá sáng tác của ông ở thể loại
truyện ngắn,
1.2. Quan niệm văn chương của Thạch Lam
Trong bài giới thiệu tập truyện ngắn Gió đầu mùa xuất bản trước cách
mạng tháng Tám, Thạch Lam viết : "Đối với tôi văn chương không phải là một
cách đem đến cho người đọc sự thoát ly trong sự quên, trái lại văn chương là
một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi
một cái thế giới giả dối và tàn ác, làm cho lòng người được thêm trong sạch và
phong phú hơn". Có thể coi đoạn văn ngắn nói trên như là "Tuyên ngôn văn
học" của Thạch Lam. Và quả thật, trong toàn bộ gia tài sáng tạo của Thạch
Lam, hầu như không một trang viết nào lại không thắm đượm tinh thần đó.
Là thành viên của nhóm Tự Lực văn đoàn, được coi là một trong những
cây bút chính của nhóm ấy, song trước sau văn phong Thạch Lam vẫn chảy

riêng biệt một dòng. Đề tài quen thuộc của nhóm Tự Lực văn đoàn là những
cảnh sống được thi vị hóa, những mơ ước thoát ly mang mầu sắc cải lương, là
những phản kháng yếu ớt trước sự trói buộc của đạo đức phong kiến diễn ra
trong các gia đình quyền quý. Thạch Lam, trái lại, đã hướng ngòi bút về phía
12


lớp người lao động bần cùng trong xã hội đương thời. Khung cảnh thường thấy
trong truyện ngắn Thạch Lam là những làng quê bùn lầy nước đọng, những phố
chợ tồi tàn với một bầu trời ảm đạm của tiết đông mưa phùn gió bấc, những khu
phố ngoại ô nghèo khổ, buồn, vắng... Trong khung cảnh ấy, các nhân vật cũng
hiện lên với cái vẻ heo hút, thảm đạm của số kiếp lầm than.... Tất cả những
cảnh, những người ấy đều được mô tả bằng một số đường nét đơn sơ, thưa
thoáng nhưng vẫn hết sức chân thực. Thạch Lam không hề gắn cho nhân vật
của mình những hành động, những ý nghĩ khả dĩ có thể làm bi thảm thêm cuộc
đời của họ. Trái lại ông cũng không như một số nhà văn lúc ấy vẫn thường
khoác lên cảnh vật hoặc nhân vật thứ "ánh trăng lừa dối " như nhà văn Nam
Cao đã từng nhận xét.
1.3. Phong cách nghệ thuật
Tác phẩm của Thạch Lam có nhiều yếu tố hiện thực tuy nhân vật không
dữ dội. Cái riêng, cái độc đáo, cái mạnh của Thạch Lam, chính là ở lòng nhân
ái, và vẻ đẹp tâm hồn quán xuyến trong mọi tác phẩm của ông. Nhân vật Thạch
Lam, bất luận ở hoàn cảnh nào, vẫn ánh lên trong tâm hồn cái chất nhân ái Việt
Nam
Đặc trưng truyện của Thạch Lam là những truyện không có chuyện.
Nghĩa là truyện không có cốt truyện. Chính vì vậy mà ông không đi sâu khắc
họa tính cách nhân vật mà là những cảm xúc tâm trạng diễn biến một cách tinh
tế, nhẹ nhàng, nhưng có sức lay động lớn.
Không thời gian trong truyện ngắn Thạch Lam là những không gian, thời
gian thực, nó gắn liền với những sinh hoạt thường nhật của con người. Nhưng

đó là một dụng ý nghệ thuật, thông qua đó ông dựng lên một bức tranh hiện
thực và gửi gắm tấm lòng đồng cảm, xót thương của mình đến với con người.
Ngôn ngữ trong sáng tác của Thạch Lam chủ yếu thiên về tả và bộc lộ
cảm xúc. Ông tả cảnh thiên nhiên hay tâm trạng con người rất tinh tế, nhẹ
nhàng như những vần thơ. Bởi vậy cho nên Trần Ngọc Dung bàn về phong cách
truyện ngắn Thạch Lam đã nhận xét: "Mỗi truyện ngắn của ông là một bài thơ
trữ tình đầy xót thương... nó tạo nên một tâm hồn rất đỗi Việt Nam của Thạch
Lam"
Như vậy thông qua tìm hiểu vài nét về phong cách nghệ thuật của Thạch
Lam, ta cần phải lưu ý khi dạy tác phẩm Hai đứa trẻ theo đặc trưng thể loại. Ở
đó không thể lấy nguyên lí thuyết về truyện ngắn vào phân tích tác phẩm mà
cần phải sự hài hòa giữa chất trữ tình và yếu tố tự sự, giữa đặc trưng văn học
lãng mạn và văn học hiện thực...
2. Đặc trưng thể loại của truyện ngắn Hai đứa trẻ
2.1. Hai đứa trẻ - với đặc trưng của truyện ngắn lãng mạn
Hai đứa trẻ là truyện ngắn tiểu biểu cho phong cách nghệ thuật của Thạch
Lam: bình dị, nhẹ nhàng, tinh tế mà thâm thúy. Chất lãng mạng đầu tiên thể
hiển ở cốt truyện. Là tác phẩm tự sự nhưng truyện ngắn này dường như không
có chuyện, chẳng có xung đột xung đột, chẳng có gì gay cấn cả. Hai đứa trẻ chỉ
13


là một mảng đời thường, bình lặng của một phố huyện nghèo từ lúc chiều
xuống cho đến lúc đêm khuya, với hương vị, màu sắc và âm thanh quen thuộc:
tiếng trống thu không cất lên trên một chiếc chòi nhỏ, một ráng chiều ở phía
cuối chân trời, một mùi vị âm ẩm của đất, tiếng chó sủa, tiếng ếch nhái, tiếng
muỗi kêu vo ve... những âm thanh của mấy con người bé nhỏ, thưa thớt, một
quán nước chè tươi, một gánh hàng phở, một vãn cảnh chợ chiều với vỏ nhãn,
vỏ thị, rác rưởi và những đứa trẻ con nhà nghèo lom khom cúi tìm nhặt nhạnh,
một đoàn tàu đêm lướt qua... và nỗi buồn mơ hồ với khao khát đến tội nghiệp

của hai đứa trẻ...
Chuyện hầu như chỉ có thế...tất cả mơ hồ mong manh như một áng thơ
trữ tình. Có thể nói truyện ngắn Hai đứa trẻ giống như một bài tản văn, tản mạn
về buổi chiều quê nên phố huyện nghèo. Sự liên kết của truyện không phải là
những sự kiện, tình tiết mà đơn giản chỉ là mạch cảm xúc tâm trạng. Qua ngòi
bút tinh tế giàu chất thơ của Thạch Lam đã rung động cảm xúc người đọc, đánh
thức và khơi gợi biết bao tình cảm xót thương, day dứt, dịu dàng, nhân ái.
Nhân vật của truyện ngắn cũng mang cảm hứng lãng mạn. Thông thường
khi nhà văn xây dựng một hình tượng nhân vật, thường phải tập trung khắc họa
ngoại hình, tính cách, cử chỉ hành động, lai lịch, số phận... Nhưng nhân vật
trong truyện ngắn Hai đứa trẻ Thạch Lam chỉ xoay quanh về những cung bậc
cảm xúc. Nổi bật về nhân vật của ông đó chính là vẻ đẹp của cảm xúc, tâm
trạng, tình cảm. Liên là một cô bé có tâm hồn trẻ thơ trong sáng và thuần khiết,
tự nhiên như chưa từng chịu một tác động tiêu cực nào của cuộc đời. Em có
những rung động tinh tế trước cuộc sống xung quanh. Chỉ một mùi nồng nồng,
âm ẩm bốc lên đã khiến Liên ngỡ đó là mùi riêng của đất quê; không khí vắng
lặng đìu hiu của phố huyện đã lay động tâm hồn Liên để cô cảm nhận được cái
buồn của buổi chiều quê và khiến đôi mắt cô cũng như ngập đầy bóng tối của
buổi chiều quê đó; khi đêm xuống, Liên thích thú ngắm bầu trời đêm với ngàn
sao lấp lánh để mơ mộng về con vịt theo sau ông Thần Nông, về dòng sông
Ngân Hà trong các câu chuyện cổ; tâm hồn Liên trong sáng và nhạy cảm đến độ
có thể bắt nhạy với những dấu hiệu mơ hồ nhất của thế giới quanh mình: những
con đom đóm lập loè, những khe sáng, hột sáng lọt qua khe cửa, từng loạt hoa
bàng rụng khẽ xuống vai áo…
Cuộc sống thường nhật với gánh nặng mưu sinh không thể xoá bỏ trong
Liên niềm nhớ tiếc quá khứ. Thậm chí, chính cuộc sống tẻ nhạt hàng ngày lại
khiến nỗi nhớ ấy thêm da diết, khắc khoải: dù kỉ niệm còn lại không nhiều,
nhưng quá khứ luôn trở về trong Liên bằng ánh hồi quang rạng rỡ nhất "Hà Nội
xa xăm, Hà Nội sáng rực, vui vẻ và huyên náo". Chính nỗi nhớ quá khứ luôn
thường trực đã khiến Liên khi đối diện với hình ảnh thực của chuyến tàu đêm

lại đắm mình trong những mơ tưởng xa xôi để "sống giữa bao nhiêu sự xa xôi
không biết" mà chuyến tàu ấy gợi lên trong tâm hồn cô.
Trong Liên luôn mang lòng trắc ẩn đối với những cảnh ngộ đáng thương:
Bản thân cô đang sống một cuộc sống nghèo khó, Liên cũng thấm thía sâu sắc
14


cảnh nghèo và buồn mà cô đang phải trải qua, song không vì thế mà Liên đóng
kín tâm hồn đối với con người và cuộc sống quanh mình. Nhìn những đứa trẻ
nghèo đang nhặt nhạnh, tìm kiếm trên bãi chợ, Liên thấy "động lòng thương"
tuy chính chị cũng không có gì để cho chúng. Sẵn có một tấm lòng thơm thảo,
Liên đã rót đầy hơn vào cút rượu của bà cụ Thi điên dù trong em không phải
không có cảm giác sờ sợ rất tự nhiên ở một đứa trẻ khi phải đối diện với một
người không hoàn toàn bình thường. Chính những tình cảm ngỡ như rất giản dị
ấy lại làm cho người ta cảm động như được "thanh lọc tâm hồn" để trở về với
những gì tự nhiên thuần khiết nhất.
Đặc trưng của văn học lãng mạn là: biểu hiện cái nhìn chủ quan của nhà
văn trước cuộc đời và hình tượng nhân vật ít nhiều mang phảng phất bóng dáng
cái tôi tác giả. Thạch Lam đã thể hiện cái tôi của mình ẩn kín sau nhân vật.
Dường như, ông đã viết truyện ngắn "Hai đứa tre" bằng chính những trải
nghiệm tuổi thơ ở phố huyện Cẩm Giàng. Đọc truyện, không thể không nhận
thấy cái tình âu yếm mà Thạch Lam dành cho nhân vật. Cái tình âu yếm ấy một
mặt xuất phát từ cái nhìn nhân hậu, yêu thương mà người lớn dành cho lứa tuổi
này, một mặt là do nhà văn đã hoá thân vào nhân vật, là sự ám ảnh của tuổi thơ
gắn liền với phố huyện Cẩm Giàng. Sự cộng hưởng của những cảm xúc này để
tạo cho những trang viết Thạch Lam một sự hoà quyện giữa chất thực và chất
thơ để tạo thành một sức hút da diết, bền lâu của tác phẩm.
Có người đã từng cho rằng: truyện ngắn Hai đứa trẻ là một trong những
tác phẩm tiểu biểu cho văn xuôi lãng mạn Việt Nam. Chúng ta biết rằng dụng
nghệ thuật miêu tả tương phản là yêu cơ bản của văn học lãng mạn. Bởi nó làm

nổi bật các đặc điểm của từng đối tượng, gây ấn tượng mạnh mẽ. Chính vì vậy
tương phản trở thành biện pháp nghệ thuật đặc thù của sáng tác lãng mạn. Trong
Hai đứa trẻ Thạch Lam đã sử dụng nghệ thuật này để làm bật nổi lên chủ đề, hơn
tất cả gửi gắm được lòng mình qua tác phẩm.
Thứ nhất, đó chính là sự tương phản giữa hoàn cảnh và tính cách. Theo
quan niệm hiện thực thì tính cách được tạo nên từ hoàn cảnh, thế nhưng với
Thạch Lam ông lại sử dụng yếu tố này để thể hiện khát vọng và niềm tin (chất
lãng mạn). Hoàn cảnh của những đứa trẻ, những con người trong tác phẩm đó là
sự nghèo khó, tù túng, đơn điệu, buồn tẻ. Đó một kiểu hoàn cảnh có thể tạo ra
sự chết mòn về tinh thần. Thế nhưng tính cách của họ đó lại là sự hồn nhiên,
ngây thơ trong cách nhìn và rung động; sống với một tấm lòng nhân hậu và thế
giới tâm hồn trong sáng, phong phú. Qua đây ta thấy được niềm tin, tấm lòng
yêu thương, cái nhìn trìu mến của nhà văn dành cho những tâm hồn trẻ thơ.
Thứ hai, đó chính là sự tương phản giữa bóng tối và ánh sáng. Bóng tối
theo nghĩa thực là khoảnh khắc của phố huyện lúc chiều muộn và đêm khuya;
theo nghĩa tinh thần là nỗi buồn đang lan toả, thấm thía và trĩu nặng dần trong
tâm hồn nhân vật... Ánh sáng đó là ánh sáng của thiên nhiên lúc chiều tà "mặt
trời đỏ rực như lửa cháy, đám mây hồng như hòn than sắp tàn". và lúc đêm về
với ánh sáng lấp lánh từ hàng ngàn ngôi sao, vệt sáng của những con đom
15


đóm, quầng sáng của ngọn đèn chị Tý, chấm sáng từ bếp lửa bác Siêu, hột sáng
từ ngọn đèn của Liên. Đặc biệt ánh sáng rực rỡ nhất, và cũng chóng vếnh nhất
tỏa ra từ con tàu đêm qua phố huyện. Ánh sáng có thể hiểu như là hồi quang kí
ức về một thiên đường đã mất và niềm hi vọng mong manh, le lói trong đêm.
Thủ pháp miêu tả tương phản ánh sáng – bóng tối lặp đi lặp lại nhiều lần
càng khắc sâu ám ảnh người đọc. Đó là sự đối lập, tương phản giữa cuộc đời
thường nhật và khát vọng trong tâm hồn con người. Toát lên giá trị nhân văn
sâu sắc.

Truyện ngắn Hai đứa trẻ là một tác phẩm giàu chất thơ. Làm nên chất
thơ, chất lãng mạn đó, là sự hội tụ nhiều yếu tố, trong đó ngôn ngữ kể chuyện
đóng một phần rất quan trọng. Thạch Lam đã sử dụng bút pháp trữ tình đặc sắc
trong lời kể, giọng kể. Một cách viết hoà hợp sự trong sáng, chính xác và dịu
dàng, hoà hợp sự kín đáo và giản dị như một lời thủ thỉ vừa phải, êm đềm nhỏ
nhẹ nhưng có thể phân biệt được từng âm vị. Thạch Lam ít dùng những chữ to
tát, những nhịp điệu gấp gáp vội vàng, lời văn của ông nhuần nhuyễn, tinh tế để
phô diễn những trạng thái, những cảm xúc trong tâm hồn. Câu văn của Thạch
Lam nhiều thanh bằng gợi một nhịp điệu chậm buồn nhưng có sức lan toả.
Chẳng hạn khi miêu tả vẻ trầm buồn nhưng cũng rất đỗi nên thơ của phố huyện,
Thạch Lam đã viết: "Chiều, chiều rồi, một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng
ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào…" Hay miêu tả cảnh
đêm tối sau khi chuyến tàu đi qua: "Đêm tối vẫn bao bọc xung quanh, đêm của
đất quê, và ngoài kia đồng ruộng mênh mang và yên lặng". Thạch Lam đã sáng
tạo ra một thứ ngôn ngữ nghệ thuật riêng để biểu đạt cái xao động của sự sống
khẽ vang lên trong không gian, thời gian tĩnh mịch để diễn tả cái thanh thoát,
dịu hiền của tâm hồn Liên: êm ả, yên lặng, thong thả, gượng nhẹ, nhỏ xíu, yên
tĩnh, mơ hồ, miên man, tĩnh mịch … Những từ ngữ này liên kết với nhau như
một dải lụa nhẹ bay để tạo một dư âm sâu lắng trong tâm hồn người đọc.
Văn phong Thạch Lam rất bình dị: Câu văn ngắn, nhịp văn chậm rãi,
thong thả. Dù diễn tả cái náo nức bên trong, cái sôi động của ước mơ, Thạch
Lam vẫn rất nhẹ nhàng, vẫn tự nén ngòi bút. Chuyến tàu rực sáng vụt qua, Liên
xúc động mạnh khi kỉ niệm xưa dồn dập hiện về "Hà Nội xa xăm, Hà nội sáng
rực, vui vẻ và huyên náo". Đây là một trong số ít những câu văn kết hợp lối
trùng điệp và những thanh trắc tạo điểm nhấn và ngay câu sau Thạch Lam viết
ngắn hơn, nhẹ hơn, như ghìm giữ lại niềm xúc động: "Con tàu như đem một
chút thế giới khác đi qua". Thạch Lam thường sử dụng kiểu cú pháp đẳng lập,
đều đều, nhịp độ khoan thai điềm tĩnh mà vẫn gây những chấn động nhẹ nhàng,
thấm thía chính là ở độ nén của cảm xúc mà nhà văn tạo ra trong những câu
văn.

2.2. Hai đứa trẻ - với đặc trưng của truyện ngắn hiện thực
Chúng ta biết rằng Thạch Lam là thành viên của nhóm Tự lực văn đoàn
nhưng ông lại có hướng đi khác biệt với các tác giả khác. Trong khi họ hướng
sự quan tâm tới những con người "lá ngọc cành vàng", thì Thạch Lam hướng về
16


những con người nhỏ bé, vô danh, thiệt thòi trong xã hội cũ. Đó cũng chính là lí
do để ông tiến gần đến với văn học hiện thực.
Đặc trưng của truyện ngắn hiện thực là bối cảnh lịch sử xã hội. Hai đứa
trẻ được ra đời vào năm 1938. Xét về thời đại thời kì này xã hội Việt Nam có sự
thay đổi mạnh mẽ. Đất nước ta chuyển từ xã hội phong kiến trở thành phong
kiến nửa thuộc địa. Mâu thuẫn giữa nhân dân ta với thực dân Pháp ngày càng
trở nên gay gắt, khi mà Pháp đầu hang quân Nhật, đẩy nhân dân ta vào cảnh
“một cổ hai tròng”. Cùng với đó là sự ra đời của Đảng cộng sản Đông Dương,
với các phong trào đấu tranh, bùng nổ khắp nơi và đang từng bước chuẩn bị cho
một cuộc cách mạng mới.
Về phía hoàn cảnh của nhà văn Thạch Lam cũng có sự thay đổi. Gia đình
sa sút, cha mất việc. Thạch Lam phải cùng mẹ chuyển về sống quê ngoại ở phố
huyện Cẩm Giàng. Chính nơi đây đã luôn ám ảnh trong tâm trí ông, và thăng hoa
trong sáng tác của ông sau này. Hai đứa trẻ trước hết là hồi ức về một thời thơ ấu
không thể nào phai. Thế Uyên cháu Thạch Lam viết : truyện ngắn hai chị em
bán hàng xén ở phố huyện kế ga xe lửa, cố gắng thức để đợi tàu qua chỉ là một
kí ức. Cô chị là mẹ tôi, đưa em trai là Thạch Lam, khung cảnh phố huyện sau
nhà ga Cẩm Giàng. Khi viết về Hai đứa trẻ Thạch Lam như sống lại một lần nữa
thời thơ ấu của mình với những mảnh vỡ quanh ông. Truyện ngắn là dòng hồi ức,
là kỷ niệm và cả nỗi day dứt mơ hồ ngày bé dại về kiếp nhân sinh. Chúng ta có
thể thấy những hiện thực đó trong tác phẩm Hai đứa trẻ. Như vậy đặc trưng của
văn học hiện thực là phản ánh, tái hiện hiện thực thì truyện ngắn này cũng đã làm
được điều đó.

Hiện thực xã hội được nhà văn hình tượng hóa qua các hình thức nghệ
thuật như : Không thời gian nghệ thuật, nhân vật, kết cấu…Đúng như có nhà
phê bình đã nhận xét : truyện ngắn Hai đứa trẻ có thể gói gọn trọng một chữ
TÀN. Thời gian TÀN, không gian TÀN và những kiếp người TÀN.
Về không - thời gian nghệ thuật. Có thể nói không gian nghệ thuật trong
Hai đứa trẻ là không gian của bóng tối. Những khoảng tối của không gian và thời
như chụp lên cuộc đời và tâm tưởng các nhân vật. Đặc điểm không gian trong
sáng tác của Thạch Lam là không gian đời thường, bình dị, nơi gắn liền với
những sinh hoạt của cộng đồng, của con người. Trong Hai đứa trẻ đó là không
gian ở một ga tàu, nơi phố huyện nghèo Cẩm Giàng. Đó là không gian có thật,
không gian của hiện thực. Diện mạo phố huyện được Thạch Lam tái hiện là một
khung cảnh buồn, là cảnh chiều tàn đi dần vào đêm khuya. Hàng ngày, những cái
ồn ào của buổi sáng làm không khí bị nhoè đi trong nắng như đến chiều thì cái bộ
mặt thật của phố huyện hiện ra với tất cả những cái tiêu điều, xác xơ, tàn lụi.
Thạch Lam đã chọn một phiên chợ tàn để nói lên được tất cả bộ mặt của phố
huyện. Chợ là nơi biểu hiện sức sống của một làng quê, biểu hiện thuần phong
mĩ tục của làng quê. Người ở nông thôn thường trông chờ vào ngày chợ phiên
đông vui tấp nập. Thạch Lam đã chọn ngày chợ phiên để nói cái xác xơ tiêu điều
của phố huyện. Mặc dù không tả buổi chợ phiên nhưng ông đã tả những phế
17


phẩm còn lại của buổi chợ, đó cũng là cách biểu hiện sức sống đầy hay vơi của
phố huyện. Tả những con người cuối cùng trao đổi với nhau rồi bước vào các
ngỏ tối. Rác chỉ là những thứ phế thải vớ vẫn “rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn
và bã mía, những thanh nứa thanh tre…Lũ trẻ vẫn còn ra bòn mót, nhặt nhạnh.
Ngày chợ phiên như thế thì sức sống đã kém lắm, đã yếu lắm rồi. Người bán
trông vào người mua và ngược lại nhưng chỉ là sự vô vọng, lẩn quẩn, trông chờ
vào sự vô vọng. Mùi vị toả ra trong không gian này là một thứ mùi đặc trưng để
nói tới sự nghèo nàn. Đó là mùi bã mía, vỏ bưởi, vỏ thị, đất ẩm, mùi khói, mùi

cỏ, mùi phân trâu nồng nồng ngai ngái… Cái mùi vị ấy cũng góp phần làm cho
khung cảnh thêm phần tàn tạn héo úa, lụi dần. Mặc dù chỉ là không gian của một
phố huyện, nhưng người đọc như thấy cả hiện thực của đất nước ta lúc bấy giờ.
Nghèo nàn, tỉnh mịc, và đầy bế tắc.
Thời gian trong truyện ngắn tác giả khắc trong khoảnh khắc ngày tàn. .
“Chiều chiều rồi” như là một lời thảng thốt, bàng hoàng như một tiếng thở dài.
Thế là một buổi chiều nữa lại đến, chiều là buồn. Ấn tượng về buổi chiều khá
sâu đậm trong tác phẩm. Nhưng cái điều đáng nói đó là sự chuyển dịch của nó.
Chiều tàn chuyển dần sang đêm và kết thúc là một tỉnh mịch. Như vậy thời gian
một lần nữa lại nói lên hiện thực đen tối của đất nước, của những con người lay
lắt, đang đi dần vào ngỏ cụt. Không dữ dội như Tắt đèn của Ngô Tất Tố, nhưng
cái đêm đen trong Hai đứa trẻ có lẻ cũng như cái tiền đồ của chị Dậu vậy.
Kết cấu của truyện ngắn cũng mang hàm ý tái hiện hiện thực. Bởi tác
phẩm mở đầu bằng một buổi chiều, chuyển dần về đêm và kết thúc là tất cả
chìm dần trong đêm đen tĩnh mịc. Đó là hiện thực đất nước ta lúc bấy giờ, đang
chìm dần trong đêm đen nô lệ, là sự bế tắc bất lực của những con người đang
sống lay lắt, trong sự lụi tàn.
Đặc biệt Thạch Lam đã tạo nên hình ảnh mang tính đối lập nhưng lại
tương trợ bổ sung cho nhau, gây được ấn mạnh cho bạn đọc. Đó là hình ảnh
bóng tối và ánh sáng. Ánh sáng thì nhỏ nhoi, như càng tô đậm thêm bóng đêm
đang bao trùm. Ánh sáng rực rỡ từ con tàu chạy qua phố huyện không làm xua
đi sự đen tối chỉ càng tăng thêm nó. Bởi khi tàu đi qua phố huyện càng hẳn
trong đêm, sẽ chẳng có ánh sáng le lói nữa. Ánh sáng là niềm hi vọng, là hạnh
phúc, nhưng cái bóng đêm hiện cứ bao trùm và nhấn chìm nó.
Những kiếp người tàn - nhân vật của truyện ngắn. Đó là mấy đứa trẻ con
nhà nghèo đi nhặt nhạnh thanh nứa thanh tre hay bất cứ cái gì có thể dùng được.
Đó là mẹ con chị Tí bán hàng nước. Đó là bà cụ Thi hơi điên có giọng cười
khanh khách dễ sợ. Đó là bác Siêu bán phở gánh. Đó là gia đình bác xẩm. Vài
ba bác phu, chú lính đi tuần đêm, mấy người làm công ở hiệu khách đi đón bà
chủ ở tỉnh về và chị em Liên. Họ là những con người bình thường chỉ xuất hiện

thoáng qua, hầu như chỉ như một cái bóng: từ hình ảnh mẹ con chị Tí, bác Siêu,
bà cụ Thi… cho đến cả những con người không tên: một vài người bán hàng về
muộn, những đứa trẻ con nhà nghèo… Tất cả họ không được Thạch Lam miêu
tả chi tiết: nguồn gốc, xuất thân,… nhưng có lẽ nhờ thế mà số phận họ hiện lên
18


càng thêm bé nhỏ, tội nghiệp, ai cũng sống âm thầm, nhẫn nhục, lam lũ giống
như những cái bóng lầm lũi, lặng lẽ trong cái bóng tối bao trùm và ngự trị tất cả
phố huyện. Những con người nghèo khổ, thân phận bé mọn, hèn kém ấy mỗi
người một nghề, một cảnh ngộ đã góp vào bức tranh thiên nhiên nơi phố huyện
chiều tà đến đêm khuya những nét sinh hoạt của cuộc sống. Nhưng đây không
phải nét sinh hoạt bình thường mà là cuộc mưu sinh chật vật, khốn cùng, mòn
mỏi.
Dựng lại bức tranh phố huyện nghèo với những chi tiết chân thực về thời
gian và không gian và cuộc sống con người như thế, ngòi bút Thạch Lam đậm
chất hiện thực không thua kém bất cứ cây bút nào của dòng hiện thực phê phán
cùng thời. Cùng với yếu tố hiện thực văn Thạch Lam thấm thía chất trữ tình
lãng mạn. Tất cả các chi tiết, sự việc, tâm trạng nhân vật trong bức tranh phố
huyện đều được cảm nhận bằng tấm lòng chia sẻ, cảm thông của nhân vật Liên,
một mảnh hồn của nhà văn hóa thân vào rất tự nhiên, tinh tế. Đây là hình ảnh
thu nhỏ của biết bao làng quê, thị trấn, thị xã, phố huyện trên đất nước Việt
Nam thời kì thực dân Pháp đô hộ. Viết về cảnh đời, kiếp người tàn tạ, đói nghèo
như thế, Thạch Lam biểu hiện một nỗi xót thương thấm thía. Ông không chỉ sẻ
chia những đau khổ của con người, nhất là những tầng lớp dưới đáy xã hội mà
còn đồng tình với họ, hi vọng, đợi chờ một ngày mai tươi sáng đến với cuộc đời
của họ. Giá trị nhân đạo nhân văn của Thạch Lam là ở chỗ đó. Buồn thương
nhưng không tuyệt vọng, bế tắc.
3. Hệ thống câu hỏi để dạy học truyện ngắn Hai đứa trẻ theo đặc
trưng thể loại

3.1. Hệ thống câu hỏi nhận thức (theo quan niệm của Bloom)
3.1.1. Câu hỏi nhận biết
- Mục tiêu : Tái hiện kiến thức, khái quát đặc điểm nổi bật về thời đại, tác
giả (cuộc đời, sự nghiệp, phong cách) và tác phẩm (hoàn cảnh ra đời, nhan đề...)
- Tác dụng đối với học sinh: Giúp học sinh nắm được những kiến thức cần
thiết để làm cơ sở lĩnh hội, tìm tòi kiến thức, thông tin mới có hệ thống.
- Cách thức dạy học: Giáo viên có thể sử dụng ở phần hướng dẫn học sinh
tìm hiểu phần tiểu dẫn.
- Ví dụ:
Giới thiệu những nét khái quát về tác giả Thạch Lam?
Hãy nêu những đặc sắc văn chương của Thạch Lam?
Giới thiệu khái quát về xuất xứ, bối cảnh câu chuyện?
3.1.2. Câu hỏi thông hiểu
- Mục tiêu: Kiểm tra mức độ hiểu bài của học sinh bằng cách trình bày lại
một cách khác, hoặc so sánh, gộp kiến thức để rút quy luật.
- Tác dụng đối với học sinh: Giúp học sinh có khả năng nêu ra được những
yếu tố cơ bản trong bài học. Nhận biết được các dấu hiệu của thể loại trong tác
phẩm và nêu tác dụng của chúng.

19


- Cách thức dạy học: Giáo viên có thể sử dụng ở phần hướng dẫn học sinh
tìm hiểu tác phẩm
- Ví dụ:
Anh chị có nhận xét gì về cảnh vật của phố huyện lúc chiều tà?
Ý nghĩa của việc tác giả nhắc đi nhắc lại nhiều lần về hình ảnh bóng tối và
ánh sáng?
Qua tác phẩm, anh chị có cảm nhận gì về tấm lòng của nhà văn?
3.1.3. Câu hỏi vận dụng

- Mục tiêu: Kiểm tra khả năng vận dụng những kiến thức về đặc trưng thể
loại của truyện ngắn lãng mạn và hiện thực vào đọc hiểu tác phẩm
- Tác dụng đối với học sinh: Giúp học sinh có khả năng sử dụng kiến thức
về đặc trưng thể loại truyện lãng mạn và hiện thực để tìm hiểu truyện ngắn Hai
đứa trẻ và một số tự sự cùng thời kì.
- Cách thức dạy học: Giáo viên có thể sử dụng ở phần hướng dẫn học sinh
củng cố và luyện tập sau bài học.
- Ví dụ:
Truyện này vừa mang chất hiện thực, vừa mang chất trữ tình. Điều này
được thể hiện như thế nào?
Hai đứa trẻ có vị trí như thế nào trong sự nghiệp sáng tác của Thạch Lam?
Theo anh chị truyện ngắn Hai đứa trẻ có tác dụng như thế nào đối với độc
giả thời nay?
3.1.4. Câu hỏi phân tích
- Mục tiêu: Kiểm tra khả năng phát hiện những kiến thức bị che lấp hoặc chỉ
ra được mối liên hệ kiến thức trong một vấn đề.
- Tác dụng đối với học sinh: Giúp học sinh có khả năng nhìn nhận, phát
hiện vấn đề bị che khuất hoặc đánh lừa. Chỉ ra được mối liên hệ của kiến thức
trong một vấn đề từ đó phát triển được tư duy logic.
- Cách thức dạy học: Giáo viên có thể sử dụng ở những bài thi đề kiểm tra.
- Ví dụ:
Phân tích nhân vật Liên trong tác phẩm Hai đứa trẻ để thấy được tấm lòng
của nhà văn Thạch Lam?
Phân tích bức tranh phố huyện lúc chiều tà để thấy được chất thơ trong
giọng văn của Thạch Lam
Phân tích hình ảnh bóng tối và ánh sáng trong tác phẩm Hai đứa trẻ để thấy
được đặc trưng của truyện ngắn Thạch Lam?
3.1.5. Câu hỏi tổng hợp
- Mục tiêu: Kiểm tra khả năng tổng hợp kiến thức của học sinh. Khái quát,
nâng cao kiến thức từ những cái đã có.

- Tác dụng đối với học sinh: Giúp học sinh có khả năng sử dụng ý tượng cũ,
để tạo ra ý tưởng mới; liên kết các vùng kiến thức với nhau.
- Cách thức dạy học: Giáo viên có thể sử dụng ở những bài thi đề kiểm tra
cuối kì, cuối năm.
20


- Ví dụ:
“Mỗi truyện ngắn của Thạch Lam là một bài thơ trữ tình đầy xót thương”.
Qua truyện ngắn Hai đứa trẻ để làm sáng tỏ nhận định trên?
Qua truyện Hai đứa trẻ, anh/chị hãy nêu một vài nhận xét khái quát về
đặc điểm nổi bật của truyện ngắn Thạch Lam ( liên hệ với một vài truyện ngắn
của các nhà văn cùng thời để làm rõ nhận xét của mình?)
3.1.6. Câu hỏi đánh giá
- Mục tiêu: Kiểm tra khả năng sáng tạo và đóng góp ý tưởng mới của học
sinh.
- Tác dụng đối với học sinh: Thúc đẩy sự tìm tòi, sáng tạo và cảm nhận độc
lập của học sinh.
- Cách thức dạy học: Giáo viên có thể sử dụng ở những bài kiểm tra, bài thi
ở các kì thi lớn: cuối năm; cao đẳng, đại học; học sinh giỏi....
- Ví dụ:
Có ý kiến cho rằng truyện ngắn của Thạch Lam là tự truyện điều này có
đúng với tác phẩm Hai đứa trẻ không? Vì sao?
Anh chị hãy cho biết tác phẩm Hai đứa trẻ có đóng góp gì cho tiến trình lịch
sử văn học dân tộc?
Nhận xét về sáng tác văn Thạch Lam, Nguyễn Tuân viết.
“Xúc cảm của nhà văn Thạch Lam thường bắt nguồn và nảy nở lên từ những
chân cảm đối với những con người ở tầng lớp dân nghèo. Thạch Lam là một
nhà văn quý mến cuộc sống, trân trọng trước sự sống của mọi người xung
quanh. Ngày nay đọc lại Thạch Lam, vẫn thấy đầy đủ cái dư vị và cái nhã thú

của những tác phẩm có cốt cách và phẩm chất văn học”.
Anh, chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Qua tác phẩm Hai đứa trẻ, hãy chứng
minh ý kiến đó.
3.2. Hệ thống câu hỏi cảm thụ
3.2.1. Câu hỏi hình dung tưởng tượng
Với hệ thống câu hỏi này giáo viên từng bước dẫn dắt học sinh vào thế
giới hình ảnh, nhân vật, chi tiết của tác phẩm bằng cảm nhận rất riêng của các
em. Từ những câu hỏi hình dung tưởng tượng học sinh không những nắm được
kiến thức một cách tự nhiên mà còn có thể sáng tạo trên nền kiến thức mà giáo
viên hướng dẫn
Ví dụ :
- Từ những chi tiết về âm thanh, hình ảnh được miêu tả trong truyện,
anh (chị) có hình dung như thế nào về bức tranh phố huyện lúc chiều tàn?
- Nếu được thay lời nhân vật Liên để nói lên một mơ ước, anh (chị) sẽ
nói điều gì?
- Nếu như tiếng còi tàu không xuất hiện mỗi lúc về đêm, anh (chị) thử
hình dung xem cuộc sống của con người nơi đây sẽ như thế nào?
3.2.1. Câu hỏi cảm xúc

21


Để trong quá trình phân tích, học sinh có thái độ “nhập cuộc”, giáo viên
phải để cho các em có cơ hội bày tỏ cảm xúc, tình cảm của mình đối với tác
phẩm. Tất nhiên, ta chỉ hướng học sinh đến những nội dung chính của tác
phẩm. Trong trường hợp đưa ra những câu hỏi cảm xúc, một mặt, để kích thích
các em bộc lộ cảm xúc, mặt khác giáo viên phải thăm dò các trạng thái tình cảm
của các em để có hướng điều chỉnh cho phù hợp. phải nhạy cảm để nhận ra
những rung động từ các yếu tố nội dung và nghệ thuật của tác phẩm đem tới.
Chẳng hạn các em phải cảm nhận được cái cảm giác man mác buồn khi nghe

tiếng trống thu không, tiếng ếch nhái văng vẳng từ đồng chiều vọng lại; Các em
có thể cảm nhận được một sự ngột ngạt trước một bức tranh phố huyện dày đặc
bóng tối; Các em có dịp để bày tỏ tình yêu thương và sự cảm thông của mình
đối với những nhân vật trong truyện nhất là nhân vật Liên....
Ví dụ :
- Những âm thanh, hình ảnh vào buổi chiều nơi phố huyện đã gợi lên
cảm xúc gì trong lòng người đọc?
- Anh (chị) có cảm giác gì trước bức tranh có sự tương phản về màu sắc
như đã miêu tả trong truyện?
- Những nhân vật trong truyện đều có số phận thật đáng thương, song,
đáng thương nhất là nhân vật nào? Vì sao?
- Tình cảm của anh (chị) đối với nhân vật Liên ra sao?
- Cách sử dụng câu văn và giọng văn như trong truyện có tác động như
thế nào đối với tình cảm cảm người đọc?
- Tâm trạng của anh (chị) như thế nào sau khi đọc xong truyện ngắn Hai
đứa trẻ?
3.2.3. Nhóm các câu hỏi hiểu biết
Đi sâu vào hoạt động phân tích, giáo viên đưa ra một loạt các câu hỏi
dạng hiểu biết theo mức độ từ dễ tới khó. Cốt là để làm nổi bật vấn đề đặc trưng
thể loại của truyện cũng như tình cảm của nhà văn. Trước hết, để định hướng
cho việc phân tích, giáo viên cần cho tiến hành bước cho học sinh ghi nhớ lại
nội dung của truyện, các tình tiết quan trọng làm nổi bật chủ đề của truyện.
Ví dụ :
- Cảnh chiều tàn nơi phố huyện được gợi tả qua những âm thanh, hình
ảnh nào?
- Theo dòng hồi tưởng của nhân vật Liên, kỉ niệm nào của tuổi thơ làm
chị nhớ nhiều nhất?
- Hình ảnh đoàn tàu được miêu tả như thế nào?
- Trong truyện, chi tiết bóng tối được nhắc lại bao nhiêu lần? Đó là
những lúc nào?

Tiếp theo là những câu hỏi với yêu cầu cao hơn, đó là các em phải có khả
năng phân tích, lí giải các vấn đề thuộc nội dung và nghệ thuật của truyện. Có
nhiều vấn đề để hỏi nhưng cần chú ý nhiều đến nhân vật Liên, một nhân vật
được xem là linh hồn, cảm hứng của truyện. Gợi ý để học sinh hiểu được những
22


nét tính cách của Liên như: có tâm hồn, biết động lòng trước nỗi đau của người
khác, biết suy nghĩ, trầm tư trước cuộc sống hiện tại, biết ước mơ một cuộc
sống tươi sáng... Tập trung hướng cho học sinh khai thác các chi tiết nghệ thuật
mang cảm xúc của nhà văn như hình ảnh bóng tối; ngọn đèn ở gian hàng chị Tí;
giọng văn nhẹ nhàng, câu văn ngắn gọn, giản dị…để các em nhận ra tấm lòng
của nhà văn, một tấm lòng nhân ái, bao la. Từ những vấn đề cụ thể, hướng học
sinh đi đến sự hiểu biết khái quát như chủ đề, giá trị tư tưởng của truyện…Điều
đặc biệt là giúp học sinh nhận ra phong cách nghệ thuật tiêu biểu của truyện
này, đâu là chất hiện thực và đâu là chất trữ tình.
Ví dụ:
- Anh (chị) có nhận xét gì về cảnh vật lúc chiều tàn nơi phố huyện?
- Ý nghĩa của việc tác giả nhắc đi nhắc lại nhiều lần hình ảnh bóng tối?
- Qua những dòng suy nghĩ miên man của nhân vật Liên, anh (chị) có
nhận xét gì về đời sống tâm hồn của nhân vật này?
- Lối diễn đạt và cách sử dụng câu văn của tác giả trong truyện này có
gì đáng chú ý?
- Vì sao hai chi em Liên thức và chờ đợi chuyến tàu đêm?
- Hình ảnh ngọn đèn dầu chị Tí và bóng đêm ở nhiều dạng xuất hiện.
Tại sao? (câu hỏi của thầy Nguyễn Viết Chữ)
- Qua truyện, anh (chị) cảm nhận được tấm lòng của nhà văn ra sao?
- Tác phẩm đã gợi cho anh (chị) suy nghĩ gì về cuộc sống của người lao
động nghèo ở nông thôn Việt Nam những năm trước Cách mạng tháng 8-1945?
- Truyện này vừa mang chất hiện thực vừa mang chất trữ tình. Điều này

được thể hiện như thế nào?
Với bài Hai đứa trẻ, các câu hỏi nêu quan điểm sẽ được sử dụng ở phần
cuối bài khi cho học sinh có những nhận xét, đánh giá chung về tác phẩm. Mục
đích là để các em có cái nhìn tổng thể sau khi học xong tác phẩm, những học
sinh khá giỏi có thể so sánh được các sáng tác của Thạch Lam với sáng tác của
các nhà văn hiện thực để tìm ra nét chung và hướng đi riêng của Thạch Lam
trong việc phản ánh hiện thực. Học sinh sẽ thấy được vị trí quan trọng của tác
phẩm này, là tác phẩm tiêu biểu trong sự nghiệp sáng tác của Thạch Lam và là
một đóng góp không nhỏ cho lịch sử văn học dân tộc về nội dung tư tưởng và
cả về mặt nghệ thuật. Riêng bản thân học sinh, phải thấy rằng, tác phẩm đã mở
rộng thêm cửa sổ tâm hồn cho các em ở phương diện tình yêu, sự gắn bó thiết
tha đối với quê hương và trang trải lòng yêu thương, cảm thông sâu sắc tới mọi
người, nhất là những người nghèo khổ.
Ví dụ :
- Anh (chị) hãy cho biết vị trí của tác phẩm Hai đứa trẻ trong sự nghiệp
sáng tác của Thạch Lam?
- Anh (chị) hãy cho biết truyện ngắn Hai đứa trẻ có đóng góp gì cho
tiến trình lịch sử văn học dân tộc?

23


- Đánh giá về giá trị nhân đạo của truyện ngắn Hai đứa trẻ (có thể so
sánh với tác phẩm của Nguyễn Công Hoan, Nam Cao)?
- Truyện ngắn Hai đứa trẻ có tác động như thế nào đối với độc giả ngày
nay (về mặt nhận thức và tình cảm)?
- Có ý kiến cho rằng, truyện ngắn của Thạch Lam thường là tự truyện,
điều này có đúng với tác phẩm Hai đứa trẻ không? Vì sao?
Trên đây là những câu hỏi có tính hướng dẫn cho việc phân tích tác phẩm
Hai đứa trẻ của Thạch Lam. Tất nhiên, sự phân loại các dạng câu hỏi chỉ thuận

tiện cho việc hình dung còn trên thực thế giảng dạy giáo viên phải vận dụng
linh hoạt để giờ học đạt hiệu quả cao.

24


CHƯƠNG III – THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM
1. Thiết kế giáo án thể nghiệm:

HAI ĐỨA TRẺ
- Thạch Lam A - Mục tiêu bài học:
1. Kiến thức:
- Bức tranh phố huyện với cảnh ngày tàn, chợ tàn, những kiếp người tàn
qua cảm nhận của hai đứa trẻ.
- Niềm xót xa, thương cảm của nhà văn trước cuộc sống quẩn quanh, tù
đọng của những người lao động nghèo nơi phố huyện và sự trân trọng nâng
niu những khát vọng nhỏ bé nhưng tươi sáng của họ.
- Tác phẩm đậm đà yếu tố hiện thực vừa phảng phất chất lãng mạn, chất
thơ; là truyện tâm tình với lối kể thủ thỉ như một lời tâm sự.
2. Kỹ năng: Rèn luyện kĩ năng phân tích tìm hiểu tác phẩm theo đặc
trưng thể loại truyện
3. Thái độ: Giáo dục tình yêu quê hương đất nước, lòng yêu thương con
người
B - Chuẩn bị:
1. Chuẩn bị của giáo viên:
- Đọc kĩ văn bản trong sách giáo khoa và nghiên cứu kĩ sách Hướng dẫn
thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Ngữ văn lớp 11 để xác định đúng yêu
cầu và hệ thống tri thức cơ bản, tri thức trọng tâm của bài giảng.
- Sưu tầm một số tranh ảnh minh họa cho bài giảng như ảnh Thạch Lam,
mộ Thạch Lam, ảnh minh họa văn bản… Tìm đọc một số tác phẩm khác của

Thạch Lam như Gió lạnh đầu mùa, Dưới bóng hoàng lan… tham khảo những
bài viết, những tài liệu tham khảo liên quan đến bài giảng để liên hệ, mở rộng
kiến thức cho học sinh.
- Chuẩn bị các Slide Power Point hoặc bảng phụ để hỗ trợ cho bài giảng
thêm sinh động, tạo hứng thú cho học sinh.
- Cuối cùng là soạn giáo án. Trước khi lên lớp giáo viên phải chuẩn bị
giáo án kĩ càng, nghĩa là chuẩn bị đầy đủ hợp lí phương pháp và nội dung giảng
dạy, dự kiến tiết dạy… Giáo án cần phải ngắn gọn, bố cục rõ ràng, đầy đủ làm
nổi bật trọng tâm kiến thức. Có như thế tiết dạy mới thành công.
2. Chuẩn bị của học sinh:
- Yêu cầu học sinh đọc trước văn bản ở nhà, nắm được nội dung, diễn
biến của câu chuyện. Nắm được đặc trưng của xu hướng văn học lãng mạn và
hện thực ở bài học trước. Tìm hiểu về nhà văn Thạch Lam
- Trả lời những câu hỏi ở phần Hướng dẫn học bài trong sách giáo
khoa. Đây là yêu cầu thiết thực bắt buộc các em phải đọc, phải suy nghĩ, tìm
hiểu kiến thức mới trả lời được.

25


×