Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

THỰC TIỄN ÁP DỤNG CHẾ ĐÔH BẢO HIỂM TRÁCH NHIỆM NGHỀ NGHIỆP TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.84 KB, 13 trang )

MỞ ĐẦU
Ở nhiều nước phát triển, trong danh mục sảm phẩm của các doanh
nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ thì cơ cấu các sản phẩm bảo hiểm trách
nhiệm nghề nghiệp bào giờ cũng là nhiều nhất, sau đó mới đến bảo hiểm
xe cơ giới và bảo hiểm con người. Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp
được đánh giá là sản phẩm tiềm năng và sẽ là xu hướng chung tại các nền
kinh tế đang phát triển. Ở Việt Nam, bảo hiểm trách nhiệm nói chung và
bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp nói riêng, mặc dù rất tiềm năng
nhưngg vẫn chưa thực sự hấp dẫn các doanh nghiệp bảo hiểm. Theo quy
định của pháp luật Việt Nam, nhóm bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp
bao gồm: bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho công ty môi giới bảo
hiểm, bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho luật sư, bảo hiểm trách
nhiệm nghề nghiệp cho công ty quản lý quỹ, bảo hiểm trách nhiệm nghề
nghiệp của nhà thầu thiết kế xay dựng công trình, bảo hiểm trách nhiệm
nghề nghiệp của nhà thầu giám sát thi công công trình xây dựng, bảo
hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho công ty kiểm toán, bảo hiểm trách
nhiêmh nghề nghiệp cho doanh nghiệp thẩm định giá . Thực tế, nhận thức
chung của người Việt Nam về các sản phẩm bảo hiểm trách hiệm chưa
cao, họ chưa thấy cần thiết, hoặc cũng có thể do tập quán, thói quen kinh
doanh, không ai sợ trách nhiệm hoặc trách nhiệm là của tập thể… Ngược
lại, bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp có vi phạm trách nhiệm khá nặng
nè, nên các doanh nghiệp còn e ngại khi triển khai. Tuy nhiên, thực tế cho
thấy loại bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp này có vai trò quan trọng
trong quá trình phát triển kinh tế xã hội hiện nay. Trong phạm vi bài này,
em đi tìm hiểu về “chế độ bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp và thực tế
hiện nay, từ đó cho ý kiến và đề xuất giải pháp hoàn thiện chế độ bảo
hiểm này.” Qua đó sẽ đưa ra những ý kiến đề xuất giải pháp hoàn thiện
chế độ bảo hiểm này.

1



I.

NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ BẢO HIỂM TRÁCH
NHIỆM NGHỀ NGHIỆP:
1. Khái niệm bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp:
Những người hành nghề chuyên môn phải thực hành công việc,
thao tác nghề nghiệp chuyên môn với sự cẩn thận và tay nghề đảm bảo
yêu cầu chuyên môn. Tuy nhiên, thực tế vì nhiều lý do vẫn có thể gây
thiệt hại cho bên thứ ba từ những hành động bất cẩn, những sai phạm
hoặc thiếu sót trong quá trình thực hiện các công việc chuyên môn. Do
đó, bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp được hình thành nhằm bảo vệ
quyền lợi cho những người như trên. Hiện nay chưa có quy định cụ
thể về bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp nhưng có thể hiểu:
Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp (BH TNNN): là loại hình bảo
hiểm bồi thường cho người được bảo hiểm từ những thiệt hại mà họ
có trách nhiệm phải bồi thường cho chủ đầu tư hoặc là bồi thường các
thiệt hại về người, tài sản đối với các bên thứ ba phát sinh từ những sai
sót hay bất cẩn mà họ có thể mắc phải trong quá trình thực hiện công
việc.
Theo đó, DNBH cung cấp sự bảo đảm về mặt tài chính cho các cá
nhân, tổ chức, công ty hành nghề chuyên môn đối với trách nhiêmh
dân sự phát sinh từ việc hành nghề chuyên môn có thể do hành động
hoặc thiếu sót của người chịu trách nhiệm chuyên môn chính cũng
như của nhân viên của họ.
2. Đối tượng bảo hiểm trách nhiêm nghề nghiệp:
Đối tượng của BH TNNN là trách nhiệm pháp lý của người được
bảo hiểm (bao gồm cá nhan hoặc các tổ chức nghề nghiệp) khi thực
hiện nghề nghiệp: Kiến trú sư, kỹ sư tư vấn, Nhà thiết kế, Tư vấn kỹ
thuật, môi giới chứng khoán, môi giới bảo hiểm, bác sỹ, người hành

nghề y,…
3. Cơ sở xác định trách nhiệm bảo hiểm:
Cơ sở xác định trách nhiệm được bồi thường khi có đơn khiếu kiện
của chủ thể bị thiệt hại đối với thương tật thân thể, thiệt hại vật chất
hoặc thiệt hại về xây dựng phát sinh từ hành động của người được bảo
hiểm với những điều kiện:
- Hành động bất cẩn, lỗi hay sai sót.
- Xảy ra trong khi cung cấp dịch vụ chuyên môn.
- Hành động trong phạm vi ranh giới của nghề chuyên môn nêu
trong giấy yêu cầu bảo hiểm.
- Xuất phát từ một bên thứ ba không có liên quan.
- Thời hạn hồi tố.
4. Ý kiến của bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp:
Hiện nay có rất nhiều sản phẩm BH trách nhiệm khác nhau như:
BH TNNN kiến trúc sư, luật sư, kỹ sư, bác sỹ, BH TNNN môi giới
chứng khoán, BH TNNN kiểm toán, tư vấn tài chính… Đây là những
2


người hành nghề chuyên môn phải thực hành công việc, thao tác nghề
nghiệp chuyên môn với sự cẩn thận và tay nghề đảm bảo yêu cầu
chuyên môn vì nhiều lí do có thể gây thiệt hại cho bên thứ ba từ những
hành động bất cẩn, những sai phạm hoặc thiếu sót sơ xuất trong quá
trình thực hiện dịch vụ nghề nghiệp của mình.
Do đó, BH TNNN sẽ bảo đảm về mặt tài chính cho các cá nhân, tổ
chức hành nghề chuyên môn khắc phục những thiệt hại có thể do bất
cẩn, do lỗi hay sai sót của người chịu trách nhiệm chuyên môn chính
cũng như nhân viên của họ xảy ra trong quá trình thực hiện dịch vụ
nghề nghiệp.
II.

THỰC TIỄN ÁP DỤNG CHẾ ĐÔH BẢO HIỂM TRÁCH
NHIỆM NGHỀ NGHIỆP TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Ở VIỆT NAM:
1. Thực tiễn áp dụng chế độ bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp:
Sản phẩm BH trách nhiệm nói chung, sản phẩm BH TNNN nói
riêng là một loại hình bảo hiểm mới, nó chưa được khách hàng và cả
doanh nghiệp bảo hiểm quan tâm đúng mức. Số liệu toàn thị trường
bảo hiểm phi nhân thọ cho thấy, năm 2011, doanh thu bảo hiểm trách
nhiệm nói chung đạt 406 tỷ đồng, tăng 16% so với năm 2010. Tỷ lệ
bòi thường sấp xỉ 9%, một tỷ lệ bồi thường mơ ước so với nhiều
nghiệp vụ bảo hiểm khác 1
Hiện nay nói đến BH TNNN, có thể nói đến các nghề cần bảo hiểm
trong các ngành như: ngành y, luật sư, tài chính, chứng khoán, kinh
doanh, kỹ sư xây dựng… Đây là những ngành nghề đòi hỏi kỹ năng
chuyên mon cao, rủi ro xảy ra với công việc này cũng lớn, do đó việc
mua BH TNNN một phần giúp người mua gánh chịu một phần trách
nhiệm khi rủi ro xảy ra, hơn nữa cũng đòi hỏi họ cần có trách nhiệm
với nghề nghiệp, công việc của mình hơn, ví dụ như:
• Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp trong ngành y:
Theo như khảo sát của WHO, ở các nước đang phát triển, tai biến
trong khám và chữa bệnh cao gấp 20 lần so với các nước phát triển.
Các tai biến trong khám và chữa bệnh là một dạng rủi ro mà các y, bác
sĩ và bệnh nhân đều không mong muốn, tuy nhiên nó lại xảy ra thường
xuyên ở bất cứ bệnh viện nào 2. Do đó, BH TNNN trong ngành y đang
có vai trog quan trọng đặc biệt là bảo hiểm nghề bác sĩ là rất cần thiết.
Theo đó, việc kiểm soát và giải quyết các rủi ro này một cách hệ
thống, chuyên nghiệp là nhu cầu cấp thiết.
Tuy nhiên, ở Việt Nam, “cầu và cung” vẫn chưa gặp nhau, nên loại
hình bảo hiểm này chưa thực sự phát triển. Hơn nữa, do DNBH không
đầu tư, tìm hiểu về ngành nghề cần bảo hiểm trách nhiệm nên những

sản phẩm BH TNNN bác sĩ mà một số DNBH đã bán chưa đáp ứng
1
2

/>

3


đúng nghề nghiệp đặc thù của ngành y tế; chưa phân định rõ phần nào
là tai nạn nghề nghiệp, phần nào thuộc về đạo đức (sự tắc trách trong
thao tác hành nghề).
Một ví dụ cụ thể trong ngành y để cho thấy việc xác định thế nào là
tai nạn nghề nghiệp và có phải bồi thường từ trách nhiệm nghề nghiệp
hay không: một trường hợp mổ đẻ, sao ca mổ, kiểm tra tất cả các chỉ
số về sức khỏe của sản phụ đều bình thường, nhưng 4-5 ngày sau hậu
phẫu, sản phụ bị băng huyết, dẫn đến tai biến hoặc vết mổ bị nhiễm
trùng dẫn đến bung vết thương, do cơ đại của sản phụ không đáp ứng.
Điều này thuộc về rủi ro trong nghề nghiệp, nhưng để phân định được
cái nào thuộc về tai nạn nghề nghiệp để tri trả bồi thường thì cần phải
có Hội đồng y khoa xác minh. Vì thế, thời gian bị kéo dài, khiến bác sĩ
cảm thấy xa lạ với sản phẩm nghề nghiệp của mình. Bên cạnh đó, về
phía các bệnh viện do chưa nhận thấy sự ưu việt và cần thiết của loại
hình bảo hiểm này nên nhiều bệnh viện không mấy quan tâm đến
chúng. Ngoài ra, việc giải quyết các tai nạn, rủi ro trong nghề nghiệp
của các bác sĩ thường do bệnh viện đứng ra giải quyết, cơ chế quản lí
của nhà nước nên cũng có những trường hợp xử lí nhằm bảo vệ cho
cán bộ bệnh viện chưa được hợp tình, hợp lí3.
Về phía nhà nước: cuối năm 2011, Chính phủ đã ban hành Nghị
định 102 quy định về bảo hiểm trách nhiệm trong khám chữa bệnh.

Theo lộ trình dự kiến, chậm nhất đến cuối tháng 12/2015, các bệnh
viện đã khoa, chuyên khoa, bệnh viện y học cổ truyền phải mua bảo
hiểm trách nhiệm trong khám, chữa bệnh. Đến cuối tháng 12/2017,
cáccơ sở khám chữa bệnh. Theo lộ trình dự kiến chậm nhất đến cuối
tháng 12/2015, các bệnh viện đa khoa, chuyên khoa, bệnh viện y học
cổ truyền phải mua bảo hiểm trách nhiệm trong khám, chữa bệnh. Đến
cuối tháng 12/2017, các cơ sở khám, chữa bệnh phải mua bảo hiểm
trách nhiệm trong khám, chữa bệnh. Nắm bắt thực tế này, cuối năm
2011, bảo hiểm AAA đã liên kết với Medika cho ra đời sản phẩm “bảo
hiểm trách nhiệm y an nghiệp”. So với các sản phẩm thông thường
khác, Bảo hiểm y an nghiệp không những bảo hiểm cho các tai biến
do sai sót chuyên môn của y, bác sỹ, mà còn bảo hiểm thêm cho các
tai biến trong khám và chữa bệnh không do sai sót chuyên môn.
• Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp luật sư.
Trong thực tiễn hành nghề luật sư, đã cho nhiều trường hợp khách
hàng khiếu nại về những thiệt hại nảy sinh từ việc tư vấn pháp luật
không đúng của luật sư, về việc luật sư làm mất tài liệu, chứng từ có
giá trị… vì thế, nhu cầu về việc luật sư có nghĩa vụ phải mua BH
TNNN không chỉ xuất phát từ sự đảm bảo bồi thường cho khách hàng
khi luật sư tư vấn sai, sai phạm trách nhiệm nghề do bất cẩn hoặc
khinh suất phạm phải, mà còn nâng cao uy tín xã hội của chính luật sư
3



4


và tổ chức hành nghề luật sư, tạo sự tin cậy nơi khách hàng đến nhờ tư
vấn. Thực hiện chế độ BH TNNN luật sư là một biện pháp quan trọng

nhằm ngăn ngừa và hạn chế bớt những rủi ro trong ngành nghề luật sư
và lành mạnh hóa cạnh tranh trong thị trường dịch vụ pháp lí. Xuất
phát từ bản chất hoạt động luật sư mang tính độc lập nên một luật sư
sẽ phải hoàn toàn chịu trác nhiệm với quyết định độc lập của mình,
cũng như phải bảo mật thông tin, giữ gìn tài sản và tài liệu, hồ sơ của
khách hàng của người thứ ba liên quan mà luật sư có trách nhiệm cần
giữ. Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có quy định cụ thể về việc luật sư
phải có trách nhiệm tham gia BH TNNN về nghề luật.
• Bảo hiểm trách nhiệm nghề xây dựng.
BH TNNN trong hoạt động xây dựng là loại BH trách nhiệm pháp
lí của người được bảo hiểm phát sinh do việc vi phạm trách nhiệm
nghề nghiệp. Việc chủ đầu tư và các chủ thể tham gia hoạt đôngj xây
dựng mua BH theo quy định của pháp luật xây dựng sẽ tăng thêm chi
phí nhưng là chi phí cần thiết đối với ngành nghề đòi hỏi chuyên môn
cao nhưng rủi ro về bất cẩn vẫn luôn có thể xảy ra này. Các quy định
về bảo hiểm trong hoạt động xây dựng tại các văn bản quy định về bảo
hiểm trong hoạt động xây dựng tại các văn bản quy phạm pháp luật.
Việc quy định các chủ thể tham gia hoạt động xây dựng phải thực
hiện mua bảo hiểm trong hoạt động xây dựng được quy định rõ ràng
tròn luật xây dựng và các văn bản hướng dẫn luật xây dựng, cụ thể:
đối với các nhà thầu tư vấn: điểm đ Khoản 2 Điều 51, điểm g Khoản 2
Điều 58 và điểm đ Khoản 2 Điều 90 Luật xây dựng quy định “Nhà
thầu khảo sát xây dựng, nhà thầu thiết kế xây dựng công trình và nhà
thầu giám sát thi công xây dựng công trình có nghĩa vụ mua BH
TNNN”. Đối với nhà thầu thi công xây dựng công trình: điểm h
Khoản 2 Điều 76 Luật xây dựng quy định: “Nhà thầu thi công xây
dựng công trình có nghĩa vụ mua loại BH theo quy định của pháp luật
bảo hiểm”. Cũng tại điểm b khoản 1 Điều 45 Nghị định số 48/2010
NĐ- CP của Chính phủ về hợp đồng trong hoạt động xây dựng đã quy
định cụ thể hơn: “Bên nhận thầu phải thực hiện mua các bảo hiểm cần

thiết (bảo hiểm thiết bị, bảo hiểm đối với bên thứ ba) đẻ bảo đảm cho
hoạt động của mình theo quy định của pháp luật” . Đối với chủ đầu tư:
điểm i khoản 2 Điều 76 Luật xây dựng quy định: “Chủ đầu tư xây
dựng công trình có nghĩa vụ mua bảo hiểm công trình xây dựng”. Về
quy định này, điểm a Khoản 1 Điều 45 Nghị định số 48/2010 NĐ- CP
cũng đã nêu rõ: “Bảo hiểm xây dựng công trình do chủ đầu tư mua.
Trường hợp phí bảo hiểm này đã được tính vào giá hợp đồng thì bên
nhận thầu thực hiện mua bảo hiểm công trình theo quy định”. Tuy
nhiên tại văn bản số 13994/BTC-BH ngày 19/11/2008, Bộ tài chính đã
có ý kiến: Theo quy định tại Luật kinh doang bảo hiểm, bảo hiểm
trong hoạt động xây dựng không phải là bảo hiểm bắt buộc. Do đó,
5


Bộ Tài chính không ban hành quy tắc, biểu ghi bảo hiểm trong hoạt
động xây dựng. Việc mua, bán bảo hiểm trong hoạt động xây dựng
được thực hiệm như đối với các loại hình bảo hiểm tự nguyện khác…
Với BH TNNN, nhà thầu khảo sát xây dựng, nhà thầu thiết kế xây
dựng công trình và nhà thầu giám sát thi công xây dựng công trình
(dưới đây gọi chung là nhà thàu tư vấn) được bồi thường những khoản
sau: Số tiền mà người được bảo hiểm (nhà thầu tư vấn) có trách
nhiệm thanh toán đối vơus các khiếu nại được lập chống lại người
được bảo hiểm trong thời hạn ghi trong phụ lục là hậu quả teuwcj tiếp
của các hành động cất cẩn, sai sót hoặc thiếu sót khi người được bảo
hiểm hoặc người làm thuê cho họ thực hiện các công việc chuyên môn
được xác định trong Phụ lục hợp đồng bảo hiểm.
Số tiền bồi thường của bảo hiểm được xác định theo các khoản trên
và giới hạn bồi thường chomoix khiếu nại. Giới hạn bồi thường – mức
trách nhiệm gộp cho tất cả các khiếu nại của bên thứ ba chống lại
người được bảo hiểm trong một thời hạn bảo hiểm, bao gồm cả phí

tổn và chi phí bào chữa do người được bảo hiểm chấp thuận mà DN
bảo hiểm có thể phải trẩ. Trường hợp khiếu nại hàng loạt: Hai hay
nhiều khiếu nại phát sinh từ một hành vi bất cẩn (ví dụ từ cùng một lỗi
khảo sát, tính toán thiết kế hoặc giám sát thi công xây dựng). Bất kể
số người bị thiệt hại , tất cả các khiếu nại này được coi là một khiếu
nại và ngày xảy ra tỏn thất là ngày mà khiếu nại đầu tiên trong một
loạt khiếu nại được phát ra bằng văn bản chống lại người được bảo
hiểm.
Các nhà thầu tư vấn mua bảo hiểm có đơn vị mình theo 1 trong 2
dạng: Mua cho toàn bộ hoạt động tư vấn có hợp đồng trong năm tài
chính hay mua theo từng hoạt động riêng lẻ. Mức mua và mức chi trả
bảo hiểm tương ứng không quy định mức sàn, nên thường là mua giá
trị thấp. Có rất nhiều DNBH do vậyc ũng không cần thuê chuyên gia
để phải xem xét năng lực tư vấn, giải pháp thiết kế, mức độ an toàn…
để có cách hành xử (bán bảo hiểm)phù hợp như thông lệ các nước.
Đặc biệt, các hoạt động tư vấn cho những công trình riêng lẻ của dân
cư trong đô thị chen hầu như không mua bảo hiểm. Kết quả là khi xảy
ra sự cố, do sơ xuất nghề nghiệp, nhà thầu tư vấn không đủ khả năng
tài chính để khắc phục, gây thiệt hại cho xã hội và phức tạp cho việc
quản lí các hoạt động xây dựng. Điều này không những gây thiệt hại
về kinh phí mà còn ảnh hưởng tới quá trình thi công, thực hiện công
trình xây dựng.
Trong thực tế, các nhà thầu thi công xây dựng thường không mua
bảo hiểm theo quy định của pháp luật. Nếu có, đối với công trình lớn
là mua bảo hiểm máy móc thiết bị sử dụng và trách nhiệm bên thứ ba
(và cũng chỉ mua tượng trưng). Việc nhà thầu thi công xây dựng mua
đày đủ các loại bảo hiểm theo quy định thường chỉ tiến hành với
6



những dự án lớn, đặc biệt các dự án liên quan đến đầu tư nước ngoài
(FDI, ODA). Nhiều trường hợp khi có sự cố xảy ra do biện pháp thi
công, nhà thầu thi công xây dựng rất khó khăn về năng lực tài chính
để khắc phục.
• Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp kiểm toán, các hoạt động về
chứng khoán.
Theo quy định của Luật kiểm toán độc lập “Doanh nghiệp kiểm
toán có trách nhiệm mua BH trách nhiệm nghề nghiệp cho kiểm toán
viên hành nghề của tổ chức mình hoặc trích lập quỹ dự phòng rủi ro
nghề nghiệp theo quy định của Bộ tài chính”. Tuy nhiên, thực tế hiện
nay chỉ các CTCK có vốn đầu tư nước ngoài, DN là thành viên viên
hãng kiểm toán quốc tế và một số ít đơn vị kiểm toán của Việt Nam
thực hiện mua BH trách nhiệm nghề nghiệp, còn lại hầu hết các CTCK
Việt Nam chỉ trích lập quỹ dự phòng rủi ro nghề nghiệp chứ chưa mua
BH TNNN theo quy định.
Lý do mà các CTCK đưa ra là hiện nay chỉ có một số công ty bảo
hiểm nước ngoài thực hiện BH TNNN cho ngành kiểm toán, nhưng
yêu cầu mức phí khá cao, vượt quá khả năng chi trả của các CTCK
Việt nam. Bên cạnh đó, nhà nước chưa có quy định rõ ràng và đầy đủ
về trách nhiệm và hành vi sai phạm để kết luận xử lí thiệt hại trong
lĩnh vực kiểm toán. Việc xử phạt hành chính trong lĩnh vực kiểm toán
cũng chưa có quy định cụ thể. Vì vậy rất khó xây dựng mức phí bảo
hiểm và phí bồi thường cho phù hợp với điều kiện của Việt Nam.
Bên cạnh đó, trong hoạt động chứng khoán – một loại hình có rủi
ro cao và trách nhiệm nghề nghiệp đòi hỏi chuyên môn của các nhân
viên nhưng vẫn có thể xảy ra những bất cẩn trong quá trình hành nghề.
Do vậy, nghiệp vụ hoạt động chứng khoán cần có BH TNNN. Nghị
định 85/2010/N Đ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
chứng khoán và TTCK được ban hành thay thế Nghị định 36/2007/N
Đ-CP đã quy định cụ thể việc xử lí CTCK trong việc mua bảo hiểm

trách nhiệm nghề nghiệp cho nhân viên. Theo đó, từ ngày 20/9/2010,
CTCK sẽ bị phạt từ 50 – 70 triệu đông nếu không mua bảo hiểm trách
nhiệm nghề nghiệp và không trích lập đẩy đủ quỹ bảo vệ nhà đầu tư.
Với yêu cầu CTCK phải mua BH TNNN cho nghiệp vụ kinh doanh
chứng khoán tại công ty (bồi thường thiệt hại cho bên thứ ba), công ty
bảo hiểm sẽ là nơi chi trả những khoản thiệt hại do sơ xuất của CTCK
và nhân viên CTCK tuân thủ quy định này, cho dù hoạt động của
CTCK tiềm ẩn nhiều rủi ro như: nhập lệnh sai, tư vấn cho khách hàng
không chính xác, đưa ra giá bảo lãnh phát hành không phù hợp dẫn
đến đợt phát hành không thành công, không chuyển được lệnh vì
đường truyền trục trặc… những nghiệp vụ này đều thuộc diện CTCK
phải mua bảo hiểm.

7


Nguyên nhân từ chối mua BH TNNN không phải chỉ từ bản thân
CTCK và CTKT, mà từ cả phía nhà cung cấp. Phần lớn các sản phẩm
bảo hiểm, nhất là với những sản phẩm đặc thù như bảo hiểm trong lĩnh
vực kiểm toán và chứng khoán, các daonh nghiệp thường mang từ
nước ngoài vào. Trong khi đó, CTKT, TTCK Việt Nam vẫn sơ
khaineen các sản phẩm này khó áp dụng. Các chuyên gia tính phí
thường là ở nước ngoài và đánh giá thị trường Việt Nam có độ rủi ro
cao, nên đưa ra mức phí bảo hiểm cao, không phù hợp với quy mô và
tài chính của CTKT, CTCK trong nước.
2. Những ưu điểm của bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp:
- Trong một vài năm gần đây, thị trường bảo hiểm Việt Nam đã trở
nên sôi động với sự góp mặt của ngày càng nhiều các công ty bảo
hiểm, trong đó có các công ty liên doanh với nước ngoài và công ty
100% vốn nước ngoài được cấp giấy phép tại Việt nam. Sự cạnh

tranh của các công ty dẫn đến sự nâng cao đáng kể về chất lượng
của các dịch vụ bảo hiểm cũng như sự xuất hiện của nhiều loại
nghiệp vụ bảo hiểm khác nhau mà trước đây chưa từng được cung
cấp tại Việt Nam, trong đó có BH TNNN.
- BH TNNN tạo điều kiện cho người được bảo hiểm yên tâm làm
việc, chuyên tâm trong nghê fnghieepj chuyên môn của mình bởi lẽ
DNBH đã chấp nhận bảo hiểm trách nhiệm bồi thường thiệt hại
thuộc về người được bảo hiểm đối với thiệt hại của người khác do
sơ xuất trong hoạt động nghề nghiệp hoặt do sai sót trong chuyên
môn gây ra. Rõ ràng, nếu như thiết lập HĐBH giữa hai người được
bảo hiểm với DNBH đối với trách nhiệm nghề nghiệp của mình thì
người được bảo hiểm có tther tự tin hơn để thực hiện công việc.
Bởi nếu khi xảy ra sai sót hay sơ xuất gì đối với bên thứ ba thì họ
đã được DNBH thay mình đứng ra chịu trách nhiệm bồi thường.
Do đó khi cảy ra sự kiện bảo hiểm thì người được bảo hiểm sẽ
không phải chịu trách nhiệm bồi thường. Điều này cũng thúc đẩy
bên được bảo hiểm cần phải rèn luyện cho mình tay nghề nghiệp
vụ cao hơn, tránh những sơ xuất rủi ro có thể xảy ra đối với bên thứ
ba.
- Đối với DNBH thì gói bảo hiểm này cũng góp phần tăng thu nhập
cho DNBH. Bởi lẽ mức phí đối với gói sản phẩm này cũng khá
cao. Thực tế là rủi ro khi xảy ra thì mức bồi thường thườn rất cao
do đó mức phí mà bên được bảo hiểm nộp cho DNBH cũng tỷ lệ
thuận với mức bồi thường. Theo dự thảo Luật kiểm toán thì Mức
phí mà công ty bảo hiểm có thể bồi thường từ 1 – 5 tỷ đồng; mức
phí mà kiểm toán viên hay CTKT phải chịu nếu xảy ra rủi ro có thể
từ 20 – 400 triệu đồng. Từ đó, mức phí mua BH TNNN kiểm toán
có thể từ 35 – 260 triệu đồng. Do đó đây cũng là một trong số
những nguồn thu đáng kể đối với DNBH.
8



3. Những hạn chế của bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp:
BH TNNN có thể tạo ra sự thiếu trách nhiệm trong công việc của
người được bảo hiểm đối với bên thứ ba. Điều này cũng xuất phát từ
chính đặc điểm quan trong nhất của hợp đồng BH TNNN, đó là
DNBH sẽ thay thế người được bảo hiểm chịu trách nhiệm bồi thường
đối với bên thứ ba. Với quy định đảm bảo quyền lợi cho người được
bảo hiểm như vậy thì trên thực tế có thể bị “lạm dụng” để thực hiện
hành vi sai phạm của mình đối với bên thứ b. việc chứng minh lỗi là
cố ý hay sơ xuất trong quá trình thực hiện chuyên môn nghiệp vụ của
người được bảo hiểm đối với bên thứ ba không phải lúc nảo cũng dễ
dàng. Do đó, đây cũng được coi là một hạn chế của BH TNNN.
Thức tế, nhận thức chung của người Việt Nam về các sản phẩm bảo
hiểm trách nhiệm chưa cao, họ chưa thấy cần thiết, hoặc cũng có thể
do tập quán, thói quen kinh doanh, không ai sợ trách nhiệm hoặc trách
nhiệm là của tập thể… Ngược lại, BH TNNN có phạm vi trách nhiệm
khá nặng nề, nên các doanh nghiệp còn e ngại khi triển khai. Mặt khác
lĩnh vực này cũng tiềm ẩn rủi ro liên quan đến trục lợi bảo hiểm, do
hành lang pháp lí về lĩnh vực này chưa thực sự chặt chẽ. Trong khi đó,
cách tính phí bảo hiểm chưa thống nhất, cụ thể. Vì thế, thị trường này
vẫn còn quá nhỏ, dẫn đến cung từ các DNBH trong nước còn hạn chế.
III. Ý KIẾN VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHẾ
ĐỘ BẢO HIỂM NÀY:
1. Ý kiến về chế độ bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp:
BH trách nhiệm nói chung và BH TNNN nói riêng, mặc dù rất tiềm
năng nhưng vẫn chưa thực sự hấp dẫn các DNBH. Theo quy định của
pháp luật Việt nam, nhóm BH TNNN bao gồm: BH TNNN cho công
ty môi giới bảo hiểm, BH TNNN cho luật sự, BH TNNN cho công ty
chứng khoán, BHTNNN cho công ty quản lý quỹ, BH TNNN của nhà

thầu thiết kế xây dựng công trình, BH TNNN cho công ty kiểm toán,
BH TNNN cho doanh nghiệp thẩm định giá.
Mặc dù được ghi nhận vào văn bản pháp quy, nhưng việc triển kahi
BH TNNN tại nhiều lĩnh vực đén nay vẫn không khả quan. Trên thực
tế, không chỉ lĩnh vực kinh doanh vàng nhiều rủi ro, nhiều nghề nhiệp
mang tính truyền thống vẫn chưa được các doanh nghiệp bảo hiểm
khai thác đúng. Có thể kể đến nhiều nghề nghiệp có tính rủi ro cao và
rất cần mua b ảo hiểm. Chẳng hạn, các công chứng viên, ngành kiểm
toán, lĩnh vực chứng khoán, tài chính, ngân hàng, bác sĩ, giáo viên…
Họ hoàn toàn có thể gặp những rủi ro. Tuy nhiên số lượng mua bảo
hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của các lĩnh vực này thực sự là không
cao.
2. Kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định về bảo hiểm trách nhiệm
nghề nghiệp:
2.1. Hoàn thiện công tác quản lý nhà nước:
9


- Để tạo sự yên tâm cho các công ty kinh doanh bảo hiểm, Nhà
nước cần phải tạo lập và duy trì một moi trường kinh doanh an
toàn, ổn định, bình đẳng và thuận lợi. Điều này thể hiện trước hết ở
việc xây dựng một khuôn khổ pháp lý phù hợp với sự vận động của
cơ chế thị trường. Trong công tác quản lí, Nhà nước cần sử ụng các
công cụ pháp lí một cách thích hợp và hiệu quả, đặc biệt cần phải
hạn chế tối đa sự cạnh tranh không lành mạnh, kiểm soát độc
quyền, đảm bảo một môi trường kinh doanh thuận lợi, bình đẳng.
Nhà nướccungx phải có chủ trương đổi mới phương thức và nâng
cao năng lực quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh bảo
hiểm, tiến dần tới thực hiện các nguyên tắc và chuẩn mực quản lý
bảo hiểm quốc tế.

- Nhà nước giám sát hoạt động kinh doanh bảo hiểm trông qua hệ
thống các chỉ tiêu về hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm và
kiểm tra, xử lý vi phạm theo pháp luật, không can thiệp hành chính
vào hoạt động của các doanh nghiệp.
- Việc thực hiện được công tác kiểm tra, giám sát chặt chẽ để nắm
thế chủ động, trong khi vẫn tạo môi trường tự do kinh doanh là rất
khó khăn, đòi hỏi nhiều kiến thức, kinh nghiệp về hoạt động bảo
hiểm, cũng nhưng sự linh hoạt trong việc áp dụng các cong cụ quản
lý Nhà nước.
2.2. Cần có quy định cụ thể về mức đóng phí bảo hiểm trách nhiệm
nghề nghiệp:
- Các doanh nghiệp có thể nghiên cứu làm giảm phí nhằm xây dựng
một mức phí phù hợp đáp ứng được khả năng của kahachs hàng mà
vẫn bảo đảm quyền lợi của người bảo hiểm. Việc lựa chọn một
mức phí thấp sẽ thu hút được nhiều khách hàng đến với loại hình
bảo hiểm này hơn.
- Tuy nhiên để bên mua bảo hiểm tự giác mua BH trách nhiệm nghề
nghiệp cần phải có sự phối hợp giữa Nhà nước và DNBH. Nhà
nước cần có chế tài cụ thể hơn, phía DNBH cũng cần đưa ra mức
phí hợp lí với cách tính dễ hiểu. Ngoài ra, cần đẩy mạnh công tác
thông tin tuyên truyền một cách sâu rộng, nhằm nâng cao nhận
thức của bên mua bảo hiểm về tầm quan trọng của bảo hiểm trách
nhiệm nghề nghiệp khi có rủi ro.
2.3. Cần có các biện pháp đánh giá rủi ro:
- Để phòng tránh có hiệu quả các hiện tượng tiêu cực và “rủi ro” cho
mình, doanh nghiệp bảo hiểm cần phải có một đội ngũ nhân sự
chuyên nghiệp, không những thành thục, giảo chuyên môn mà còn
phải có đạo đức nghề nghiệp; quan tâm đầu tư phát triển hệ thóng
công nghệ thông tin, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác quản lý
và trao đổi thông tin bảo hiểm giữa các doanh nghiệp trong nước;


10


áp dụng phương thức thanh toán điện tử qua ngân hàng, giảm bớt
thu chi tiền mặt…
- Bên cạnh dó, DNBH cần tổ chức theo dõi, quản lý và giám sát cán
bộ nhân viên, hoạt động của đại lý và môi giới bảo hiểm; kiểm tra,
giám sát và nâng cao khả năng đánh giá rủi ro trước và sau khi
nhận bảo hiểm; nâng cao khả năng đánh giá rủi ro trước và sau khi
nhận bảo hiểm; nâng cao chất lượng hoạt động đầu tư phát triển
nguồn vốn để có thể bù đắp được đối với những rủi ro có tính chất
thảm họa.
- DNBH cũng cần yêu cầu bên mua bảo hiểm cung cấp đầy đủ, trung
thực các thông tin liên quan đến việc giao kết và thực hiện hộ đồn
bảo hiểm, đồng thời có sự kiểm tra tính trun thực của thông tin đó.
Cần đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm trong một
số trường hợp: khi bên mua bảo hiểm không thực hiện, thực hiện
không dúng các nghĩa vụ cam kết, trường hợp rủi ro gia tăn và bên
mua bảo hiểm không chấp nhận sự tăng phí bảo hiểm. Có quyền từ
chối bồi thường, từ chối trả tiền bảo hiểm khi sự kiện xảy ra bị loại
trừ, không thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm. Ngoài ra cần yêu
cầu bên mua bảo hiểm thực hiện các biện pháp đề phòng rủi ro,
tránh tình trạng ỷ lại hoàn toàn vào DNBH.
2.4. Cần có quy định hướng dẫn cụ thể về bảo hiểm trách nhiệm
nghề nghiệp với nghề công chứng viên:
Luật công chứng đã quy định rõ về việc mở Văn phòng công
chứng; Trách nhiệm quản lý nhà nước về công chứng; Trách nhiệm
bồi thường của cá nhân, tổ chức hành nghề công chứng khi gây thiệt
hại. Tuy nhiên, theo quy định của Luật công chứng và các văn bản

hướng dẫn thi hành hiện nay, vấn đề còn vướng mắc là việc thực hiện
BH TNNN đối với công chứng viên.
Hiện nay chưa có văn bản pháp quy hướng dẫn về thời gian mua
BH TNNN cho côn chứng viên. Như vậy, tổ chức hành nghề công
chứng có thể thực hiện việc mua BH TNNN cho công chứng viên
trước khi đăng đăng ký thành lập hoặc có thể thực hiện công việc đó
sau khi văn phòng công chứng được thành lập hoặc có thể thực hiện
công việc đó sau khi Văn phòng công chứng được thành lập, đi vào
hoạt động. Hơn nữa, Luật chưa quy định giới hạn về thời gian bắt
buộc phải tiến hàng nghĩa vụ mua bảo hiểm nghề nghiệp cho công
chứng viên nên rất khó khăn cho khâu quản lý, kiểm tra của các cơ
quan có thẩm quyền.
Trên thực tế, việc mua BH TNNN cho công chứng viên đan hành
nghề tại các tổ chức hành nghề công chứng rất cần thiết. Bởi lẽ, công
chứng viên không bảo đảm được nguồn vật chất để thực hiện nghĩa vụ
bồi thường thiệt hại về vật chất có thể xảy ra do lỗi của mình thì rất
khó đảm bảo được quyền lợi cho các cá nhân, tổ chức có liên quan
11


khii yêu cầu thực hiện việc công chứng. Mặt khác, Luật Công chứng
lại không quy định việc ký quỹ hoặc một hình thức khác về vật chất
đối với tổ chức hành nghề công chứng trước khi đăng kí hoạt động, vì
vậy đã gây vướng mắc cho cơ quan quản lý Nhà nước khi đưa ra điều
kiện vật chất bắt buộc đối với các tổ chức này khi chịu trách nhiệm bồi
thường vật chất do lỗi của công chứng viên tổ chức mình gây ra.
Tại khoản 7 Điều 32 Luật công chứng quy định: “Văn phòng công
chứng có nghĩa vụ mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho công
chứng viên của tổ chức mình”. Theo đó, chỉ có Văn phòng công
chứng mới phải thực hiện nghĩa vụ mua BH TNNN cho công chứng

viên của tổ chức mình, còn đối với các công chứng viên đang cong tác
tại Phòng công chứng thì không thực hiện việc mua BH TNNN. Quy
định như vậy chưa hợp lí vì dù là công chứng viên của các Phòng
công chứchay các Văn phòng công chứng đều cần được mua BH
TNNN để yên tâm hành nhề. Mặt khác không nên phân biệt trách
nhiệm, quyền lợi, nghĩa vụ giữa công chứng Nhà nước và công chứng
tư nhân. Có như vậy mới tạo được niềm tin cho cá nhân, tổ chức có
liên quan khi yêu cầu thực hiện công chứng và bảo đảm yêu cầu xã
hội hóa trong lĩnh vực công chứng theo tình thần chiến lược cải cách
tư pháp.
Vì vậy cần có hướng dẫn cụ thể hơn theo hướng quy định bắt buộc
và xem xét việc mua bảo hiểm trách nhiệm nghiệp cho côn chứng viên
như là một điều kiện “tiên quyết” để UBND tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương xem xét, quyết định cấp giấy phéo thành lập các Văn
phòng công chứng thực hiện tốt chức năng. Đồng thời đảm bảo an
toàn về vật chất cho các đối tượng yêu cầu công chứng khi có ảnh
hưởng đến quyền lợi do lỗi của công chứng viên.

12


KẾT LUẬN
Có rất nhiều yếu tố dẫn đến sự phát triển mạnh mẽ của thị trường
bảo hiểm Việt Nam những năm gần đây. Đó là do sự ổn định về chính
trị, kinh tế cũng như chính sách mở cửa làm cho Việt nam trở thành thị
trường hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài từ đó làm gia tăng
và thu hút nhiều hơn vốn đàu tư phục vụ phát triển kinh tế. Thêm nữa,
Chính phủ đã có những giải pháp thích hợp giúp nền kinh tế nước nhà
vượt qua những bước thăng trầm của cuộc khủng hoảng kinh tế, tạo
điều kiện cho thu nhập của người dân được cải thiện từ đó thúc đẩy

nhu cầu bảo hiểm. Môi trường pháp lí cho hoạt động kinh doanh bảo
hiểm cũng ngày càng được hoàn thiện, phù hợp với chuẩn mực quốc
tế, tạo ra hành lang vững chắc cho các doanh nghiệp tự do hoạt động
theo khuôn khổ pháp luật; đặc biệt thị trường tài chính Việt Nam phát
triển không ngừng với sự tham gia của các tổ chức tài chính – tín dụng
trong và ngoài nước đã tác động không nhỏ tới thị trường bảo hiểm
nói riêng. Ở nhiều nước phát triển, trong danh mục sản phẩm của các
doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ thì cơ cấu các sản phẩm bảo hiểm
trách nhiệm nghề nghiệp bao giờ cũng là nhiều nhất, sau đó mới đến
bảo hiểm xe cơ giới và bảo hiểm con người. Bảo hiểm trách nhiệm
nghề nghiệp được đánh giá là sản phẩm tiềm năng và sẽ là xu hướng
chung tại các nên kinh tế đang phát triển. Chính vì thế, việc xây dựng
và hoàn thiện chế độ bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp là một trong
những tiêu chí đánh giá sự phát triển ngành bảo hiểm ở nước ta. Bên
cạnh đó, việc phát triển và hoàn thiện bảo hiểm trách nhiệm cao trong
ngành nghề chuyên môn, đồng thời cũng nhằm giảm bớt sự rủi ro đối
với người tham gia bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp.

13



×