Tải bản đầy đủ (.doc) (54 trang)

Thực trạng pháp luật điều chỉnh hoạt động huy động vốn TCTD Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (257.79 KB, 54 trang )

1

mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Với xu hớng toàn cầu hoá hiện nay, nhu cầu về vốn cho phát triển kinh
tế đã không còn là vấn đề riêng của bất kỳ một quốc gia nào. Việt Nam đang
thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá hiện địa hoá đất nớc, tích cực chủ động hội
nhập kinh tế khu vực và thế giới nên nhu cầu về vốn lại càng trở nên cấp thiết.
Với t cách là các trung gian tài chính, các Tổ chức tín dụng (TCTD) Việt Nam
có vai trò hết sức quan trọng đối với việc huy động mọi nguồn vốn trong dân c
để cung ứng cho nền kinh tế với nhứng điều kiện nhất định. Vốn để các TCTD
tiến hành và phát triển các hoạt động kinh doanh của mình không chỉ riêng
nguồn vốn tự có mà chủ yếu là nguồn vốn huy động đợc. Do đó có thể nói hoạt
động huy động vốn có tác động rất lớn đến các tổ chức tín dụng cũng nh toàn bộ
nền kinh tế. Với tầm quan trọng đó của hoạt động huy động vốn, Nhà nớc cần
phải xây dựng một hành lang pháp lý an toàn và thông thoáng, tạo điều kiện cho
các TCTD thực hiện hoạt động này một cách dễ dàng và hiệu quả. Vậy pháp luật
Việt Nam đã quy định nh thế nào về hoạt động huy động vốn của các TCTD? Đi
tìm câu trả lời cho câu hỏi này cũng chính là lý do tác giả chọn đề tài pháp luật
về huy động vốn của các TCTD ở Việt Nam làm đề tài khoá luận tốt nghiệp của
mình.
2.Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu pháp luật huy động vốn của các TCTD ở Việt Nam trên cơ sở
hệ thống lý luận cơ bản và thông qua việc phân tích đánh giá thực trạng các quy
định của pháp luật, thực tiễn áp dụng các quy định đó của các TCTD để chỉ ra
những thành tựu đạt đợc cũng nh những tồn tại hạn chế cần phải khắc phục trong
quá trình huy động vốn và nguyên nhân của thực trạng đó; từ đó đa ra một số
định hớng nhằm hoàn thiện pháp luật về huy động vốn của các TCTD ở Việt
Nam.
3. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu
Khoá luận tập trung nghiên cứu và đánh giá khái quát các quy định của pháp




2
luật về huy động vốn của các TCTD ở Việt Nam, đồng thời tìm hiểu thực tiễn
hoạt động này của các TCTD ở một số địa phơng trong những năm gần đây.
4. Phơng pháp nghiên cứu
Khoá luận sử dụng các phơng pháp: phân tích tổng hợp, thống kê, so
sánh - đối chiếu, chứng minh ... để làm rõ vấn đề cần nghiên cứu.
5. Kết cấu của khoá luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, khoá luận đợc chia thành 3 chơng với bố cục nh sau:
Chơng I: Khái quát về hoạt động huy động vốn và các hình thức huy động
vốn của các TCTD theo pháp luật Việt Nam.
Chơng II: Thực trạng pháp luật điều chỉnh hoạt động huy động vốn của
các TCTD ở Việt Nam.
Chơng III; Định hớng hoàn thiện pháp luật về hoạt động huy động vốn
của các TCTD ở Việt Nam.


3
Chơng 1
khái quát về hoạt động huy động vốn và các hình thức
huy động vốn của các Tổ chức tín dụng theo pháp luật
Việt Nam
1.1. Khái niệm, vai trò và sự cần thiết phải diều chỉnh bằng pháp
luật đối với hoạt động huy động vốn của các Tổ chức tín
dụng ở Việt Nam

1.1.1 Huy động vốn và vai trò của huy động vốn đối với các Tổ chức tín
dụng
Theo nghĩa chung nhất huy động vốn là việc các TCTD tập trung những giá

trị tiền tệ từ các tổ chức kinh tế và các cá nhân trong xã hội thông qua quá trình
thực hiện các nghiệp vụ tín dụng, thanh toán, các nghiệp vụ kinh doanh khác và
đợc dùng làm vốn để kinh doanh.
Huy động vốn là hoạt động thờng xuyên và luôn gắn liền với kế hoạch kinh
doanh của TCTD, bởi lẽ vốn huy động là nguồn vốn chủ yếu để các TCTD tiến
hành các hoạt động kinh doanh của mình. Chính vì vậy, khi tiến hành các hoạt
động huy động vốn, TCTD phải tính toán sao cho việc sử dụng đồng vốn huy
động đợc hiệu quả nhất. Mặt khác, huy động vốn xét về bản chất chính là việc
TCTD đi vay tiền từ các chủ sở hữu số tiền đó và có trách nhiệm hoàn trả đúng
hạn cả gốc và lãi khi đến hạn hoặc khi khách hàng có nhu cầu rút vốn.
Theo quy định của pháp luật hiện nay, các TCTD đợc huy động vốn thông
qua bốn hình thức:
- Huy động vốn bằng nhận tiền gửi
- Huy động vốn bằng việc phát hành các giấy tờ có giá
- Huy động vốn bằng việc vay vốn của các TCTD khác
- Huy động vốn thông qua vay vốn của Ngân hàng Nhà nớc.
* Vai trò của hoạt động huy động vốn
- Đối với các TCTD :


4
Huy động vốn đem lại nguồn vốn lớn, chủ yếu cho các TCTD tiến hành
các hoạt động kinh doanh. Nguồn vốn này là cơ sở để các TCTD tổ chức mọi
hoạt động kinh doanh; quyết định quy mô hoạt động tín dụng và các hoạt động
khác của TCTD; quyết định năng lực thanh toán và bảo đảm uy tín của TCTD
trên thơng trờng; quyết định năng lực cạnh tranh của TCTD... Không những thế,
huy động vốn còn tạo tiền đề để TCTD tiến hành các hoạt động kinh doanh khác
nh: làm dịch vụ thanh toán, ngân quỹ... góp phần làm tăng thêm lợi nhuận cho
các TCTD.
- Đối với nền kinh tế:

Thông qua hoạt động huy động vốn của các TCTD, nền kinh tế có thêm
một kênh thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi khác nhau trong dân c nhằm đáp ứng
nhu cầu vốn đầu t cho phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng cơ sở hạ tầng, sự cung
cầu vốn giữa các thành phần khác nhau trong xã hội gặp nhau đợc dễ dàng hơn.
Cũng thông qua hoạt động này, Nhà nớc có thể kiểm soát, điều chỉnh chính sách
tiền tệ, ổn định giá trị đồng tiền, thúc đẩy phát triển kinh tế. Hơn nữa, với chính
sách lãi suất huy động vốn hợp lý, hoạt động huy động vốn của các TCTD sẽ
tăng khả năng kích thích tiết kiệm trong nhân dân. Thông qua hoạt động này
chúng ta có thể đánh giá đợc trình độ phát huy nội lực của quốc gia, khai thác
tiềm năng của mọi nguồn vốn đang còn tiềm ẩn, thu gom đợc một lợng tiền tơng
đối lớn trong nền kinh tế, giảm dần lợng tiền mặt trong lu thông. Từ đó, các
TCTD có thể tập trung đợc các nguồn vốn cho đầu t phát triển kinh tế, góp phần
nâng cao đời sống nhân dân.
1.1.2 Những nhân tố ảnh hởng đến hoạt động huy động vốn của các Tổ chức
tín dụng
Hoạt động huy động vốn của các TCTD có diễn ra thuận lợi hay không
còn tuỳ thuộc vào sự tác động của nhiều nhân tố. Song tựu chung lại, những nhân
tố ảnh hởng đến hoạt động này đợc xem xét qua hai nhóm đó là: nhân tố khách
quan và nhân tố chủ quan.
a. Nhân tố khách quan
- Hành lang pháp lý


5
Hành lang pháp lý có ảnh hởng lớn đến hoạt động huy động vốn của
TCTD. Có những bộ luật tác động trực tiếp đến hoạt động này nh: Luật các
TCTD, Luật Ngân hàng Nhà nớc... Những luật này quy định tỷ lệ huy động vốn
của TCTD so với vốn tự có, quy định các hình thức huy động vốn...Bên cạnh
những bộ luật này, chính sách tiền tệ của quốc gia cũng ảnh hởng rất lớn đến huy
động vốn của các TCTD. Điều đó đợc thể hiện ở một số khía cạnh:

+ Mục tiêu của chính sách tiền tệ: Mục tiêu của chính sách tiền tệ bao
gồm: kiểm soát lạm phát, bình ổn giá cả, ổn định sức mua của đồng tiền, tăng trởng kinh tế, tạo công ăn việc làm. Tuỳ thuộc vào việc thực hiện mục tiêu của
chính sách tiền tệ mà sự ảnh hởng của nó đến hoạt động huy động vốn là khác
nhau. Chẳng hạn, khi lạm phát tăng, Nhà nớc có chính sách thắt chặt tiền tệ bằng
cách tăng lãi suất tiền gửi để thu hút tiền ngoài xã hội thì các TCTD huy động
vốn dễ dàng hơn. Hoặc khi Nhà nớc có chính sách khuyến khích đầu t, mở rộng
sản xuất thì TCTD khó huy động vốn hơn vì ngời có tiền nhàn rỗi sẽ bỏ tiền vào
sản xuất vì làm nh vậy có lợi hơn gửi ngân hàng...
+ Việc sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ: Trong quá trình vận hành
các công cụ để thực hiện chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nớc, mỗi một
công cụ đều tác động đến hoạt động huy động vốn của các TCTD. Cụ thể là:
Lãi suất chiết khấu: Ngân hàng nhà nớc thực hiện tái cấp vốn để cung
ứng tiền ra lu thông bằng biện pháp tái chiết khấu. Nếu chính sách tiền tệ nhằm
chống lạm phát thì lúc đó Ngân hàng Nhà nớc cung ứng tiền ra lu thông với lãi
suất tái chiết khấu cao. Và nh vậy sẽ hạn chế việc các TCTD vay Ngân hàng
Nhà nớc.
Dự trữ bắt buộc: Khi tăng hoặc giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc tức là Ngân
hàng Nhà nớc cho hoặc không cho các TCTD sử dụng khối lợng tiền Trung ơng
bị coi là thiếu hay d thừa, tức là thắt chặt hay nới lỏng khả năng tạo tiền của
TCTD.
- Chính sách đầu t của Nhà nớc
Chính sách đầu t của Nhà nớc có hợp lý hay không đều ảnh hởng trực tiếp
đến môi trờng kinh doanh không chỉ của khách hàng mà ngay cả đối với các


6
TCTD. Bởi vì, khi chính sách đầu t hợp lý sẽ tạo điều kiện cho sản xuất phát
triển dẫn đến các TCTD có môi trờng đầu t thuận lợi và đòi hỏi các TCTD phải
tìm mọi cách để mở rộng hoạt động huy động vốn của mình.
- Tình hình kinh tế - xã hội trong và ngoài nớc

Nền kinh tế ở vào thời kỳ tăng trởng, sản xuất phát triển từ đó tạo điều
kiện tích luỹ nhiều hơn, do đó tạo môi trờng thuận lợi cho việc thu hút vốn của
các TCTD. Ngợc lại, khi nền kinh tế không tăng trởng, sản xuất kìm hãm, nền
kinh tế bị suy thoái làm cho môi trờng đầu t của TCTD bị thu hẹp. Bên cạnh đó,
lạm phát làm cho đồng tiền bị mất giá, ngời dân sẽ không gửi tiền vào ngân hàng
mà dùng tiền để mua hàng cất trữ, vì vậy cũng ảnh hởng đến hoạt động huy động
vốn của các TCTD.
- Tâm lý thói quen tiêu dùng của ngời gửi tiền
Tập quán tiêu dùng cũng ảnh hởng đến nghiệp vụ tạo vốn của TCTD. Nếu
ở những vùng dân c quen sử dụng số tiền nhàn rỗi dới hình thức cất trữ là chính
thì việc huy động vốn của TCTD gặp khó khăn hơn. Chẳng hạn, vào thời kỳ vàng
có giá trị, ngời ta dùng tiền nhàn rỗi để mua vàng cất trữ... còn khi ngời gửi tiền
có nhu cầu hởng lãi hoặc bảo quản tài sản thì họ gửi tiền vào ngân hàng nhiều
hơn và cơ hội huy động vốn của các TCTD tăng lên. Ngoài ra, mức thu nhập của
ngời dân cũng là một yếu tố trực tiếp quyết định trực tiếp đến lợng tiền gửi vào
ngân hàng. Nhìn chung, thu nhập càng cao, nhu cầu đầu t và giao dịch của họ
tăng lên tơng đối so với nhu cầu tiêu dùng và lúc này nhu cầu mở tài khoản cũng
nh tiền gửi vào ngân hàng sẽ tăng lên.
b. Nhân tố chủ quan
- Hình thức huy động
Hình thức huy động càng đa dạng, đáp ứng đợc nhu cầu vô cùng phong
phú của khách hàng thì việc huy động vốn dễ dàng hơn.
- Hình thức cho vay
Nếu nh hình thức cho vay của TCTD đợc mở rộng chẳng hạn nh không chỉ
có cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn mà còn mở rộng sang cả các hình thức
cho vay nh cho vay hợp vốn, liên doanh, liên kết, mua bán các khoản nợ... buộc


7
các TCTD phải tìm kiếm nguồn vốn cho chính mình, huy động vốn thế nào cho

phù hợp. Ví dụ: nhu cầu sử dụng nguồn vốn dài hạn lớn thì phải tìm cách huy
động vốn dài hạn chứ không đợc vốn ngắn hạn để cho vay trung, dài hạn.
- Công nghệ thanh toán và tin học
Trớc đây công nghệ thanh toán còn lạc hậu, khách hàng chủ yếu thanh
toán bằng tiền mặt. Nhng ngày nay do công nghệ thanh toán hiện đại, thanh toán
không dùng tiền mặt ngày càng chiếm u thế, thay vì thanh toán bằng tiền mặt
khách hàng chuyển sang thanh toán bằng séc, thẻ... Để thực hiện thanh toán
không dùng tiền mặt, khách hàng phải mở tài khoản tại ngân hàng nên ngân
hàng thực hiện đợc việc huy động vốn trên tài khoản của khách hàng.
- Năng lực và trình độ quản lý của cán bộ ngân hàng
Nếu quản lý tốt trong quá trình hoạt động, ngân hàng sẽ đảm bảo đợc an
toàn vốn, nâng cao uy tín, năng lực cạnh tranh từ đó thu hút đợc khách hàng
đến gửi tiền. Trình độ nghiệp vụ của cán bộ ngân hàng càng cao, công tác huy
động vốn đợc thực hiện càng nhanh chóng, chính xác và hiệu quả.
- Mạng lới phục vụ cho huy động vốn
Mạng lới huy động vốn càng rộng rãi càng có thể khai thác tối đa nguồn
tiền nhàn rỗi trong dân c. Do đó, không chỉ cần mở rộng mạng lới ở vùng đông
dân c mà còn cần đợc mở ra ở những nơi cách xa trung tâm thành phố nh nông
thôn, vùng xâu, vùng xa... Ngợc lại, mạng lới hẹp sẽ gây khó khăn cho khách
hàng muốn gửi tiền do chi phí giao dịch lớn, mất thời gian.
- Lãi suất huy động
Đối với ngời gửi tiền là doanh nghiệp, gửi tiền vào các TCTD với mục
đích thanh toán thì lãi suất không phải là cái đích mà họ hớng tới. Điều họ quan
tâm lớn nhất là việc sử dụng các dịch vụ từ TCTD. Tuy nhiên bên cạnh bộ phận
gửi tiền với mục đích này thì vốn huy động của các TCTD còn bao gồm cả tiền
gửi có kỳ hạn của các doanh nghiệp và tiền gửi tiết kiệm của dân c với mục đích
hởng lãi là chính, vì vậy lãi suất là điều họ rất quan tâm và bộ phận này rất nhạy
cảm với lãi suất. Mặt khác, khi huy động vốn dới hình thức vay vốn từ các TCTD
khác hoặc vay vốn của Ngân hàng Nhà nớc... để tạo đợc nhiều nguồn vốn đáp



8
ứng cho nhu cầu sử dụng của mình, các TCTD cần phải có chính sách lãi suất
hợp lý sao cho lãi suất huy động vừa đảm bảo kích thích ngời gửi tiền vừa phù
hợp với lãi suất cho vay, tránh tình trạng huy động vốn với giá cao mà đầu t với
giá thấp.
- Việc tham gia Bảo hiểm tiền gửi
Trong hoạt động kinh doanh của các TCTD, rủi ro xảy ra là điều không
thể tránh khỏi. Vì vậy, sự an toàn của các TCTD không chỉ là mối quan tâm của
các cổ đông, các nhà điều hành mà còn là mối quan tâm đặc biệt đối với khách
hàng, vì phần lớn vốn kinh doanh của của TCTD là vốn huy động từ bên ngoài.
Để lấy đợc niềm tin của ngời gửi tiền, đồng thời bảo vệ lợi ích của họ khi TCTD
phá sản, các TCTD phải tham gia bảo hiểm tiền gửi và khi sự kiện bảo hiểm xảy
ra, tổ chức Bảo hiểm tiền gửi sẽ đứng ra chi trả toàn bộ số tiền cho ngơì gửi tiền
trong giới hạn đợc bảo hiểm.
- Ngoài ra còn phải kể đến các yếu tố khác nh: uy tín; thái độ phục vụ; cơ
sở hạ tầng; các dịch vụ do TCTD cung ứng... cũng có ảnh hởng đến tâm lý của
ngời gửi tiền và do đó cũng ảnh hởng đến hiệu quả của hoạt động huy động vốn.
1.1.3 Sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động huy
động vốn của các Tổ chức tín dụng ở Việt Nam
Điều chỉnh bằng pháp luật là việc Nhà nớc sử dụng công cụ pháp luật tác
động lên các quan hệ xã hội nhằm thực hiện những mục tiêu nhất định của Nhà
nớc. Cũng nh hàng loạt các quan hệ khác trong xã hội, quan hệ huy động vốn
của các TCTD cần phải đợc điều chỉnh bằng pháp luật, bởi vì:
Thứ nhất, thông qua các quy định của pháp luật về hoạt động huy động
vốn của TCTD, Nhà nớc có thể thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia cho phù hợp
với từng giai đoạn phát triển kinh tế- xã hội. Với việc đa ra những quy định về lãi
suất, tỷ lệ dự trữ bắt buộc, quy định về bảo hiểm tiền gửi, quy định điều kiện để
đợc vay vốn Ngân hàng Nhà nớc... Nhà nớc sẽ tác động trực tiếp đến hoạt động
huy động vốn của TCTD bằng cách tạo ra các điều kiện thuận lợi hoặc hạn chế

việc huy động vốn của các TCTD.


9
Thứ hai, hoạt động huy động vốn của các TCTD là hoạt động chứa đựng
nguy cơ rủi ro cao, sự tác dộng tích cực hoặc tiêu cực của nó thờng mang tính
phản ứng dây chuyền do đó ảnh hởng đến cả hệ thống TCTD và tác động đến
toàn bộ nền kinh tế. Chẳng hạn, hoạt động huy động vốn bằng nhận tiền gửi mà
không đợc Nhà nớc quản lý chặt chẽ thì có thể dẫn đến việc các TCTD lợi dụng
đặc quyền đợc huy động vốn bằng nhận các loại tiền gửi để lừa đảo dân chúng
trên phạm vi rộng, với số lợng lớn. Mặt khác, các TCTD huy động vốn mà không
sử dụng vốn đó một cách có hiệu quả, để thất thoát vốn sẽ dẫn đến tình trạng mất
khả năng chi trả, thanh toán cho ngời gửi tiền, từ đó gây tâm lý hoang mang cho
những ngời gửi tiền khác khiến họ đồng loạt tới các TCTD rút tiền, đẩy các
TCTD khác vào tình trạng thiếu khả năng chi trả. Điều đó dẫn đến sự đổ vỡ toàn
bộ hệ thống TCTD, gây ra khủng hoảng về tài chính- tiền tệ, gây mất ổn định
kinh tế. Dân chúng mất lòng tin vào các TCTD, nguồn vốn nhàn rỗi không đợc
tập trung cho đầu t phát triển, nền kinh tế khó mà phát triển đợc. Bởi vậy, hoạt
động huy động vốn cần phải đợc Nhà nớc quản lý chặt chẽ.
Thứ ba, để bảo vệ quyền lợi cho các chủ thể khác trong hoạt động huy
động vốn, đồng thời nhằm tạo điều kiện thuận lợi, an toàn cho các TCTD trong
quá trình huy động vốn cần thiết phải có sự điều chỉnh của pháp luật. Mặt khác,
thông qua việc điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động huy động vốn của
các TCTD, Nhà nớc có thể kiểm soát đợc tình hình hoạt động kinh doanh của
các TCTD, từ đó kịp thời có biện pháp xử lý, giúp TCTD thoát khỏi tình trạng
khó khăn về tài chính.
1.2. Kết cấu pháp luật điều chỉnh hoạt động huy động vốn của
các Tổ chức tín dụng

Hiện nay, theo quy định của Luật các TCTD năm 1997 (đợc sửa đổi, bổ

sung theo Luật sửa đổi bổ, sung luật TCTD năm 2004) các TCTD đợc huy động
vốn dới các hình thức sau:
- Nhận tiền gửi:
+ Ngân hàng đợc nhận tiền gửi của tổ chức, cá nhân và các TCTD khác


10
+ TCTD phi ngân hàng đợc nhận tiền gửi có kỳ hạn từ một năm trở lên của
tổ chức, cá nhân theo quy định của Nhà nớc.
- Phát hành giấy tờ có giá: TCTD đợc phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái
phiếu và các giấy tờ có giá khác để huy động vốn của tổ chức, cá nhân
trong nớc theo quy định của Ngân hàng Nhà nớc.
- Vay vốn giữa các TCTD: Các TCTD đợc vay vốn của nhau và của TCTD
nớc ngoài.
- Vay vốn của Ngân hàng Nhà nớc: TCTD là ngân hàng đợc vay vốn của
Ngân hàng Nhà nớc dới hình thức tái cấp vốn theo quy định tại điều 30
của Luật Ngân hàng Nhà nớc Việt Nam.
1.2.1 Huy động vốn bằng nhận tiền gửi
a. Khái niệm tiền gửi
Điều 20 khoản 9 Luật các TCTD 1997 (đợc sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa
đổi, bổ sung luật TCTD năm 2004) đa ra định nghĩa về tiền gửi: Tiền gửi là số
tiền của tổ chức, cá nhân gửi tại TCTD hoặc các tổ chức khác có hoạt động ngân
hàng dới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm
và các hình thức khác. Tiền gửi đợc hởng lãi hoặc không đợc hởng lãi và phải đợc hoàn trả cho ngời gửi tiền.
Nh vậy, trên phơng diện pháp lý thì quan hệ tiền gửi là quan hệ kinh tế
phát sinh giữa một bên là tổ chức, cá nhân gửi tiền với bên kia là tổ chức đợc
phép nhận tiền gửi. Xét về bản chất, quan hệ tiền gửi là một quan hệ hợp đồng
vay nợ, bởi vì :
- Quan hệ này đợc thiết lập trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng và tự do thoả
thuận giữa các chủ thể.

- Có sự chuyển giao một lợng tiền nhất định từ ngời gửi tiền sang tổ chức
nhận tiền gửi để tổ chức này quản lý, sử dụng. Sau đó, tổ chức nhận tiền
gửi có nghĩa vụ phải hoàn trả cho ngời gửi tiền cả gốc và lãi (nếu có) khi
đến hạn hoặc khi ngời gửi tiền có yêu cầu.
- Quan hệ gửi tiền phát sinh trên cơ sở có sự tín nhiệm giữa các bên.
Tuy quan hệ gửi tiền là quan hệ vay nợ nhng nó có những đặc điểm riêng


11
giúp ta phân biệt với các quan hệ vay nợ thông thờng khác. Đó là:
Thứ nhất, về chủ thể: Quan hệ gửi tiền bao gồm hai loại chủ thể là ngời
gửi tiền và tổ chức tín dụng.
Ngời gửi tiền là tổ chức, cá nhân trong xã hội có nhu cầu gửi tiền và có
tiền để gửi. Họ đóng vai trò là ngời cho vay trong quan hệ này.
Tổ chức nhận tiền gửi là các TCTD và các tổ chức khác có hoạt động ngân
hàng, đợc Ngân hàng Nhà nớc cho phép thực hiện nghiệp vụ nhận tiền gửi của
công chúng (sự cho phép của Ngân hàng Nhà nớc đợc thể hiện bằng việc ghi
nhận nghiệp vụ này trong giấy phép hoạt động). Trong quan hệ gửi tiền, tổ chức
nhận tiền gửi đóng vai trò là bên đi vay. Tuy nhiên, đây là hoạt động đi vay
mang tính kinh doanh chuyên nghiệp đợc chủ thể này thực hiện thờng xuyên.
Thứ hai, về hình thức của quan hệ: Hình thức của quan hệ gửi tiền đợc xác
lập theo một cách thức riêng (giấy đề nghị gửi tiền) mang tính nghiệp vụ chuyên
biệt, đợc lập theo mẫu in có sẵn của TCTD nhận tiền gửi nhằm bảo đảm tính tiện
lợi, nhanh chóng, đơn giản mà vẫn chứa đựng đầy đủ những nội dung cần thiết
của một hợp đồng vay nợ.
Thứ ba, về mục đích: Trong quan hệ gửi tiền mỗi bên đều hớng tới những
mục đích riêng, thậm chí trong mỗi loại tiền gửi khác nhau ngời gửi tiền lại hớng
đến các mục đích khác nhau.
* Đối với tổ chức nhận tiền gửi: Mục đích của việc nhận tiền gửi là nhằm
huy động vốn để sử dụng cho hoạt động kinh doanh của mình thông qua việc cấp

tín dụng hoặc thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng cho khách hàng. Chính từ hoạt
động này các tổ chức nhận tiền gửi đợc gọi là các trung gian tài chính, đóng
vai trò là cầu nối giữa cung - cầu vốn, hoạt động kinh doanh theo phơng thức đi
vay để cho vay.
* Đối với ngời gửi tiền: Việc tham gia quan hệ gửi tiền nhằm mục đích
vừa để đảm bảo an toàn cho tiền vốn (tiền gửi vào sẽ đợc tổ chức nhận tiền gửi
trông giữ, bảo quản hộ) vừa để đồng vốn sinh lời khi cha có nhu cầu sử dụng
hoặc để hởng những tiện ích do tổ chức nhận tiền gửi cung ứng nh dịch vụ thanh
toán, chuyển tiền... Ngời gửi tiền có thể hớng tới một, hai hoặc cả ba mục đích


12
trên. Tuy nhiên, mục đích của họ đợc thể hiện rõ nhất thông qua hình thức gửi
tiền hay loại tiền gửi mà họ lựa chọn. Ví dụ: Một ngời gửi tiền không kỳ hạn tại
ngân hàng dới hình thức thẻ tín dụng thì mục đích mà họ hớng tới là sử dụng
dịch vụ thanh toán qua ngân hàng; nếu họ gửi dới hình thức tiền gửi tiết kiệm có
kỳ hạn thì mục đích của họ là hởng lãi suất...
Trong các hình thức huy động vốn của TCTD, hình thức huy động vốn
bằng nhận tiền gửi là hình thức chủ yếu, chiếm tỷ lệ lớn trong tổng nguồn vốn
huy động của mỗi TCTD. Việc huy động vốn bằng nhận tiền gửi là một hình
thức huy động vốn đặc trng riêng có của các TCTD và các tổ chức khác đợc
Ngân hàng Nhà nớc cho phép hoạt động ngân hàng, bởi vì:
Thứ nhất, đây là một nghiệp vụ ngân hàng đặc trng, chỉ những TCTD và tổ
chức đợc Ngân hàng Nhà nớc cho phép hoạt động ngân hàng mới đợc tiến hành.
Các loại hình doanh nghiệp khác không đợc phép huy động vốn bằng hình thức
nhận tiền gửi trong khi họ vẫn có thể phát hành giấy tờ có giá hay vay vốn từ các
TCTD.
Thứ hai, việc huy động vốn bằng nhận tiền gửi có thể tiến hành một cách
thờng xuyên, liên tục với mọi khách hàng, không bị giới hạn về số lợng hay địa
giới hành chính... Trong khi đó các hình thức huy động vốn khác của các TCTD

chỉ đợc thực hiện khi đáp ứng đủ những điều kiện nhất định và đợc tiến hành một
cách không thờng xuyên nh huy động vốn thông qua việc phát hành giấy tờ có
giá hoặc vay vốn từ Ngân hàng Nhà nớc.
Thứ ba, thủ tục của việc huy động vốn bằng nhận tiền gửi giữa TCTD và
khách hàng đợc thực hiện nhanh chóng, đơn giản, không nhất thiết phải thông
qua quá trình thơng lợng hay kiểm tra, thẩm định, đánh giá. Bất kỳ ai có nhu cầu
đều có thể tới TCTD mà mình lựa chọn để gửi tiền, lựa chọn hình thức gửi tiền
phù hợp với mục đích của mình.
Thứ t, huy động vốn bằng nhận tiền gửi là cơ sở để các TCTD cung ứng
các dịch vụ khác cho khách hàng nh dịch vụ thanh toán qua ngân hàng, dịch vụ
ngân quỹ... Đây cũng là một yếu tố thu hút thêm nhiều khách hàng, làm tăng
nguồn vốn huy động cho các TCTD.


13
Thứ năm, việc huy động vốn bằng nhận tiền gửi của các TCTD đợc thực
hiện dựa trên cơ sở là uy tín, khả năng tài chính của TCTD, có sự quản lý, giám
sát của Nhà nớc mà không cần thực hiện các biện pháp bảo đảm nh cầm cố, thế
chấp hay bảo lãnh bằng tài sản... nh trong các quan hệ vay nợ khác. Ngời gửi
tiền sẽ lựa chọn TCTD mà mình tin tởng nhất để gửi tiền dới bất kỳ hình thức
nào.
b. Các loại tiền gửi
Khi tham gia quan hệ gửi tiền, ngời gửi tiền luôn hớng tời một mục đích
nhất định. Nhằm đáp ứng những nhu cầu đa dạng đó của khách hàng , các TCTD
đa ra nhiều loại tiền gửi khác nhau để ngời gửi tiền lựa chọn hình thức gửi thích
hợp nhất tuỳ thuộc vào mục đích, tính chất và khả năng nguồn vốn của họ. Dựa
theo từng tiêu chí cụ thể ngời ta có thể phân chia thành nhiều loại tiền gửi khác
nhau. Cụ thể là:
- Căn cứ theo nghiệp vụ quản lý kinh doanh ngân hàng, tiền gửi đợc chia
thành:

+ Tiền gửi không kỳ hạn: Là loại tiền gửi đợc khách hàng gửi vào các TCTD để
thực hiện các khoản chi trả, thanh toán. Tiền gửi không kỳ hạn là khoản tiền
đang chờ thanh toán, không phải là tiền mà khách hàng để dành nên khách
hàng có thể rút ra hoặc sử dụng để thanh toán bất kỳ lúc nào theo yêu cầu.
Thông thờng khách hàng gửi loại tiền gửi này sẽ không đợc trả lãi hoặc trả
mức lãi suất thấp. Tiền gửi không kỳ hạn đợc quản lý ở các TCTD trên tài
khoản tiền gửi thanh toán hoặc tài khoản vãng lai. Đối với tiền gửi không kỳ
hạn, khách hàng đợc sử dụng các công cụ thanh toán để chi trả nh séc, uỷ
nhiệm chi và các lệnh chi khác...
+ Tiền gửi có kỳ hạn: là loại tiền gửi mà khách hàng gửi vào TCTD trên cơ sở
có sự thoả thuận với TCTD về thời gian rút tiền. Về nguyên tắc ngời gửi tiền
chỉ đợc rút tiền khi đến hạn thoả thuận. Tuy nhiên, trên thực tế để thu hút
khách hàng gửi loại tiền gửi này, các TCTD có thể cho phép khách hàng
đuợc rút tiền trớc thời hạn (nếu số tiền rút ra lớn thì phải có sự thông báo trớc
cho TCTD một vài ngày) trong trờng hợp này ngời gửi tiền chỉ đợc hởng mức


14
lãi suất thấp. Tiền gửi có kỳ hạn là nguồn vốn tín dụng mang tính ổn định,
nên các TCTD thờng chú trọng áp dụng các biện pháp kích thích để huy
động loại tiền gửi này bằng việc đa ra nhiều loại kỳ hạn khác nhau để đáp
ứng nhu cầu của khách hàng. Đối với mỗi loại kỳ hạn, TCTD áp dụng một
mức lãi suất tơng ứng trên nguyên tắc kỳ hạn càng dài, lãi suất càng cao.
+ Tiền gửi tiết kiệm: là loại tiền gửi chỉ dành cho cá nhân, nó là khoản tiền để
dành của các cá nhân chứ không phải để thanh toán, nó đợc ký gửi vào các
TCTD nhằm quản lý cất giữ hộ hoặc để hởng lãi theo định kỳ.
Pháp luật hiện hành quy định Tiền gửi tiết kiệm là khoản tiền của cá
nhân đợc gửi vào tài khoản tiết kiệm, đợc xác nhận trên thẻ tiết kiệm, đợc hởng
lãi theo quy định của tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm và đợc bảo hiểm theo quy
định của pháp luật về bảo hiểm tiền gửi.(1)

Tiền gửi tiết kiệm có hai loại là tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn và tiền gửi
tiết kiệm có kỳ hạn.
Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: là tiền gửi tiết kiệm mà ngời gửi tiền có
thể rút tiền theo yêu cầu mà không cần thông báo trớc vào bất kỳ một
ngày làm việc nào của tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm. Tuy nhiên, tiền gửi
tiết kiệm không kỳ hạn khác với tiền gửi không kỳ hạn (tiền gửi thanh
toán) ở chỗ: Tài khoản tiền gửi tiết kiệm không đợc sử dụng để phát hành
séc và thực hiện giao dịch thanh toán bằng các công cụ thanh toán không
dùng tiền mặt để chi trả cho ngời khác, trừ trờng hợp tài khoản tiền gửi tiết
kiệm bằng đồng Việt Nam của ngời c trú đợc sử dụng để chuyển khoản
thanh toán tiền vay của chính chủ sở hữu tiền gửi tiết kiệm tại tổ chức
nhận tiền gửi tiết kiệm đó, hoặc chuyển sang tài khoản khác do chính chủ
sở hữu tiền gửi tiết kiệm hoặc đồng chủ sở hữu tiền gửi tiết kiệm là chủ tài
khoản tại tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm đó.
Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: là tiền gửi tiết kiệm mà ngời gửi tiền chỉ có
thể rút tiền mặt sau một kỳ hạn gửi tiền nhất định theo thoả thuận với tổ
chức nhận tiền gửi tiết kiệm. Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn tơng tự nh tiền
(

Khoản1, Điểu 6 Quyết định số 1160/2004/QĐ-NHNN ngày 13/09/2004.


15
gửi có kỳ hạn chỉ khác ở chỗ tiền gửi tiết kiệm có kỳ kỳ hạn thì ngời gửi
tiền chỉ là cá nhân.
- Căn cứ vào ngời gửi tiền, có các loại tiền gửi sau:
+ Tiền gửi của tổ chức
+ Tiền gửi của cá nhân.
- Ngoài ra dựa vào dấu hiệu quốc tịch hoặc nơi c trú, ngời ta phân chia tiền
gửi thành :

+ Tiền gửi của các tổ chức và cá nhân trong nớc
+Tiền gửi của các tổ chức và cá nhân nớc ngoài.
- Căn cứ vào đồng tiền mà khách hàng gửi, có thể phân chia thành:
+ Tiền gửi bằng đồng Việt Nam
+ Tiền gửi bằng ngoại tệ.
Việc phân chia thành các loại tiền gửi khác nhau có ý nghĩa hết sức to lớn:
- Đối với tổ chức nhận tiền gửi
Việc phân chia thành nhiều loại tiền gửi khác nhau, mỗi loại có một u thế
riêng giúp cho các tổ chức nhận tiền gửi thu hút đợc nhiều khách hàng tới gửi
tiền. Bởi lẽ, mục đích của ngời gửi tiền rất đa dạng, việc đa ra nhiều loại tiền gửi
sẽ đáp ứng đợc các nhu cầu đó. Đồng thời tạo điều kiện cho TCTD sử dụng
nguồn vốn huy động bằng nhận tiền gửi có hiệu quả, vừa phù hợp với mục đích,
kế hoạch kinh doanh vừa đảm bảo khả năng thanh toán, dù trả cho khách hàng
khi đến hạn hoặc khi họ có nhu cầu rút tiền. Chẳng hạn, TCTD khi huy động vốn
bằng nhận tiền gửi không kỳ hạn thì không thể sử dụng toàn bộ số vốn này để
cho vay trung và dài hạn mà chỉ sử dụng theo một tỷ lệ nhất định do Ngân hàng
Nhà nớc quy định, hoặc căn cứ vào loại tiền gửi để xác định mức dự trữ bắt buộc,
duy trì khả năng thanh toán...
- Đối với ngời gửi tiền
Việc đa dạng hoá các loại tiền gửi với những đặc trng riêng của mỗi loại
tiền gửi sẽ giúp cho ngời gửi tiền có thể lựa chọn hình thức gửi tiền thích hợp tuỳ
thuộc vào mục đích gửi tiền của mình. Ví dụ: Tiền gửi không kỳ hạn có thể rút
bất cứ lúc nào, tạo cho ngời gửi tiền sử dụng số tiền gửi một cách linh hoạt hơn


16
nhng lại không đợc hởng lãi hoặc lãi suất rất thấp. Do đó khi tham gia quan hệ
tiền gửi dới hình thức này khách hàng thờng tới sử dụng những dịch vụ mà tổ
chức nhận tiền gửi cung cấp, đáp ứng nhu cầu sử dụng tiền linh hoạt của mình.
Tiền gửi có kỳ hạn thì phải tuân thủ theo kỳ hạn gửi tiền nhng lại có mức lãi suất

cao hơn....
- Đối với nhà nớc
Do tính chất của từng loại tiền gửi khác nhau, mức độ rủi ro về bảo đảm
khả năng thanh toán là khác nhau, đòi hỏi Nhà nớc phải có cơ chế quản lý một
cách thích hợp nhằm kiểm soát có hiệu quả hoạt động ngân hàng, hạn chế đợc
các rủi ro trong hoạt động ngân hàng; bảo đảm quyền lợi của các bên trong quan
hệ tiền gửi cũng nh sự an toàn cho toàn bộ hệ thống ngân hàng; bảo đảm sự ổn
định tiền tệ quốc gia và ổn định phát triển kinh tế. Do đó, việc phân chia thành
các loại tiền gửi khác nhau giúp cho Nhà nớc có chính sách quản lý thích hợp
đối với hoạt động huy động vốn vủa các TCTD.
1.2.2 Huy động vốn thông qua việc phát hành giấy tờ có giá
Giấy tờ có giá là chứng nhận của TCTD phát hành để huy động vốn
trong đó xác nhận nghĩa vụ trả nợ một khoản tiền trong một thời hạn nhất định,
điều kiện trả lãi và các điều khoản cam kết khác giữa TCTD và ngời mua.(1)
Các giấy tờ có giá do TCTD phát hành là một công cụ vay nợ trên thị trờng tiền tệ, thị trờng vốn dới hình thức giấy nhận nợ hoặc chứng chỉ tiền gửi,
trong đó TCTD cam kết trả gốc, lãi cho ngời mua sau một thời gian nhất định.
* Các loại giấy tờ có giá do TCTD phát hành:
- Căn cứ vào thời hạn phát hành gồm có:
+ Giấy tờ có giá ngắn hạn: Là giấy tờ có giá có thời hạn dới 12 tháng, bao gồm
kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn, tín phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn
khác.(2)
+ Giấy tờ có giá dài hạn: là giấy tờ có giá có thời hạn từ 12 tháng trở lên, bao
gồm trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi dài hạn và các giấy tờ có giá dài hạn khác.(2)
Khoản 1, Điều 4 Quyết định số 02/2004/QĐ-NHNN ngày 04/01/2005
Khoản 2, Điều 4 Quyết định số 02/2004/QĐ-NHNN ngày 04/01/2005
(2)
Khoản 3, Điều 4 Quyết định số 02/2004/QĐ-NHNN ngày 04/01/2005
(1)

(2)



17
- Căn cứ vào chủ sở hữu, giấy tờ có giá gồm có:
+ Giấy tờ có giá ghi danh: Là giấy tờ có giá phát hành theo hình thức chứng chỉ
hoặc ghi sổ có tên ngời sở hữu. TCTD phát hành giấy tờ có giá ghi danh phải
mở sổ đăng ký quyền sở hữu và tiến hành đăng ký lại khi khách hàng có yêu
cầu chuyển nhợng quyền sở hữu.(3)
+ Giấy tờ có giá vô danh: Là giấy tờ có giá phát hành theo hình thức chứng chỉ
không ghi tên ngời sở hữu. Giấy tờ có giá vô danh thuộc quyền sở hữu của ngời nắm giữ giấy tờ có giá.(4)
Về hình thức phát hành: Các giấy tờ có giá do TCTD phát hành có thể
hiện dới hình thức chứng chỉ hoặc ghi sổ, có thể là loại giấy tờ có giá ghi danh
hoặc không ghi danh. Hình thức chứng chỉ ghi danh áp dụng đối với ngời mua là
cá nhân. Hình thức chứng chỉ vô danh áp dụng đối với ngời mua là cả cá nhân và
tổ chức. Hình thức ghi sổ áp dụng đối với ngời mua là tổ chức có tài khoản tiền
gửi tại TCTD phát hành. Trờng hợp phát hành giấy tờ có giá theo hình thức ghi
sổ, TCTD phát hành phải cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu cho ngời mua. Các
giấy tờ có giá do TCTD phát hành đợc chuyển nhợng quyền sở hữu dới các hình
thức mua, bán, tặng, cho, trao đổi, thừa kế hoặc ngời sở hữu giấy tờ có giá có thể
dùng làm vật cầm cố.
Về điều kiện phát hành: TCTD muốn đợc huy động vốn bằng phát hành
giấy tờ có giá phải thoả mãn những điều kiện mà pháp luật quy định và đợc
thống đốc Ngân hàng Nhà nớc hoặc ngời đợc thống đốc Ngân hàng Nhà nớc uỷ
quyền chấp thuận bằng văn bản. TCTD huy động vốn băng phát hành giấy tờ có
giá phải có trách nhiệm công bố công khai về việc phát hành giấy tờ có giá theo
quy định, phải thanh toán tiền gốc và lãi đúng hạn và đầy đủ cho ngời sở hữu
giấy tờ có giá và phải thực hiện chế độ báo cáo kết quả phát hành cho Ngân hàng
Nhà nớc theo quy định.
Thông qua hình thức huy động vốn này, TCTD có khả năng tập trung một
khối lợng vốn lớn trong thời gian ngắn và thờng đợc các TCTD sử dụng khi đã

tiếp nhận những dự án vay vốn lớn, với thời hạn giải ngân cụ thể của khách hàng.
(3)
(4)

Khoản 4, Điều 4 Quyết định số 02/2004/QĐ-NHNN ngày 04/01/2005
Khoản 5, Điều 4 Quyết định số 02/2004/QĐ-NHNN ngày 04/01/2005


18
Tuy nhiên khi huy động vốn dới hình thức phát hành giấy tờ có giá, các TCTD
thờng phải trả lãi suất cao hơn so với lãi suất tiền gửi huy động. Do đó nghiệp vụ
này đợc tiến hành khi TCTD thiếu vốn. Khi tiến hành, TCTD phải căn cứ vào
khả năng đầu ra để quyết định khối lợng vốn huy động, lãi suất, thời hạn và phơng pháp huy động vốn.
1.2.3 Huy động vốn bằng việc vay vốn giữa các Tổ chức tín dụng
Ngoài việc huy động vốn của dân c và của các tổ chức kinh tế- xã hội,
pháp luật còn cho phép TCTD đợc vay vốn của các TCTD khác ở trong nớc và
các TCTD nớc ngoài. Việc vay và cho vay vốn giữa các tổ chức tín dụng sẽ giúp
cho các TCTD điều hoà, phân phối vốn để tăng cờng khả năng thanh toán, đảm
bảo an toàn, hiệu quả cho hoạt động của từng TCTD. Quan hệ vay vốn này đợc
thực hiện trên cơ sở hợp đồng tín dụng.
Vay vốn giữa các TCTD là việc cấp tín dụng dới hình thức cho vay của
TCTD (bên cho vay) cho một TCTD khác (bên vay) theo quy định tại điều 49
Luật các tổ chức tín dụng.(1)
Về nguyên tắc, khi thực hiện việc cho vay, đi vay giữa các bên phải đảm
bảo nguyên tắc: Bên vay phải hoàn trả nợ gốc, lãi tiền vay và các loại phí (nếu
có) đúng hạn cho bên vay. Việc cho vay, đi vay giữa các bên phải đảm bảo an
toàn, phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam và thông lệ quốc tế.
Về thời hạn cho vay, các bên có thể thoả thuận vay ngắn hạn (tối đa đến
12 tháng), trung hạn (từ 12 tháng đến 60 tháng) hoặc dài hạn (trên 60 tháng) tuỳ
thuộc nhu cầu sử dụng vốn vay của TCTD đi vay, tính chất và khả năng nguồn

vốn của TCTD cho vay.
Về biện pháp bảo đảm, các bên thoả thuận việc áp dụng hoặc không áp
dụng hình thức bảo đảm đối với khoản vay trong từng trờng hợp cụ thể. Hình
thức bảo đảm cho khoản vay bao gồm bảo đảm đảm bằng tài sản, bảo lãnh của
một TCTD khác. Việc áp dụng hình thức bảo đảm và xử lý tài sản bảo đảm tiền
vay đợc thực hiện theo quy định của pháp luật.

(1)

Khoản 1, Điều 2 Quyết định số 1310/2001/QĐ-NHNN ngày 15/10/2001


19
Về phơng thức cho vay, các bên thoả thuận áp dụng phơng thức cho vay
từng lần, theo hạn mức hoặc các phơng thức khác phù hợp với quy định của pháp
luật. Các TCTD thực hiện cho vay, đi vay lẫn nhau bằng đồng Việt Nam hoặc
bằng ngoại tệ trên cơ sở phạm vi hoạt động ngoại hối đợc Ngân hàng Nhà nớc
cho phép.
Khi TCTD thoả mãn các điều kiện mà pháp luật quy định thì có thể vay
vốn của TCTD nớc ngoài. Hoạt động vay vốn của TCTD nớc ngoài do TCTD
thực hiện thuộc diện quản lý nhà nớc của Ngân hàng Nhà nớc Việt Nam.
Việc huy động vốn thông qua vay vốn giữa các TCTD có ý nghĩa và vai
trò to lớn trong hoạt động của mỗi TCTD nói riêng cũng nh toàn bộ hệ thống
ngân hàng nói chung. Nhiều TCTD cùng hoạt động nhng mỗi TCTD lại có khả
năng tài chính và nhu cầu về vốn khác nhau, dẫn đến tình trạng TCTD này thiếu
hụt vốn tạm thời trong khi TCTD khác lại thừa vốn. Để huy động vốn trong dân
c sẽ mất nhiều thời gian nên giải pháp tốt nhất là tiến hành vay vốn từ các TCTD
khác. Đây là một hình thức huy động vốn tơng đối hiệu quả tuy nhiên hoạt động
này không phải đợc tiến hành một cách thờng xuyên. Nó chỉ đợc các TCTD thực
hiện khi thiếu hụt vốn tạm thời.

1.2.4 Huy động vốn thông qua vay vốn của Ngân hàng Nhà nớc
Ngoài các hình thức huy động vốn đã nêu, các TCTD có thể vay vốn từ
Ngân hàng Nhà nớc. Hoạt động này vừa là một hình thức huy động vốn của
TCTD vừa là một công cụ để Ngân hàng Nhà nớc thực hiện chính sách tiền tệ
quốc gia: Công cụ tái cấp vốn.
Tái cấp vốn là hình thức cấp tín dụng có bảo đảm của Ngân hàng Nhà nớc nhằm cung ứng vốn ngắn hạn và phơng tiện thanh toán cho các ngân hàng(1),
Tổ chức tín dụng là ngân hàng đợc vay vốn ngắn hạn của Ngân hàng Nhà nớc
dới hình thức tái cấp vốn theo quy định ở điều 30 Luật Ngân hàng Nhà nớc(2)
Nh vậy, theo quy định của pháp luật hiện hành, đối tợng đợc vay vốn của
Ngân hàng Nhà nớc là các TCTD là ngân hàng đợc vay vốn ngắn hạn của Ngân
hàng Nhà nớc thông qua các hình thức: Cho vay lại theo hồ sơ tín dụng; chiết
(1)
(2)

Khoản 9, Điều 9 Luật Ngân hàng Nhà nớc Việt Nam 1997
Điều 48 Luật các Tổ chức tín dụng 1997


20
khấu, tái chiết khấu thơng phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác; cho vay có
bảo đảm bằng cầm cố thơng phiếu và các giấy tờ có giá ngăn hạn khác.
Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nớc còn cho Ngân hàng Thơng mại vay bổ sung
vốn thiếu hụt trong thanh toán bù trừ. Trong trờng hợp đặc biệt khi TCTD mất
khả năng chi trả, có nguy cơ gây mất an toàn cho hệ thống các TCTD có thể đ ợc
Ngân hàng nhà nớc cho vay khi Thủ tớng Chính Phủ chấp thuận.
Ngoài các hình thức huy động vốn cơ bản nêu trên, các TCTD có thể sử
dụng để thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi khác thông qua việc làm trung gian
thanh toán và cung cấp dịch vụ đầu t, dịch vụ đại lý... Các nguồn vốn này không
phải do các TCTD huy động nhng tạo cơ hội cho các TCTD sử dụng tạm thời do
đó làm tăng thêm vốn cho các TCTD trong quá trình hoạt động kinh doanh ngân

hàng. Tuy nhiên, để mở rộng khả năng thu hút vốn này, TCTD cần phải không
ngừng nâng cao uy tín của mình trên thơng trờng, trong đó đặc biệt quan tâm tới
phát triển các dịch vụ ngân hàng.

Chơng 2
Thực trạng pháp luật điều chỉnh hoạt động huy động
vốn của các Tổ chức tín dụng ở Việt Nam
2.1 Nội dung chủ yếu của pháp luật điều chỉnh hoạt động huy
động vốn của các Tổ chức tín dụng ở Việt Nam


21
2.1.1 Các quy định của pháp luật về quản lý Nhà nớc đối với hoạt động huy
động vốn của các Tổ chức tín dụng ở Việt Nam
Có thể hiểu quản lý nhà nớc đối với hoạt động huy động vốn của các
TCTD là việc Nhà nớc thực hiện các hoạt động tổ chức, điều hành thống nhất và
giám sát, kiểm tra các hoạt động này nhằm đảm bảo cho huy động vốn đạt hiệu
quả, phù hợp với từng giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội của đất nớc.
Hoạt động của các TCTD có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh
tế. Trong các hoạt động của TCTD, huy động vốn là hoạt động chủ yếu để
TCTD tập trung nguồn vốn tiến hành các hoạt động kinh doanh. Song bản thân
hoạt động này lại chứa đựng tính rủi ro và ảnh hởng dây chuyền đến hoạt động
khác trong nền kinh tế. Chính vì vậy, hoạt động huy động vốn của các TCTD cần
phải có sự quản lý chặt chẽ của Nhà nớc.
* Mục đích của việc quản lý
Việc quản lý hoạt động huy động vốn của các TCTD nhằm xây dựng môi
trờng pháp lý rõ ràng, thống nhất; tạo ra hành lang pháp lý cho các TCTD hoạt
động hiệu quả; tạo lập môi trờng kinh tế vĩ mô ổn định, kiềm chế lạm phát, ổn
định giá trị đồng tiền; xây dựng hệ thống tài chính- tiền tệ ổn định từ đó tạo điều
kiện thuận lợi cho việc huy động vốn của các TCTD đạt hiệu quả. Mặt khác,

thông qua quản lý hoạt động huy động vốn, Nhà nớc có thể kiểm soát đợc tổng
số vốn cũng nh việc sử dụng vốn đó của các TCTD nhằm bảo toàn và phát triển
vốn, đảm bảo an toàn cho hệ thống TCTD.
* Nội dung quản lý Nhà nớc đối với hoạt động huy động vốn của các
TCTD
Pháp luật về quản lý nhà nớc đối với hoạt động ngân hàng nói chung và
hoạt động huy động vốn của các TCTD nói riêng đợc quy định khá chi tiết, đầy
đủ trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau nh: Luật các tổ chức tín dụng 1997;
Luật Ngân hàng Nhà nớc Việt Nam và các văn bản pháp luật khác có liên quan.
Các văn bản này đã xác định rõ chức năng và nhiệm vụ của từng cơ quan. Theo
đó, việc quản lý các hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động huy động vốn
của các TCTD nói riêng đợc trao cho Chính phủ là cơ quan quản lý chung, thống


22
đốc Ngân hàng Nhà nớc, các Bộ , cơ quan ngang Bộ, Uỷ ban nhân dân các cấp
thực hiện quản lý đối với các TCTD hoạt động trên địa bàn.(1)
Nhà nớc thực hiện việc quản lý của mình thông qua những quy định về:
điều kiện để một tổ chức đợc cấp giấy phép thành lập và hoạt động ngân hàng;
các quy định về thanh tra, kiểm tra hoạt động của tổ chức tín dụng; tổ chức thu
thập, xử lý, cung cấp thông tin và dự báo tình hình thị trờng tiền tệ, thị trờng vốn.
Ngoài ra, Nhà nớc còn quản lý thông qua việc ký kết hoặc tham gia điều ớc quốc
tế về tiền tệ và hoạt động ngân hàng nhằm tạo điều kiện cho các ngân hàng Việt
Nam vơn ra thị trờng nớc ngoài cũng nh mở cửa cho các ngân hàng nớc ngoài
vào Việt Nam.
Các quy định của pháp luật có liên quan tới quản lý nhà nớc đối với hoạt
động huy động vốn của các tổ chức tín dụng đợc thể hiện cụ thể trong các quy
định về quyền đợc nhận các loại tiền gửi đối với từng loại hình TCTD, các hạn
chế pháp định nhằm bảo đảm an toàn cho hoạt động kinh doanh của các TCTD
nh: quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc, trách nhiệm tham gia bảo hiểm tiền gửi, quy

định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của các TCTD... Đặc biệt là
trong quy chế kiểm soát đặc biệt đối với các tổ chức tín dụng có nguy cơ mất
khả năng chi trả, mất khả năng thanh toán, trong các quy định về kiểm tra, thanh
tra và xử lý các vi phạm pháp luật đối với các TCTD trong huy động vốn...
Nhìn chung các quy định về quản lý nhà nớc đối với hoạt động huy động
vốn của các TCTD tơng đối đầy đủ, khá chặt chẽ. Tuy nhiên, những quy định
này còn nằm tản mạn ở nhiều văn bản pháp luật khác nhau, một số quy định ch a
đợc cụ thể hoá một cách rõ ràng.
2.1.2 Các quy định pháp luật về huy động vốn bằng nhận tiền gửi của các
Tổ chức tín dụng ở Việt Nam
Nhận tiền gửi là nghiệp vụ huy động vốn đặc thù của các TCTD tạo tiền
đề kinh tế để các TCTD thực hiện hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân
hàng. Hiện nay, pháp luật có khá nhiều quy định liên quan đến hoạt động huy

(1)

Điều 116 Luật các tổ chức tín dụng 1997


23
động vốn bằng nhận tiền gửi của các TCTD mà chúng ta có thể tìm thấy trong
hàng loạt các văn bản pháp luật về ngân hàng nh:
- Luật các tổ chức tín dụng năm 1997 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật các tổ chức tín dụng năm 2004; Luật Ngân hàng Nhà nớc 1997.
- Nghị định số 49/2000/NĐ-CP ngày 12/09/2000 về tổ chức hoạt động của
ngân hàng thơng mại; Nghị định số 16/2001/NĐ-CP ngày 02/05/2001 về
tổ chức hoạt động của Công ty cho thuê tài chính; Nghị định số
79/2002/NĐ-CP ngày 04/10/2002 về tổ chức hoạt động của công ty tài
chính; Nghị định số 48/2001/NĐ-CP ngày 13/08/2001 về tổ chức và hoạt
động của quỹ tín dụng nhân dân; Nghị định số 13/1999/NĐ-CP ngày

17/03/1999 về tổ chức, hoạt động của TCTD nớc ngoài, văn phòng đại
diện của tổ chức tín dụng nớc ngoài tại Việt Nam; Nghị định số
89/1999/NĐ-CP ngày 01/09/1999 về bảo hiểm tiền gửi; Nghị định số
109/2005/NĐ-CP ngày 24/08/2005 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều
của Nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày 01/09/1999 về bảo hiểm tiền gửi...
- Quyết định 1160/2004/QĐ-NHNN ngày 13/09/2004 của thống đốc Ngân
hàng Nhà nớc về việc ban hành quy chế tiền gửi tiết kiệm; Quyết định
1232/2004/QĐ-NHNN ngày24/09/2004 của thống đốc Ngân hàng Nhà nớc về việc bãi bỏ các quy định về nhận tiền gửi và cho vay áp dụng đối với
hệ thống quỹ tín dụng nhân dân trong giai đoạn thí điểm...
- Thông t số 03/2001/TT-NHNN ngày 06/09/2001 của Ngân hàng Nhà nớc
Việt Nam hớng dẫn thực hiện Nghị định số 16/2001/NĐ-CP của Chính
phủ về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính; Thông t số
09/2001/TT-NHNN ngày 08/10/2001 của Ngân hàng Nhà nớc hớng dẫn
thực hiện Nghị định số 48/2001/NĐ- CP ngày 13/08/2001 về tổ
chức và hoạt động của quỹ tín dụng nhân dân...
Nhìn chung các văn bản pháp luật do Nhà nớc ban hành quy định về hoạt
động huy động vốn bằng nhận tiền gửi của các TCTD là tơng đối đầy đủ và chặt
chẽ, cụ thể hoá đợc các nội dung nh: Các loại tiền gửi mà TCTD đợc phép huy
động; giới hạn quyền đợc nhận các loại tiền gửi đối với từng loại hình TCTD;


24
quy định quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ tiền gửi; quy định trách
nhiệm của TCTD khi huy động vốn bằng nhận tiền gửi; quy định về quản lý Nhà
nớc đối với hoạt động huy động vốn bằng nhận tiền gửi; cùng các nội dung có
liên quan khác...Về cơ bản Nhà nớc đã thiết lập đợc một hành lang pháp lý tơng
đối đầy đủ và thông thoáng, tạo điều kiện thuận lợi cho TCTD tiến hành các hoạt
động kinh doanh trong khuôn khổ của pháp luật, tạo ra môi trờng cạnh tranh
lành mạnh cho các TCTD trong tiến trình hội nhập. Đồng thời pháp luật cũng hớng tới quyền lợi của mọi ngời dân, đáp ứng tốt hơn nhu cầu gửi tiền và sử dụng
các dịch vụ ngân hàng, lựa chọn hình thức gửi tiền phù hợp với mục đích và yêu

cầu của họ, tạo niềm tin cho ngời gửi tiền; tạo ra cơ sở pháp lý cho Ngân hàng
Nhà nớc thực hiện chức năng quản lý của mình đối với hoạt động ngân hàng nói
chung và hoạt động huy động vốn nói riêng.
Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu kể trên, các quy phạm pháp luật điều
chỉnh hoạt động huy động vốn của các TCTD vẫn còn tồn tại một số hạn chế
sau:
Thứ nhất, các quy phạm pháp luật về huy động vốn bằng nhận tiền gửi của
các TCTD còn nằm rải rác ở nhiều văn bản pháp luật khác nhau. Trong khi đó,
mỗi văn bản pháp luật này đợc ban hành nhằm điều chỉnh một mảng hoặc một
lĩnh vực riêng nào đó nhng ít nhiều có liên quan đến huy động vốn bằng nhận
tiền gửi. Vì thế, những quy định về tiền gửi không đợc quan tâm một cách đúng
mức, còn sơ sài, không có tính hệ thống, thiếu ổn định, thậm chí còn có sự mâu
thuẫn giữa các văn bản pháp luật khác nhau. Chẳng hạn, một số quy định trong
văn bản pháp luật điều chỉnh dịch vụ thanh toán; văn bản pháp luật quy định về
tổ chức và hoạt động của từng loại TCTD... Điều này dẫn đến pháp luật khó thực
thi đối với TCTD và đối với ngời gửi tiền, gây ra sự khó khăn trong công tác
quản lý của các cơ quan chức năng trong việc kiểm tra, kiểm soát hoạt động này,
từ đó làm suy yếu vai trò điều chỉnh của pháp luật.
Thứ hai, pháp luật về huy động vốn bằng nhận tiền gửi của các TCTD còn
thiếu thống nhất. Chẳng hạn, tại khoản 3 điều 20 Luật các tổ chức tín dụng 1997
quy định TCTD phi ngân hàng không đợc nhận tiền gửi không kỳ hạn, không


25
làm dịch vụ thanh toán. Theo quy định này, có thể hiểu TCTD phi ngân hàng
chỉ bị cấm nhận tiền gửi không kỳ hạn, còn tiền gửi có kỳ hạn thì pháp luật
không cấm. Nhng tại khoản 2 điều 45 Luật các tổ chức tín dụng 1997 lại quy
định TCTD phi ngân hàng đợc nhận tiền gửi có kỳ hạn từ một năm trở lên của
tổ chức, cá nhân theo quy định của Ngân hàng Nhà nớc. Nh vậy, theo quy định
này thì TCTD phi ngân hàng sẽ không đợc nhận tiền gửi có kỳ hạn dới một năm.

Rõ ràng cùng về một vấn đề nhng ngay cùng một văn bản luật đã không có sự
nhất quán.
Một chứng minh tơng tự: Tại điểm a, mục 1, điều 16 Nghị định số
16/2001/NĐ-CP của Chính phủ ngày 02/05/2001 về tổ chức và hoạt động của
công ty cho thuê tài chính quy định Công ty cho thuê tài chính đợc nhận tiền
gửi có kỳ hạn từ một năm trở lên của tổ chức, cá nhân theo các quy định của
Ngân hàng Nhà nớc; tại Điều 32 Nghị định số 13/1999/NĐ-CP ngày
17/03/1999 về tổ chức, hoạt động của TCTD nớc ngoài, văn phòng đại diện của
tổ chức tín dụng nớc ngoài tại Việt Nam quy định Công ty cho thuê tài chính
liên doanh, công ty cho thuê tài chính 100% vốn nớc ngoài có thể đợc nhận tiền
gửi có kỳ hạn từ một năm trở lên, không đợc phép nhận tiền gửi không kỳ hạn,
tiền gửi tiết kiệm. Nh vậy, ở đây đã có sự hạn chế quyền huy động vốn bằng
nhận tiền gửi của TCTD phi ngân hàng, ngăn cản sự cạnh tranh lành mạnh, gây
khó khăn cho các TCTD.
Thứ ba, pháp luật về huy động vốn bằng nhận tiền gửi không đảm bảo sự
công bằng, cha phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế. Điều này thể hiện ở
chỗ còn có những quy định khác biệt về quyền nhận các loại tiền gửi giữa TCTD
có vốn đầu t trong nớc với các TCTD nớc ngoài hoạt động tại Việt Nam, các
TCTD có vốn đầu t nớc ngoài. Chẳng hạn: khoản 1, điều 30 Nghị định số
13/1999 ngày 17/3/1999 về tổ chức, hoạt động của TCTD nớc ngoài, văn phòng
đại diện của TCTD nớc ngoài tại Việt Nam quy định Chi nhánh Ngân hàng nớc
ngoài có thể đợc nhận tiền gửi có kỳ hạn và không kỳ hạn theo quy định của
Ngân hàng Nhà nớc, không đợc nhận tiền gửi tiết kiệm dới bất kỳ hình thức
nào. Hoặc Công ty cho thuê tài chính liên doanh, công ty cho thuê tài chính


×