Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

pháp luật điều chỉnh hoạt động thanh toán bằng thư tín dụng, những vấn đề thực tiễn phát sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.99 KB, 14 trang )

MỞ ĐẦU
Thanh toán bằng thư tín dụng (L/C) là phương tiện thanh toán chủ yếu trong quan
hệ thương mại quốc tế. Dịch vụ thanh toán bằng thư tín dụng ngày càng phát triển tại các
ngân hàng thương mại. Thực tế số lượng các giao dịch thanh toán bằng thư tín dụng đã
tăng nhanh chóng trong thời gian gần đây. Mặc dù vậy, các văn bản pháp luật điều chỉnh
hoạt động thanh toán bằng thư tín dụng chưa được quan tâm xây dựng và ban hành xứng
với yêu cầu của thực tiễn. Đồng thời, kỹ thuật áp dụng tương đối phức tạp, các bên tham
gia lại thiếu hiểu biết nên tranh chấp liên quan đến thư tín dụng vẫn thường xảy ra. Vì vậy,
nghiên cứu “pháp luật điều chỉnh hoạt động thanh toán bằng thư tín dụng, những vấn đề
thực tiễn phát sinh” việc làm cần thiết để từng bước hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt
động này.
NỘI DUNG
I. Khái quát về thư tín dụng
1. Khái niệm
Theo quy định tại Điều 16 Quyết định số 226/2002/QĐ-NHNN của Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước ngày 26/3/2002 về việc ban hành Quy chế thanh toán qua các tổ chức
cung ứng dịch vụ thanh toán: “Thư tín dụng là một văn bản cam kết có điều kiện được
ngân hàng mở theo yêu cầu của người sử dụng dịch vụ thanh toán (người xin mở thư tín
dụng), theo đó ngân hàng thực hiện yêu cầu của người sử dụng dịch vụ thanh toán để:
- Trả tiền hoặc ủy quyền cho ngân hàng khác trả tiền ngay theo lệnh của người thụ
hưởng khi nhận được bộ chứng từ xuất trình phù hợp với các điều kiện của thư tín dụng;
hoặc
Chấp nhận sẽ trả tiền hoặc ủy quyền cho ngân hàng khác trả tiền theo lệnh của
người thụ hưởng vào một thời điểm nhất định trong tương lai khi nhận được bộ chứng từ
xuất trình phù hợp với các điều kiện thanh toán của thư tín dụng”.
Đây là định nghĩa trực tiếp về thư tín dụng duy nhất trong hệ thống pháp luật Việt
Nam, đã phản ánh được bản chất của thư tín dụng là cam kết bằng văn bản của ngân hàng,
được phát hành theo lệnh của người mua cho người bán hưởng và thể hiện được hai
phương thức thanh toán trả ngay và trả chậm.
2. Đặc điểm
- Thư tín dụng độc lập với hợp đồng mua bán.


Thư tín dụng hình thành trên cơ sở hợp đồng mua bán bởi người yêu cầu mở thư tín
dụng phải dựa vào hợp đồng mua bán đã ký để viết yêu cầu mở thư tín dụng. Nhưng sau
khi được thiết lập, thư tín dụng lại hoàn toàn độc lập so với hợp đồng mua bán. Trong quá
trình thực hiện thư tín dụng, ngân hàng không có nghĩa vụ phải xem xét việc thực hiện hợp
đồng mua bán mà chỉ căn cứ vào việc kiểm tra bộ chứng từ phù hợp với các điều khoản
của thư tín dụng.
- Thư tín dụng là cam kết độc lập của ngân hàng về việc trả tiền cho người thụ
hưởng.
Nghĩa vụ trả tiền cho người thụ hưởng là nghĩa vụ bắt buộc của ngân hàng và ngân
hàng là người trực tiếp trả tiền cho người thụ hưởng. Cam kết trả tiền của ngân hàng không
liên quan đến mối quan hệ giữa ngân hàng và người yêu cầu mở thư tín dụng.
- Thư tín dụng là kết quả của hợp đồng dịch vụ giữa người yêu cầu mở thư tín dụng
và ngân hàng phát hành, theo đó ngân hàng phát hành có nghĩa vụ mở thư tín dụng còn
người yêu cầu có nghĩa vụ thanh toán phí mở thư tín dụng.
- Nội dung thư tín dụng gồm rất nhiều điều khoản như: số hiệu, địa điểm, tên, địa
chỉ của người có liên quan, số tiền của thư tín dụng, thời hạn hiệu lực, thòi hạn trả tiền,
thời hạn giao hàng, nội dung về hàng hóa, vận tải, giao nhận, những chứng từ mà người
xuất khẩu phải xuất trình…Những điều khoản này nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi của
các bên vì nó thể hiện rõ quyền, nghĩa vụ của các bên tham gia. Đây là đặc điểm mà các
phương tiện thanh toán khác không có được. Giao dịch thương mại giữa các bên không có
sự tin tưởng trước thì thư tín dụng rất thích hợp để sử dụng.
- Thư tín dụng là công cụ thanh toán có khả năng hạn chế rủi ro.
Thư tín dụng đáp ứng được yêu cầu hiệu quả và giảm thiểu rủi ro khi mà khả năng
thanh toán đã được đảm bảo bởi ngân hàng thông qua việc mở thư tín dụng không hủy
ngang. Người bán không còn lo ngại về khả năng của người mua trong việc thanh toán.
2. Phân loại
- Theo hiệu lực cam kết của ngân hàng, thư tín dụng có thể được phân chia thành:
+ Thư tín dụng có thể hủy ngang
+ Thư tín dụng không thể hủy ngang
- Căn cứ theo cách thức thực hiện đặc biệt:

+ Thư tín dụng chuyển nhượng
+ Thư tín dụng giáp lưng
+ Thư tín dụng tuần hoàn
+ Thư tín dụng đối ứng
+ Thư tín dụng điều khoản đỏ
+ Thư tín dụng dự phòng
- Căn cứ vào thời hạn thanh toán của thư tín dụng:
+ Thư tín dụng trả ngay
+ Thư tín dụng trả chậm
- Căn cứ vào phạm vi thực hiện:
+ Thư tín dụng thanh toán quốc tế
+ Thư tín dụng thanh toán nội địa
II. Pháp luật điều chỉnh hoạt động thanh toán bằng thư tín dụng
1. Tập quán quốc tế và mối quan hệ với pháp luật Việt Nam
• Tập quán quốc tế
Hiện nay, trong quan hệ thương mại quốc tế chưa có điều ước quốc tế nào điều
chỉnh hoạt động thanh toán bằng thư tín dụng. Việc mở, thực hiện và giải quyết tranh chấp
liên quan đến thư tín dụng chủ yếu được điều chỉnh bởi tập quán quốc tế, cụ thể “Quy tắc
thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ” (UCP) do Phòng thương mại Quốc tế (ICC)
soạn thảo và ban hành. UCP là tập hợp các tập quán và thông lệ quốc tế điều chỉnh việc
thanh toán bằng tín dụng chứng từ. Lần đầu tiên ICC soạn thảo các quy tắc hướng dẫn thực
hiện thanh toán quốc tế ở phương thức tín dụng chứng từ vào năm 1922 nhưng nó không
mang tính quy tắc thống nhất và chỉ được áp dụng hạn chế ở một số ngân hàng châu Âu.
Năm 1933, ICC thông qua Quy tắc thực hành thống nhất thư tín dụng chứng từ thương
mại. Đây là bản UCP đầu tiên. Từ đó đến nay, UCP đã trải qua 6 lần sửa đổi vào các năm
1951, 1964, 1974, 1983, 1993 và lần gần đây nhất là năm 2007. Các bản UCP ra đời sau
không hủy bỏ bản UCP ra đời trước đó. Áp dụng văn bản nào là do các bên quyết định và
nhất thiết phải dẫn chiếu vào nội dung của thư tín dụng là áp dụng UCP số hiệu nào. Điều
1 UCP 600 chỉ ra phạm vi áp dụng: “Các quy tắc thực hành thống nhất về Tín dụng chứng
từ, bản sửa đổi 2007, ICC xuất bản số 600 là quy tắc áp dụng cho bất kỳ tín dụng chứng từ

nào bao gồm cả thư tín dụng dự phòng trong chừng mực mà các quy tắc này có thể áp dụng
nếu nội dung của tín dụng chỉ ra một cách rõ ràng nó phụ thuộc vào các quy tắc này. Các
quy tắc này ràng buộc tất cả các bên, trừ khi tín dụng loại trừ hoặc sửa đổi một cách rõ
ràng”.
Như vậy, UCP 600 không được tự động áp dụng để điều chỉnh hoạt động thanh
toán bằng thư tín dụng mà có giá trị pháp lý tùy nghi. UCP chỉ có hiệu lực khi trong hợp
đồng dẫn chiếu áp dụng rõ ràng. Và khi hợp đồng có dẫn chiếu áp dụng thì UCP lại trở
thành văn bản pháp lý có tính chất bắt buộc thực hiện. UCP chỉ áp dụng trong thanh toán
quốc tế, không áp dụng trong thanh toán nội địa.
Ngoài UCP, các văn bản sau đây cũng có giá trị hiệu lực điều chỉnh các hoạt động
thanh toán qua thư tín dụng:
- URR.525.1995 ICC: Quy tắc thống nhất hoàn trả tiền theo thư tín dụng.
- ISP98: Quy tắc quốc tế về tín dụng dự phòng năm 1998.
- eUCP 1.1: Bản phụ trương UCP 600 về việc xuất trình chứng từ điện tử - bản diễn
giải số 1.1 năm 2007.
- ISBP681.2007 ICC: Thanh toán ngân hàng tiêu chuẩn quốc tế để kiểm tra chứng
từ theo thư tín dụng – số 681 của ICC tuân thủ UCP 600 năm 2007.
• Mối quan hệ giữa tập quán quốc tế về hoạt động thanh toán bằng thư tín
dụng với pháp luật Việt Nam
UCP là tập quán áp dụng toàn cầu, luật quốc gia chỉ có giá trị hiệu lực trong phạm
vi lãnh thổ quốc gia. Ở nước ta, pháp luật thừa nhận việc áp dụng quy định của thông lệ và
tập quán quốc tế trong lĩnh vực thư tín dụng.
Khoản 4 Điều 3 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 quy định: “Tổ chức, cá nhân
tham gia hoạt động ngân hàng được quyền thỏa thuận áp dụng tập quán thương mại, bao
gồm: a. Tập quán thương mại quốc tế do Phòng thương mại quốc tế ban hành; b. Tập
quán thương mại khác không trái với pháp luật của Việt Nam”.
Điều 4 Quyết định số 711/2001/QĐ-NHNN về ban hành Quy chế mở thư tín dụng
nhập hàng trả chậm quy định: “Việc mở L/C trả chậm để nhập khẩu hàng hóa phải phù
hợp với: 1. Chính sách nhập khẩu của nhà nước; 2. Các quy định hiện hành của nhà nước
liên quan đến vay, trả nợ nước ngoài, bảo đảm tiền vay và các quy định tại quy chế này; 3.

Quy chế thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ của Phòng thương mại Quốc tế (theo
phiên bản mà ngân hàng lựa chọn)”.
Điều 19 Quyết định số 226/2002/QĐ-NHNN ngày 26/3/2002 về ban hành Quy chế
thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán quy định: “Thanh toán bằng thư
tín dụng: việc mở, phát hành, sửa đổi, thông báo, xác nhận, kiểm tra chứng từ, thanh toán
và quyền, nghĩa vụ… của các bên liên quan trong thanh toán thư tín dụng được thực hiện
theo các quy tắc chung về tín dụng chứng từ do Phòng Thương mại Quốc tế ICC ban hành,
do các bên tham gia thanh toán thảo thuận áp dụng theo quy định hiện hành của pháp luật
Việt Nam”.
Căn cứ vào các điều luật trên thì các bên tham gia hoạt động thanh toán bằng thư
tín dụng được phép thỏa thuận áp dụng tập quán quốc tế. Tập quán quốc tế và pháp luật
Việt Nam cùng được sử dụng để điều chỉnh thanh toán bằng thư tín dụng.
Trong trường hợp giữa tập quán quốc tế và pháp luật Việt Nam có sự khác biệt thì
pháp luật Việt Nam chiếm ưu thế và phải được tuân thủ. Quan điểm này thể hiện rõ trong
tài liệu ICC số xuất bản 511: “Do được dẫn chiếu áp dụng vào thư tín dụng, UCP chi phối
giao dịch thư tín dụng là cơ bản nhưng không phải là duy nhất. Tòa án và trọng tài thường
vận dụng UCP bởi nó là một tuyển tập các thông lệ và tập quán về thư tín dụng được phổ
biến và thông dụng nhất trên toàn thế giới. Nó được hiểu như là một văn bản đạt được sự
hoàn hảo gần với một bộ luật quốc tế. Tuy nhiên, sự áp dụng UCP và thư tín dụng không
ngăn cản việc tòa án áp dụng pháp luật quốc gia…Quan điểm của ICC là UCP không thể
thay đổi được luật quốc gia. Những tranh chấp (nếu có) tốt nhất là để tòa án xem xét và
giải quyết”.
Trên thực tế, các ngân hàng được phép thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế đều
vận dụng UCP vào giao dịch thanh toán bằng thư tín dụng nhằm hòa nhập vào mạng lưới
thanh toán toàn cầu.
2. Nội dung pháp luật điều chỉnh hoạt động thanh toán bằng thư tín dụng
2.1. Chủ thể tham gia quan hệ thanh toán bằng thư tín dụng.
• Chủ thể cung ứng dịch vụ thanh toán bằng thư tín dụng
Chủ thể cung ứng dịch vụ thanh toán bằng thư tín dụng là chủ thể thực hiện thanh
toán bằng thự tín dụng, được thành lập và hoạt động theo Luật các Tổ chức tín dụng và các

tổ chức khác có đủ điều kiện. Điều kiện về chủ thể cung ứng dịch vụ thanh toán bằng thư
tín dụng được quy định tại Điều 1, 2, 3, 4, 5, 6 của Quy chế thanh toán qua các tổ chức
cung ứng dịch vụ thanh toán tại Quyết định số 226/2002/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước ngày 26/3/2002. Pháp luật hiện hành không cho phép tổ chức không phải là
tổ chức tín dụng thực hiện hoạt động thanh toán quốc tế do quy trình thanh toán quốc tế nói
chung và thanh toán bằng thư tín dụng nói riêng rất phức tạp, đòi hỏi chuyên môn nghiệp
vụ cao. Trong khi đó, hoạt động thanh toán không phải là hoạt động chính của các tổ chức
tín dụng nên mức độ rủi ro cao. Quy định này của pháp luật Việt Nam được coi là hợp lý
trong giai đoạn hiện nay.
Ngân hàng là chủ thể chủ yếu thực hiện thanh toán bằng thư tín dụng. Hiện nay ở
nước ta, hoạt động thanh toán bằng thư tín dụng đều được thực hiện tại các ngân hàng
thương mại. Pháp luật quy định điều kiện ngân hàng được phép hoạt động thanh toán bằng
thư tín dụng:
- Có người điều hành, nhân viên am hiểu hoạt động ngoại hối và có khả năng thực
hiện tốt hoạt động ngoại hối.
- Có đủ trang thiết bị và điều kiện vật chất để đáp ứng được các hoạt động ngoại
hối. Đây là điều kiện rất cần thiết bởi hoạt động ngoại hối là hoạt động mang tính quốc tế,
đòi hỏi có sự đồng bộ về kỹ thuật giữa ngân hàng của các nước với nhau.
Đối với các tổ chức không phải là ngân hàng được Ngân hàng nhà nước cho phép
thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế nếu đáp ứng đủ các điều kiện sau:
- Được phép hoạt động ngoại hối theo quy định của pháp luật.
- Dịch vụ thanh toán quốc tế là cần thiết và có liên quan chặt chẽ với hoạt động
chính.
- Đáp ứng các điều kiện vật chất phù hợp với dịch vụ thanh toán quốc tế. Thanh
toán quốc tế có liên quan tới các ngân hàng ở nhiều nước khác nhau. Nó chỉ được thực
hiện khi giữa các ngân hàng có sự đồng bộ tương đối về kỹ thuật. Hiện nay, để thực hiện
được nghiệp vụ thanh toán quốc tế bằng thư tín dụng các tổ chức không phải ngân hàng
cũng như ngân hàng đều phải tham gia mạng thanh toán Swift.
- Có đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn và nghiệp vụ để quản lý và thực hiện
dịch vụ thanh toán quốc tế.

Để thực hiện dịch vụ thanh toán trong nước, các tổ chức không phải là tổ chức tín
dụng phải đáp ứng những điều kiện:
- Có giấy phép thành lập hoặc giấy phép hoạt động hoặc đăng ký kinh doanh do cơ
quan nhà nước có thẩm quyền cấp;
- Có phương án hoạt động thanh toán, trong đó chứng minh:
+ Dịch vụ thanh toán xin phép thực hiện là cần thiết và có liên quan chặt chẽ với
hoạt động của mình. Đây là quy định cần thiết nhằm đảm bảo hoạt động thanh toán của tổ
chức không phải là tổ chức tín dụng được thực hiện hiệu quả, đúng mục đích.
+ Đáp ứng các điều kiện vật chất phù hợp với dịch vụ tahnh toán xin phép thực
hiện.
+ Có đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn và nghiệp vụ để quản lý và thực hiện
dịch vụ thanh toán xin phép thực hiện.
Hiện nay, pháp luật nước ta chưa có quy định cụ thể về điều kiện cho các chủ thể
thực hiện thanh toán bằng thư tín dụng. Những quy định trên quy định chung về điều kiện
để chủ thể thực hiện thanh toán quốc tế. Tuy còn chung chung nhưng đã góp phần đảm bảo
hoạt động thanh toán lành mạnh, hạn chế rủi ro.
• Chủ thể sử dụng dịch vụ thanh toán bằng thư tín dụng
Chủ thể sử dụng dịch vụ thanh toán bằng thư tín dụng là tổ chức, cá nhân bao gồm:
người yêu cầu mở thư tín dụng và người thụ hưởng. Thông qua quy định về thủ tục thanh
toán bằng thư tín dụng tại Điều 7 Quyết định 1092/2002/QĐ-NHNN ngày 8/12/2002, điều
kiện đối với chủ thể sử dụng dịch vụ thanh toán bằng thư tín dụng được xác định:
- Người yêu cầu mở thư tín dụng: là người mua hoặc nhà nhập khẩu, là bên mà theo
yêu cầu của bên đó, thư tín dụng được phát hành. Khi sử dụng dịch vụ thanh toán bằng thư
tín dụng, người yêu cầu mở thư tín dụng cần đáp ứng điều kiện:
+ Mở tài khoản tại ngân hàng được lựa chọn.
+ Có giấy đề nghị mở thư tín dụng gửi đến ngân hàng.
- Người thụ hưởng: là người bán, người xuất khẩu, là bên mà vì quyền lợi của bên
đó, một thư tín dụng được phát hành . Để được ngân hàng thanh toán, bên thụ hưởng phải
đáp ứng điều kiện:
+ Mở tài khoản tại ngân hàng cùng hệ thống với ngân hàng mở thư tín dụng.

+ Nếu người thụ hưởng mở tài khoản tại ngân hàng khác hệ thống thì trên địa bàn
đó phải có ngân hàng cùng hệ thống hoạt động và các ngân hàng này có tham gia thanh
toán bù trừ với nhau.
Đặc biệt, để được sử dụng dịch vụ thanh toán bằng thư tín dụng trong thanh toán
quốc tế, người yêu cầu mở thư tín dụng phải đáp ứng những điều kiện:
+ Có giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp, nếu không có giấy phép này
thì đơn vị đó phải ủy thác việc mở thư tín dụng qua đơn vị khác.
+ Có giấy phép nhập khẩu hàng hóa.
Điều kiện chung đối với chủ thể sử dụng dịch vụ thanh toán bằng thư tín dụng là có

×