LỜI MỞ ĐẦU
Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, việc ký kết, gia nhập các điều
ước quốc tế trong lĩnh vực kinh tế, thương mại đã trở thành nhu cầu của các
nước nói chung và của Việt Nam nói riêng. Do đó, công tác nghiên cứu về
khả năng tham gia của Việt Nam vào các điều ước quốc tế cũng như nghiên
cứu để soạn thảo báo cáo đề xuất đàm phán kí kết, gia nhập Điều ước quốc
tế luôn được quan tâm, chú trọng. Với yêu cầu soạn thảo 1 báo cáo đề xuất
đàm phán, kí kết, gia nhập 1 ĐƯQT ở Việt Nam, nhóm chúng em đã lựa
chọn soạn thảo báo cáo đề xuất gia nhập Công ước Viên 1980 về hợp
đồng mua ban hàng hoá quốc tế.
Ở Việt Nam, vấn đề “Đề xuất đàm phán, kí kết Điều ước quốc tế” được
quy định cụ thể tại Mục 1, Chương II về kí kết Điều ước quốc tế của Luật ký
kết, gia nhập và thực hiện Điều ước quốc tế năm 2005. Theo quy định của
Luật này, đối với báo cáo đề xuất đàm phán, kí kết, gia nhập Công ước Viên
1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, cơ quan có trách nhiệm đề
xuất báo cáo với Chính Phủ là Bộ Công Thương. Trước khi đề xuất với
Chính phủ báo cáo về việc đàm phán, ký điều ước quốc tế, Bộ Công thương
phải lấy ý kiến kiểm tra bằng văn bản của Bộ Ngoại giao; ý kiến thẩm định
của Bộ Tư pháp và ý kiến của các cơ quan, tổ chức hữu quan (như: trung
tâm trọng tài thương mại quốc tế, Ủy ban tư vấn về chính sách thương mại
quốc tế….
Việc đề xuất đàm phán, ký kết Điều ước quốc tế phải được cơ quan đề
xuất lập thành tờ trình hoặc báo cáo đề xuất đàm phán, kí kết điều ước quốc
tế. Theo quy định tại Điều 14 Luật ký kết, gia nhập và thực hiện Điều ước
quốc tế 2005, nội dung một báo cáo đề xuất đàm phán, ký kết điều ước quốc
tế phải có những nội dung sau đây: 1. Sự cần thiết, yêu cầu, mục đích đề
xuất đàm phán, ký điều ước quốc tế; 2. Nội dung chính của điều ước quốc
tế; 3. Tên gọi, hình thức, danh nghĩa ký, người đại diện ký, ngôn ngữ, hiệu
lực, hình thức hiệu lực, thời hạn hiệu lực và việc áp dụng tạm thời điều ước
quốc tế; 4. Các quyền, nghĩa vụ phát sinh từ điều ước quốc tế đối với nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; 5. Đánh giá tác động chính trị, kinh tế
- xã hội và những tác động khác; 6. Đánh giá việc tuân thủ các nguyên tắc
quy định tại Điều 3 của Luật này;7. Đánh giá sự phù hợp về nội dung của
điều ước quốc tế đó với điều ước quốc tế về cùng một lĩnh vực mà Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; 8. Đánh giá mức độ tương thích
giữa quy định của điều ước quốc tế với quy định của pháp luật Việt Nam; 9.
Kiến nghị bảo lưu, chấp nhận hoặc phản đối bảo lưu của bên ký kết nước
ngoài, tuyên bố đối với điều ước quốc tế nhiều bên; 10. Kiến nghị về việc áp
dụng trực tiếp toàn bộ hoặc một phần điều ước quốc tế hoặc sửa đổi, bổ
sung, bãi bỏ, ban hành văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện điều ước
quốc tế; 11. Những vấn đề còn ý kiến khác nhau giữa cơ quan đề xuất với
các cơ quan, tổ chức hữu quan, giữa bên Việt Nam với bên ký kết nước
ngoài và kiến nghị biện pháp xử lý.
Ngoài ra, theo Điều 52 của Luật thì đối với việc gia nhập ĐƯQT nhiều
bên thì còn phải có những tài liệu sau đây kèm theo: b) Bản sao điều ước
quốc tế, bản dịch điều ước quốc tế bằng tiếng Việt; c) ý kiến kiểm tra của Bộ
Ngoại giao, ý kiến thẩm định của Bộ Tư pháp và ý kiến của các cơ quan, tổ
chức hữu quan; d) Danh sách các thành viên của điều ước quốc tế, văn bản
sửa đổi, bổ sung điều ước quốc tế, bảo lưu, chấp nhận hoặc phản đối bảo
lưu, tuyên bố của các bên ký kết nước ngoài đối với điều ước quốc tế, thủ
tục pháp lý cần thiết và các thông tin khác liên quan đến việc gia nhập điều
ước quốc tế nhiều bên; đ) Dự kiến kế hoạch tổ chức thực.
BÁO CÁO ĐỀ XUẤT VIỆT NAM GIA NHẬP CÔNG ƯỚC VIÊN
1980 VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ QUỐC TẾ CỦA BỘ
CÔNG THƯƠNG
•Khái quát chung về công ước Viên 1980
•Sơ lược lịch sử hình thành Công ước Viên 1980
Công ước Viên của Liên Hợp Quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế (CISG- Convention on Contracts for the International Sale of
Goods) được soạn thảo bởi Ủy ban của Liên Hợp Quốc về Luật thương mại
quốc tế (UNCITRAL) trong một nỗ lực hướng tới việc thống nhất nguồn
luật áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế. Trong lịch sử, vấn đề
nỗ lực thống nhất nguồn luật áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hóa quốc
tế đã được khởi xướng từ những năm 30 của thế kỷ 20 bởi Viện nghiên cứu
quốc tế về thống nhất luật tư Unidroit với 2 Công ước La Haye năm 1964.
Tuy vậy, hai Công ước La Haye năm 1964 trên thực tế rất ít được áp dụng,
với phạm vi bó hẹp chủ yếu ở các quốc gia Châu Âu (theo hệ thống luật
Civil Law). Năm 1968, UNCITRAL đã khởi xướng việc soạn thảo một
Công ước thống nhất về pháp luật nội dung áp dụng cho hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế nhằm thay thế cho hai Công ước La Haye năm 1964. Được
soạn thảo dựa trên các điều khoản của hai Công ước La Haye, song Công
ước Viên có những điểm đổi mới và hoàn thiện cơ bản. Công ước này được
thông qua tại Viên (Áo) ngày 11 tháng 04 năm 1980 tại Hội nghị của Ủy
ban của Liên hợp quốc về Luật thương mại quốc tế với sự có mặt của đại
diện của khoảng 60 quốc gia và 8 tổ chức quốc tế. CISG có hiệu lực như là
một hiệp ước đa phương ngày 1 tháng 1 năm 1988, sau khi được phê chuẩn
bởi 11 quốc gia.
• Những nội dung cơ bản của Công ước Viên 1980
Công ước Viên 1980 gồm 101 Điều, được chia làm 4 phần với các nội
dung chính sau:
Phần 1: Phạm vi áp dụng và các quy định chung (Điều 1- 13): quy
định trường hợp nào CISG được áp dụng (từ Điều 1 đến Điều 6), đồng thời
nêu rõ nguyên tắc trong việc áp dụng CISG, nguyên tắc diễn giải các tuyên
bố, hành vi và xử sự của các bên, nguyên tắc tự do về hình thức của hợp
đồng. Công ước cũng nhấn mạnh đến giá trị của tập quán trong các giao
dịch mua bán hàng hóa quốc tế.
Phần 2: Xác lập hợp đồng (trình tự, thủ tục ký kết hợp đồng) (Điều
14- 24): với 11 điều khoản, Công ước đã quy định khá chi tiết, đầy đủ các
vấn đề pháp lý đặt ra trong quá trình giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế.
Phần 3: Mua bán hàng hóa (Điều 25 – 88): Nội dung của phần 3 là
các vấn đề pháp lý trong quá trình thực hiện hợp đồng. Phần này được chia
thành 5 chương với những nội dung cơ bản như sau: Chương I: Những quy
định chung; Chương II: Nghĩa vụ của người bán; Chương III: Nghĩa vụ của
người mua; Chương IV: Chuyển rủi ro; Chương V: Các điều khoản chung
về nghĩa vụ của người bán và người mua. Đây là phần có số lượng điều
khoản lớn nhất, cũng là phần chứa đựng những quy phạm hiện đại, tạo nên
ưu việt của CISG. Nghĩa vụ của người bán và người mua được quy định chi
tiết, trong hai chương riêng, giúp cho việc đọc và tra cứu của các thương
nhân trở nên dễ dàng. Về nghĩa vụ của người bán, Công ước quy định rất rõ
nghĩa vụ giao hàng và chuyển giao chứng từ, đặc biệt là nghĩa vụ đảm bảo
tính phù hợp của hàng hóa được giao (trên thực tế và pháp lý). Công ước
nhấn mạnh đến việc kiểm tra hàng hóa được giao (thời hạn kiểm tra, thời
hạn thông báo các khiếm khuyết của hàng hóa). Nghĩa vụ của người mua,
gồm nghĩa vụ thanh toán và nghĩa vụ nhận hàng. Công ước Viên 1980
không có một chương riêng về vi phạm hợp đồng và chế tài do vi phạm hợp
đồng. Các nội dung này được lồng ghép trong chương II, chương III và
chương V. Chương V của Phần 3 quy định về vấn đề tạm ngừng thực hiện
nghĩa vụ hợp đồng, vi phạm trước hợp đồng, việc áp dụng các biện pháp
pháp lý trong trường hợp giao hàng từng phần, hủy hợp đồng khi chưa đến
thời hạn thực hiện nghĩa vụ.
Phần 4: Các quy định cuối cùng (Điều 89 - 101)
Phần này quy định về các thủ tục để các quốc gia ký kết, phê chuẩn, gia
nhập Công ước, các bảo lưu có thể áp dụng, thời điểm Công ước có hiệu lực
và một số vấn đề khác mang tính chất thủ tục khi tham gia hay từ bỏ Công
ước này. Phần 4 và Lời nói đầu, đôi khi mô tả như là được giải quyết chủ
yếu để không cho những người kinh doanh cố gắng sử dụng Công ước về
thương mại quốc tế. Họ có thể, tuy nhiên, có một tác động đáng kể khi áp
dụng thực tế của CISG, do đó đòi hỏi sự giám sát cẩn thận khi xác định từng
trường hợp cụ thể.
•Sự cần thiết Việt Nam gia nhập công ước Viên 1980
•Thực trạng các giao dịch th ương mại quốc tế tại Việt Nam - thiếu
một nguồn luật quốc tế thống nhất
•Trong 10 năm trở lại đây, các giao dịch thương mại quốc tế tại Việt
Nam tăng đáng kể. Việc này đặt ra yêu cầu cho Việt Nam cần nhanh
chóng gia nhập một công ước quốc tế đa phương về thương mại quốc tế
cho phù hợp với tốc độ tăng trưởng nhanh chóng của Việt Nam.
Sự phát triển này của Việt Nam được thể hiện trong các mặt sau đây:
+ Thị trường hàng hóa xuất nhập khẩu của Việt Nam ngày càng được
mở rộng về quy mô và số lượng. Nếu như năm 2002 chỉ có 4 nước có kim
ngạch xuất khẩu đạt trị giá trên 1 tỷ USD là Hoa Kỳ, Nhật, Trung Quốc,
Australia thì đến năm 2006 đã tăng lên thành 8 nước (thêm Malaysia,
Singapore, Anh, Đức), và tính đến năm 2008 có thêm 3 nước và vùng lãnh
thổ là Đài Loan, Thái Lan, Indonexia. Tuy chỉ chiếm khoảng 5% trong số
các thị trường Việt Nam có quan hệ xuất khẩu nhưng tổng giá trị của các thị
trường này đạt gần 35 tỷ USD (chiếm hơn 60% kim ngạch xuất khẩu của cả
nước). Điều đáng chú ý, đa số các quốc gia này là thành viên của Công ước
Viên 1980.
+ Về xuất khẩu, chỉ tính riêng trong giai đoạn 1988 – 2008, Việt Nam
đã có sự tăng trưởng trong xuất khẩu, cả về kim ngạch và khối lượng hàng
hoá, cũng như cơ cấu xuất khẩu. Tỷ lệ kim ngạch xuất khẩu trên tổng GDP
của Việt Nam đã tăng lên 70% vào năm 2008. Tốc độ tăng trưởng trung bình
giai đoạn này vào khoảng 19%/năm.
Một nghiên cứu trong khuôn khổ dự án “Nâng cấp hệ thống pháp lý
thương mại đa phương của Việt Nam” do Bộ Công thương tiến hành năm
2007 đã cho thấy những nước có mức độ gia nhập các ĐƯQT đa phương về
thương mại cao đồng thời cũng là những nước có thành tích xuất khẩu ấn
tượng và ngược lại. Với tính chất lalf một nền kinh tế định hướng xuất khẩu,
Việt Nam rõ ràng cần phải cải thiện mức độ gia nhập các ĐƯQT loại này và
Công ước Viên 1980 đứng đầu danh sách những ĐƯQT mà Việt Nam cần
tham gia sớm.
+ Về nhập khẩu, nước ta nhập siêu chủ yếu từ các nước châu Á, đặc
biệt là Trung Quốc, Hàn Quốc và ASEAN. Đa số nguyên nhiên phụ liệu, vật
tư và thiết bị máy móc được nhập khẩu từ Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài
Loan, Xinh-ga-po, và Thái Lan. Đặc biệt, ASEAN và Trung Quốc vẫn là
những đối tác cung ứng lớn nhất cho nước ta. Nhập khẩu từ Hoa Kỳ, Nhật
Bản, Liên minh Châu Âu chủ yếu là máy móc thiết bị công nghệ nguồn và
một số nguyên vật liệu phụ trợ, nhưng lượng nhập còn khiêm tốn.
•Bên cạnh những điểm tích cực, Việt Nam cũng gặp những khó
khăn đáng kể khi thực hiện các giao dịch thương mại quốc tế. Điều này
cho thấy Việt Nam cần có 1 khung pháp lý điều chỉnh các hợp đồng
thương mại quốc tế hiện đại, phù hợp hơn với cộng đồng quốc tế.
Cụ thể những khó khăn này như sau:
+ Thị hiếu, phong cách tiêu dùng, ngôn ngữ, pháp luật và văn hoá kinh
doanh của mỗi nước, mỗi vùng khác nhau. Như vậy, nếu tạo ra một sản
phẩm và đưa sản phẩm vào các nước khác nhau là thách thức lớn đối với các
doanh nghiệp Việt Nam bởi sự hiểu biết về pháp luật, văn hoá kinh doanh
nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam còn rất hạn chế. Đặc biệt đối với
các thị trường lớn như Hoa Kỳ, Nhật bản, EU – những thị trường có nhiều
quy định khắt khe đối với các giao dịch thương mại quốc tế. Các doanh
nghiệp Việt Nam còn lúng túng trong việc đảm bảo các yêu cầu của các
quốc gia này.
+ Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế, thì chủ nghĩa bảo hộ của các
nước càng gia tăng, bị áp thuế chống bán phá giá cao. Việt Nam trước sức ép
bảo hộ sản xuất nội khối đã bị EC gia hạn chống bán phá giá đối với mặt
hàng giày mũ da của Việt Nam với mức thuế 10% trong vòng 15 tháng kể từ
tháng 1/2010.
+ Việt Nam cũng gặp không ít tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng
hoá quốc tế: Theo nhận định của VIAC thì số vụ tranh chấp giữa doanh
nghiệp Việt Nam với đối tác nước ngoài trong các giao dịch thương mại
quốc tế ở mức cao trong những năm gần đây. Từ năm 2002 đến 2008, VIAC
đã giải quyết 149 vụ tranh chấp quốc tế, giá trị tranh chấp lớn tăng lên nhiều
lần. Nguyên nhân chủ yếu là do các doanh nghiệp Việt Nam thiếu hiểu biết
về pháp luật thương mại quốc tế.
Từ những phân tích trên, để thúc đẩy các thuận lợi đồng thời hạn chế
những khó khăn trong các giao dịch thương mại quốc tế, Việt Nam cần chủ
động gia nhập công ước Viên 1980 bởi những lợi ích mà công ước này mang
lại cho Việt Nam là rất đáng kể. Điều này sẽ được chứng minh qua phần
tiếp theo.
•Lợi ích mà Việt Nam đạt được khi gia nhập công ước Viên 1980
•Công ước Viên – 1 cơ hội đầy hứa hẹn cho hệ thống pháp luật Việt
Nam
Thứ nhất, việc gia nhập CISG sẽ giúp thống nhất pháp luật về mua
bán hàng hóa quốc tế của Việt Nam với nhiều quốc gia trên thế giới. Nói
như vậy là bởi Công ước viên 1980 có tính chất là một văn bản thống nhất
luật. Sự tồn tại của Công ước Viên 1980 đã giúp thống nhất hoá được nhiều
mâu thuẫn giữa các hệ thống pháp luật khác nhau trên thế giới, đóng vai trò
quan trọng trong việc giải quyết các xung đột pháp luật trong thương mại
quốc tế và thúc đẩy thương mại quốc tế phát triển. Là một thành viên của
Công ước Viên 1980, hiển nhiên Việt Nam cũng sẽ được hưởng những lợi
ích do văn bản thống nhất luật này mang lại. Điều này càng trở nên ý nghĩa
khi lĩnh vực mua bán hàng hóa - lĩnh vực vẫn luôn chiếm tỷ trọng lớn trong
thương mại quốc tế của Việt Nam từ trước đến nay vẫn vấp phải nhiều xung
đột pháp luật, chưa có một khung pháp lý thật sự thống nhất, hiện đại. Đồng
thời, việc trở thành thành viên của Công ước Viên 1980 cũng tạo ra sự an
tâm cho các đối tác nước ngoài về nguồn luật áp dụng đối với các hợp đồng
mua bán hàng hóa ký với các đối tác Việt Nam.
Thứ hai, việc gia nhập CISG sẽ đánh dấu một mốc mới trong quá
trình tham gia vào các điều ước quốc tế đa phương về thương mại, tăng
cường mức độ hội nhập của Việt Nam.Nhiều chuyên gia nước ngoài cũng
như các quốc gia ASEAN tại Diễn đàn Pháp luật ASEAN lần thứ ba đều đã
khuyến nghị Việt Nam cần nhanh chóng gia nhập Công ước Viên 1980. Việc
gia nhập công ước Viên 1980 sẽ đánh dấu một mốc mới trong quá trình tham
gia vào các điều ước quốc tế đa phương về thương mại, tăng cường mức độ
hội nhập của Việt Nam. Nói như vậy là vì:
+ Thứ nhất: Công ước Viên 1980 hiện đang là một trong những điều
ước quốc tế đa phương về thương mại quốc tế có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất
trên toà cầu với sự tham gia của nhiều cường quốc thương mại (Hoa Kỳ,
Trung Quốc, Nhật Bản, Hà Quốc,…), trong số đó có những quốc gia là bạn
hàng lớn của Việt Nam. Theo đánh giá mới đây trong báo cáo của Trung tâm
thương mại quốc tế ITC phối hợp cùng Bộ Thương mại thực hiện, mức độ
tham gia của Việt Nam vào các điều ước quốc tế đa phương quan trọng có
ảnh hưởng đến thương mại mới chỉ ở mức dưới trung bình so với mức trong
khu vực và trên toàn thế giới. Do đó, gia nhập Công ước Viên sẽ giúp Việt
Nam tăng cường mức độ tham gia vào các điều ước quốc tế đa phương khác
về thương mại, đặc biệt là các văn bản thống nhất pháp luật thương mại quốc
tế, từ đó cũng tăng cường mức độ hội nhập của Việt Nam.
+ Thứ hai: Việc gia nhập Công ước Viên không chỉ giúp Việt Nam hội
nhập quốc tế mà còn giúp Việt Nam hài hòa hóa pháp luật về mua bán hàng
hóa trong khuôn khổ ASEAN, hướng tới mục tiêu xây dựng cộng đồng Kinh
tế ASEAN như đã hoạch định trong Hiến chương ASEAN.
Thứ ba, việc gia nhập CISG giúp hoàn thiện pháp luật về mua bán
hàng hóa quốc tế nói riêng và pháp luật về mua bán hàng hóa nói chung
của Việt Nam. Tại các quốc gia thành viên của Công ước Viên 1980, người
ta nhận thấy rằng quá trình áp dụng Công ước có tác động tích cực tới việc
hoàn thiện pháp luật mua bán hàng hóa quốc gia. Điều này được ghi nhận tại
Đức, Pháp, Hoa Kỳ, Cananda, các nước Bắc Âu. Các quốc gia này, khi sửa
đổi, hoàn thiện pháp luật quốc gia về mua bán hàng hóa, về hợp đồng, hay
về nghĩa vụ, đều đã tham khảo và nội luật hóa nhiều quy phạm của CISG.
Tại Việt Nam, trong quá trình soạn thảo Luật Thương mại năm 2005, các
nhà làm luật đã tham khảo các điều khoản của CISG. Khi Việt Nam gia nhập
CISG, sự ảnh hưởng của CISG đến việc hoàn thiện pháp luật về mua bán
hàng hóa quốc tế của Việt Nam sẽ càng rõ nét và thuận lợi hơn nữa. Ngoài
ra, khi Việt nam gia nhập CISG thì các điều khoản của Công ước này sẽ trở
thành các quy phạm của pháp luật Việt Nam áp dụng cho các giao dịch mua
bán hàng hóa quốc tế có liên quan. Đây là một cách thức hiệu quả và ít tốn
kém để hoàn thiện pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực mua bán hàng hóa
quốc tế.
Thứ tư, gia nhập Công ước Viên 1980 cũng sẽ là điều kiện để việc
giải quyết tranh chấp, nếu có, từ các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
thuận lợi hơn.
Việt Nam là thành viên CISG, việc giải quyết tranh chấp phát sinh từ
hoặc có liên quan đến nhiều hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế bởi Tòa án
hoặc trọng tài tại Việt Nam trở nên thống nhất và dễ dàng hơn, bởi với CISG
nguồn luật được giải thích và áp dụng thống nhất hơn. Với phạm vi áp dụng
rộng của CISG, các doanh nghiệp, trọng tài viên, thẩm phán có thể sẽ không
cần xem xét, nghiên cứu và cân nhắc bất kỳ nguồn luật nước ngoài nào khác
ngoài CISG. Việc giải thích và áp dụng CISG dễ dàng hơn rất nhiều so với
việc viện dẫn đến một hệ thống luật quốc gia, bởi việc diễn giải Công ước có
thể sử dụng các nguồn tham khảo phong phú và rất hữu ích (Các nguyên tắc
UNIDROIT, PECL (theo cơ chế “bổ sung luật”), các Bình luận Chính thức
của Ban Tư vấn CISG, các án lệ của CISG đăng tải trên hệ thống dữ liệu
UNILEX, cũng như hàng ngàn bài viết học giả được đăng tải trên trang web
chính thức của CISG (PACE). Theo thống kê của VIAC, 500 vụ xét xử đã
thụ lý của VIAC có khoảng 90% hợp đồng đã bỏ qua điều khoản luật áp
dụng khi có tranh chấp. Điều này khiến các doanh nghiệp Việt Nam gặp rất
nhiều thiệt thòi. Nếu Việt Nam là thành viên của CISG cũng sẽ khiến các cơ
quan tố tụng như tòa án và trọng tài của VN thuận lợi hơn trong xét xử.
•Công ước Viên – 1 tương lai tiềm năng cho doanh nghiệp Việt
Nam
TS Đinh Thị Mỹ Loan, Chuyên gia Luật thương mại quốc tế, Thành
viên Uỷ ban tư vấn về chính sách thương mại quốc tế cho biết, Việt Nam gia
nhập Công ước Viên càng sớm, các doanh nghiệp và nền kinh tế càng sớm
được hưởng lợi từ những lợi ích không thể chối cãi của Công ước này. Bao
gồm:
Thứ nhất, khi Việt Nam gia nhập CISG, các doanh nghiệp Việt Nam
có thể tiết kiệm được chi phí và tránh được các tranh chấp trong việc lựa
chọn luật áp dụng cho hợp đồng. Với tính chất là một văn bản thống nhất
luật, Công ước Viên 1980 sẽ đem lại cho các doanh nghiệp Việt Nam một
nguồn luật thống nhất để áp dụng. Dù các bên trong hợp đồng không thỏa
thuận về luật áp dụng thì Công ước Viên 1980 vẫn được tự động áp dụng
cho hợp đồng mua bán giữa các bên. Điều này không chỉ giảm bớt chi phí và
thời gian đàm phán để thống nhất lựa chọn luật áp dụng cho hợp đồng mà
còn tránh được những rủi ro tiềm ấn cho thương nhân Việt Nam khi phải áp
dụng luật nước ngoài. Các doanh nghiệp Việt Nam cũng sẽ tốn ít chi phí và
thời gian để tìm hiểu CISG hơn so với việc tìm hiểu luật nước ngoài. Không
chỉ vậy, các doanh nghiệp Việt Nam cũng tránh được việc phải sử dụng đến
quy phạm xung đột trong tư pháp quốc tế để xác định luật áp dụng cho hợp
đồng. Quy phạm luật xung đột thường là khác nhau ở các quốc gia, vì thế,
việc áp dụng các quy phạm này thường dẫn đến tính khó dự đoán trước được
về nguồn luật áp dụng, gây khó khăn đáng kể cho các bên tranh chấp.
Thứ hai, doanh nghiệp Việt Nam sẽ có được một khung pháp lý hiện
đại, công bằng và an toàn để thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc
tế và có căn cứ hợp lý để giải quyết tranh chấp nếu phát sinh, từ đó có
điều kiện cạnh tranh công bằng hơn trên trường quốc tế. Công ước Viên
1980 đã xây dựng một hệ thống các quy định có khả năng giải quyết hầu hết
các vấn đề pháp lý có thể phát sinh trong lĩnh vực hợp đồng. Một khi đã lựa
chọn nguồn luật áp dụng là Công ước Viên 1980, các doanh nghiệp Việt
Nam sẽ an tâm với những giải pháp mà Công ước đưa ra, đảm bảo tích cực
các quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng. Với 101 điều khoản,
Công ước Viên 1980 sẽ xây dựng cho các doanh nghiệp Việt Nam một
khung pháp lý hiện đại, công bằng và an toàn - được đánh giá là một nguồn
luật hiện đại, phù hợp với thực tiễn kinh doanh quốc tế.
Trong bối cảnh giao dịch thương mại quốc tế đóng vai trò trụ cột với
nền kinh tế (gồm cả xuất, nhập khẩu hàng hóa), việc gia nhập CISG càng
sớm sẽ càng mang lại lợi ích đáng kể, không chỉ lợi ích kinh tế (đứng từ góc
độ doanh nghiệp) mà lợi ích về pháp lý (đứng từ góc độ của hệ thống pháp
luật và thực thi pháp luật). Không chỉ giúp thống nhất hệ thống pháp luật về
mua bán hàng hóa quốc tế giữa Việt Nam với nhiều nước trên thế giới, mà
còn đánh dấu mốc mới trong quá trình tham gia các điều ước quốc tế đa
phương về thương mại, tăng cường mức độ hội nhập của Việt Nam. . Những
lợi ích này càng được nhấn mạnh khi mà hầu hết các cường quốc thương
mại trên thế giới đều đã gia nhập Công ước Viên, trong đó có rất nhiều quốc
gia là bạn hàng lớn và lâu dài của Việt Nam như các quốc gia EU, Hoa Kỳ,
Canada, Australia, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore... Các công
ty, doanh nghiệp của các nước này đã áp dụng và đã quen áp dụng Công ước
Viên cho các hợp đồng mua bán hàng hoá ký với các đối tác nước ngoài và
họ sẽ yên tâm hơn về nguồn luật áp dụng đối với các hợp đồng mua bán
hàng hóa ký với các đối tác Việt Nam sau khi Việt Nam gia nhập Công ước
này.
•Mức độ tương thích của Công ước Viên 1980 với pháp luật Việt
Nam
Sự tương thích của Công ước Viên 1980 và pháp luật Việt Nam được
đánh giá trên những tiêu chí khác nhau.
Thứ nhất, về phạm vi điều chỉnh và các điều khoản chung. Điều 1(1)
(a) quy định Công ước được áp dụng đối với những hợp đồng mua bán hàng
hóa giữa các bên có trụ sở kinh doanh ở các nước khác nhau và những nước
này là thành viên Công ước. Dấu hiệu “lãnh thổ” của các bên ký kết (không
phải dấu hiệu về quốc tịch hay các dấu hiệu khác) được dùng để xác định
tính quốc tế của hợp đồng. Pháp luật Việt Nam cũng chú ý tới yếu tố nước
ngoài trong thương mại, được quy định trong Luật thương mại 2005 (Khoản
1,3 Điều 4, Điều 5, Điều 27) và Bộ luật dân sự 2005 (Điều 2 Khoản 3) thể
hiện sự gần gũi với những quy định trong Công ước.
Các quy định về những điều khoản chung cũng có một vài sự giống
nhau. Nguyên tắc thiện chí là một nguyên tắc quan trọng trong pháp luật dân
sự. Nguyên tắc này cũng được ghi nhận trong Bộ luật dân sự Việt Nam
(Điều 6 Bộ luật Dân sự 2005) và tương thích với quy định tại Điều 7 của
Công ước.
Thứ hai, về giao kết hợp đồng. Điều 392 Bộ luật dân sự 2005 có quy
định tương tự Điều 15, Điều 24 của Công ước về quy định chào hàng. Ngoài
ra còn có sự tương ứng giữa các Điều 18 Công ước và Điều 396 Bộ luật dân
sự 2005, Điều 19 Công ước và tại Điều 395 Bộ luật dân sự 2005. Điều 400
BLDS có quy định tương tự Điều 22 Công ước về việc chấp nhận chào hàng
có thể bị rút lại.
Thứ ba, về mua bán hàng hóa. Giống như pháp luật quốc gia của đa số
các nước khác trên thế giới, pháp luật về hợp đồng của Việt Nam liên quan
đến mua bán hàng hóa quốc tế kém chi tiết hơn so các quy định của Công
ước về một số nội dung, đặc biệt là về quyền và nghĩa vụ của các bên trong
hợp đồng. Có sự giống nhau trong Điều 25 Công ước và khoản 3 Điều 13
Luật thương mại 2005 định nghĩa “sự vi phạm cơ bản”. Đối với hủy hợp
đồng chỉ có hiệu lực nếu được thông báo cho bên kia biết. Yêu cầu này được
cả Công ước (Điều 26) và pháp luật Việt Nam (Điều 315) sử dụng nhằm
tránh thiệt hại do sự thiếu rõ ràng hay nhầm lẫn trong giao dịch quốc tế.
Ngoài ra, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia hợp đồng cũng được
quy định khá tương ứng.
Thêm nữa là các quy định về chuyển rủi ro hay một số quy định khác,
cũng với vấn đề bảo lưu thì chủ yếu quy định của pháp luật Việt Nam gần
gũi, tương xứng với Công ước.
Qua nội dung phân tích trên có thể thấy rằng về cơ bản các quy định
của Công ước và pháp luật Việt Nam về hợp đồng mua bán hàng hóa là
tương thích với nhau. Mặc dù vẫn tồn tại những sự khác biệt và đặc trưng
riêng. Các quy định của Công ước Viên về hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật hợp đồng nói
chung của Việt Nam. Và có một số vấn đề được Công ước điều chỉnh mà
pháp luật Việt Nam không quy định. Như vậy, việc tiến tới gia nhập Công
ước là cần thiết và phù hợp.
•Sự đồng thuận của giới khoa học, luật sư và doanh nghiệp trong
việc gia nhập Công ước Viên 1980 của Việt Nam
Không phải đến bây giờ Việt Nam mới tính đến việc gia nhập Công
ước Viên 1980 mà từ những năm 1989-thời điểm Công ước có hiệu lực,
trong giới khoa học, luật sư đã có nhiều nghiên cứu về các lợi ích của Công
ước Viên và sự cần thiết gia nhập Công ước Viên của Việt Nam. Có thể kể
đến nghiên cứu của TS Định Thị Mỹ Loan và các cán bộ nghiên cứu thuộc
Vụ pháp chế Bộ Ngoại Thương những năm đầu thập niên 90, gần đây hơn là
dự án Nâng cấp Hệ thống pháp lý thương mại đa phương của Việt Nam năm
2007 do Bộ Thương mại tiến hành với sự hỗ trợ của Uỷ ban Châu Ân, Trung
tâm thương mại quốc tế ITC, phố hợp với các Bộ ngành liên quan, nghiên
cứu của GS.TS Nguyễn Thị Mơ và các giảng viên trường đại học Ngoại
thương năm 2005. Tất cả đều thống nhất rằng việc gia nhập Công ước Viên
1980 là điều nên làm và làm càng sớm càng tốt.
Về phía các doanh nghiệp, với những tiện ích và mức độ phổ quát của
mình, Công ước Viên 1980 đã đi vào thực tiễn hoạt động mua bán ngoại
thương của nhiều doanh nghiệp một cách rất tự nhiên dù doanh nghiệp nhận
thức được hay không. Theo điều tra nhanh do Phòng Thương mại và Công
nghiệp Việt Nam thực hiện tháng 5/2010 đối với 10 Hiệp hội ngành hàng có
hoạt động xuất khẩu hoặc liên quan chặt chẽ đến hoạt động xuất khẩu lớn
của Việt Nam và 3 Hiệp hội đa ngành hàng lớn nhất về sự cần thiết tham gia
Công ước Viên và mức độ ủng hộ của các doanh nghiệp thuộc các ngành
này, kết quả cho thấy 100% các ngành đều đánh giá cao những lợi ích của
Công ước Viên 1980 đối với hoạt động của doanh nghiệp trong ngành và
ủng hộ sáng kiến đề xuất Chính phủ nhanh chóng gia nhập Công ước
này.cĐiều này chứng minh rằng việc gia nhập Công ước không chỉ là mong
mỏi của riêng các nhà nghiên cứu, luật sư mà còn là nguyện vọng của đa số
doanh nghiệp Việt Nam (Xem phụ lục 2).
•Đề xuất lộ trình gia nhập công ước Viên 1980
•Điều kiện và thủ tục gia nhập công ước Viên 1980
•Điều kiện gia nhập:
Theo quy định của CISG cũng như từ các quy định của pháp luật Việt
Nam về việc ký kết, gia nhập các điều ước quốc tế, việc gia nhập Công ước
Viên đối với Việt Nam hiện nay không có gì khó khăn bởi Việt Nam hoàn
toàn có thể đáp ứng điều kiện gia nhập công ước:
- Thứ nhất, CISG không có quy định gì về điều kiện gia nhập đối với
các quốc gia không tham gia ký kết như Việt Nam. Các quốc gia thành viên
không có nghĩa vụ đóng góp về tài chính, không phải thành lập một cơ quan
riêng để thực thi Công ước, cũng không có bất kỳ nghĩa vụ báo cáo định kỳ.
- Thứ hai, theo pháp luật Việt Nam về ký kết, gia nhập điều ước quốc
tế, việc gia nhập Công ước là phù hợp với các nguyên tắc tại điều 3 Luật ký
kết và thực hiện điều ước quốc tế của Việt Nam năm 2005.
- Thứ ba, các nguyên tắc của CISG phù hợp với các nguyên tắc chung
của pháp luật hợp đồng Việt Nam. Theo đánh giá của nhiều chuyên gia luật,
mối quan hệ giữa CISG và pháp luật Việt Nam về mua bán hàng hoá là bổ
sung chứ không đối kháng. Có những trường hợp khác biệt giữa 2 nguồn
luật này là tất yếu, do mối quan hệ được điều chỉnh có tính chất khác nhau
chứ không cản trở nhau.
• Thủ tục gia nhập:
Theo quy định tại Phần thứ tư của CISG thì thủ tục để một quốc gia gia
nhập Công ước này đơn giản và dễ dàng, không phải qua quá trình phê
duyệt, phê chuẩn. Cụ thể, cơ quan có thẩm quyền của các quốc gia muốn gia
nhập CISG chỉ cần đệ trình văn bản gia nhập và đưa ra các tuyên bố bảo lưu
(nếu có). Theo Điều 100 Công ước thì Công ước sẽ có hiệu lực vào ngày đầu
tiên của tháng sau 12 tháng kể từ ngày văn bản gia nhập Công ước được đệ
trình. Như vậy, ví dụ nếu tháng 12/2011, Chính phủ Việt Nam đệ trình văn
bản gia nhập cho Tổng thư ký của Liên Hợp Quốc (người giữ lưu chiểu
Công ước) thì Công ước sẽ có hiệu lực đối với Việt Nam vào ngày
01/01/2013. Khoảng thời gian 1 năm này là cần thiết và hợp lý để Việt Nam
thực hiện việc tuyên truyền và chuẩn bị cho việc áp dụng CISG tại Việt
Nam.
Theo quy định của Luật ký kết và thực hiện điều ước quốc tế của Việt
Nam năm 2005, trong hoàn cảnh cụ thể của CISG (không có nội dung trái
Hiến pháp và pháp luật nội địa Việt Nam) thì việc gia nhập Công ước này sẽ
phải đi qua các thủ tục sau:
Bước 1: Bộ chuyên ngành (mà ở đây là Bộ Công Thương xét theo chức
năng và thẩm quyền quản lý của cơ quan này) nghiên cứu về việc Việt Nam
gia nhập Công ước Viên 1980.
Bước 2: Bộ chuyên ngành lấy ý kiến kiểm tra bằng văn bản của Bộ
Ngoại Giao; lấy ý kiến thẩm định của Bộ Tư pháp; lấy ý kiến của các cơ
quan hữu quan (Tòa án nhân dân tối cao, VCCI…).
Bước 3: Sau khi nhận được ý kiến trả lời của các cơ quan hữu quan, Bộ
chuyên ngành đề xuất với Chính Phủ về việc gia nhập CISG.
Bước 4: Chính phủ ra quyết định gia nhập CISG (do việc gia nhập
CISG không đòi hỏi phải sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành văn bản
quy phạm pháp luật nên không phải trình Ủy ban thường vụ quốc hội cho ý
kiến).
Bước 5: Chính phủ đệ trình văn bản gia nhập cho Tổng thư ký Liên
Hợp Quốc.
1980
•Những lưu ý với Việt Nam khi gia nhập công ước Viên 1980
•Những vấn đề Việt Nam nên bảo l ưu khi gia nhập Công ước Viên
Theo Điều 99 Công ước Viên 1980 thì các nước tham gia hay gia nhập
Công ước này không có quyền đưa ra các bảo lưu riêng và nếu có bảo lưu thì
chỉ bảo lưu trong các trường hợp mà Công ước cho phép. Cụ thể, CISG cho
phép các quốc gia thành viên thực hiện một số bảo lưu sau: Bảo lưu phần
thứ hai hay phần thứ ba của CISG (bảo lưu theo Điều 92) ; Bảo lưu chỉ áp
dụng CISG trên một số phần lãnh thổ của quốc gia thành viên (bảo lưu theo
Điều 93); Bảo lưu không áp dụng CISG đối với các quốc gia đã có luật
chung thống nhất về mua bán hàng hoá quốc tế (Bảo lưu theo điều 94); Bảo
lưu không áp dụng điều 1.1 CISG (bảo lưu theo Điều 95) ; Bảo lưu về hình
thức họp đồng (Bảo lưu theo Điều 96).
Khi tiến hành khảo sát các chuyên gia, luật sư liên quan đến các bảo
lưu đối với Công ước Viên 1980, Uỷ ban tư vấn về chính sách Thương mại
quốc tế-VCCI đã đưa ra các con số như sau: 50% ủng hộ Việt Nam bảo lưu
quy định về hình thức hợp đồng, 32% ủng hộ bảo lưu Điều 1.1 Công ước,
6% ủng hộ bảo lưu phần thứ III Công ước, 8% ủng hộ bảo lưu phần thứ II
Công ước, 4% ủng hộ bảo lưu chỉ áp dụng CISG trên một số phần lãnh thổ
của quốc gia, đặc biệt có 8% cho rằng không cần thiết phải bảo lưu. Tuy
nhiên, theo quan điểm của Bộ công thương, Việt Nam chỉ nên Bảo lưu về
hình thức hợp đồng (Bảo lưu theo Điều 96). Công ước Viên 1980 áp dụng
nguyên tắc tự do về hình thức hợp đồng, theo đó hợp đồng có thể được kí
kết bằng mọi hình thức. Tuy nhiên, Công ước cũng cho phép các quốc gia
mà pháp luật đòi hỏi các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế phải được lập
thành văn bản có thể bảo lưu không áp dụng nguyên tắc này. Hiện nay, pháp
luật Việt Nam liên quan đến hình thức của hợp đồng thương mại (Điều 27
Luật Thương mại 2005) quy định hình thức bắt buộc của hợp đồng là văn
bản. Do đó, Việt Nam bảo lưu theo Điều 96 của Công ước là hợp lý, không
chỉ đảm bảo tính chắc chắn, sự rõ ràng cho các hợp đồng mua bán có yếu tố
nước ngoài mà còn khắc phục những tồn tại đầy rủi ro hiện nay trong tập
quán kinh doanh theo thói quen và ít tham khảo tư vấn pháp lý của các
doanh nghiệp Việt Nam.
• Những yêu cầu đặt ra với Việt Nam sau khi gia nhập công ước
viên 1980.
Thực tế không có yêu cầu nào đặt ra cho các nước thành viên sau
khi gia, tuy nhiên để thực hiện CISG hiệu quả nên thực hiện hai việc sau:
+ Báo cáo án lệ: Theo khuyến nghị của UNCITRAL, việc công khai
hóa các án lệ của Việt Nam nói riêng, các quốc gia thành viên CISG nói
chung sẽ góp phần làm tăng sự tin tưởng của cộng đồng kinh doanh quốc tế
vào sự minh bạch của hệ thống pháp luật Việt Nam về thương mại quốc tế.
Do đó, Việt Nam nên có một hệ thống báo cáo án lệ về Công ước Viên
1980, có thể là do Toà án nhân dân, Viện kiểm sát,…tiến hành. Hệ thống
này sẽ tập hợp và báo cáo các án lệ có liên quan đến Công ước này cho Ban
thư ký của UNCITRAL để cơ quan này đưa lên hệ thống cơ sở dữ liệu
“CLOUT” (Case Law on UNCITRAL Texts
+ Tuyên truyền, phổ biến CISG đến các doanh nghiệp và các cơ
quan chịu trách nhiệm giải quyết tranh chấp: Để Công ước Viên 1980
thực sự phát huy hiệu quả và đem lại lợi ích thực tế cho doanh nghiệp và nền
kinh tế thì Việt Nam cần tiến hành các hoạt động tuyên truyền, phổ biến
CISG một cách tích cực. Ví dụ: Tổ chức một số hội thảo quốc tế chuyên sâu
về CISG;Tổ chức các khóa bồi dưỡng ngắn hạn cho các thẩm phán, trọng tài
viên,các luật sư, giảng viên giảng dạy về luật thương mại, về thương mại
quốc tế tại các trường đại học luật và kinh tế tại Việt Nam; Tổ chức các khóa
đào tạo, phổ biến kiến thức cho các doanh nghiệp Việt Nam thực hiện hoạt
động xuất nhập khẩu, các hiệp hội doanh nghiệp;…
KẾT LUẬN
Nhìn chung, việc gia nhập CISG hứa hẹn sẽ mang lại cho Việt Nam rất
nhiều lợi ích cả về xây dựng hệ thống pháp luật và phát triển kinh tế, đồng
thời cũng không có tác động bất lợi nào đáng kể đến Việt Nam. Chính vì
vậy, Bộ Công thương đưa ra đề xuất rằng Việt Nam cần sớm tiến hành cách
thủ tục để gia nhập công ước và có những chuẩn bị mang tính tổng thể, lâu
dàu để thực thi công ước trên thực tiễn thương mại quốc tế của Việt Nam là
rất hợp lý. Do đó, trong thời gian sắp tới hy vọng rằng Việt Nam sẽ xúc tiến
việc gia nhập công ước trong thời gian sớm nhất.
PHỤ LỤC 1: ĐỀ XUẤT LỘ TRÌNH GIA NHẬP CÔNG ƯỚC VIÊN
1980
Lộ trình
Tháng
11/2011
Nội dung
Cơ quan đảm
nhận
10- Khởi động nghiên cứu và đề UB tư vấn về
xuất việc Việt Nam gia nhập Chính sách
CISG.
TMQT
Tháng 3/2012
Tháng 4/2012
Tháng 6/2012
Tháng 11/2012
Ghi chú
Trong
suốt
thời gian này,
thực
hiện
tuyên truyền,
Nghiên cứu về việc Việt Nam Bộ Công
phố biến về
gia nhập Công ước Viên
Thương hoặc Bộ CISG cho các
Tư pháp
cơ quan áp
dụng
pháp
Lấy ý kiến kiểm tra bằng văn Bộ Công
luật
(các
bản của Bộ Ngoại Giao; lấy ý Thương hoặc Bộ
thẩm phán,
kiến thẩm định của Bộ Tư Tư pháp
các trọng tài
pháp; lấy ý kiến của các cơ
viên), cho các
quan hữu quan (Tòa án nhân
luật sư, luật
dân tối cao, VCCI…).
gia,
giảng
cho
Ý kiến trả lời của các cơ quan Bộ Ngoại Giao, viên,
cộng
đồng
hữu quan
Bộ Tư pháp,
doanh nghiệp
TANDTC,
và các đối
VCCI…
tượng có liên
quan
khác
Bộ Công Thương đề xuất với Bộ Công
(sinh viên...)
Chính Phủ về việc gia nhập Thương
CISG
Tháng 12/2012
Chính phủ xem xét và ra quyết Chính phủ
định gia nhập CISG
Tháng 12/2012
Đệ trình văn bản gia nhập
01/01/2014
CISG bắt đầu có hiệu lực tại
VN
Từ tháng 01/2014 Báo cáo án lệ
TANDTC, Bộ
Tư pháp
PHỤ LỤC 2:
PHIẾU ĐIỀU TRA
Về việc Việt Nam có nên gia nhập Công ước Viên về Hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế (Công ước CISG)?
Điều tra này được Bộ Công Thương thực hiện nhằm xác định nhu cầu của
doanh nghiệp, đánh giá hơn thiệt trong trường hợp Việt Nam gia nhập Công
ước Viên về Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế (Công ước CISG) để
quyết định việc đề xuất với Chính phủ gia nhập Công ước này.
(Thời gian thực hiện: 06/11/2012-31/12/2012)
1. Xin cho biết, Ông/Bà là:
Đại diện doanh nghiệp
Đại diện Hiệp hội doanh nghiệp
Luật sư/Chuyên gia
Ngành nghề khác
2. Ông/Bà hiểu biết như thế nào về Công ước CISG?
Hiểu rất rõ
Hiểu nội dung chính
Chỉ nghe nói
Không biết
3. Doanh nghiệp của Ông/Bà thường chọn nguồn luật nào sau đây trong ký
kết Hợp đồng/giải quyết tranh chấp với nước ngoài?
Công ước CISG
Luật quốc gia nước ngoài
Luật Việt Nam
Nguồn khác
Không lựa chọn nguồn luật
Không biết
4. Theo Ông/Bà, nội dung của Công ước CISG, nhìn chung tốt hay kém hơn
nội dung của pháp luật hợp đồng (Bộ luật dân sự) Việt Nam?
Tốt hơn
Như nhau
Kém hơn
Không rõ
5. Theo Ông/Bà, Việt Nam có nên gia nhập Công ước CISG không?
Có
Không
Xin Ông/Bà vui lòng cho biết lý do?
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
......................................................
...........................................................................................................................
............
6. Theo Ông/Bà, nếu tham gia Công ước này, Việt Nam nên bảo lưu (không
tham gia) nội dung nào?
Không bảo lưu gì (áp dụng đầy đủ Công ước)
Bảo lưu quy định về hình thức hợp đồng của Công ước
Bảo lưu Điều 1.1 Công ước (quy định ưu tiên áp dụng Công ước nếu quy
định tư pháp quốc tế dẫn chiếu đến pháp luật quốc gia)
Ý kiến khác
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
..........................................
7. Nếu Ông/Bà đã tham khảo nội dung Báo cáo nghiên cứu khả năng Việt
Nam gia nhập Công ước CISG của Bộ Công Thương, Ông/Bà đánh giá thế
nào về Báo cáo nghiên cứu này?
Tốt
Khá
Trung bình
Không tốt
8. Báo cáo nghiên cứu khả năng Việt Nam gia nhập Công ước CISG cần bổ
sung hay lược bỏ phần nào?
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
……………………………………………....
...........................................................................................................................
..................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...............................................................
Xin vui lòng cho biết thông tin về Ông/Bà (Thông tin này sẽ không cung
cấp cho bất kỳ bên thứ 3 nào)
Họ và tên:
...........................................................................................................................
............
Chức
vụ: .....................................................................................................................
...........
Đơn vị công tác:
...........................................................................................................................
............
Địa
chỉ: ....................................................................................................................
..............
Số điện thoại liên lạc:
...........................................................................................................................
............
Địa chỉ email:
...........................................................................................................................
............
Xin trân trọng cảm ơn sự hợp tác của Quý Ông/Bà./.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
•Công ước Viên 1980 về Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế
•Luật kí kết, gia nhập, thực hiện Điều ước quốc tế 2005
•Uỷ ban tư vấn về chính sách thương mại Việt Nam, Phòng thương
mại và công nghiệp Việt Nam, “Nghiên cứu đề xuất Việt Nam gia nhập
Công ước Viên về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế”
•Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam, VCCI, Bản tin Doanh
nghiệp và chính sách thương mại quốc tế, số 03 – 04 năm 2010
• />• />