MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU…………………….......................................................
NỘI DUNG……………………………………………………………
I. Quan niệm về tài sản trong pháp luật một số nước……………...........
II. Những quy định pháp luật về tài sản trong BLDS năm 2005…………
1. Khái niệm tài sản……………………………………………………...
a. Vật…………………………………………………………………….
b. Tiền……………………………………………………………………
c. Giấy tờ có giá…………………………………………….....................
d. Quyền tài sản………………………………………………………….
2. Động sản và bất động sản………………………………………..........
3. Phân loại vật và chế độ pháp lý đối với vật………………...................
a. Phân loại vật…………………………………………..........................
b. Chế độ pháp lý đối với vật……………………………………………
III. Thực trạng và hướng hoàn thiện quy định pháp luật liên quan đến tài
sản……………………………………………………………………..
TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………….
Trang
1
2
2
3
3
4
5
6
7
8
11
11
14
15
21
Một số từ viết tắt:
BLDS: Bộ luật dân sự
BLTTDS: Bộ luật tố tụng dân sự
LỜI MỞ ĐẦU
Trong thực tế cuộc sống, hẳn ai trong chúng ta cũng biết tới những thứ như:
ngôi nhà, cái ti vi, xe đạp, tiền…Cùng với đó, ta cũng không xa lạ khi gọi chúng là
những tài sản của chính mình hay của một chủ thể nhất định nào khác. Có thể nói, tài
sản là vấn đề trung tâm, cốt lõi của mọi quan hệ xã hội nói chung và quan hệ pháp
luật nói riêng. Khái niệm tài sản đã được đề cập từ lâu trên thực tiễn cũng như trong
khoa học pháp lí.
Trong đời sống kinh tế - xã hội, khi tài sản luôn được coi là điều kiện vật chất
để duy trì các hoạt động trong lĩnh vực kinh tế và trong đời sống của con người thì sự
tồn tại của các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ tài sản lại được coi là điều
kiện cần thiết để giải quyết các tranh chấp liên quan đến tài sản đó. Luật dân sự - nền
tảng căn bản của luật tư mà ở đó Nhà nước chỉ đóng vai trò trọng tài – có liên quan
tới con người, tới hành vi của con người và quan hệ của con người đối với nhau liên
quan đến tài sản. Chính vì tài sản là công cụ của đời sống xã hội nên khái niệm về tài
sản không phải là một khái niệm thuần túy có tính cách học thuật mà là một khái
niệm có tính mục đích rất cao. Nó là một khái niệm động, khái niệm này phải đáp
ứng được các nhu cầu cần thiết của xã hội và không thể xem xét nó tách rời các giá trị
xã hội.
Do vậy, việc nghiên cứu tìm hiểu về khái niệm tài sản không chỉ có ý nghĩa đối
với lý luận mà còn có ý nghĩa to lớn với thực tiễn, nó giúp ta có những hiểu biết sâu
sắc và đúng đắn về tài sản, từ đó hỗ trợ việc áp dụng, thực thi các quy định của pháp
luật về tài sản trong thực tiễn.
NỘI DUNG
I. Quan niệm về tài sản trong pháp luật ở một số nước
Vì tài sản là một vẫn đề quan trọng nên không chỉ ở Việt Nam mà các nước
khác trên thế giới cũng có những quy định riêng về nó. Nhưng mỗi nước có một cách
quy định khác nhau để phù hợp với tình hình kinh tế, xã hội của nước mình.
BLDS Việt Nam năm 2005 dùng phương pháp liệt kê tài sản gồm 4 loại: vật,
tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền và quyền tài sản. Song song với đó, BLDS nước ta
cũng chia tài sản thành động sản và bất động sản. Nhưng việc phân chia như vậy đa
phần chỉ áp dụng đối với vật (một bộ phận của tài sản).
Còn ở BLDS năm 1804 của nước Cộng hòa Pháp, tài sản bao gồm động sản và
bất động sản (phân biệt theo tính chất), sau đó dùng phương pháp liệt kê những loại
2
tài sản nào là động sản, tài sản nào là bất động sản. Điển hình như ở Điều 517 BLDS
Pháp quy định: “ Tài sản là bất động sản do tính chất, mục đích sử dụng hoặc do đối
tượng gắn liền với tài sản”; Điều 518: “ Đất đai và các công trình xây dựng là bất
động sản do tính chất”; Điều 527: “Tài sản có thể là động sản do tính chất hoặc do
pháp luật quy định”; Điều 528: “Được coi là động sản do tính chất, động vật và
những vật có thể tự mình di chuyển từ nơi này sang nơi khác”…Như vậy, cả hai
BLDS của nước ta và Cộng hòa Pháp đều dùng phương pháp liệt kê nhưng với những
cách thức và phương pháp khác nhau.
BLDS Đức năm 1900 bằng một kỹ thuật pháp điển hóa khác với hình mẫu của
Pháp đã tách những vấn đề pháp lý chung nhất của luật dân sự để tập hợp trong
quyển I của bộ luật này mang tên phần chung, bao gồm 240 điều mà trong đó có một
chương nói về vật. Tiếp đó bộ luật này còn chứa đựng Quyển III về luật tài sản quy
đinh chi tiết các vật quyền. Tuy không có định nghĩa cụ thể về tài sản trong bộ luật
này nhưng người ta có thể hiểu rằng, tài sản theo nghĩa pháp lý không chỉ là vật liệu,
mà chủ yếu là các quyền.
Theo hình mẫu này, Nhật Bản đã cấu tạo một chương riêng trong Quyển I của
BLDS 1896 nói về vật và dành Quyển II nói về các vật quyền.
Như vậy, chúng ta có thể nhận thấy rằng, các nước thuộc họ pháp luật La Mã –
Đức dù tiếp nhận luật thống nhất ở châu Âu lục địa bằng cách nào đi nữa thì vẫn có
quan niệm, vật chất không phải là tiêu chuẩn tối cao của luật tài sản, mà nói tới luật
tài sản là nói tới các vật quyền. Vậy, vật quyền là một bộ phận quan trọng của khái
niệm tài sản.
Những nhận thức trên của Họ pháp luật La Mã – Đức không quá khác xa với
nhận thức của Họ pháp luật Anh – Mỹ. Các luật gia Hoa Kỳ cho rằng, tài sản là các
quyền giữa mọi người có liên quan tới vật.
BLDS Nga, Điều 128 quy định: “các đối tượng của luật dân sự bao gồm toàn
bộ các vật, kể cả tiền và các giấy tờ trị giá bằng tiền, các tài sản khác trong đó có
quyền tài sản, các công việc và dịch vụ, thông tin, kết quả của hoạt động trí óc, kể cả
các quyền sở hữu trí tuệ và các tài sản vô hình”. Điều 132, khoản 1 quy định: “Doanh
3
nghiệp với tư cách là một tổng thể tài sản cũng được coi là bất động sản”. Quy định
này thể hiện quan điểm theo đó bất động sản là những tài sản quý giá nhất.
Tóm lại, mỗi quốc gia trên thế giới có những cách riêng để quy định về tài sản.
Những cách đó phù hợp với từng điều kiện kinh tế, xã hội, lối sống riêng của nước.
Việc BLDS Việt Nam quy định như vậy là hoàn toàn hợp lý. Có chăng chúng ta chỉ
nên lấy các bộ luật của nước khác để tham khảo chứ không dập khuôn máy móc theo
đó. Thực tế các nhà làm luật nước ta đã làm như vậy.
II. Những quy định pháp luật về tài sản trong BLDS năm 2005
Tài sản đòng một vai trò quan trọng trong BLDS. Nó là đời tượng của quyền
sở hữu và là khách thể của phần lớn những quan hệ pháp luật dân sự. Việc quy định
về tài sản và phân loại tài sản trong blds là cần thiết. Yêu cấu cơ bản nhất đặt ra đối
với tài sản trong BLDS là tài sản đó phải được đưa vào giao dịch. Vấn đề về tài sản
được quy định tại Điều 163 và chương XI, từ Điều 174 đến Điều 181 BLDS.
1. Khái niệm tài sản
Tài sản – với tính cách là khách thể quyền sở hữu – đã được Điều 163 BLDS
xác định như sau: “Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền và các
quyền tài sản”. Đây là cách phân loại cũng đồng thời là cách định nghĩa tài sản của
Bộ luật. Theo quy định này thì tài sản được liệt kê khép kín chỉ tồn tại ở một trong
bốn loại: Vật, tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền – giấy tờ có giá, quyền tài sản.
a. Vật
Vật là bộ phận của thế giới vật chất, tồn tại khách quan mà con người có thể
cảm giác được bằng các giác quan của mình. Vật chỉ có ý nghĩa khi nó trở thành đối
tượng trong quan hệ pháp luật nên nếu bộ phận của thế giới vật chất ,à con người
không thể kiểm soát, chiếm hữu được thì cũng đồng nghĩa với việc con người không
thể tác động được vào nó. Do đó, không khí, gió, mưa thuộc về vật chất nhưng không
thể được coi là tài sản về mặt pháp lý. Hơn nữa, là đối tượng trong quan hệ pháp luật
nên vật phải đáp ứng được lợi ích của các bên chủ thể trong quan hệ. Để xác định một
vật có được coi là tài sản hay không phải đặt nó vào từng quan hệ cụ thể và ta không
thể lập luận một chiều rằng có vật là có tài sản. Như vậy, các điều kiện để vật được
coi là tài sản là:
4
Một là, vật đó phải tồn tại khách quan hoặc vật đó chắc chắn được hình thành
trong tương lai xác định được;
Hai là, vật đó con người phải chi phối được, phải kiểm soát được, phải chiếm
hữu được;
Ba là, vật đó phải xác định được giá trị thanh toán hay giá trị trao đổi, vật đó
phải khai thác được về tài sản (thương mại, dân sự, tiêu dùng), đáp ứng nhu cầu vật
chất và tinh thần của con người;
Bốn là, vật đó là vật được phép lưu thông dân sự và mang giá trị tài sản, có thể
trao đổi được cho nhau dưới dạng vật chất hay quy đổi được bằng tiền.
Tóm lại, vật chỉ được coi là tài sản khi nó được sử dụng vào mục đích xác lập
quyền và nghĩa vụ tài sản của các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật nhất định
và vật được xác định là đối tượng của quan hệ đó. Nhờ việc xác định vật nào là tài
sản mà phương thức kiện yêu cầu chấm dứt các hành vi xâm phạm đến quyền tài sản
của chủ thể, kiện đòi lại vật( kiện vật quyền) từ người chiếm hữu trái pháp luật hoặc
kiện đòi bồi thường thiệt hại về tài sản( kiện trái quyền) mới có thể thực hiện
được.Vật được xác định là tài sản cũng đồng thời là căn cứ để xác định quyền sở hữu
đối với tài sản đó của chủ thể nhất định.
b. Tiền
Tiền, theo kinh tế chính trị học là vật ngang giá chung được sử dụng làm thước
đo giá trị của các loại tài sản khác. Một tài sản được coi là tiền hiện nay khi nó mang
giá trị lưu hành trên thực tế.
Pháp luật Việt Nam coi tiền là một loại tài sản riêng biệt. Loại tài sản này có
những đặc điểm pháp lý khác với vật. Có thể liệt kê một số điểm khác biệt như sau:
Thứ nhất, đối với vật, chúng ta có thể khai thác công dụng hữu ích từ chính vật
đó (nhà được dùng để ở, dùng xe máy để đi lại, dùng bút để viết…). Còn đối với tiền
thì không thể khai thác công dụng hữu ích từ chính tờ tiền hay đồng tiền xu đó. Tiền
thực hiện 3 chức năng chính là: công cụ thanh toán đa năng, công cụ tích lũy tài sản
và công cụ định giá các loại tài sản khác. Khái niệm “quyền sử dụng” chỉ được dùng
một cách trọn vẹn cho vật chứ không áp dụng được cho tiền.
5
Thứ hai, các vật thông thường có thể do rất nhiều chủ thể khác nhau tạo ra, còn
tiền lại chỉ do một chủ thể duy nhất phát hành - đó là nhà nước, nhà nước độc quyền
phát hành. Tiền được coi là một trong những biểu hiện của chủ quyền của mỗi quốc
gia.
Thứ ba, vật được xác định số lượng bằng các đơn vị đo lường thông dụng còn
tiền lại được xác định số lượng thông qua mệnh giá của nó.
Thứ tư, chủ sở hữu vật được toàn quyền tiêu hủy vật thuộc quyền sở hữu của
mình còn chủ sở hữu tiền lại không được tiêu hủy tiền( không được xé, đốt, sửa chữa,
thay đổi hình dạng, kích thước, làm giả…).
Dưới góc độ kinh tế thì không có sự khác biệt cơ bản về bản chất giữa tiền mặt
và tiền trong tài khoản nhưng dưới góc độ luật dân sự thì “tiền trong tài khoản” lại
được hiểu là quyền tài sản (quyền yêu cầu) – một loại tài sản khác chứ không phải là
tiền. Trong pháp luật dân sự, tiền có tính năng đặc biệt (khác với vật) là khi chuyển
giao tiền thì bao giờ cũng chuyển giao quyền sở hữu, trừ trường hợp khi chuyển giao
ta đặc định hóa gói tiền thông qua việc nghiêm phong gói tiền lại.
Một vấn đề đáng quan tâm nữa là việc ngoại tệ có được coi là tiền theo pháp
luật dân sự Việt Nam hay không. Theo BLDS năm 1995, về mặt pháp lý, ngoại tệ
không được coi là tiền. Bởi lẽ, ngoại tệ không phải là phương tiện thanh toán đa năng
- một tính năng quan trọng nhất của tiền. Theo đó, ngoại tệ phải được coi là một loại
tài sản đặc biệt, thuộc nhóm hàng hóa hạn chế lưu thông. Chỉ những chủ thể nhất
định (ngân hàng hay các tổ chức tín dụng khác, các tổ chức có chức năng hoạt động
ngoại thương…) mới được phép xác lập giao dịch đối với nó. Với việc BLDS năm
2005 đã bỏ quy định tiền thanh toán phải là tiền Việt Nam như quy định tại BLDS
năm 1995 thì về mặt pháp lý tiền có thể được hiểu là ngoại tệ hoặc nội tệ. Tuy nhiên,
ngoại tệ là tài sản hạn chế lưu thông chứ không được lưu hành rộng rãi như tiền Việt
Nam.
c. Giấy tờ có giá
Giấy tờ có giá là loại tài sản rất phổ biến trong giao dịch dân sự hiện nay, đặc
biệt là giao dịch trong các hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác. Theo
nghĩa rộng, giấy tờ có giá nói chung, được hiểu là chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ,
6
trong đó xác nhận quyền tài sản của một chủ thể nhất định (tổ chức, cá nhân) xét
trong mối quan hệ pháp lý với các chủ thể khác. Tuy nhiên, trong số giấy tờ minh
chứng cho quyền tài sản đó, có một số giấy tờ đặc biệt có thể chuyển giao được, ai
đánh mất nó là mất quyền, ai có nó thì có quyền, thì những tờ giấy này mới được coi
là giấy tờ có giá với tư cách là một loại tài sản trong quan hệ pháp luật dân sự.
Dưới góc độ pháp lý, giấy tờ có giá với tư cách là một hình thức pháp lý của tài
sản trong quan hệ pháp luật dân sự có những đặc điểm cơ bản như: xét về mặt hình
thức, giấy tờ có giá là một chứng chỉ được lập theo hình thức, trình tự luật định; nội
dung thể hiện trên giấy tờ có giá là thể hiện quyền tài sản, giá của giấy tờ có giá là giá
trị quyền tài sản và quyền này được pháp luật bảo về; giấy tờ có giá có tính thanh
khoản, là công cụ có thể chuyển nhượng toàn bộ một lần, việc chuyển nhượng một
phần giấy tờ có giá là vô hiệu. Ngoài ra, giấy tờ có giá còn có những đặc điểm khác
như tính có thời hạn, tính có thể đưa ra yêu cầu, tính rủi ro…
Dưới góc độ pháp luật dân sự, những loại giấy tờ có giá ghi danh và cấm
chuyển nhượng không được coi là giấy tờ có giá với tư cách là một loại tài sản trong
giao lưu dân sự, bởi lẽ mất chúng không phải là mất tiền, chúng chỉ đơn giản là
những loại giấy tờ có giá trị minh chứng cho quyền sử dụng, quyền yêu cầu, quyền
định đoạt hay quyền sở hữu nói chung mà thôi. Chỉ những giấy tờ có giá không ghi
danh, có thể chuyển giao, cầm cố, thế chấp…và mất nó coi như là mất tiền mới được
coi là giấy tờ có giá với tư cách là một loại tài sản trong quan hệ pháp luật dân sự.
Như vậy, chỉ những loại giấy tờ có giá không ghi danh (giấy tờ minh chứng cho
quyền tài sản vô danh) mới được coi là giấy tờ có giá với tư cách là một loại tài sản
trong giao dịch dân sự. Có thể kể đến như: cổ phiếu, công trái, séc, kỳ phiếu, tín
phiếu và một số hóa đơn vận chuyển đường biển. Còn giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, sổ tiết kiệm, thẻ rút tiền hay những giấy tờ minh chứng cho quyền tài sản;
sổ bảo hiểm xã hội là giấy tờ minh chứng cho quyền yêu cầu, đều không phải là giấy
tờ có giá.
Cần lưu ý, các loại giấy tờ xác nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng đối với tài
sản như giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà, giấy
7
đăng kí ô tô,.. không phải là giấy tờ có giá. Nếu cần phải xem xét thì đó chỉ đơn thuần
được coi là một vật và thuộc sở hữu của người đứng tên trên giấy tờ đó.
d. Quyền tài sản
Quyền tài sản, theo định nghĩa tại Điều 181 BLDS 2005 thống nhất viết tắt là
“quyền trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao được trong giao dịch dân sự, kể
cả quyền sở hữu trí tuệ”. Theo đó thì quyền tài sản trước tiên phải được hiểu là xử sự
được phép của chủ thể mang quyền. Quyền ở đây chính là một quyền năng dân sự
chủ quan của chủ thể được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Quyền này phải trị giá được
thành tiền hay nói cách khác là tương đương với một đại lượng nhất định. Quyền tài
sản thì có rất nhiều nhưng chỉ những quyền tài sản nào có thể trở thành đối tượng
trong giao dịch dân sự thì mới được coi là tài sản tại Điều 163 BLDS 2005.
Hiện nay, pháp luật dân sự Việt Nam công nhận một số quyền tài sản là tài sản
như quyền sử dụng đất, quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên, quyền yêu cầu bồi
thường thiệt hại đối với tài sản bị xâm phạm, quyền tài sản phát sinh từ quyền tác giả,
quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với cây trồng, quyền đòi nợ, quyền được nhận
số tiền bảo hiểm đối với vật bảo hiểm đối với vật bảo đảm, quyền tài sản đối với phần
góp vốn trong doanh nghiệp, quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng (theo Điều 322
BLDS 2005). Vấn đề đặt ra là liệu có phải mọi quyền liên quan đến các đối tượng của
sở hữu trí tuệ đều được coi là quyền tài sản với tư cách một loại tài sản hay không?
Pháp luật công nhận hai nhóm quyền năng chính đối với các đối tượng của sở hữu trí
tuệ: nhóm các quyền nhân thân của tác giả và nhóm các quyền tài sản liên quan đến
việc sử dụng và thu lợi từ việc sử dụng các đối tượng đó. Trong số đó, chỉ các quyền
thuộc nhóm thứ hai mới có thể được coi là quyền tài sản: có thể định giá được bằng
tiền và có thể chuyển giao trong giao lưu dân sự.
Như vậy, tài sản – với tính cách là khách thể của quyền sở hữu, nó có thể là đối
tượng của thế giới vật chất hoặc là kết quả của các hoạt động sáng tạo tinh thần. Khái
niệm về tài sản trong BLDS 2005 mang tính chất liệt kê. Ngày nay, tài sản có thể
được hiểu là bất cứ thứ gì có giá trị nằm trong sự chiếm hữu của một chủ thể, một
khái niệm rộng và không có giới hạn, luôn được bồi đắp thêm bởi những giá trị mới
mà con người nhận thức ra.
8
Việc phân loại tài sản gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản theo Điều
163 BLDS 2005 mang nhiều ý nghĩa trong luật dân sự cũng như trong các ngành luật
khác. Trong luật dân sự, có nhiều trường hợp đối tượng của quan hệ dân sự không thể
là tiền hoặc giấy tờ có giá ví dụ như hợp đồng thuê, hợp đồng mượn. Hơn nữa, khi
đối tượng của giao dịch là các loại tài sản khác nhau thì phương thức thực hiện cũng
sẽ được áp dụng khác nhau (ví dụ phương thức thực hiện nghĩa vụ giao vật khác với
thực hiện nghĩa vụ có đối tượng là tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. Đối với tiền
khi thực hiện chậm sẽ bị tính lãi tương ứng với thời gian chậm trả còn đối với vật chỉ
có thể là buộc phải giao vật và/hoặc bồi thường thiệt hại. Đối với quyền tài sản thì
vấn đề cung cấp thông tin và chuyển giao giấy tờ là yêu cầu bắt buộc.). Trong luật
dân sự, việc xác định đúng loại tài sản theo Điều 163 BLDS 2005 sẽ có ý nghĩa trong
việc xác định đúng một số tội danh như tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua
biên giới (Điều 154 BLHS năm 1999); tội tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả,
ngân phiếu giả, công trái giả (Điều 180 BLHS); tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu
hành séc giả, các giấy tờ có giá giả khác (Điều 181 BLHS); tội hợp pháp hóa tiền, tài
sản do phạm tội mà có (Điều 251 BLHS).
2. Động sản và bất động sản
Tài sản là một chế định quan trọng của Luật dân sự mà trong đó việc phân loại
tài sản có ý nghĩa rất lớn, bởi lẽ tài sản là công cụ của đời sống xã hội. Nó liên quan
đến hàng loạt vấn đề pháp lý như: thuế, đảm bảo nghĩa vụ dân sự, thừa kế, hiệu lực
của hợp đồng, thương mại, tư pháp quốc tế,…Trong khoa học pháp lý, theo các căn
cứ khác nhau, người ta có nhiều cách phân loại tài sản khác nhau. Nhưng quan trọng
nhất và trên hết tất cả là cách phân loại tài sản truyền thống và theo thông lệ cũng như
tập quán quốc tế, tài sản được chia thành động sản và bất động sản.
Khái niệm bất động sản và động sản đã được quy định tại Điều 174 BLDS năm
2005 như sau:
“Bất động sản là các tài sản bao gồm:
- Đất đai;
- Nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai, kể cả các tài sản gắn liền với
nhà, công trình xây dựng đó;
9
- Các tài sản khác gắn liền với đất đai;
- Các tài sản khác do pháp luật quy định.
Động sản là những tái sản không phải là bất động sản”.
Cũng giống như cách định nghĩa tài sản, BLDS đã sử dụng phương pháp liệt kê
để định nghĩa bất động sản. Căn cứ vào quy định đó thì hiện nay đất đai như nhà,
công trình xây dựng, cây cối, tài nguyên,… sẽ được coi là bất động sản. Tuy nhiên, ở
đây pháp luật đã liệt kê mở chứ không liệt kê khép kín như Điều 163 BLDS. Do đó,
cả những tài sản khác do pháp luật quy định cũng sẽ được coi là bất động sản. Ví dụ
như theo quy định của Luật kinh doanh bất động sản thì quyền sử dụng đất là bất
động sản.
Cách phân loại tài sản thành bất động sản và động sản là cách phân loại chủ
yếu dựa vào đặc tính vật lý của tài sản là có thể di dời được hay không thể di dời
được (một số nước còn dựa cả vào công dụng của tài sản như luật của Pháp coi cả hạt
giống, máy móc nông cụ,… là bất động sản). Cách phân loại này là tiêu chí mà hầu
hết pháp luật của các nước trên thế giới đều sử dụng bởi việc xác lập, thực hiện giao
dịch liên quan đến hai loại tài sản này rất khác nhau cần phải có quy phạm điều chỉnh
riêng đối với từng loại. Theo pháp luật dân sự Việt Nam, việc phân loại tài sản thành
bất động sản và động sản có rất nhiều ý nghĩa. Có thể liệt kê một số ý nghĩa cơ bản
sau đây:
- Xác lập thủ tục đăng kí đối với tài sản: Theo quy định tài Điều 167 BLDS thì
quyền sở hữu đối vối bất động sản được đăng kí theo quy định của BLDS và pháp
luật về đăng kí bất động sản còn quyền sở hữu đối với bất động sản thù không phải
đăng kí trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
- Xác định thời điểm chuyển giao quyền sở hữu đối với tài sản.
Khoản 1 Điều 168 BLDS quy định việc chuyển giao quyền sở hữu đối với bất
động sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng kí quyền sở hữu, trừ trường hợp pháp luật
có quy định khác. Còn khoản 2 quy định việc chuyển quyền sở hữu đối với động sản
có hiệu lực kể từ thời điểm động sản được chuyển giao trừ trường hợp pháp luật có
quy định khác.
10
- Xác định được các quyền năng của chủ thể quyền đối với từng loại tài sản
nhất định. Đối với bất động sản do đặc tính vật lý của nó là khó có thể di dời nên việc
thực hiện các quyền năng của quyền sở hữu đối với loại tài sản này sẽ gặp những hạn
chế nhất định. Chính bởi vậy, pháp luật đã ghi nhận cho các chủ thể có những quyền
năng nhất định đối với tài sản của người khác để bất động sản có thể được khai thác
công dụng một cách tốt nhất như quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề (Điều
273 – Điều 278)
- Xác định địa điểm thực hiện nghĩa vụ đối với các giao dịch có đối tượnng là
bất động sản trong trường hợp các bên không có thoả thuận.
Theo quy định tại Điều 284 BLDS thì trong trường hợp các bên không có thỏa
thuận khác thì địa điểm thực hiện nghĩa vụ là nơi có bất động sản nếu đối tượng của
nghĩa vụ là bất động sản. Nếu đối tượng không phải là bất động sản thì địa điểm thực
hiện nghĩa vụ là nơi cư trú của người có quyền.
- Xác định căn cứ xác lập quyền sở hữu.
Ví dụ, nếu vật vô chủ, vật không xác định được ai là chủ sở hữu là động sản sẽ
thuộc sở hữu của người phát hiện cong nếu vật là bất động sản thì sẽ thuộc sở hữu
nhà nước (Điều 239 BLDS). Hoặc theo Điều 247 BLDS thì một người chiếm hữu,
được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục công khai
trong thời hạn 10 năm đối với động sản, 30 năm đối với bất động sản thì trở thành
chủ sh tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu.
- Xác định hình thức của hợp đồng.
Theo quy định tại Điều 467 BLDS thì hợp đồng tặng cho bất động sản phải
được lập thành văn bản có công chứng, chứng thực, hoặc phải đăng kí nếu theo quy
định của pháp luật bất động sản phải đăng kí quyền sở hữu. Hoặc theo quy định tại
Điều 459 BLDS thì việc mua bán đấu bất động sản phải được lập thánh văn bản có
công chứng, chứng thực hoặc phải được đăng kí nếu pháp luật có quy định,…
- Là căn cứ để xác định thời hạn, thời hiệu và các thủ tục khác.
Ví dụ, thời hạn công bố công khai tài sản bán đấu giá chậm nhất là bảy ngày
đối với động sản, ba mươi ngày đối với bất động sản (Điều 457 BLDS); thời hạn
chuộc lại đối với tài sản đâ bán trong hợp đồng mua bán có chuộc lại đối với động
11
sản là một năm và đối với bất động sản là năm năm (Điều 462 BLDS); việc bán đấu
giá BĐS được thực hiện tại nới có bất động sản, sau khi có thông báo về việc bán đấu
giá BĐS, những người muôn mua phải đăng kí mua và phải nộp một khoản tiền đặt
trước (Điều 459 BLDS).
- Xác định phương thức kiện dân sự.
Theo Điều 257 và Điều 258 BLDS thì điều kiện để chủ sở hữu hoặc người
chiếm hữu họp pháp có quyền yêu cầu kiện đòi lại tài sản đối với động sản và bất
động sản là khác nhau. Do đó, nếu không áp dụng được phương thức kiện đòi lại tài
sản thì chủ thể sẽ phải áp dụng phương thức kiện khác như kiện yêu cầu bồi thường
thiệt hại.
- Xác định thẩm quyền của tòa án nhân dân trong việc giải quyết các tranh
chấp về tài sản cũng có sự khác nhau phụ thuộc vào tài sản đó là bất động sản hay
động sản. Theo điểm c khoản 1 Điều 35 của BLSTTDS thì “Tòa án nơi có bất động
sản có thẩm quyền giải quyết những tranh chấp về bất động sản”. Các tranh chấp về
động sản, về nguyên tắc, do Tòa án nơi cư trú hoặc nơi làm việc của bị đơn (nếu bị
đơn là cá nhân), hoặc nơi có trụ sở (nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức) giải quyết (quy
định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 35 BLTTDS).
3. Phân loại vật và chế độ pháp lý đối với vật
a. Phân loại vật
Vật trong tự nhiên rất phong phú và đa dạng. Tùy thuộc vào giá trị, các đặc
tính tự nhiên cũng như xã hội, ý nghĩa pháp lý của chúng trong giao lưu dân sự người
ta phân biệt các loại vật khác nhau. Ngoài việc phân loại thành bất động sản và động
sản. BLDS còn có những cách phân loại sau đây.
- Hoa lợi và lợi tức (Điều 175 BLDS)
Hoa lợi là sản vật tự nhiên mà tài sản mang lại. Ví dụ: Hoa quả của cây, con bê
con do con bò đẻ ra,... Lợi tức là các khoản lợi thi được từ việc khai thác tài sản. Ví
dụ: khoản tiền thu được từ việc cho thuê nhà, tiền lĩa thu được từ việc cho vay tài
sản,..
Thông thường, lợi tức được tính ra thành một số tiền nhất định.
- Vật chính và vật phụ (Điều 176 BLDS)
12
Vật chính là vật độc lập, có khai thác công dụng theo tính năng. Vật phụ là vật
trực tiếp phục vụ cho việc khai thác công dụng của vật chính, là một bộ phận của vật
chính, nhưng có thể tách rời vật chính. Ví dụ: Máy ảnh là vật chính còn vỏ máy ảnh
là vật phụ,…
Việc phân loại vật thành vật chính và vật phụ có ý nghĩa pháp lý sau: Theo
nguyên tắc chung, vật chính và vật phụ là đối tượng thống nhất, nếu các bên không
có thỏa thuận gì khác, thì vật phụ phải đi kèm vật chính khi thực hiện nghĩa vụ
chuyển giao vật chính. Tuy nhiên, các bên có thể thỏa thuận khác: chỉ vật chính hoặc
vật phụ mà thôi. Đương nhiên, không thể coi là vật phụ nếu bản thân nó là một bộ
phận cấu thành của vật chính, như lốp ô tô đang sử dụng của một cái ô tô, nhưng lốp
để dự phòng xe lai có thể được coi là vật phụ.
- Vật chia được và vật không chia được (Điều 177 BLDS)
Vật chia được là vật vật khi bị phân chia vẫn giữ nguyên tính chất và tính năng
sử dụng ban đầu. Ví dụ: Xăng, dầu, gạo có thể phân chia thành nhiều phần khác nhau
nhưng vẫn giữ nguyên được tính chất và tính năng sử dụng. Vật không chia được là
vật khi bị phân chia thì không giữ nguyên được tính chất và tính năng sử dụng ban
đầu. Ví dụ: giường tủ, đồng hồ, xe máy, xe đạp,…
Việc phân loại vật thành vật chia được và vật không chia được có ý nghĩa pháp
lý sau: Những vật không chia được khi buộc phải chia thì phải trị giá bằng tiền để
chia. Người nào giữ vật phải trả cho người kia số tiền có giá trị tương đương với phần
của họ.
- Vật tiêu hao và vật không tiêu hao (Điều 178 BLDS)
Vật tiêu hao là vật khi đã qua một lần sử dụng thì mất đi hoặc không giữ được
tính chất, hình dáng và tính năng sử dụng. Ví dụ: Xi măng, vôi, cát, xăng dầu,…Vật
không tiêu hao là vật khi đã qua sử dụng nhiều lần mà cơ bản vẫn giữ được tính chất,
hình dáng và tính năng sử dụng ban đầu. Ví dụ: Nhà ở, các loại xe và máy móc, các
công cụ khác,…
Việc phân loại vật thành vật tiêu hao và vật không tiêu hao có ý nghĩa pháp lý
sau: Trong pháp lý, vật tiêu hao là những vật khi qua một lần sử dụng thì mất đi hoặc
không còn giữ nguyên được hình dáng, tính chất và tính năng sử dụng ban đầu. Nó
13
giảm trọng lượng hoặc đã biến đổi sang vật khác ở trạng thái khác. Vì vậy, tiêu hao
không thể là đối tượng của hợp đồng cho thuê hoặc hợp đồng cho mượn.
- Vật cùng loại và vật đặc định (Điều 179 BLDS)
Vật cùng loại là những vật có cùng hình dáng, tính chất, tính năng sử dụng và
xác định được bằng những đơn vị đo lường. Ví dụ: Xăng dầu cùng loại,…Vật đặc
định là vật phân biệt được với các vật khác bằng những đặc điểm riêng về kí hiệu,
hình dáng, màu sắc, chất liệu, đặc tính, vị trí,…
Việc phân loại vật thành vật tiêu hao và vật không tiêu hao có ý nghĩa pháp lý
sau: Vật cùng loại có cùng chất lượng có thể thay thế cho nhau. Theo nguyên tắc
chung, nếu vật cùng loại bị tiêu hủy có thể thay thế nó bằng vật cùng loại khác. Trong
vật đặc định, người ta xác định vật độc nhất và vật đặc định hóa. Khi vật độc nhất bị
tiêu hủy, thì không thể thay thế bằng vật khác, quan hệ pháp luật về sở hữu đối với
vật cũng châm dứt. Ví dụ: Bức tranh cổ của một họa sỹ,…Còn vật được đặc định hóa
là trong các vật cùng loại người ta tách nó ra bằng một dấu hiệu do con người đặt ra:
Đánh dấu đồ vật bằng những kí hiệu riêng biệt, lúa đóng vào bao,… Khi thực hiện
nghĩa vụ chuyển giao vật đặc định thì phải chuyển giao đúng vật đó.
- Vật đồng bộ (Điều 180 BLDS)
Vật đồng bộ là vật gồm các phần hoặc các bộ phận ăn khớp, liên hệ với nhau
hợp thành chính thể mà nếu thiếu một trong các phần, các bộ phận hoặc có phần hoặc
bộ phận không đúng quy cách, chủng loại thì không sử dụng được hoặc giá trị của vật
đó bị giảm sút.
Theo nguyên tắc chung, vật đồng bộ là đối tượng thống nhất trong các giao
dịch dân sự. Vì vậy, khi thực hiện nghĩa vụ chuyển giao vật đồng bộ thì phải chuyển
giao toàn bộ các phân hoặc các bộ phận hợp thành vật đồng bộ. Tuy nhiên các bên có
thể thỏa thuận từng vật trong vật đồng bộ đó để chuyển giao riêng biệt: Một cái ghế
hoặc chỉ một cái bàn trong bộ bàn ghế,…
- Quyền tài sản (Điều 181 BLDS)
Theo quy định của Điều 163, 181 BLDS, thì quyền tài sản cũng được coi là tài
sản nhưng có tính chất đặc thù. Chỉ những quyền nào (quyền yêu cầu) trị giá được
bằng tiền và có thể chuyển giao cho người khác trong giao lưu dân sự thì mới được
14
coi là quyền tài sản. Nghĩa là, nó có thể trở thành đối tượng của một hợp đồng dân sự
cụ thể. Vì vậy, Điều 181 BLDS còn quy định: Quyền sở hữu trí tuệ quy định tại Phần
thứ sáu BLDS cũng là quyền tài sản.
- Ngoài ra, năng lượng được xem là một loại “vật” đặc biệt. Nó không có hình
dạng và không thể quan sát được nếu không có những phương tiện kỹ thuật chuyên
dùng. Việc chiếm hữu và chuyển giao được thực hiện theo một phương thức riêng.
Nớ được coi là vật cùng loại được xác định bằng kilôoát/giờ và là đối tượng trong các
hợp đồng cung ứng điện năng.
b. Chế độ pháp lý đối với vật
Chế độ pháp lý đối với vật là tổng hợp các quy phạm pháp luật quy định trình
tự, phương thức chuyển dịch vật.
Căn cứ vào chế độ pháp lý của vật, người ta phân chia vật theo các chế độ: Vật
cấm lưu thông, vật hạn chế lưu thông, vật tự do lưu thông.
Vật cấm lưu thông: Đó là những vật vì vai trò to lớn của nó đối với nền kinh tế
quốc dân hoặc đối với an ninh, quốc phòng, lợi ích quốc gia,… nên Nhà nước cấm
mua bán, chuyển dịch, chuyển nhượng,… Ví dụ: Vật là vũ khí quân dụng, phương
tiện kĩ thuật quân sự,… Người nào tàng trữ, sử dụng, mua bán các loại vật cấm lưu
thông trên có thể bị truy tố và xét xử theo các tội xâm phạm an ninh quốc gia được
quy định tại các Điều 95, 96 BLHS.
Các vật trên không thể la đối tượng trong các giao lưu dân sự của công dân, tổ
chức. Việc lưu thông các loại vật này do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết
định. Chính vì vậy ma mỗi một hình thức sở hữu có một phạm vi khách thể khác
nhau.
Ngoải ra cũng cần thấy rằng, những tài sản thuộc sở hữu nhà nước theo quy
định tại Điều 200 BLDS như: Đất đai, rừng núi, sông hồ,… những tài sản này về
nguyên tắc là tài sản cấm lưu thông. Nhưng để mở rộng giao lưu dân sự trong điều
kiện nền kinh tế thị trường, riêng đối với các loại tài sản đặc biệt là đất đai, luật dân
sự và luật đất đai cho phép những người tuy không phải là chủ sở hữu trong những
điều kiện nhất định có thể có một số quyền năng theo quy định tài Phần thứ năm
BLDS.
15
- Vật hạn chế lưu thông: Bao gồm những vật có ý nghĩa quan trọng khác nhau
trong nền kinh tế quốc dân, an ninh, quốc phòng,… do đó pháp luật có những quy
định riêng. Nhà nước phải kiểm soát sự dịch chuyển các loại vật đó. Những vật này
pháp luật quy định không chỉ thuộc quyền sở hữu của Nhà nước mà còn có thể thuộc
sở hữu của các cơ quan, tổ chức, công dân. Việc dịch chuyển quyền sở hữu nhất thiết
phải tuân theo những quy định riêng của pháp luật. Trong một số trường hợp phải có
sự đồng ý hoặc cho phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì hợp đồng mới
không bị coi là vô hiệu. Ví dụ: Các loại vũ khí thể thao, súng săn,…
- Vật tự do lưu thông: Là những vật cong lại và không có quy định cụ thể nào
của pháp luật xác định trực tiếp đối với việc dịch chuyển vật. Pháp luật cũng không
quy định cụ thể các phương thức dịch chuyển, nếu có sự chuyển dịch các tài sản này
cũng không phải đăng kí hoặc xin phép. BLDS chỉ có những quy định chung về
chuyển dịch mà thôi. Những vật này chủ yếu là những tư liệu sản xuất, tư liệu sinh
hoạt thông thường.
III. Thực trạng và hướng hoàn thiện quy định pháp luật liên quan đến tài
sản
Có thể nói rằng, về cơ bản, các quy định của pháp luật về tài sản nói chung đã
tạo ra một hành lang pháp lý cho việc thực hiện các giao dịch liên quan đến tài sản
trong lĩnh vực dân sự và kinh tế, giúp cho bên có quyền có cơ sở pháp lý để bảo đảm
các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Song hệ thống pháp luật của chúng ta vẫn
còn có những điểm bất cập làm giảm hiệu lực thi hành của pháp luật gây ra những
khó khăn nhất định khi áp dụng vào thực tế. Sau đây, em xin nêu một số vấn đề mà
các quy định của pháp luật về tài sản còn hạn chế, thiếu sót và đưa ra hướng hoàn
thiện cho các vấn đề đó.
Vấn đề thứ nhất, trước kia khi chưa có các trò chơi trực tuyến, thì khái niệm tài
sản ảo quả là một thuật ngữ hết sức xa vời. Nhưng đến nay, thực tế đòi hỏi BLDS
Việt Nam cần có những quy định cụ thể cho loại tài sản này.
Thực tế hiện nay tại Việt Nam đang tồn tại một số khái niệm về tài sản ảo của
các nhà khoa học pháp lý. Người thì cho rằng: tài sản ảo là những tài nguyên mạng
máy tính được xác định giá trị bằng tiền và có thể chuyển giao trong các giao dịch
16
dân sự, có người lại cho rằng: tài sản ảo là dữ liệu do các chương trình, phần mềm tạo
ra hoặc có quan điểm: tài sản ảo là những đoạn mã lập trình thể hiện hình ảnh và
công dụng của một vật phẩm trong trò chơi. Và cũng có rât nhiều quan điểm nêu khái
niệm tài sản ảo theo hai nghĩa : Theo nghĩa hẹp, tài sản ảo là các đối tượng ảo trong
thế giới ảo, theo nghĩa rộng, tài sản ảo được hiểu là những tài nguyên mạng máy tính
được xác định giá trị bằng tiền và có thể chuyển giao trong các giao dịch dân sự như:
vật ảo trong trò chơi trực tuyến (vũ khí, nhân vật, mũ, áo giáp, tiền…); tên miền
mạng máy tính toàn cầu (internet), địa chỉ hộp thư điện tử; các loại tài khoản; các tài
nguyên mạng khác…
Tài sản ảo là một trong những điểm hấp dẫn nhất của trò chơi trực tuyến, đồng
thời người chơi trong khi tạo ra những giá trị cho tài sản ảo cũng phải bỏ công sức trí
tuệ, tiền bạc, thời gian, nên nếu hoàn toàn buông nổi nó cũng không hợp lý. Nhưng
vấn đề mấu chốt nằm ở chỗ, các tài sản ảo như đã nói ở trên có phải là một dạng tài
sản không? Và ai sẽ đứng ra quản lý và chịu trách nhiệm giải quyết nếu xảy ra tranh
chấp liên quan đến tài sản ảo trong trò chơi trực tuyến? Vấn đề này vẫn còn đang
tranh cãi và chưa có kết luận chính xác.
Nói về tài sản ảo trong trò chơi trực tuyến, ông Trần Thanh Hải, Phó vụ trưởng
Vụ Thương mại Điện tử - Bộ thương mại, đại diện bộ thương mại khẳng định quan
điểm coi đó là tài sản (ở dạng quyền tài sản) cần được công nhận quyền sở hữu. Ông
cho rằng tài sản ảo trong trò chơi trực tuyến là thứ có thể chiểm hữu, là kết quả của
sự đầu tư công sức và tiền bạc của người chơi, có thể định giá bằng tiền, và có thể
chuyển giao theo thỏa thuận. Chính vì thế, “tài sản trong trò chơi cần được pháp luật
bảo hộ để thuận tiện cho việc quản lý”.
Tuy nhiên, ở góc độ của nhà lập pháp, bà Nguyễn Thị Thu Vân, đại diện của
Bộ tư pháp lại có quan điểm trái ngược. Theo bà, những thứ để được gọi là tài sản
theo pháp luật Việt Nam (cụ thể là Luật dân sự gồm có “vật, tiền, giấy tờ trị giá được
bằng tiền và quyền tài sản”). Trong khi đó, tài sản ảo trong trò chơi trực tuyến là
những thứ không thể sờ mó được, không có trong thế giới thực và chỉ có giá trị trong
chính tò chơi. Cũng khác với quan điểm của ông Hải, coi tài sản ảo thuộc về người
17
chơi, bà Vân cho rằng người chơi có quyền dùng tài sản ảo trong trò chơi nhưng
không có quyền sở hữu tài sản đó.
Tuy nhiên, theo quan điểm cá nhân, trên thực tế, giá trị của những tài sản trong
trò chơi được cộng đồng những người chơi thừa nhận. Cho dù pháp luật chưa chấp
nhận, thậm chí một số nhà cung cấp vẫn tuyên bố việc buôn bán bằng tiền mặt, nhưng
vì bản thân là một loại tài sản nên những đồ vật trong trò chơi vẫn được người ta trao
đổi, mua bán. Trước thực tiễn các giao dịch về tài sản ảo diễn ra hàng ngày với giá trị
khá lớn, nhất là sự gia tăng giá trị của tài sản ảo trên thị trường thì yêu cầu xác định
sự ảnh hưởng của nó đối với xã hội để đặt ra vấn đề có bảo hộ hay không là một chủ
đề đầy thách thức và vô cùng cấp thiết. Vì xét một cách tổng thể, tài sản ảo không chỉ
là tài sản trên trò chơi trực tuyến mà còn nhiều thứ khác quan trọng không kém nếu
không nói là hơn như: tên miền, tài khoản diễn đàn, tài khoản thư điện tử…có ảnh
hưởng lớn đến nền kinh tế - xã hội của Việt Nam chúng ta.
Ngoài ra, việc nghiện trò chơi trực tuyến là mặt tiêu cực của xã hội khi có quá
nhiều người tiêu tốn thời gian và tiền bạc lao mình vào thế giới ảo. Sự lo ngại về tác
động thương mại có thể nuốt đi tính chất riêng biệt của lĩnh vực này. Sẽ có những tổn
thất vì việc tìm kiếm lợi nhuận trong trò chơi không được kiểm soát. Nhà nước cần có
những quy định buộc người chơi cam kết cô lập thế giới của họ để người khác không
thể chuyển tiền vào và ngược lại để người chơi thanh toán tiền; song Nhà nước không
thể bước vào và đánh thuế mọi giao dịch trong trò chơi trực tuyến. Nhà nước cũng
không nên áp đặt người chơi vì để đảm bảo quyền tự do cá nhân, quyền tự do kinh
doanh và hơn hết là để nền kinh tế ảo trở thành một không gian kinh tế được hội nhập
với nền kinh tế thật.
Vấn đề thứ hai, căn cứ vào mối liên hệ giữa đối tượng với chủ thể quyền, tài
sản được phân thành tài sản xác định được chủ sở hữu, tài sản vô chủ, tài sản không
xác định được ai là chủ sở hữu. Tài sản xác định chủ sở hữu là tài sản mà vào thời
điểm xem xét có chủ sở hữu đối với tài sản đó. Tài sản vô chủ là tài sản mà vào thời
điểm xem xét thì chủ sở hữu đã từ bỏ quyền sở hữu của mình đối với tài sản đó và
chưa có ai được xác lập quyền sở hữu đối với tài sản đó. Tài sản không xác định được
ai là chủ sở hữu là tài sản mà vào thời điểm xem xét không xác định được chủ sở hữu
18
và cũng không có căn cứ chứng minh rằng chủ sở hữu đã từ bỏ quyền sở hữu đối với
tài sản đó.
Hiện nay, trong BLDS Việt Nam không đề cập các loại tài sản kể trên mà cách
phân loại này chỉ được hiểu gián tiếp thông qua các quy định về vật vố chủ, vật
không xác định được ai là chủ sở hữu, vật đánh rơi, bỏ quên, chon giấu, chìm đắm,…
mà không quy định đối với tài sản nói chung (Điều 239, 240, 241,…BLDS). Quy
định đó đã dẫn đến những cách hiểu khác nhau như sau: Trong trường hợp tiền, giấy
tờ có giá hoặc quyền tài sản mà chủ sở hữu từ bỏ quyền sở hữu của mình hoặc không
xác định được ai là chủ sở hữu thì người phát hiện có thể được xác lập quyền sở hữu
theo các điều luật hay không? Hay đối với những loại tài sản đó sẽ thuộc sở hữu nhà
nước? Có thể nói, vật vô chủ, vật không xác định được ai là chủ sở hữu là một loại tài
sản và trong trường hợp này các tài sản khác cũng vô chủ, không xác định được chủ
sở hữu cũng mang bản chất giống vậy. Do đó, đối với loại tài sản khác cũng nên áp
dụng quy định này làm căn cứ xác lập quyền sở hữu cho người phát hiện được. Chính
vì vậy, trong thời gian tới, nếu BLDS được sửa đổi, bổ sung thì những quy định đó
cũng cần phải được xem xét, sửa đổi cho phù hợp.
Vấn đề thứ ba, BLDS Việt Nam hiện nay chỉ phân loại vật thành vật chia được
và vật không chia được mà không xem xét việc chia được hay không chia được đối
với các loại tài sản khác như giấy tờ có giá và quyền tài sản. Chính vì vậy, khi cần
phải phân chia những tài sản đó sẽ dẫn đến những câu hỏi là có cần phải bán đi và
tính thành tiền để chia hay không? Trên thực tế thì trong trường hợp này nếu chia
được bằng tài sản đó thì tòa án sẽ phân chia luôn chứ không nhất thiết phải bán để
chia (ví dụ, chia quyền sử dụng đất có diện tích lớn). Hơn nữa, trong BLDS tại Điều
300 có quy định về thực hiện nghĩa vụ dân sự phân chia được theo phần như sau:
“Nghĩa vụ dân sự … khác”. Điều 301 quy định: “Nghĩa vụ dân sự … một lúc”. Vậy
nếu đối tượng của nghĩa vụ không phải là vật mà là các tài sản khác thì trong trường
hợp này có được xem xét là nghĩa vụ phân chia theo phần hay không? Nếu câu trả lời
là không thì nghĩa vụ đó có luôn được hiểu là nghĩa vụ dân sự không phân chia được
theo phần và nếu có nhiều chủ thể nghĩa vụ thì các chủ thể đó phải thực hiện nghĩa vụ
cùng một lúc hay không? Việc bộ luật dân sự cả hai loại nghĩa vụ này và không dùng
19
phương pháp loại trừ dẫn đến có loại nghĩa vụ không thể xếp vào loại này hoặc loại
kia. Điều này dẫn đến sự không thuận lợi cho các chủ thể trong khi thực hiện nghĩa
vụ nếu nghĩa vụ ở đây là nghĩa vụ trả tiền hay giao giấy tờ có giá.
Như vậy, BLDS cần xem xét đến cách phân loại tài sản. Trong trường hợp này,
tài sản chia được có thể được hiểu là những vật khi chia thành nhiều phần nhỏ vẫn
giữ nguyên được hình dáng, tính năng sử dụng ban đầu hoặc là những tài sản khác mà
khi cần chia thì có thể chia được bằng chính tài sản đó mà không cần trị giá thành
tiền để chia.
Vấn đề thứ tư, các quy định về giấy tờ có giá vẫn còn có những điểm bất cập
làm giảm hiệu lực thi hành của pháp luật gây ra những khó khăn nhất định khi áp
dụng vào thực tế, có thể kể đến như sau: Điều khoản quy định về giấy tờ có giá trong
Bộ luật dân sự quá đơn giản; Sự mâu thuẫn, không đồng bộ trong các quy định về
giấy tờ có giá trong pháp luật dân sự, ngân hàng, chứng khoán và các lĩnh vực có liên
quan; Sự chưa phù hợp với thực tế của một số quy định pháp luật về giấy tờ có giá.
Một số kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật về giấy tờ có giá:
Thứ nhất, cần xây dựng khái niệm giấy tờ có giá với tư cách là một loại tài sản
trong quan hệ pháp luật dân sự cũng như các thuộc tính của nó để giúp cho việc áp
dụng pháp luật được dễ dàng, người dân cũng dễ tiếp cận, làm tăng tính khả thi của
các quy định pháp luật về vấn đề này.
Khái niệm giấy tờ có giá có thể được xây dựng theo hướng: “Giấy tờ có giá
với tư cách là một loại tài sản trong pháp luật dân sự được hiểu là chứng chỉ xác
nhận quyền tài sản của một chủ thể xét trong mối quan hệ pháp lý với các chủ thể
khác, trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao lưu dân sự”.
Thứ hai, pháp luật cần tạo cho thị trường nhiều loại giấy tờ có giá có thể trao
đổi, mua bán song bên cạnh đó cần có những chế tài phù hợp để giải quyết tranh
chấp, đồng bộ hóa các thể chế và định chế liên quan. Pháp luật dấn sự cần có giải
thích cụ thể về giấy tờ có giá với tư cách là một loại tài sản theo hướng: Chỉ những
giấy tờ có giá vô danh, được tự do chuyển nhượng trên thị trường mới được coi là tài
sản trong giao lưu dân sự (kể cả các loại vận đơn đường biển cũng được coi là giấy tờ
có giá)
20
Thứ ba, cần bổ sung, hoàn thiện các quy định về giải quyết tranh chấp. Có thể
kể đến như: Nhận diện chính xác và đầy đủ các tranh chấp về giấy tờ có giá, kinh
doanh giấy tờ có giá và phân loại chúng. Cần xây dựng cơ chế giải quyết các tranh
chấp liên quan đến giấy tờ có giá một cách nhanh chóng, theo trình tự đơn giản và xử
lí nghiêm minh những hành vi vi phạm để loại trừ được hành vi có thể gây thiệt haị
hay xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của các bên tham gia trong quan hệ liên quan
đến giấy tờ có giá.
Thứ tư, để giải quyết các tranh chấp liên quan đến giấy tờ có giá trong lĩnh vực
hoạt động xuất khẩu và vay nợ nước ngoài được đảm bảo, nên bổ sung Điều 5 Pháp
lệnh Trọng tài thương mại như sau: “Trong trường hợp vụ tranh chấp đã có thỏa
thuận trọng tài, nếu một bên khởi kiện tại Tòa án thì Tòa án phải từ chối thụ lý, trừ
trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc không thể thực hiện hoặc không có khả
năng thi hành”.
Thứ năm, vấn đề một tài sản trong BLDS 2005 được dùng để thế chấp đảm bảo
thực hiện nhiều nghĩa vụ nên quy định theo hướng: Không cần quy định các điều kiện
để một tài sản được dùng để thế chấp đảm bảo thực hiện nhiều nghĩa vụ; trong trường
hợp này chỉ cần quy định là “Tài sản được dùng thế chấp để đảm bảo thực hiện nhiều
nghĩa vụ, nếu các bên có thỏa thuận”.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học luật Hà Nội, Giáo trình luật dân sự Việt Nam, Tập I và II,
Nxb. CAND, Hà Nội, 2009.
2. Bộ luật dân sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2005.
3. Bùi Đăng Hiều, “Tiền – một loại tài sản trong quan hệ pháp luật dân sự”,
tạp chí luật học, số 1/2005, tr. 37 – 41.
4. Bùi Đăng Hiếu, “Góp ý sửa đổi các quy định của BLDS về tài sản và quyền
sở hữu”, tạp chí dân chủ và pháp luật, số 6/2003, tr.6-10.
21
5. Phùng Trung Tập, “Vật khi nào được coi là tài sản”, tạp chí dân chủ và pháp
luật, số 1/2007.
6. Nguyễn Minh Oanh, “Các loại tài sản trong luật dân sự Việt Nam”, Tạp chí
luật học, số 1/2009.
7. Nguyễn Thị Anh Thơ, Giấy tờ có giá – Một loại tài sản trong quan hệ pháp
luật dân sự, Luận văn thạc sỹ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, 2006.
8. TS. Trần Lê Hồng, Tài sản ảo - Từ nhận thức đến bảo hộ, Tạp chí luật học
số 7/2007, tr. 29-37.
9. Nguyễn Văn Tuấn, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về bảo hộ tài sản ảo
trong trò chơi trực tuyến tại Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Người hướng dẫn:
TS Trần Lê Hồng, Hà Nội, 2007.
22