MỞ ĐẦU
Di chúc chung của vợ, chồng là một trường hợp đặc thù trong chế định thừa
kế của pháp luật dân sự Việt Nam, được dùng để định đoạt khối tài sản chung hợp
nhất của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Vấn đề di chúc chung của vợ, chồng
được thừa nhận trong tục lệ của ta từ lâu và hiện nay pháp luật nước ta có một số
điều quy định về di chúc chung của vợ, chồng. Quan niệm truyền thống của người
Việt Nam vốn rất coi trọng đạo nghĩa vợ - chồng và luôn muốn củng cố tình thương
yêu, đoàn kết trong gia đình, nên cũng khuyến khích việc vợ, chồng cùng nhau lập
di chúc chung để định đoạt tài sản chung, và coi đó như là một biểu hiện cao đẹp
của sự đoàn kết, yêu thương giữa vợ - chồng. Tuy nhiên qua quá trình áp dụng các
quy định về di chúc chung đã nảy sinh một số bất cập như việc xác định các điều
kiện có hiệu lực của di chúc chung của vợ chồng, nội dung của di chúc chung của
vợ chồng… đồng thời Bộ luật Dân sự (BLDS) chưa dự liệu hết các tình huống xảy
ra xung quanh các vấn đề liên quan đến di chúc chung của vợ chồng như các trường
hợp cấm vợ chồng lập di chúc chung, trường hợp vợ hoặc chồng muốn sửa đổi, bổ
sung di chúc chung khi một bên không đồng ý… Do vậy, trong bài này sinh viên
xin lựa chọn đề tài “Di chúc chung của vợ, chồng” để hiểu rõ hơn về vấn đề này.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I.Những vấn đề lí luận chung về di chúc chung của vợ, chồng trong pháp luật
dân sự Việt Nam.
1.Di chúc.
Điều 646 BLDS năm 2005 quy định: “Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá
nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết”. Từ khái niệm
này ta có thể thấy những đặc điểm của di chúc:
Thứ nhất, di chúc là sự thể hiện ý chí đơn phương của người để lại di chúc. Ý
chí đơn phương này được thể hiện qua việc người lập di chúc toàn quyền định đoạt
tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bất kỳ ai sau khi chết (không phụ thuộc
vào việc người được hưởng thừa kế theo di chúc có quan hệ huyết thống, nuôi
dưỡng hay thân thích với người lập di chúc) và có quyền cho người này nhiều,
người kia ít, hoặc không cho người nào đó trong số những người thuộc diện thừa kế
theo pháp luật. Người để lại thừa kế không cần biết người nhận di sản của mình
được xác định trong di chúc có nhận di sản của mình hay không mà tự quyết định
chuyển giao một phần hoặc toàn bộ tài sản của mình cho họ. Như vậy, ta có thể thấy
1
trong khi hợp đồng được hình thành bởi sự thỏa thuận ý chí của nhiều bên chủ thể
thì di chúc chỉ là sự quyết định đơn phương của người lập ra nó – người để lại di
sản thừa kế. Pháp luật Việt Nam luôn tôn trọng quyền tự định đoạt của cá nhân, việc
lập di chúc cũng như việc kết hôn không thể thực hiện bằng lối ủy quyền. Chính vì
vậy mà ngày nay thừa kế theo di chúc trở nên phổ biến hơn thừa kế theo pháp luật.
Thứ hai, bản di chúc được lập nhằm mục đích là chuyển dịch di sản của
người chết cho người khác đã được xác định trong di chúc. Đây là nội dung quan
trọng không thể thiếu được của một di chúc, bởi những di chúc mà không có nội
dung định đoạt tài sản cho người khác thì không được coi là di chúc (theo nghĩa
hẹp) thuộc đối tượng điều chỉnh của luật dân sự. Mục đích của di chúc là phải
chuyển dịch tài sản của người để lại thừa kế cho người khác. Và việc chuyển dịch
tài sản cho người khác được thực hiện khi người để lại di chúc chết.
Thứ ba, di chúc là loại giao dịch dân sự chỉ có hiệu lực khi chính người xác
lập ra nó đã chết. Khoản 1 điều 667 BLDS năm 2005 quy định: “di chúc có hiệu
lực pháp luật từ thời điểm mở thừa kế”. Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người
để lại tài sản thừa kế đã chết. Nói ngược lại, khi người lập di chúc còn sống thì di
chúc đó chưa có hiệu lực.
Tóm lại, di chúc là đối tượng điều chỉnh của BLDS chỉ khi nào nội dung của
di chúc định đoạt phần tài sản của người lập di chúc sau khi người đó chết đi. Di
chúc là hành vi pháp lý đơn phương của người lập ra nó, do đó di chúc phải tuân thủ
các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự nói chung và điều kiện có hiệu lực
của di chúc nói riêng. Một người muốn định đoạt tài sản của mình bằng di chúc, cần
phải tuân thủ các quy định của pháp luật về thừa kế theo di chúc. Thừa kế theo di
chúc là việc dịch chuyển tài sản của người đã chết cho người khác còn sống theo
quyết định của người đó trước khi chết được thể hiện trong di chúc. Nội dung cơ
bản của thừa kế theo di chúc là chỉ định người thừa kế (cá nhân, cơ quan, tổ chức)
và phân định di sản cho từng người thừa kế, giao nghĩa vụ cho người thừa kế trong
phạm vi di sản…
2.Di chúc chung của vợ chồng.
a.Khái niệm.
Di chúc chung của vợ, chồng là sự thể hiện ý chí chung thống nhất của hai vợ
chồng nhằm dịch chuyển tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng cho
người khác sau khi chết. Pháp luật nước ta quy định trường hợp di chúc chung của
2
vợ, chồng bởi chế độ sở hữu của vợ, chồng là chế độ sở hữu chung hợp nhất. Điều
217 BLDS năm 2005 quy định:
“1. Sở hữu chung hợp nhất là sở hữu chung mà trong đó phần quyền sở hữu
của mỗi chủ sở hữu chung không được xác định đối với tài sản chung. Sở hữu
chung hợp nhất bao gồm sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia và sở hữu chung
hợp nhất không phân chia.
2.Các chủ sở hữu chung hợp nhất có quyền, nghĩa vụ ngang nhau đối với tài
sản thuộc sở hữu chung”.
Quyền sở hữu của vợ, chồng đối với khối tài sản chung không được xác định
và họ có quyền và nghĩa vụ ngang nhau đối với khối tài sản chung đó, trong đó có
quyền lập di chúc chung để định đoạt khối tài sản chung của vợ chồng sau khi họ
chết. Di chúc chung của vợ, chồng có thể coi là một loại di chúc đặc biệt so với di
chúc cá nhân (di chúc thông thường). Do đó, bên cạnh những điểm giống di chúc
thông thường thì di chúc chung của vợ, chồng có những nét khác biệt như chủ thể
lập di chúc là vợ và chồng (gồm hai cá nhân), thời điểm có hiệu lực của di chúc là
từ thời điểm người sau cùng chết hoặc tại thời điểm vợ, chồng cùng chết, người
hưởng thừa kế có thể là người lập ra di chúc…
b.Đặc điểm của di chúc chung của vợ, chồng.
Di chúc chung của vợ, chồng mang đầy đủ những đặc điểm của di chúc thông
thường như: sự thể hiện ý chí tự nguyện của bên lập di chúc, nội dung của di chúc là
định đoạt tài sản của người lập di chúc, di chúc phát sinh hiệu lực pháp luật khi
người để lại di chúc chết. Ngoài những đặc điểm chung nêu trên thì di chúc chung
của vợ, chồng còn có những đặc điểm riêng sau:
Thứ nhất, di chúc chung của vợ, chồng là sự thể hiện ý chí thống nhất của cả
hai vợ chồng, dựa trên quan hệ hôn nhân đang còn hiệu lực.
Di chúc chung của vợ, chồng là sự thể hiện ý chí thống nhất của vợ, chồng
mà nó không bị chi phối bởi ý kiến của bất kì ai, đó là ý chí chủ quan, dựa trên ý chí
và yếu tố tình cảm của bên lập di chúc. Dựa trên cơ sở bàn bạc, thỏa thuận đi đến
thống nhất lập di chúc chung, quyết định nội dung của di chúc và định đoạt khối tài
sản chung. Sự thỏa thuận này khác với sự thỏa thuận giữa các chủ thể khi cùng nhau
thiết lập các loại hợp đồng. Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều bên về
một vấn đề nào đó, từ đó làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quyền và nghĩa vụ
tương ứng của các bên. Trong khi đó di chúc chung của vợ chồng lại là sự thỏa
thuận giữa hai cá nhân ở cùng một bên (bên để lại di sản).
3
Di chúc chung của vợ, chồng cũng là một giao dịch dân sự nhưng nó lại thể
hiện ý chí đơn phương của bên lập di chúc, đó là vợ và chồng (gồm hai ý chí cá
nhân nhưng thống nhất). Như vậy, ý chí đơn phương là điểm khác biệt của di chúc
so với các loại giao dịch dân sự khác.
Thứ hai, di chúc chung của vợ, chồng được lập để định đoạt tài sản chung của
vợ chồng trong thời kì hôn nhân.
Căn cứ vào điều 27 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000: “Tài sản chung
của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản
xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn
nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và
những tài sản khác mà vợ chồng thoả thuận là tài sản chung. Trong trường hợp
không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản
riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản chung”.
Tài sản chung của vợ chồng không phụ thuộc vào việc họ ở chung hay ở
riêng mà quan trọng là tài sản đó vợ chồng tạo ra trong thời kì hôn nhân thì cho dù
họ sống xa nhau ở các vùng, miền trong nước, hoặc một bên sống ở nước ngoài
cũng không ảnh hưởng gì đến tài sản chung.
Di chúc chung của vợ, chồng dùng để định đoạt khối tài sản thuộc sở hữu
chung hợp nhất của vợ, chồng. Khi vợ, chồng còn sống thì quyền sở hữu chung hợp
nhất đối với khối tài sản chung được pháp luật bảo đảm thông qua các quyền: quyền
chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt. Một trong các biểu hiện của quyền
tự định đoạt đối với tài sản thuộc sở hữu chung là việc lập di chúc để phân chia tài
sản. Vợ, chồng có quyền thoả thuận để lại di chúc cho bất kỳ ai, có quyền chỉ định
người thừa kế và cũng có thể truất quyền thừa kế của người thuộc diện thừa kế.
Người thừa kế theo di chúc chung có thể là Nhà nước, tổ chức hoặc cá nhân bất kỳ
theo sự chỉ định của người để lại di chúc.
Thứ ba, di chúc chung của vợ, chồng được hình thành trên quan hệ hôn nhân
đang còn hiệu lực.
Khoản 7 điều 8 Luật hôn nhân và gia đình quy định: “Thời kì hôn nhân là
khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợ, chồng, tính từ ngày đăng ký kết hôn đến ngày
chấm dứt hôn nhân”. Việc kết hôn của nam, nữ phải được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền công nhận theo đúng các thủ tục và điều kiện mà pháp luật quy định.
3.Khái quát về di chúc chung của vợ, chồng trong pháp luật dân sự Việt Nam
trước năm 2005.
4
Trước năm 2005, vấn đề di chúc chung của vợ, chồng trong pháp luật dân sự
Việt Nam được chia làm ba giai đoạn chính:
a. Giai đoạn trước năm 1945: Giai đoạn này pháp luật Việt Nam tập trung
vào Bộ luật Hồng Đức (Quốc triều hình luật), Bộ luật Gia Long (Hoàng Việt luật
lệ), và các Bộ dân luật Bắc Kỳ, Bộ dân luật Trung Kỳ.
Trong bốn bộ luật kể trên thì Bộ luật Hồng Đức (thời nhà Lê) và Bộ luật Gia
Long (nhà Nguyễn) chưa quy định về di chúc chung của vợ, chồng. Di chúc chung
của vợ, chồng được quy định trong Bộ dân luật Bắc Kỳ (điều 321) và Bộ dân luật
Trung Kỳ (điều 313). Điều 313 Bộ dân luật Trung Kỳ giống điều 321 Bộ dân luật
Bắc Kỳ: “Người chồng được lập chúc thư để xử trí tài sản chung của gia đình tùy
theo ý mình nhưng phải có vợ chính đồng ý trừ tài sản của vợ chính ra thì người
chồng được làm chúc thư để xử trí tài sản của gia đình tùy theo ý mình, không có
vợ chính thuận tình cũng được”
b. Giai đoạn 1945 – 1975: Đất nước ta bị chia cắt làm hai miền Bắc – Nam,
các văn bản pháp luật không thể áp dụng chung thống nhất cho cả hai miền. Ở miền
Bắc vẫn chưa có văn bản nào quy định một cách hệ thống đầy đủ về thừa kế. Năm
1972, ở miềm Nam Bộ dân luật Sài Gòn được ban hành để điều chỉnh các quan hệ
dân sự trong đó có quan hệ thừa kế. Tại điều 572 vấn đề di chúc chung của vợ
chồng được quy định như sau: “…trong trường hợp chúc thư do hai vợ chồng cùng
làm để sử dụng tài sản chung, chúc thư được thi hành riêng về phần di sản của
người chết trước, người sống vẫn có quyền hủy bãi hay thay đổi chúc thư về phần
mình”. Như vậy, vợ chồng có thể cùng lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung
của vợ chồng.
c. Giai đoạn 1975 đến trước khi BLDS năm 2005 có hiệu lực:
Thông tư 81 – TANDTC ngày 24 tháng 7 năm 1981 quy định: “Di chúc do
vợ chồng cùng làm để định đoạt tài sản chung, nếu một bên chết trước thì chỉ riêng
phần di sản của người đó được thi hành theo di chúc…”. Khi thông tư 81 –
TANDTC không còn phù hợp, pháp lệnh thừa kế năm 1990 ra đời quy định tại điều
23: “Trong trường hợp di chúc do nhiều người lập chung, mà có người chết trước
thì chỉ phần tài sản liên quan đến người chết trước có hiệu lực”. Như vậy, pháp
lệnh thừa kế không trực tiếp quy định nhưng gián tiếp thừa nhận di chúc chung của
vợ, chồng.
BLDS năm 1995 có hiệu lực từ ngày 1/7/1996 đã dành một chương với 63
điều quy định về chế định thừa kế. Vấn đề thừa kế theo di chúc được quy định từ
điều 649 đến điều 676. Qua 10 năm thi hành, bên cạnh những vai trò to lớn mà
5
BLDS đem lại thì bộ luật này cũng bộc lộ một số hạn chế dẫn đến việc áp dụng
pháp luật gặp nhiều khó khăn nên ngày 14/6/2005, Quốc hội khóa XI tại kỳ họp thứ
7 đã thông qua BLDS năm 2005 thay thế BLDS năm 1995 trong đó có sửa đổi, bổ
sung nhiều vấn đề quan trọng về lĩnh vực thừa kế. Di chúc chung của vợ, chồng
được quy định tại các điều 663, điều 664 và điều 668 BLDS năm 2005.
4.Một số khía cạnh pháp lí về di chúc chung của vợ, chồng theo pháp luật một
số nước trên thế giới.
Hiện nay, hệ thống pháp luật của các nước trên thế giới tồn tại hai quan điểm
khác nhau về việc thừa nhận quyền lập di chúc chung của vợ, chồng. Quan điểm thứ
nhất thì thừa nhận quyền lập di chúc chung của vợ, chồng còn quan điểm thứ hai lại
không thừa nhận quyền này. Có thể thấy như sau:
Pháp luật một số nước không thừa nhận quyền lập di chúc chung của vợ,
chồng như: BLDS của nước cộng hòa Pháp (Bộ luật Napoleon) ban hành năm 1804
(Điều 968); BLDS Nhật Bản (điều 975); BLDS và thương mại Thái Lan không quy
định về di chúc chung của vợ chồng mặc dù các quy định về tài sản chung của vợ
chồng đã được hình thành và có nét tương đồng với pháp luật Việt Nam; Thụy Sỹ
hiện nay các nhà lập pháp không thừa nhận khả năng lập di chúc của vợ chồng.
Trong khi đó pháp luật một số nước như BLDS Đức năm 1896, BLDS bang
Quesbec (Canada) lại thừa nhận quyền lập di chúc chung của vợ, chồng.
5.Ý nghĩa của di chúc chung của vợ chồng.
Di chúc chung của vợ, chồng có ý nghĩa về mặt pháp lý cũng như ý nghĩa về
mặt xã hội rất to lớn.
Về mặt pháp lý: Di chúc chung của vợ, chồng phản ánh đúng, phù hợp với
những quy định của pháp luật về chế định sở hữu (vợ chồng cùng nhau tạo lập, phát
triển khối tài sản chung bằng công sức của mỗi người, có quyền ngang nhau trong
việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản chung) cũng như phù hợp với pháp
luật hôn nhân gia đình Việt Nam. Những quy định của pháp luật về di chúc chung
của vợ, chồng giúp cho mỗi cá nhân cũng như mỗi cặp vợ chồng nhận biết được
quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình khi lập di chúc để định đoạt tài sản chung hợp
nhất và cũng là căn cứ pháp lý để cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết khi
có tranh chấp xảy ra.
Về mặt xã hội: Di chúc chung của vợ, chồng là một biểu hiện cao đẹp về đời
sống tinh thần của người Việt Nam, vợ chồng cùng nhau tảo tần gây dựng nên tài
sản chung để nuôi sống gia đình, để cùng nhau tích lũy và cuối cùng vợ chồng đồng
tâm với nhau để định đoạt khối tài sản chung đó khi chết đi, đồng thời nó là một
6
minh chứng cho tính “sống chung”, tính “bền vững” của quan hệ hôn nhân cũng
như tính “cùng tạo dựng” tài sản của vợ chồng.
II.Quy định của pháp luật về di chúc chung của vợ, chồng.
1.Nhận xét chung những quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về di
chúc chung của vợ, chồng.
Hiện nay, pháp luật thừa kế Việt Nam thừa nhận di chúc chung của vợ, chồng,
tuy nhiên khái niệm di chúc chung của vợ, chồng chưa được xác định trong BLDS
trong khi đó khái niệm này là cơ sở để hiểu được bản chất và là cơ sở để quy định
các vấn đề có liên quan như nội dung, hình thức và cách thức lập di chúc chung của
vợ, chồng; hiệu lực pháp luật của di chúc chung của vợ chồng… Vấn đề di chúc
chung của vợ, chồng được quy định trong điều 663, điều 664 và điều 668 BLDS
năm 2005 và được nằm chung trong chương “Thừa kế theo di chúc”.Vì vậy, khi
xem xét, vận dụng về di chúc chung của vợ, chồng chúng ta phải đặt nó trong mối
liên hệ với di chúc nói chung. Trong quá trình áp dụng và thực thi pháp luật thì
những quy định trên vẫn còn tồn tại một số hạn chế nhất định như những quy định
về hình thức, hiệu lực pháp luật, về sửa đổi, bổ sung… gây khó khăn trong quá trình
áp dụng pháp luật, gây nên nhiều cách hiểu khác nhau về cùng một vấn đề, có quy
định còn chồng chéo, chưa đáp ứng được tính khả thi, chưa phù hợp với những đặc
thù của di chúc chung của vợ, chồng…
2.Nội dung của di chúc chung của vợ, chồng.
Nội dung của di chúc là sự thể hiện ý chí của người lập di chúc về việc định
đoạt tài sản của mình cho người thừa kế và là một trong những căn cứ để xét đến
tính hợp pháp của di chúc. Nội dung của di chúc chung của vợ, chồng là tổng hợp
các vấn đề mà vợ chồng thể hiện trong di chúc đó. Một bản di chúc được thừa nhận
là hợp pháp nếu nội dung của nó không vi phạm những điều pháp luật đã cấm,
không làm trái những điều pháp luật đã quy định; ngoài ra còn phải phù hợp với
thuần phong mỹ tục và trật tự công cộng.
Nội dung của di chúc bằng văn bản phải đầy đủ các yếu tố:
Một là, ngày, tháng, năm lập di chúc: Ngày, tháng, năm ghi trong di chúc là
cơ sở để xác định thời điểm lập di chúc. Pháp luật hiện hành quy định một người có
thể lập nhiều bản di chúc do đó vợ chồng cũng có thể lập nhiều bản di chúc để định
đoạt tài sản chung, vì vậy pháp luật quy định nội dung này của di chúc để có thể xác
định được di chúc nào lập trước, di chúc nào lập sau. Thời điểm lập di chúc là căn
cứ để xác định hiệu lực pháp luật của bản di chúc, phù hợp với quy định “Khi một
7
người để lại nhiều bản di chúc đối với một tài sản thì chỉ bản di chúc sau cùng mới
có hiệu lực pháp luật” (khoản 5 điều 667 BLDS năm 2005).
Hai là, họ, tên và nơi cư trú của người lập di chúc. Nội dung này là căn cứ để
xác định chủ thể lập di chúc, người đó có quyền và điều kiện lập di chúc hay không.
Di chúc phải ghi đầy đủ họ tên, nơi cư trú của vợ và chồng, nếu không đảm bảo yếu
tố này thì di chúc không có giá trị pháp lý.
Ba là, họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản hoặc xác định rõ
các điều kiện để cá nhân, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản. Trong di chúc, vợ và
chồng phải ghi rõ đối tượng được hưởng di sản cùng các điều kiện để đối tượng đó
được hưởng di sản. Pháp luật quy định người thừa kế có thể là cá nhân, cơ quan
hoặc tổ chức. Trường hợp người thừa kế là cá nhân thì cá nhân đó phải còn sống
vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng
đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Còn nếu là cơ quan, tổ chức thì cơ
quan, tổ chức đó phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.
Bốn là, di sản để lại và nơi có di sản. Trong di chúc phải xác định được di
sản thừa kế để đảm bảo quyền lợi của người hưởng thừa kế theo di chúc chung của
vợ chồng. Người lập di chúc phải ghi rõ di sản để lại gồm những gì và có ở đâu.
Điều 634 BLDS quy định: “Di sản gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản
của người chết trong tài sản chung với người khác” nhưng vì di chúc chung của vợ
chồng do vợ và chồng cùng lập nên di sản trong di chúc chung của vợ chồng là tài
sản chung hợp nhất của vợ chồng. Tuy nhiên, thực tế vẫn có những trường hợp di
chúc chung của vợ, chồng lại có nội dung định đoạt tài sản riêng, tồn tại dưới những
hình thức như di chúc chung của vợ, chồng định đoạt phần tài sản chung của vợ
chồng và tài sản riêng của vợ chồng (ngoài phần tài sản chung của vợ chồng đã
được định đoạt trong di chúc chung) hay di chúc chung của vợ chồng định đoạt toàn
bộ tài sản của vợ chồng, bao gồm: tài sản riêng và phần tài sản trong khối tài sản
chung hợp nhất của vợ chồng.
Năm là, việc chỉ định người thực hiện nghĩa vụ và nội dung của nghĩa vụ. Vợ
chồng có thể chỉ định người thực hiện nghĩa vụ và chỉ rõ nghĩa vụ phải thực hiện
trong di chúc. Khi thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại thì những người
hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện trong phạm vi di sản do người chết để lại.
Trong trường hợp di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài
sản do người chết để lại nhưng không vượt quá phần tài sản mà mình đã nhận (trừ
trường hợp có thỏa thuận khác).
3.Hình thức của di chúc chung của vợ, chồng.
8
Về hình thức của di chúc chung của vợ, chồng pháp luật không có quy định
trực tiếp nên vấn đề này được áp dụng tương tự như đối với di chúc cá nhân thông
thường. Có hai hình thức để thể hiện di chúc chung của vợ chồng là di chúc bằng
văn bản hoặc di chúc miệng. Việc lựa chọn hình thức thể hiện cũng cần có sự thoả
thuận của hai vợ chồng.
a.Di chúc miệng:
Di chúc miệng là sự bày tỏ bằng lời nói ý chí của người để lại di sản thừa kế
lúc còn sống trong việc định đoạt khối tài sản của mình cho người khác sau khi
mình chết. Nó chỉ được công nhận là hợp pháp khi người lập di chúc ở trong tình
trạng tính mạng bị đe dọa nghiêm trọng mà không thể lập di chúc viết được (bị bệnh
sắp chết, bị tai nạn có nguy cơ chết…). Trong trường hợp phải lập di chúc miệng thì
phải có ít nhất hai người làm chứng và ngay sau đó những người làm chứng ghi
chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn năm ngày kể từ ngày người lập
di chúc thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải công chứng, chứng thực và nếu sau
ba tháng kể từ thời điểm di chúc miệng mà vợ, chồng còn sống, minh mẫn, sáng
suốt thì di chúc miệng mặc nhiên bị huỷ bỏ (coi như không có di chúc miệng).
b.Di chúc bằng văn bản:
Di chúc bằng văn bản được lập theo các hình thức khác nhau, mỗi hình thức
có nét đặc trưng về điều kiện, trình tự, thủ tục lập cũng như giá trị pháp lý của nó.
Di chúc bằng văn bản bao gồm các loại như: Di chúc bằng văn bản không có người
làm chứng (Điều 655 BLDS), di chúc bằng văn bản có người làm chứng (Điều 656
BLDS), di chúc bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực (Điều 657 BLDS).
Dù được lập bằng hình thức nào thì cũng phải tuân theo những quy định chung của
di chúc bằng văn bản, cụ thể tại khoản 2 điều 653 BLDS quy định: “Di chúc không
được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu; nếu di chúc gồm nhiều trang thì mỗi trang
phải được đánh số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc” để bảo
đảm tính cụ thể , rõ ràng, chính xác, tránh gây nên nhiều cách hiểu khác nhau về di
chúc. Nếu di chúc gồm nhiều trang thì mỗi trang phải được đánh số thứ tự và có chữ
ký và điểm chỉ của người lập di chúc. Pháp luật quy định như vậy nhằm tránh tình
trạng giả mạo di chúc, thay thế những trang khác nhau của di chúc.
Có quan điểm cho rằng: Nếu di chúc có viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu nhưng
những người hưởng thừa kế của người lập di chúc cùng hiểu theo một nghĩa thì di
chúc đó vẫn có hiệu lực pháp luật. Còn nếu di chúc có viết tắt hoặc ký hiệu mà mỗi
người thừa kế hiểu khác nhau và không thống nhất được cách hiểu chung thì di chúc
9
đó không có giá trị pháp lý. Và nếu di chúc có nhiều phần thì phần nào có chữ viết
tắt, ký hiệu thuộc trường hợp trên không có giá trị pháp lý, còn các phần khác thì
vẫn có giá trị pháp lý. Quan điểm này cũng hoàn toàn phù hợp với quy định của
pháp luật về hiệu lực pháp luật của di chúc, cụ thể theo khoản 2 điều 667 BLDS
năm 2005 thì đây không phải là trường hợp dẫn đến di chúc bị vô hiệu một phần
hoặc toàn bộ. Hơn nữa, di chúc định đoạt tài sản chung của vợ chồng cho những
người hưởng thừa kế mà những người hưởng thừa kế của người lập di chúc cùng
hiểu theo một nghĩa thì chúng ta cũng nên thừa nhận di chúc đó là hợp pháp.
4.Vấn đề sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung của vợ, chồng.
Theo quy định của pháp luật, vợ, chồng không những có quyền được lập di
chúc chung để định đoạt tài sản chung (Điều 663 BLDS 2005) mà còn có quyền có
thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung bất cứ lúc nào. Điều 664 BLDS
năm 2005 quy định:
“1. Vợ chồng có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung bất cứ
lúc nào.
2. Khi vợ hoặc chồng muốn sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung
thì phải được sự đồng ý chủa người kia; nếu một người đã chết thì người kia chỉ có
thể sửa đổi, bổ sung di chúc liên quan đến phần tài sản của mình”.
Trước tiên, cần hiểu về các khái niệm sửa đổi di chúc, bổ sung di chúc, thay
thế di chúc và hủy bỏ di chúc để có thể phân biệt chúng với nhau, xác định chúng
trong từng trường hợp cụ thể.
Sửa đổi di chúc là việc người lập di chúc bằng ý chí tự nguyện của mình làm
thay đổi một phần di chúc đã lập. Khi đã sửa đổi di chúc thì phần sửa đổi không có
giá trị pháp lý, phần di chúc được bổ sung vào sẽ có giá trị pháp lý và phần không
bị sửa đổi sẽ có hiệu lực pháp luật mà không bị ảnh hưởng bởi phần sửa đổi.
Bổ sung di chúc là việc người lập di chúc quy định thêm một số vấn đề mà
trong di chúc chưa quy định hoặc quy định chưa cụ thể để làm cho di chúc chi tiết
hơn, cụ thể hơn, rõ ràng hơn.
Thay thế di chúc là việc người lập di chúc lập một di chúc để thay thế cho di
chúc khác đã lập và di chúc thay thế sẽ có hiệu lực pháp luật như quy định tại điều
662 BLDS năm 2005: “Trong trường hợp người lập di chúc thay thế di chúc bằng di
chúc mới thì di chúc trước bị hủy bỏ”.
Hủy bỏ di chúc là việc vợ chồng thể hiện ý chí tự nguyện của mình về việc
bãi bỏ di chúc.
10
Nhìn chung, quy định vợ chồng có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di
chúc chung có vẻ rất tiến bộ, nhân văn, đậm tình nghĩa gia đình, tuy nhiên, để một
bên vợ hoặc chồng có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc thì phải được
sự đồng ý của người kia. Như vậy nó làm hạn chế quyền sở hữu của một bên vì khi
muốn thay đổi phải được sự đồng ý của bên kia. Tức là khi một bên không đồng ý
sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc thì bên còn lại không thể thay đổi bất kỳ
nội dung nào của di chúc đã lập. Như vậy, pháp luật đã hạn chế quyền sửa đổi, bổ
sung di chúc chung của vợ hoặc chồng nếu bên kia còn sống mà không chấp nhận
sửa đổi, bổ sung (nếu cả hai còn sống) và hạn chế quyền hủy bỏ, thay thế di chúc
chung của vợ chồng (nếu một bên đã chết).
Pháp luật không giới hạn về thời gian vợ, chồng có thể sửa đổi, bổ sung, thay
thế, hủy bỏ di chúc chung, nó có thể diễn ra vào bất cứ lúc nào khi cả hai còn sống
nếu vợ, chồng đáp ứng điều kiện về năng lực hành vi dân sự.
5.Hiệu lực pháp luật của di chúc chung của vợ, chồng.
a.Điều kiện có hiệu lực của di chúc chung của vợ, chồng.
Điều kiện có hiệu lực của di chúc là những quy định của pháp luật, theo đó di
chúc chỉ có thể phát sinh hiệu lực pháp lý khi thỏa mãn đầy đủ các điều kiện này.
BLDS năm 2005 và các quy định của pháp luật thừa kế trước đó đều không có đề cập
rõ đến điều kiện có hiệu lực của di chúc chung của vợ, chồng. Vì vậy, khi xét điều kiện
có hiệu lực của di chúc chung thì áp dụng tượng tự như đối với di chúc của cá nhân
trên cơ sở đặc điểm riêng của di chúc chung của vợ chồng. Điều kiện có hiệu lực của di
chúc chung của vợ, chồng tập trung vào các sự kiện pháp lý xảy ra làm mất đi điều
kiện hình thành, tồn tại của di chúc chung. Các điều kiện đó là:
Một là, người lập di chúc phải có năng lực chủ thể trong việc lập di chúc.
Năng lực chủ thể trong việc lập di chúc chung được xác định như sau:
+ Vợ, chồng là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Theo quy định của
pháp luật thì những người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ là những người đủ 18
tuổi trở lên, không bị tòa án ra quyết định tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự
hoặc tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự (Điều 18, 19 BLDS năm 2005).
+ Người bị hạn chế về thể chất (khiếm thị, cụt tay không viết được…) hoặc
người không biết chữ cũng có quyền được lập di chúc nhưng di chúc đó phải được
người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.
Hai là, người lập di chúc phải tự nguyện. Di chúc chung được lập phải có sự
tự nguyện của cả vợ và chồng. Di chúc sẽ không có sự tự nguyện của người lập di
chúc nếu không có sự thống nhất ý chí và bày tỏ ý chí. Sự thể hiện ý chí của người
11
lập di chúc phải được kiểm soát bới chính lý chí của họ. Điểm a khoản 1 điều 652
BLDS 2005 quy định: “Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di
chúc; không bị lừa dối, đe dọa hoặc cưỡng ép”. Các trường hợp không có sự tự
nguyện của người lập di chúc là: di chúc bị giả mạo; người lập di chúc có sự nhầm
lẫn trong khi lập di chúc; người lập di chúc bị lừa dối, bị đe dọa, bị cưỡng ép khi lập
di chúc; người để lại di sản lập di chúc vào thời điểm không nhận thức, làm chủ
được hành vi của mình.
Ba là, nội dung của di chúc không trái pháp luật, không trái đạo đức xã hội.
Nội dung của di chúc là những quyền, nghĩa vụ của người thừa kế cũng như những
điều kiện…mà người lập di chúc có thể đưa ra. Theo quy định tại điểm b, khoản 1,
điều 652 BLDS 2005 thì: “Nội dung của di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã
hội;…”. Chẳng hạn, trong di chúc người lập di chúc không thể định đoạt vật mà
Nhà nước cấm lưu thông, định đoạt tài sản cho những tổ chức phản động… Quy
định này được xuất phát từ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của chủ thể.
Bốn là, hình thức của di chúc không trái quy định của pháp luật. Điểm b,
khoản 1 điều 652 BLDS quy định: “…hình thức di chúc không trái quy định của
pháp luật”. Theo quy định của điều 649 BLDS năm 2005 thì hình thức bắt buộc của
di chúc là phải bằng văn bản, việc lập di chúc miệng phải tuân theo các điều kiện,
trình tự và thủ tục do pháp luật quy định. Nếu không thỏa mãn những điều kiện,
hình thức cụ thể do pháp luật quy định thì di chúc vô hiệu.
Trong khoảng thời gian từ khi lập bản di chúc chung đầu tiên đến khi di chúc
chung có hiệu lực pháp luật vợ, chồng có thể lập thêm một hoặc nhiều bản di chúc
chung khác. Các bản di chúc chung định đoạt cùng một tài sản thì bản di chúc
chung cuối cùng sẽ có hiệu lực pháp luật.
b.Thời điểm có hiệu lực của di chúc chung của vợ, chồng.
Pháp luật nước ta quy định nếu hai vợ chồng cùng lập di chúc chung, thì di
chúc có hiệu lực kể từ thời điểm người sau cùng chết hoặc tại thời điểm vợ và
chồng cùng chết. Đây là trường hợp đặc biệt không xác định thời hiệu của thừa kế
đối với phần di sản của người vợ hoặc người chồng chết trước. Quy định này nhằm
bảo vệ quyền lợi của người vợ hoặc chồng còn sống đảm bảo cho người còn sống
tiếp tục khai thác sử dụng tài sản chung do vợ và chồng làm ra trong thời lỳ hôn
nhân có hiệu quả.
Sự kiện chết của công dân là một sự kiện pháp lý làm phát sinh nhiều hậu quả
pháp lý và việc xác định di sản căn cứ vào sự kiện chết của người đó – cũng chính
12
là thời điểm mở thừa kế. Việc chia thừa kế được tiến hành sau khi đã xác định được
tài sản và quyền về tài sản của người chết để lại.
Theo quy định của pháp luật thì di chúc không có hiệu lực trong trường hợp
người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng với người lập di chúc, cũng
như trong trường hợp cơ quan, tổ chức được chỉ định là người thừa kế không còn
tồn tại vào thời điểm mở thừa kế. Trong trường hợp có nhiều người thưa kế theo di
chúc mà có người chết trước người lập di chúc, một trong nhiều cơ quan, tổ chức
được chỉ định hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa
kế, thì chỉ phần di chúc có liên quan đến người chết trước, đến cơ quan, tổ chức đó
không còn tồn tại đó là không có hiệu lực pháp luật.
Tuy nhiên, so với BLDS năm 1995 thì BLDS năm 2005 quy định có ưu điểm
hơn, đó là giúp cho tài sản của vợ chồng không bị phân chia khi một người chết,
tránh tình trạng phải phân chia ít nhất hai lần đối với 1 di chúc và nó bảo vệ được
quyền lợi của vợ (chồng) còn sống vì khi một người chết trước tài sản chưa được
phân chia thì người còn sống có thể đầu tư làm tăng thêm giá trị tài sản, khai thác
hoa lợi… Nó thể hiện sự chung sức, chung lòng trong việc tạo dựng khối tài sản
chung và cho đến khi phân chia khối tài sản chung ấy một lần nữa cũng không phá
vỡ đi cái chung đó.
III.Những bất cập trong quy định về di chúc chung của vợ, chồng.
1.Về nội dung của di chúc chung của vợ, chồng.
Tại điều 663 BLDS năm 2005 quy định: “Vợ, chồng có thể lập di chúc chung
để định đoạt tài sản chung”. Như vậy, quy định này đã thừa nhận quyền lập di chúc
chung của vợ, chồng. Theo đó, nội dung và mục đích của di chúc chung là để định
đoạt tài sản chung của vợ chồng. Nhưng trong trường hợp vợ, chồng vừa có tài sản
chung, vừa có tài sản riêng mà họ lại muốn định đoạt cả hai loại tài sản này trong
cùng một di chúc thì sẽ giải quyết như thế nào? Và như vậy thì sẽ có nhiều vấn đề
đặt ra rất khó giải quyết như: phần di chúc định đoạt tài sản riêng có phải là một di
chúc riêng không, hay sau khi một bên vợ hoặc chồng chết, thì phần di chúc liên
quan tới tài sản riêng của họ có hiệu lực hay chưa…
2.Về hình thức di chúc chung của vợ, chồng.
Di chúc cá nhân được lập theo một trong hai hình thức là di miệng và di chúc
viết, theo những thủ tục rất chặt chẽ. Dường như ý chí của nhà làm luật muốn di
chúc chung sẽ được lập theo những hình thức tương tự như di chúc cá nhân. Nhưng
thực tiễn cho thấy, các hình thức và thủ tục để lập di chúc cá nhân không phải lúc
nào cũng có thể áp dụng phù hợp cho di chúc chung của vợ, chồng.
13
Điều 665 BLDS quy định về di chúc bằng văn bản không có người làm chứng
thì yêu cầu người lập di chúc phải viết tay và ký vào bản di chúc. Trong trường hợp
di chúc vợ chồng cùng lập ra thì cả hai vợ chồng cùng viết hay mỗi người viết một
phần của di chúc rồi cùng ký tên vào di chúc. Hay di chúc chỉ do người vợ hoặc
người chồng viết còn người kia chỉ ký tên, điểm chỉ vào từng trang di chúc thì có
hợp pháp không? Hoặc mỗi người viết một đoạn nói về nội dung định đoạt của
mình sau đó cùng ký tên vào di chúc thì có hợp pháp hay không? Đây cũng là vấn
đề chưa được BLDS năm 2005 quy định.
Về di chúc miệng ta có thể thấy như sau:
Một là, trong tình trạng bị cái chết đe dọa thì sự bàn bạc, thống nhất ý chí
chung của vợ chồng trước khi cùng nhau lập di chúc là rất khó, mà trong khi đó
muốn lập di chúc chung thì điều này là rất quan trọng. Tình trạng này dễ dẫn đến
việc một bên quyết định nội dung di chúc chung theo ý chí chủ quan của mình mà
không có sự thống nhất ý chí với người kia.
Hai là, thủ tục lập di chúc miệng là phải có sự có mặt của hai nhân chứng, khi
đó hai người không thể phát biểu ý chí cùng một lúc, mà phải từng người phát biểu.
Như thế thì ý chí chung của họ sẽ được biểu đạt bằng cách nàotrong khi cái chết
đang đe dọa? Nếu mỗi người vợ hoặc chồng trình bày riêng ý nguyện của mình, thì
thực ra, đó là di chúc cá nhân; còn một người đại diện trình bày ý chí chung và
người kia chấp nhận toàn bộ, thì cũng giống như đã uỷ quyền lập di chúc, mà như
vậy thì lại vi phạm nguyên tắc lập di chúc trực tiếp.
Ba là, sau ba tháng kể từ ngày lập di chúc miệng mà một người chết và một
người còn sống, thì toàn bộ di chúc miệng hoặc một phần di chúc miệng liên quan
tới người còn sống có còn giá trị thi hành nữa hay không? Vì pháp luật quy định:
“Sau 3 tháng kể từ thời điểm di chúc miệng mà người di chúc còn sống, minh mẫn,
sáng suốt thì di chúc miệng mặc nhiên bị huỷ bỏ” (khoản 1 điều 651 BLDS)…
Như vậy, việc vợ chồng lập di chúc chung bằng miệng sẽ trở nên phức tạp và
không bảo đảm sự an toàn pháp lý cho quyền lợi chính đáng của chính người lập di
chúc lẫn người thừa kế hợp pháp của họ.
3.Về sử đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung của vợ, chồng.
Điều 664 BLDS năm 2005 quy định về sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di
chúc chung của vợ, chồng. Điều luật này quy định còn bất cập ở chỗ:
+ Quy định này rất khó thực thi bởi khó đạt được sự đồng thuận của vợ chồng
trong mọi lúc, thậm chí quy định này còn có thể làm mất đi quyền tự định đoạt tài
sản của mỗi bên vợ chồng nếu nỗ lực của một bên để có được sự đồng thuận của
bên kia không thành công, cũng như vi phạm nguyên tắc tự nguyện trong việc lập di
14
chúc. Nếu một bên vợ hoặc chồng, vì lý do nào đó mà bắt buộc phải sửa đổi, bổ
sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung đã lập nhưng không được sự đồng ý của người
kia thì việc sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ đó sẽ không được pháp luật chấp
nhận.
+ Quy định của khoản 2 điều 664 BLDS thiếu nhất quán vì không cho phép
một bên tự ý sửa đổi, bổ sung di chúc chung khi vợ, chồng còn sống khi chưa có sự
đồng ý của người kia, nhưng lại cho phép một bên còn sống có quyền sửa đổi, bổ
sung phần di chúc liên quan đến phần tài sản của mình khi một bên vợ hoặc chồng
đã chết. Trong khi đó, vợ chồng với tư cách là các đồng sở hữu chủ của tài sản
chung nên việc sửa đổi, bổ sung di chúc chung của vợ chồng cần phải bảo đảm
nguyên tắc nhất trí giữa vợ và chồng.
4.Về hiệu lực của di chúc chung của vợ, chồng.
Các quy định về hiệu lực di chúc chung của vợ, chồng còn gây ra nhiều tranh
cãi và bất đồng quan điểm. Một cá nhân có thể có nhiều tài sản (tài sản chung và tài
sản riêng). Nếu xác định di chúc chung chỉ có hiệu lực vào thời điểm “người sau
cùng chết” hoặc thời điểm “vợ chồng cùng chết” thì việc chia thừa kế sẽ rất phức
tạp, sẽ có ít nhất hai lần chia thừa kế: lần một là chia thừa kế khối tài sản riêng, lần
hai là chia thừa kế với khối tài sản chung. Việc phải phân chia thừa kế nhiều lần như
vậy sẽ gây khó khăn cho các bên liên quan và cho cả các cơ quan tiến hành tố tụng.
Quy định về thời điểm có hiệu lực của di chúc chung như luật hiện hành sẽ
làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới quyền và lợi ích hợp pháp của những người thừa
kế của người vợ hay chồng chết trước đồng thời còn ảnh hưởng không nhỏ đến thời
hiệu khởi kiện thừa kế đối với di sản của người chết trước. Thời hiệu khởi kiện thừa
kế là 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết 10 năm mà người kia vẫn còn sống,
thì thời hiệu khởi kiện chia thừa kế đối với phần di sản của người chết trước cũng
không còn. Trong trường hợp đó, nếu nội dung của di chúc chung vi phạm pháp
luật, có dấu hiệu lừa dối, giả mạo…mà người thừa kế không biết để khởi kiện kịp
thời (do di chúc chung chưa được công bố), đến khi người sau cùng chết mà thời
hiệu khởi kiện không còn thì quyền lợi của người thừa kế sẽ được pháp luật bảo vệ
như thế nào cũng chưa được quy định rõ.
Để chế định di chúc chung thực sự mang lại nhiều lợi ích cho các cặp vợ
chồng, cho các cá nhân hưởng thừa kế thì cần phải điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung
những bất cập, hạn chế nêu trên.
15
IV.Thực tiễn giải quyết tranh chấp liên quan đến di chúc chung của vợ, chồng
và phương hướng hoàn thiện.
1.Nguyên nhân dẫn đến tranh chấp liên quan đến di chúc chung của vợ, chồng.
+ Về kinh tế, xã hội: Do điều kiện kinh tế, xã hội của nước ta có nhiều đặc
thù, các quan hệ truyền thống và quan hệ xã hội mới luôn đan xen tồn tại làm tăng
tính phức tạp của các tranh chấp về thừa kế. Nền kinh tế thị trường bên cạnh những
tác động tích cực thì nó còn có những mặt trái. Chính những mặt trái ấy làm các
tranh chấp về thừa kế diễn ra càng “gay go” và “quyết liệt” hơn.
+ Cơ sở pháp luật: Do tính ổn định không cao của luật, đặc biệt là pháp luật
về đất đai dẫn đến đường lối giải quyết các tranh chấp về thừa kế liên quan đến nhà
đất không ổn định. Ngoài ra, những quy định của pháp luật chưa thực sự nhất quán,
có những điểm còn chưa hợp lý, chưa rõ ràng nên khó áp dụng; các văn bản hướng
dẫn thi hành chưa đầy đủ... Mặt khác, những hạn chế của pháp luật tố tụng cũng là
nguyên nhân dẫn đến việc xét xử sai.
+ Trình độ nhận thức của người dân: nhận thức về pháp luật nói chung của
người dân và nhận thức về pháp luật thừa kế nói riêng còn hạn chế, đặc biệt là ở
nông thôn, vùng sâu, vùng xa… do công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biến pháp
luật diễn ra không đồng đều ở các địa phương hoặc có lúc, có nơi diễn ra không kịp
thời. Việc đó dẫn đến tình trạng người dân không nhận thức được vai trò quan trọng
của pháp luật, biểu hiện của vấn đề này trên thực tế rất đa dạng, chẳng hạn như tình
trạng người lập di chúc để lại di sản của mình cho người khác không tuân thủ về
hình thức, không tuân thủ về cách thức lập… Đây là một trong những nguyên nhân
chính dẫn đến tranh chấp về thừa kế. Ngoài ra, ý thức chấp hành pháp luật của
người dân chưa cao.
+ Về công tác xét xử của Tòa án: Để giải quyết các tranh chấp phải qua một
quá trình xác minh, thu thập chứng cứ, thậm chí có khi việc xác minh, thu thập
chứng cứ đó có liên quan đến nhiều cơ quan khác nhau làm cho việc giải quyết kéo
dài. Bên cạnh đó, trình độ năng lực của cán bộ Tòa án không đồng đều, trình độ của
một bộ phận cán bộ còn hạn chế, một số cán bộ làm việc chưa hoàn toàn khách
quan, thiếu tinh thần trách nhiệm…
2.Thực tiễn giải quyết tranh chấp liên quan đến di chúc chung của vợ, chồng.
Để có thể tìm hiểu thực tiễn giải quyết tranh chấp liên quan đến di chúc
chung của vợ, chồng như thế nào chúng ta có thể xét ví dụ sau: Tranh chấp di sản
thừa kế do xác định không đúng thời điểm có hiệu lực của di chúc cũng như nhận
thức sai nội dung và tính chất của di chúc.
16
Tranh chấp di sản thừa kế giữa: Nguyên đơn: cụ Nguyễn Hữu Liễu ở Nhân
Chính, Thanh Xuân, Hà Nội. Bị đơn: ông Nguyễn Anh Dũng trú tại ngách 12/87
Chính Kinh, Nhân Chính, Thanh Xuân, Hà Nội.
Tóm tắt vụ án: Vợ chồng cụ Nguyễn Hữu Liễu và cụ Lê Thị Tân có 6 người
con chung là ông Hùng, ông Dũng , ông Vũ, ông Phong, bà Minh Châu và Liên
Châu. Cụ Lê Thị Tân chết ngày 25/10/2001, cụ không để lại di chúc riêng mà cùng
với cụ Liễu lập chúc thư sống để định đoạt tài sản cho các con. Theo cụ Liễu trình
bày: Vợ chồng cụ tạo lập được ngôi nhà ngói gồm 10 phòng trên tổng diện tích
4600 m2, sau đó cụ đã bán một phần còn lại là 2000 m2. Năm 1993, cụ thông báo
việc phân chia đất cho các con đồng thời cụ làm giấy viết tay cho từng người, năm
1994 – 1995, cụ cho ông Dũng lấp ao trồng chuối, ông Dũng xây nhà cho sinh viên
thuê, cụ không phản đối. Năm 1999, ông Dũng bán một phần đất ao, cụ không biết.
Nay do ông Dũng bất hiếu với bố mẹ nên vợ chồng cụ phải lập di chúc sống lần hai,
bác bỏ di chúc ngày 1/5/1983 và kiện đòi đất ao còn lại.
Bản án dân sự số 1/DSST ngày 27/12/2002 TAND quận Thanh Xuân quyết
định: - Xác nhận việc hủy bỏ di chúc chung.
- Chấp nhận yêu cầu của bà Minh Châu (đại diện cho cụ Liễu) đòi lại quyền
sử dụng đất của cụ Liễu và chia thừa kế theo pháp luật quyền sử dụng đất, vật kiến
trúc của cụ Tân để lại cho ông Dũng gồm 604,4 m2 đất trên có miếu thờ.
- Xác nhận quyền sử dụng đất của cụ Liễu là ½ diện tích đất 604.4 m 2 đất trên
có miếu thờ mà ông Dũng đã xây nhà ba tầng, nhà làm câu lạc bộ bóng bàn và nhà
cấp 4 cho thuê. Buộc ông Dũng trả cụ Liễu toàn bộ diện tích đất ông Dũng đã xây
nhà cấp 4 diện tích 229,46 m2. Cụ Liễu được sở hữu toàn bộ vật liệu xây dựng.
- Cụ Liễu có trách nhiệm trả cho vợ chồng ông Dũng tiền công xây nhà và đổ
đất đối với diện tích đất trên.
Xác định hàng thừa kế của cụ Tân gồm: cụ Liễu, ông Hùng, ông Dũng, ông
Vũ, ông Phong, bà Minh Châu, Liên Châu.
Ông Dũng được chia toàn bộ diện tích 71,54 m 2 đất nhà 3 tầng và một miếu
thờ trên sân cùng một phần diện tích đất có nhà ông Dũng xây làm câu lạc bộ bóng
bàn, tổng diện tích ông Dũng được chia là 117,149, m2. Ông Dũng có trách nhiệm
thanh toán trả cụ Liễu và những người thừa kế trị giá chênh lệch chia di sản thừa kế
cho mỗi người là 3314000 đồng. Ông Dũng còn phải thanh toán trả cụ Liễu trị giá
tiền sử dụng đất là 93855000 đồng…
17
Ngày 15/1/2003, ông Dũng có đơn kháng cáo. Ngày 21/1/2003, bà Minh
Châu, ông Vũ có đơn kháng cáo. Ngày 27/1/2003, cụ Liễu, ông Phong, ông Hùng,
bà Liên Châu có đơn kháng cáo.
Tại bản án phúc thẩm số 118/DSPT ngày 22/5/2003 TAND thành phố Hà Nội
quyết định: Bác yêu cầu đòi quyền sử dụng đất và xin chia thừa kế sử dụng đất của
cụ Liễu do bà Minh Châu đại diện đối với ông Dũng. Xác định diện tích đất ao đã
san lấp có diện tích đo thực tế 789 m2, trên có miếu thờ thuộc quyền sở hữu và sử
dụng của ông Dũng. Ghi nhận sự tự nguyện của ông Dũng biếu cụ Liễu 100000000
đồng. Ông Dũng có trách nhiệm đến cơ quan quản lý nhà đất để ke khai đăng ký
quyền sử dụng đất này.
Sau khi xét xử phúc thẩm cụ Liễu có đơn khiếu nại.
Tại quyết định số 61/KNDS ngày 12/9/2003, Chánh án TANDTC đã kháng
nghị bản án phúc thẩm trên theo hướng giao hồ sơ vụ án cho TAND thành phố Hà
Nội xét xử theo thủ tục sơ thẩm.
Qua quá trình xét xử của các cấp Tòa trong vụ án trên, ta thấy: Cả hai cấp Tòa
đều xác định chính xác người thừa kế theo pháp luật của cụ Tân. TAND quận Thanh
Xuân quyết định cho ông Dũng hưởng phần diện tích đã xây dựng cho sinh viên
thuê là không có căn cứ vì di chúc của hai cụ để lại chưa có hiệu lực pháp luật.
TAND thành phố Hà Nội quyết định bác đơn yêu cầu đòi quyền sử dụng đất và xin
chia thừa kế của cụ Liễu là không đúng, tòa đã sai lầm trong việc coi di chúc mà các
cụ lập là một hợp đồng tặng cho, trong khi đó là một di chúc.
3.Một số phương hướng góp phần hoàn thiện quy định của pháp luật về di
chúc chung của vợ, chồng.
Để góp phần hoàn thiện quy định của pháp luật về di chúc chung của vợ,
chồng cần phải tách vấn đề di chúc chung của vợ, chồng ra khỏi di chúc của cá nhân
và thiết kế thành một mục riêng trong chương thừa kế theo di chúc. Tuy di chúc
chung của vợ, chồng cũng là một loại di chúc được lập, sửa đổi, bổ sung và phát
sinh hiệu lực gần giống như một di chúc thông thường, nhưng di chúc chung của
vợ, chồng còn có những đặc thù riêng nên cần phải được quy định thành một mục
riêng. Và khi được quy định thành một mục riêng như thế thì nội dung của mục này
cần làm rõ các vấn đề sau:
+ Tương tự như di chúc cá nhân thì cần quy định quyền lập di chúc chung của
vợ, chồng khi hôn nhân đang còn hiệu lực phải tuân thủ các quy định chung về năng
18
lực lập di chúc, các yêu cầu để di chúc có hiệu lực. Quy định quyền được sửa đổi,
bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung của vợ, chồng như di chúc cá nhân.
+ Dung hòa giữa quyền của vợ, chồng trong việc lập di chúc chung với lợi ích
chính đáng của những người thừa kế của vợ hay chồng. Cho phép những người thừa
kế hợp pháp của vợ hay chồng chết trước có quyền xin chia thừa kế đối với phần di
sản của vợ, chồng không được định đoạt trong di chúc chung. Cần phải xác định rõ
khoảng thời gian mà di sản chưa được phân chia thì được trừ vào thời hiệu khởi
kiện thừa kế. Việc kéo dài thời điểm phát sinh hiệu lực của di chúc chung sẽ chấm
dứt, nếu người còn sống kết hôn với người khác hoặc họ đã lập di chúc khác để thay
thế, hủy bỏ, sửa đổi, bổ sung di chúc chung liên quan tới phần di sản của họ trong
tài sản chung, mà việc đó ảnh hưởng tới sự tồn tại của di chúc chung hoặc ảnh
hưởng nghiêm trọng đến tài sản chung của vợ chồng.
+ Quy định về vấn đề chỉ nên lập di chúc chung bằng thể thức văn bản có
người làm chứng (nếu cả hai vợ, chồng đủ minh mẫn, sáng suốt, không thuộc
trường hợp mù chữ hoặc bị khiếm khuyết thể chất liên quan đến chức năng lập,
kiểm tra nội dung di chúc); hoặc văn bản công chứng, chứng thực.
+ Điều 668 BLDS nên được sửa đổi theo quy định tại điều 671 BLDS1995 sẽ
hợp lý hơn. Di chúc do vợ chồng lập chung nhưng sau đó một người chết trước thì
chỉ phần di chúc liên quan đến di sản của người chết trước có hiệu lực thi hành. Quy
định như vậy sẽ thuận tiên cho việc giải quyết những tranh chấp liên quan đến việc
hưởng di sản của những người thừa kế theo di chúc, đồng thời cũng tránh được
những rắc rối không cần thiết.
+ Cần có cách tiếp cận mềm dẻo hơn về vấn đề thời điểm có hiệu lực của di
chúc chung. Cần thừa nhận cả hai khả năng là vợ, chồng có thỏa thuận về thời điểm
có hiệu lực của di chúc chung và trường hợp vợ, chồng không thỏa thuận về vấn đề
này trong di chúc chung. Mục đích là làm cho quy định về thời điểm có hiệu lực của
di chúc chung vừa bảo đảm tính đặc thù của việc thể hiện ý nguyện chung của vợ,
chồng, nhưng cũng đảm bảo tính thống nhất với các quy định khác có liên quan.
+ Luật cần dự liệu những căn cứ cụ thể làm chấm dứt di chúc chung của vợ
chồng một cách đương nhiên, nhằm tạo cơ sở pháp lý rõ ràng để giải quyết các
trường hợp tương ứng, tránh gây ra sự lúng túng, thiếu nhất quán hoặc những tranh
cãi không cần thiết, khi các bên liên quan tiến hành phân chia di sản trên di chúc
chung của vợ chồng.
KẾT LUẬN
19
Qua việc tìm hiểu phân tích những vấn đề thuộc di chúc chung của vợ, chồng
chúng ta có thể thấy được rằng lập di chúc chung bên cạnh những lợi ích mà nó đem
lại thì cũng để lại nhiều bất cập khó xử lý cho các nhà làm luật. Vì vậy mà pháp luật
cần hoàn thiện các quy định về di chúc chung của vợ, chồng để có thể giải quyết các
vụ việc cụ thể trong thực tế một cách hợp tình, hợp lý. Đồng thời cần phổ biến cho
mọi người dân ở tất cả các vùng miền hiểu hơn về di chúc chung của vợ, chồng để
họ có cái nhìn đúng đắn và sâu sắc hơn.
20