Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Di chúc chung của vợ chồng theo pháp luật dân sự việt nam hiện hành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (759.84 KB, 90 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN HỒNG HẠNH

DI CHÚC CHUNG CỦA VỢ CHỒNG
THEO PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN HỒNG HẠNH

DI CHÚC CHUNG CỦA VỢ CHỒNG
THEO PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH

Chuyên ngành: Luật Dân sự và tố tụng Dân sự
Mã số: 60 38 01 03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS Phùng Trung Tập

Hà Nội - 2015



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các tài liệu trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin
cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Người cam đoan

Nguyễn Hồng Hạnh


LỜI CẢM ƠN
Luận văn là kết quả quá trình học tập, nghiên cứu ở nhà trường, kết hợp
với kinh nghiệm trong quá trình thực tiễn công tác, với sự cố gắng nỗ lực của
bản thân.
Lời đầu tiên tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành, sâu sắc tới PGS. TS
Phùng Trung Tập là người trực tiếp hướng dẫn khoa học, đã tận tình hướng
dẫn cho tôi cả chuyên môn và phương pháp nghiên cứu và chỉ bảo cho tôi
nhiều kinh nghiệm trong thời gian thực hiện đề tài.
Tôi xin chân thành cám ơn các thầy, cô giáo trong Khoa Luật trực
thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội và bạn bè đã giúp đỡ tôi trong quá trình học
tập cũng như trong quá trình hoàn thành luận văn này.
Sau cùng, tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến gia đình đã luôn tạo điều
kiện tốt nhất cho tôi trong suốt quá trình học cũng như thực hiện luận văn.
Mặc dù với sự nỗ lực cố gắng của bản thân, luận văn không tránh khỏi
những thiếu sót. Tôi mong nhận được sự góp ý chân thành của các Thầy Cô,

đồng nghiệp và bạn bè để luận văn được hoàn thiện hơn.
Hà nội, ngày 25 tháng 9 năm 2015
Tác giả Luận văn

Nguyễn Hồng Hạnh


MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1
CHƢƠNG 1...................................................................................................... 6
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ................................................................. 6
DI CHÚC VÀ DI CHÚC CHUNG CỦA VỢ, CHỒNG............................... 6
1.1. Khái niệm, đặc điểm, hình thức di chúc chung của vợ, chồng ............ 6
1.1.1. Khái niệm di chúc và di chúc chung của vợ chồng .............................. 6
1.1.2. Đặc điểm di chúc chung của vợ, chồng ................................................ 7
1.1.3. Cơ sở thiết lập di chúc chung của vợ, chồng ...................................... 14
1.2. Quá trình hình thành và phát triển về di chúc chung của vợ, chồng;
sơ lƣợc lịch sử vấn đề qua các thời kỳ ......................................................... 18
1.2.1. Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về di chúc chung
của vợ chồng trên thế giới ............................................................................. 18
1.2.2. Quá trình hình thành và phát triển của chế định di chúc chung của
vợ, chồng tại Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử. ........................................... 19
Kết luận chƣơng 1 ......................................................................................... 24
CHƢƠNG 2.................................................................................................... 26
CÁC ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC CỦA DI CHÚC CHUNG CỦA ........ 26
VỢ, CHỒNG .................................................................................................. 26
2.1. Điều kiện về chủ thể ................................................................................ 26
2.2. Điều kiện về nội dung và mục đích ........................................................ 27
2.3. Điều kiện về ý chí .................................................................................... 34

2.4. Điều kiện về hình thức ............................................................................ 37
2.5.
Sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ di chúc chung của vợ, chồng ............... 43
2.6. Hiệu lực di chúc chung của vợ, chồng .................................................. 47
2.7. Những hạn chế về quyền tự định đoạt trong di chúc chung của vợ,
chồng ............................................................................................................... 50
Kết luận chƣơng 2 ......................................................................................... 54
CHƢƠNG 3.................................................................................................... 56
ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ QUY ĐỊNH DI CHÚC CHUNG ...................... 56
CỦA VỢ, CHỒNG. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP .................. 56
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ....................................................................... 56
3.1. Ƣu điểm ................................................................................................... 56
3.2. Bất cập ..................................................................................................... 56
3.2.1. Bất cập về quyền lập di chúc chung của vợ, chồng và nguyên tắc tự
nguyện cá nhân trong việc lập di chúc. ........................................................ 56
3.2.2. Bất cập về nội dung và mục đích của di chúc chung của vợ, chồng ........ 57


3.2.3. Bất cập về hình thức của di chúc chung của vợ, chồng. ................... 59
3.2.4. Bất cập về quyền sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung ..... 61
3.2.5. Bất cập về thời điểm có hiệu lực của di chúc chung .......................... 63
3.2.6. Bất cập về vấn đề chấm dứt sự tồn tại của di chúc chung ................. 68
3.2.7. Bất cập về hoa lợi, lợi tức phát sinh khi di sản chung chưa chia ....... 68
3.3. Dự thảo sửa đổi Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định nhƣ thế nào về di
chúc chung của vợ, chồng? ........................................................................... 69
3.4. Những giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về di chúc chung
của vợ, chồng ................................................................................................. 71
3.4.1. Có nên tiếp tục thừa nhận di chúc chung của vợ, chồng? ................ 71
3.4.2. Giữ quy định về di chúc chung của vợ chồng .................................... 72
Kết luận chƣơng 3 ......................................................................................... 81

KẾT LUẬN CHUNG .................................................................................... 82
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 83
I. Tiếng Việt ................................................................................................... 83


LỜI MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
1.1. Tính cấp thiết của đề tài:
Thừa kế là một chế định quan trọng trong hệ thống pháp luật Dân sự
Việt Nam. Ở chế độ xã hội có giai cấp nào, vấn đề thừa kế cũng có vị trí quan
trọng trong các chế định pháp luật, là hình thức pháp lý chủ yếu để bảo vệ các
quyền của công dân, nó gắn liền với đời sống của mỗi cá nhân trong việc tự
định đoạt di sản của mình trước khi chết; quyền và nghĩa vụ của người sống
đối với khối di sản thừa kế đó như thế nào.
Ở Việt Nam, ngay những ngày đầu mới dựng nước, các Triều đại Lý,
Trần, Lê đã có sự quan tâm đến ban hành pháp luật về thừa kế. Trải qua quá
trình đấu tranh cách mạng, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, các quy định
về thừa kế đã được ghi nhận, mở rộng, phát triển và được thực hiện trên thực
tế thể hiện qua các Hiến pháp 1959, 1980, 1992 và đặc biệt là sự ra đời của
Bộ luật dân sự 1995, sau đó Bộ luật dân sự 2005 đã đánh dấu một bước phát
triển của pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật thừa kế nói riêng. Bộ
luật dân sự 2005 được xem là kết quả cao của quá trình pháp điển hóa những
quy định của pháp luật về thừa kế. Nó kế thừa và phát triển những quy định
phù hợp với thực tiễn, không ngừng hoàn thiện để bảo vệ quyền lợi của người
thừa kế một cách có hiệu quả nhất.
Tuy nhiên về thực tiễn, do sự phát triển mạnh mẽ của đời sống kinh tế xã hội, phát luật về thừa kế hiện hành vẫn chưa trù liệu hết những trường hợp,
tình huống xảy ra trên thực tế; các quy định còn mang tính chất chung chung,
không rõ ràng, không có văn bản hướng dẫn thi hành cho từng vấn đề cụ thể,
dẫn đến tình trạng không nhất quán trong cách hiểu cũng như cách giải quyết.
Hàng năm Tòa án nhân dân các cấp thụ lý và giải quyết hàng ngàn vụ án thừa

kế, trong đó có những vụ án qua nhiều cấp xét xử hoặc cùng một cấp nhưng

1


xét xử lại qua nhiều lần, mỗi lần có quyết định khác nhau, thậm chí trái ngược
nhau dẫn đến tính thuyết phục không cao, chưa thấu tình đạt lý. Do đó nhu
cầu nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung pháp luật về thừa kế cho phù hợp với tình
hình đất nước đang ngày càng tiến lên là một nhu cầu cấp thiết.
Pháp luật Việt Nam hiện hành quy định có hai hình thức thừa kế là thừa
kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật. Hình thức chia thừa kế theo di chúc
là hình thức chia thừa kế trong đó ý chí của người để lại di sản được Nhà
nước tôn trọng và bảo vệ thông qua các quy phạm pháp luật. Bên cạnh di chúc
cá nhân, pháp luật Việt Nam còn quy định về di chúc chung của vợ, chồng.
Quy định này làm phức tạp thêm việc giải quyết các tranh chấp về thừa kế. Vì
tính đa dạng, phong phú của khối tài sản chung, tài sản riêng của vợ và chồng
nên vợ chồng định đoạt tài sản theo di chúc chung chỉ là ý chí chủ quan của
họ, nguyện vọng của họ và sau khi họ qua đời, việc giải quyết các tranh chấp
liên quan đến di chúc chung không phải lúc nào cũng thấu tình đạt lý.
Với những lý do trên, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài “Di chúc chung của
vợ chồng theo pháp luật Dân sự Việt Nam hiện hành” làm đề tài Luận văn
thạc sĩ Luật học. Đây là một đề tài có ý nghĩa quan trọng và cấp bách cả về
phương diện lý luận cũng như thực tiễn.
1.2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay các công trình khoa học, các công trình nghiên cứu về vấn đề
di chúc chung của vợ chồng cũng như tính hiệu lực pháp luật của nó không
phổ biến. Có một số công trình nghiên cứu như:
- Thừa kế của công dân Việt Nam từ 1945 đến nay, NXB Tư Pháp
2004, sách chuyên khảo của PGS, TS Phùng Trung Tập.
- Thừa kế theo di chúc theo pháp luật Việt Nam của Tiến sỹ Vũ Văn

Mẫu;
- Một số suy nghĩ về thừa kế trong luật Dân sự Việt Nam của Tiến sỹ
Nguyễn Ngọc Điện;

2


- Luật thừa kế Việt Nam của PGS.TS Phùng Trung Tập cùng một số
bài viết trên tạp chí Luật học, tạp chí Dân chủ và pháp luật.
Tuy nhiên các công trình nói trên chỉ giải quyết quan hệ thừa kế theo di
chúc và theo pháp luật nói chung hoặc giải quyết những vấn đề cụ thể trong
quan hệ thừa kế di sản mà chưa có một công trình nào nghiên cứu về di chúc
chung của vợ, chồng theo pháp luật Dân sự Việt Nam.
1.3. Tính mới và những đóng góp của đề tài:
- Đây là một vấn đề mới, có ý nghĩa quan trọng trên phương diện lý
luận cũng như thực tiễn. Luận văn đi sâu làm sáng rõ những điều bất cập mà
pháp luật đã quy định.
- Luận văn đưa ra khái niệm di chúc chung của vợ chồng, đưa ra những
điều kiện để di chúc của vợ chồng có hiệu lực pháp luật.
- Luận văn so sánh di chúc chung của vợ chồng theo pháp luật Việt
Nam với pháp luật các quốc gia trên thế giới từ đó làm sáng tỏ những điểm
đặc thù về di chúc chung của vợ chồng, từ đó đưa ra những kiến nghị hoàn
thiện pháp luật Việt Nam.
Tóm lại, các công trình nghiên cứu nói trên đã nêu ra nhiều vấn đề cơ
bản về lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật thừa kế trên nhiều góc độ, tuy
nhiên các công trình dưới góc độ lý luận hoàn thiện pháp luật về thừa kế còn
ít, chưa đầy đủ. Các quy định về thừa kế tuy còn nhiều điểm phải hoàn thiện
nhưng được đánh giá là một trong những chế định hoàn thiện nhất của Bộ luật
Dân sự. Tuy nhiên, cũng như việc hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam,
các quy định về thừa kế cũng phải hoàn thiện để không một quan hệ thừa kế

nào nằm ngoài sự điều chỉnh của pháp luật. Luận văn sẽ nghiên cứu chuyên
sâu về vấn đề này, đây là đề tài hoàn toàn độc lập, không có sự trùng lặp với
bất kỳ công trình nào khác.

3


2. Nội dung, địa điểm và phƣơng pháp nghiên cứu
2.1. Nội dung nghiên cứu: Nghiên cứu Di chúc chung của vợ chồng
theo pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành và nêu ra các giải pháp nhằm hoàn
thiện pháp luật về di chúc chung của vợ chồng.
2.2. Phƣơng pháp nghiên cứu: Việc nghiên cứu đề tài dựa trên cơ sở
lý luận chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm chủ
trương, đường lối của Đảng và nhà nước về pháp luật. Đặc biệt là các quan
điểm của Đảng và Nhà nước về sở hữu tư nhân, về thừa kế trong thời kỳ đổi
mới, mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế, đòi hỏi có sự khởi sắc về mọi mặt. Dựa
trên phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa
Mác - Lê nin. Bên cạnh đó, còn sử dụng một số phương pháp khoa học
chuyên ngành khác: phương pháp logic, phân tích, so sánh, tổng hợp, lịch sử,
nêu vấn đề…
2.3. Mục đích nghiên cứu:
- Di chúc chung của vợ chồng là một loại di chúc đặc biệt thể hiện về
chủ thể, nội dung, ý nghĩa, hình thức. Do đó để tìm hiểu và làm rõ các quy
định của pháp luật hiện hành về di chúc chung của vợ chồng nói chung và
hiệu lực pháp luật di chúc chung của vợ chồng nói riêng.
Trong khuôn khổ luận văn, học viên sẽ tập trung làm sáng tỏ các vấn đề
sau đây:
- Pháp luật về thừa kế đã hình thành và tồn tại rất lâu, qua quá trình tồn
tại và phát triển pháp luật về thừa kế có nhiều sự sửa đổi, bổ sung trên cơ sở
kế thừa các quy định trước và các chuẩn mực đạo đức. Trong mỗi giai đoạn

lịch sử khác nhau pháp luật về thừa kế có sự thay đổi cho phù hợp với tình
hình xã hội. Tuy nhiên mọi sự thay đổi đều tôn trọng con người, tôn trọng
quyền sở hữu đối với tài sản của công dân, đảm bảo quyền tự do, thể hiện ý
chí, tự định đoạt của công dân; bảo vệ trật tự xã hội, quyền lợi của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể.

4


- Thừa kế là sự chuyển giao tài sản từ người đã chết cho người còn
sống. Có hai hình thức thừa kế: thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp
luật. Mỗi hình thức thừa kế đều có đặc điểm riêng. Đặc biệt là thừa kế theo di
chúc, với đặc thù là sự thể hiện ý chí của cá nhân sở hữu tài sản, pháp luật tôn
trọng và bảo vệ sự tự do đó. Tuy nhiên đây cũng chính là nguyên nhân gây ra
nhiều tranh chấp về thừa kế cần giải quyết.
- Di chúc chung của vợ, chồng có đặc điểm và quá trình hình thành
phát triển riêng của nó. Có những thời điểm di chúc chung không được công
nhận hoặc nếu được công nhận thì chỉ được công nhận một cách gián tiếp.
Nhưng do tất yếu xã hội việc cụ thể hóa các vấn đề liên quan đến di chúc
chung là điều không thể thực hiện.
- Qua phân tích các vấn đề: bản chất, nội dung, hình thức, hiệu lực…
của di chúc chung giúp chúng ta có cái nhìn bao quát về di chúc chung của
vợ, chồng. Từ đó hiểu được bản chất của di chúc chung của vợ, chồng. Trên
cơ sở tìm hiểu và phân tích đó có thể tìm ra những điểm tiến bộ cũng như
điểm còn hạn chế trong quy định của pháp luật về thừa kế hiện hành để có
những giải pháp áp dụng tốt hơn trong thực tiễn.
Từ đó đưa ra một số kiến nghị về mặt lý luận và kiến nghị cụ thể về
việc sửa đổi, bổ sung các quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2005 nhằm hoàn
thiện hơn pháp luật về thừa kế.
3. Cơ cấu của luận văn

Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận về di chúc và di chúc chung của vợ,
chồng
Chƣơng 2: Lý luận về di chúc chung của vợ, chồng theo pháp luật Việt
Nam hiện hành.
Chƣơng 3: Đánh giá chung về quy định di chúc chung của vợ chồng.
Kiến nghị và các giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật Việt Nam hiện
hành về hiệu lực di chúc chung của vợ chồng

5


CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ
DI CHÚC VÀ DI CHÚC CHUNG CỦA VỢ, CHỒNG
1.1. Khái niệm, đặc điểm, hình thức di chúc chung của vợ, chồng
1.1.1. Khái niệm di chúc và di chúc chung của vợ chồng
Theo Từ điển tiếng Việt, “Di chúc là sự dặn lại của một người trước
lúc chết với những người khác về những việc cần làm, nên làm” [18, tr. 254].
Theo cách hiểu thông thường, di chúc là lời dặn dò của một người
trước khi chết để lại cho con cháu, có thể là lời dặn con cháu yêu thương nhau
hay dặn con cháu làm một việc gì đó hoặc thể hiện ý nguyện của một người
trước khi chết, ý nguyện về thờ cũng tổ tiên, ý nguyện về việc chia tài sản…
Trong các gia đình Việt Nam truyền thống, các thành viên trong gia đình duy
trì lối ứng xử coi trọng cái tâm, tư tưởng hiếu, lễ, hòa, mục giữa những người
ruột thịt được đề cao. Vì thế, một người trước khi chết thường nghĩ rằng theo
lời dặn lại của mình, những người còn sống sẽ cứ thế thực hiện và hưởng di
sản một cách hòa thuận nên di chúc mà người chết để lại đa phần là những lời
trăng trối, dặn dò mà ít khi quan tâm đến hình thức thể hiện lời dặn dò đó phải
như thế nào, phải tuân thủ những quy định gì của pháp luật. Ngày nay, do sự
phát triển của kinh tế - xã hội, dưới sự tác động của những mặt trái của kinh

thế thị trường, lối ứng xử truyền thống phần nào bị mai một, những di chúc
nói trên là một trong những nguyên nhân làm phát sinh tranh chấp về thừa kế.
Vì vậy, bên cạnh cách hiểu thông thường về di chúc, khái niệm di chúc cần
phải được luật hóa để đảm bảo đúng bản chất của nó là sự chuyển dịch tài sản
từ người chết cho người còn sống theo ý chí của người lập di chúc.
Dưới góc độ pháp lý, Điều 649 BLDS VN năm 1995, Điều 646 BLDS
VN năm 2005 định nghĩa di chúc như sau: “Di chúc là sự thể hiện ý chí của
cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết”.

6


Như vây, di chúc là phương tiện phản ánh ý chí tự nguyện cuối cùng
của cá nhân trước khi chết về việc định đoạt tài sản của họ cho người khác
phù hợp với quy định của pháp luật. Sự bày tỏ ý chí của một người nhằm định
đoạt tài sản thuộc quyền sở hữu của mình sẽ được chuyển giao cho một hoặc
nhiều người sau khi người lập di chúc chết là một trong những quyền dân sự
quan trọng của mỗi con người. Sự bày tỏ ý chí được thực hiện thông qua hình
thức bằng văn bản hoặc bằng lời nói.
Điều 663 Bộ luật dân sự năm 2005 không đưa ra một khái niệm cụ thể
thế nào là di chúc chung của vợ, chồng mà chỉ đưa ra một quy định rất chung
chung, mang tính tùy nghi: “Vợ, chồng có thể lập di chúc chung để định đoạt
tài sản chung”. Xét về bản chất, di chúc chung của vợ, chồng là một trường
hợp đặc biệt của di chúc. Nếu di chúc thông thường người lập di chúc (cá
nhân) có quyền định đoạt tài sản của mình (bao gồm tài sản riêng và tài sản
chung) thì đối với di chúc chung của vợ, chồng người lập di chúc (vợ chồng)
chỉ định đoạt phần tài sản chung của vợ, chồng. Vợ, chồng có quyền ngang
nhau đối với tài sản thuộc sở hữu chung, trong đó có quyền lập di chúc chung
để định đoạt khối tài sản chung của vợ, chồng sau khi chết. Như vậy, có thể
hiểu, với tư cách là đồng sở hữu chung hợp nhất đối với tài sản, vợ và chồng

có quyền định đoạt tài sản chung bằng nhiều cách, trong đó có quyền định
đoạt tài sản chung bằng cách lập di chúc.
Di chúc chung của vợ, chồng thể hiện sự đồng thuận trong việc định
đoạt tài sản chung. Chủ thể lập di chúc chung không phải là cá nhân mà là hai
người: vợ và chồng, trên cơ sở bàn bạc, thỏa thuận đi đến thống nhất lập di
chúc để định đoạt khối tài sản chung. Do đó, dựa vào những yếu tố trên, ta có
thể đưa ra khái niệm di chúc chung của vợ, chồng như sau: “Di chúc chung
của vợ chồng là sự thể hiện ý chí đồng thuận, thống nhất của vợ và của chồng
nhằm chuyển dịch tài sản chung của vợ, chồng cho người khác sau khi chết.”
1.1.2. Đặc điểm di chúc chung của vợ, chồng
7


Di chúc chung của vợ, chồng là một trường hợp đặc biệt của di chúc
nên nó có đầy đủ đặc điểm của một di chúc thông thường: sự thể hiện ý chí tự
nguyện của bên lập di chúc; nội dung di chúc là định đoạt tài sản của người
lập di chúc; di chúc phát sinh hiệu lực pháp luật khi người để lại di chúc chết.
Bên cạnh những điểm chung giống nhau, di chúc chung của vợ, chồng
còn có một số đặc điểm riêng sau:
Thứ nhất, di chúc chung của vợ, chồng được hình thành dựa trên
quan hệ hôn nhân còn hiệu lực.
Di chúc chung của vợ, chồng phải do người vợ và người chồng cùng
lập, do đó giữa họ phải đang tồn tại quan hệ hôn nhân. Khoản 13, Điều 3 Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2014 xác định: “Thời kỳ hôn nhân là khoảng thời
gian tồn tại quan hệ vợ, chồng được tính từ ngày đăng ký kết hôn đến ngày
chấm dứt hôn nhân”.
Do nhiều nguyên nhân khác nhau mà một số trường hợp không đáp ứng
được các điều kiện về nội dung và hình thức kết hôn theo Luật Hôn nhân và
gia đình năm 2000 hay Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định nhưng
việc lập di chúc chung giữa họ vẫn được thừa nhận như: Trường hợp có nhiều

vợ hoặc nhiều chồng; trường hợp nam nữ sống chung với nhau như vợ, chồng
(Thông tư số 60 - DS ngày 22/2/1978 của Tòa án nhân dân tối cao); Trường
hợp nam, nữ sống chung với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn
(Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 09/6/2000 của Quốc hội về thi hành Luật
hôn nhân và gia đình; Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT ngày 03/1/2001
của TANDTC, VKSNDTC và BTP về thi hành Nghị quyết số
35/2000/QH10). Cụ thể như sau: [10, tr2]
- Đối với những trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập từ trước
ngày 03/01/1987 (ngày Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực) mà
không đăng ký kết hôn, thì khi Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 có hiệu

8


lực, những trường hợp này được khuyến khích đăng ký kết hôn, nghĩa là viê ̣c
đăng ký kế t hôn theo thủ tu ̣c Luâ ̣t đinh
̣ sẽ không bi ̣ha ̣n chế thời gian.
- Trường hợp nam, nữ sống chung với nhau như vợ, chồng từ ngày
03/01/1987 (ngày Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực) đến ngày
01/01/2001 (ngày Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 có hiệu lực) mà
không đăng ký kết hôn, khi Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 có hiệu lực,
nếu có đủ điều kiện kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy
định thì có nghĩa vụ phải đăng ký kết hôn trong thời hạn hai năm. Hết thời
hạn trên mà không đăng ký kết hôn thì không được pháp luật công nhận là vợ,
chồng.
- Trường hợp nhiều vợ, nhiều chồng: quan hệ hôn nhân của vợ, chồng
được xác lập trước ngày 13/01/1960 tuy có vi phạm chế độ hôn nhân một vợ,
một chồng nhưng vẫn được thừa nhận và không trái với pháp luật. Theo
nguyên tắ c chung, nguyên tắ c hôn nhân mô ̣t vơ ̣ , mô ̣t chồ ng đươ ̣c thực hiê ̣n từ
ngày LHN&GĐ năm 1959 có hiệu lực (từ ngày 13/01/1960).

Thứ hai, di chúc chung của vợ chồng là sự thể hiện ý chí chung,
thống nhất của hai vợ, chồng.
Đó là sự thể hiện ý chí thống nhất trong việc phân định tài sản chung
cho ai, chỉ định người thừa kế di chúc, người quản lý di sản, người phân chia
di sản…mà nó không bị chi phối bởi ý kiến của bất kỳ ai, cũng không cần có
sự đồng ý, thỏa thuận của những người được hưởng di sản thừa kế.
Thứ ba, tài sản được định đoạt trong di chúc chung của vợ, chồng là
tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất của vợ, chồng.
Trong thời kỳ hôn nhân, vợ, chồng có thể có tài sản chung, có thể có tài
sản riêng. Tuy nhiên khi lập di chúc chung của vợ, chồng thì tài sản được định

9


đoạt trong đó chỉ bao gồm tài sản chung. Tài sản chung của vợ chồng bao
gồm:
“1. Tài sản chung của vợ, chồng bao gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra,
thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp
pháp khác của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ, chồng được
thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ, chồng
thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản
chung của vợ, chồng. Quyền sự dụng đất mà vợ, chồng có được trước khi kết
hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ, chồng có sự thỏa thuận.
3. Trong trường hợp không có chứng chứ chứng minh tài sản mà vợ
chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài
sản chung.” [8, tr 22]
Thứ tư, thời điểm có hiệu lực của di chúc chung của vợ, chồng là
thời điểm người sau cùng chết hoặc tại thời điểm vợ, chồng cùng chết.
Điều 668 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: “Di chúc chung của vợ,

chồng có hiệu lực từ thời điểm người sau cùng chết hoặc tại thời điểm vợ,
chồng cùng chết”. Đây cũng là một đặc trưng của di chúc chung của vợ,
chồng làm nó có khác biệt so với di chúc do một cá nhân lập. Bởi thời điểm di
chúc do cá nhân lập theo quy định của pháp luật chỉ có hiệu lực khi cá nhân
đó chết, còn thời điểm có hiệu lực của di chúc chung của vợ, chồng được xác
định qua hai trường hợp.
Thứ năm, Vợ chồng có các quyền sau để định đoạt tài sản chung của
vợ, chồng:
Một là, Quyền chỉ định người thừa kế, truất quyền thừa kế của người
thuộc diện thừa kế:

10


Di chúc chung vợ, chồng dùng để định đoạt khối tài sản thuộc sở hữu
chung hợp nhất của vợ, chồng. Khi vợ chồng còn sống, quyền sở hữu chung
hợp nhất đối với khối tài sản chung được pháp luật bảo đảm thông qua các
quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt. Việc lập di chúc để phân chia tài sản là
một trong các biểu hiện của quyền tự định đoạt đối với tài sản thuộc sở hữu
chung. Vợ chồng có quyền thỏa thuận để lại di chúc cho bất cứ người nào tức
là có quyền chỉ định người thừa kế và cũng có thể truất quyền thừa kế của
người thuộc diện thừa kế. Người thừa kế theo di chúc chung của vợ, chồng có
thể là Nhà nước, tổ chức hoặc cá nhân bất kỳ theo sự chỉ định của người để lại
di chúc.
Hai là, Quyền phân định tài sản cho người thừa kế:
Ngoài việc lựa chọn người được hưởng di sản thì việc phân định phần
di sản cho từng người thừa kế là một trong những vấn đề cần thỏa thuận. Vấn
đề này cũng hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của hai vợ chồng mà không căn cứ
vào mối quan hệ hôn nhân, nuôi dưỡng hay huyết thống. Vợ chồng để lại toàn
bộ di sản được định đoạt trong di chúc cho một người hoặc để lại di sản cho

nhiều người, phần di sản mà mỗi người được hưởng theo di chúc có thể bằng
nhau hoặc không bằng nhau.
Ba là, Quyền dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ
cúng:
Di tặng là việc người lập di chúc dành một phần di sản để tặng cho
người khác. Phần tặng cho này chỉ có hiệu lực cùng với hiệu lực của di chúc.
Việc vợ chồng định đoạt khối tài sản chung còn thể hiện trong việc vợ, chồng
có quyền dùng một phần di sản vào việc thờ cúng. Theo phong tục, tập quán
và văn hóa của người Việt, con cháu thờ cúng ông bà tổ tiên là một nét văn
hóa, nó giúp thế hệ sau tưởng nhớ đến thế hệ trước.
Bốn là, Quyền giao nhiệm vụ cho người thừa kế:

11


Cùng với việc nhận được di sản người thừa kế có thể được giao thêm
các nghĩa vụ khác nhau. Việc giao nghĩa vụ cho người thừa kế không phải là
đặt điều kiện trong di chúc. Những nghĩa vụ được giao cho người thừa kế là
những nghĩa vụ mà khi còn sống vợ, chồng chưa thực hiện hoặc thực hiện
chưa xong. Việc giao nghĩa vụ cho người thừa kế không phải là đặt điều kiện
trong di chúc. Pháp luật về thừa kế hiện hành không cho phép người lập di
chúc đặt điều kiện cho người hưởng thừa kế.
Năm là, Quyền chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người
chia di sản: Thông thường sau khi lập di chúc vợ, chồng sẽ cùng nhau tự lưu
giữ di chúc chung, cũng có thể yêu cầu cơ quan công chứng lưu giữ hay gửi
người khác. Trong quá trình bảo quản, giữ di chúc của vợ, chồng có thể cho
những người khác biết về việc có bản di chúc chung hoặc để đến trước khi
chết mới công bố công khai sự tồn tại của di chúc chung đó để đến khi chết
bản di chúc được biết đến.
Sáu là, Quyền sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc:

Sửa đổi di chúc là việc người lập di chúc thay thế một phần quyết định
cũ của mình đối với các phần trong di chúc trước đó. Vợ, chồng có thể sửa
đổi người được hưởng thừa kế; sửa đổi quyền và nghĩa vụ của người thừa kế.
Bổ sung di chúc là vợ hoặc chồng có thể thêm vào nội dung của di chúc
gồm: thêm người thừa kế, định đoạt thêm phần tài sản mà di chúc lập trước đó
chưa đề cập…
Nếu người lập di chúc bổ sung, mà phần di chúc bổ sung vẫn hợp pháp
thì di chúc đã lập và phần di chúc bổ sung đều có hiệu lực pháp luật như nhau.
Tuy nhiên, có những trường hợp “nếu một phần của di chúc đã lập và phần
bổ sung mâu thuẫn nhau thì chỉ phần bổ sung có hiệu lực pháp luật” [8,
khoản 2, điều 662].

12


Thay thế di chúc là việc người để lại di sản lập di chúc khác thay thế
cho di chúc cũ. Do đó di chúc trước coi như không có hiệu lực.
Hủy bỏ di chúc là việc người để lại di sản từ bỏ di chúc của mình bằng
cách không công nhận di chúc do mình lập ra là có giá trị. Trường hợp này
được coi là chưa tồn tại di chúc chung.
Thông qua việc phân tích các đặc điểm của di chúc chung của vợ,
chồng cho thấy di chúc chung của vợ chồng có một số điểm đặc thù, khác biệt
với di chúc thông thường như sau:
Tiêu chí
Chủ thể
lập di
chúc

Di chúc thông thƣờng


Di chúc chung của vợ, chồng

Pháp luật chỉ cho phép 1 cá Pháp luật cho phép 2 người: vợ và
nhân có quyền lập di chúc chồng được lập di chúc chung để
riêng để định đoạt tài sản định đoạt tài sản trên cơ sở hôn
của mình

nhân tồn tại.

Dùng để định đoạt tài sản Chỉ dùng để định đoạt tài sản
Mục đích

riêng của người lập di chúc chung của vợ chồng, không bao
và tài sản nằm trong khối tài gồm tài sản riêng của vợ hoặc
sản chung với người khác

chồng.

Phải là tài sản của người lập Là tài sản chung hợp nhất của vợ,
di chúc có quyền sở hữu hợp chồng, không bao gồm tài sản
Tài sản

pháp, bao gồm tài sản riêng riêng; nếu vợ hoặc chồng định đoạt
và phần tài sản trong khối tài sản riêng trong di chúc chung
tài sản chung với người thì cũng không được xem là một
khác

phần di chúc chung của vợ chồng

Bằng văn bản hoặc bằng Bằng văn bản hoặc bằng miệng,

Hình thức miệng, đáp ứng các điều đáp ứng các điều kiện pháp luật
kiện pháp luật quy định.

quy định.

13


Tiêu chí

Di chúc thông thƣờng

Di chúc chung của vợ, chồng

Sửa đổi,

Cá nhân lập di chúc có Vợ chồng có quyền sửa đổi, bổ

bổ sung,

quyền tuyệt đối khi sửa đổi, sung, thay thế, hủy bỏ di chúc khi

thay thế,

bổ sung, thay thế, hủy bỏ di cả hai người còn sống và đồng

hủy bỏ di

chúc, không phụ thuộc vào thuận với nhau.


chúc

người khác.

Người

Không bao giờ là người lập Vợ hoặc chồng có thể lập di chúc

hưởng

ra di chúc.

để thừa kế lẫn nhau.

thừa kế
Điều 667 Bộ luật Dân sự Điều 668 Bộ luật Dân sự năm
Hiệu lực
pháp luật

năm 2005 quy định: “Di 2005: “Di chúc chung của vợ,
chúc có hiệu lực pháp luật chồng có hiệu lực từ thời điểm
kể từ thời điểm mở thừa kế”. người sau cùng chết hoặc tại thời
điểm vợ, chồng cùng chết”.
Có thể được chỉ định trong Nếu một người chết trước, người
di chúc hoặc được những vợ hoặc chồng còn lại quản lý, sử
người thừa kế thỏa thuận cử dụng và phát triển khối tài sản của
ra. Và người này chỉ có thể vợ, chồng. Sau thời điểm một

Quản lý


bảo quản, tránh sự hao hụt người chết, người còn lại phát triển

di sản

của di sản. Nếu di sản phát di sản và làm ra tài sản mới thì đó
sinh hoa lợi, lợi tức thì là tài sản riêng của người đó,
không nằm trong khối di sản mà

thuộc di sản thừa kế.

vợ, chồng đã định đoạt trong di
chúc chung.
1.1.3. Cơ sở thiết lập di chúc chung của vợ, chồng
Khác với di chúc của cá nhân thể hiện ý chí cá nhân trong việc định
đoạt tài sản thuộc sở hữu của mình, di chúc chung được thiết lập trên cơ sở
14


quan hệ hôn nhân và quan hệ sở hữu chung hợp nhất đối với tài sản chung của
vợ, chồng. Tại sao pháp luật lại quy định chủ thể có quyền lập di chúc chung
để định đoạt tài sản của mình sau khi chết chỉ có thể là vợ, chồng mà không
trao quyền này cho những người khác, bởi lẽ:
Thứ nhất, về mối quan hệ vợ, chồng: vợ, chồng là khái niệm chỉ hai cá
nhân nam nữ độc lập trong xã hội, gắn bó với nhau bởi quan hệ hôn nhân hợp
pháp. Hôn nhân hợp pháp là hôn nhân có đăng ký tại cơ quan nhà nước có
thẩm quyền. Khi là vợ chồng phải “có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn
trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các
công việc trong gia đình” (7, điều 19). Xuất phát từ bản chất của hôn nhân,
vợ chồng cùng nhau xây dựng mái ấm gia đình, cùng chăm nom gia đình,
giáo dục nuôi dưỡng các con.

Thứ hai, về tài sản: Cuộc sống chung của vợ, chồng cùng với tính chất
của quan hệ hôn nhân đã xác lập đòi hỏi vợ chồng phải có khối tài sản chung.
Và khối tài sản ấy sẽ là cơ sở kinh tế của gia đình, đáp ứng các nhu cầu thiết
yếu của gia đình để từ đó thực hiện tốt các chức năng xã hội.
Thứ ba, về mối quan hệ của vợ, chồng với những người thừa kế: thông
thường vợ, chồng lập di chúc chung để dịch chuyển di sản thừa kế cho những
người có quan hệ huyết thống (các con đẻ của vợ, chồng; cha, mẹ, anh, chị,
em ruột của một bên vợ hoặc chồng) hoặc quan hệ nuôi dưỡng như con nuôi.
Người thừa kế cũng có thể là cá nhân, tổ chức khác không thuộc các quan hệ
trên nhưng điều đó ít khi xảy ra khi vợ chồng lập di chúc chung. Mặt khác dù
vợ chồng có định đoạt tài sản chung hay không cho những người trong gia
đình thì pháp luật cũng hạn chế sự định đoạt đó bằng điều 669 Bộ luật Dân sự
năm 2005.
Thứ tư, trong thực tiễn: vấn đề di chúc chung của vợ, chồng đã có từ
lâu đời và ngày càng trở nên phổ biến trong cuộc sống hiện đại. Nó thể hiện
15


truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta, thể hiện đạo lý, tình nghĩa vợ chồng. Đó
cũng là sự tất yếu để hình thành di chúc chung của vợ, chồng.
Từ sự tất yếu trên có thể nhận thấy quy định hiệu lực pháp luật di chúc
chung của vợ chồng có ý nghĩa rất quan trọng. Hiệu lực pháp luật di chúc
chung giúp chia thừa kế theo di chúc chung một lần, nhằm tránh chia di sản
nhiều lần vì điều luật quy định di chúc chung của vợ chồng chỉ có hiệu lực từ
hai thời điểm xác định là người sau cùng chết hoặc vợ chồng cùng chết. Di
chúc chung của vợ chồng đảm bảo quyền sở hữu và quyền sử dụng di sản
thừa kế của người sống, vì tài sản chung của vợ, chồng trong thời kỳ hôn
nhân là loại tài sản chung hợp nhất, khi nó được định đoạt bằng một di chúc
chung thì phần nào đó các quyền của người thừa kế sẽ được đảm bảo một
cách tuyệt đối hơn so với việc không có di chúc hoặc di chúc riêng. Hơn nữa

việc quy định di chúc chung của vợ, chồng phần nào ngăn chặn những mâu
thuẫn trong gia đình đặc biệt khi một người chết trước, người còn sống quản
lý di sản chưa chia, những người thừa kế theo di chúc chưa thể nhận di sản từ
di chúc chung của vợ, chồng mà người vợ hoặc chồng còn sống. Di sản đang
được quản lý đó cần luôn được đảm bảo rõ ràng, minh bạch.
1.1.4. Hiệu lực di chúc chung của vợ, chồng
Trước đây, Điều 671 Bộ luật Dân sự năm 1995 với tiêu đề “Hiệu lực
pháp luật của di chúc chung của vợ chồng” có quy định: “Trong trường hợp
vợ, chồng lập di chúc chung mà có một người chết trước thì chỉ phần di chúc
liên quan đến phần di sản của người chết trong tài sản chung có hiệu lực
pháp luật…”
Như vậy đối với Bộ luật Dân sự năm 1995 khi một người chết thì di
chúc liên quan đến phần di sản của người chết có hiệu lực. Pháp luật thừa kế
năm 1990 cũng theo hướng này: “Trong trường hợp di chúc do nhiều người

16


lập chung mà có người chết trước thì chỉ phần di chúc có liên quan đến tài
sản của người chết trước có hiệu lực”. (khoản 1, Điều 23).
Bộ luật Dân sự năm 2005 đã có sự sửa đổi đối với thời điểm có hiệu lực
của di chúc chung của vợ, chồng. Theo điều 668 Bộ luật Dân sự năm 2005
quy định: “Di chúc chung của vợ, chồng có hiệu lực từ thời điểm người sau
cùng chết hoặc tại thời điểm vợ, chồng cùng chết”. Trước đây Bộ luật Dân sự
cũng quy định trường hợp di chúc chỉ có hiệu lực khi người sau cùng chết
nhưng với điều kiện là việc này được vợ chồng thỏa thuận trong di chúc. Cụ
thể Điều 671 Bộ luật Dân sự năm 1995 quy định: “nếu vợ, chồng có thỏa
thuận trong di chúc về thời điểm có hiệu lực của di chúc là thời điểm người
sau cùng chết thì di sản của vợ, chồng theo di chúc chung chỉ được phân chia
từ thời điểm đó”. Như vậy, ngày nay không cần vợ chồng có thỏa thuận, di

chúc vẫn chỉ có hiệu lực khi người cuối cùng chết hoặc cả hai cùng chết.
Với thực trạng trên khi vợ hay chồng chết, di chúc chưa có hiệu lực nên
những người thừa kế theo di chúc chưa thể yêu cầu chia di sản. Tuy nhiên,
quy định theo Bộ luật Dân sự năm 2005 làm phát sinh vấn đề về thời hiệu
trong lĩnh vực thừa kế. Bởi lẽ, thời điểm bắt đầu thời hiệu trong lĩnh vực thừa
kế không bắt đầu từ thời điểm di chúc có hiệu lực mà từ thời điểm mở thừa
kế. Điều đó có nghĩa là người thừa kế theo di chúc chỉ được yêu cầu chia thừa
kế theo di chúc khi người sau cùng chết trong khi đó thời hiệu đối với di sản
của người chết trước đã bắt đầu từ thời điểm người này chết.
Di chúc chung của vợ, chồng theo quy định của pháp luật Việt Nam
hiện hành chỉ phát sinh hiệu lực khi hai người cùng chết hoặc sau khi người
sau cùng chết. Theo đó, nếu một người vợ hoặc chồng chết thì di chúc chung
chưa phát sinh hiệu lực. Sau khi người vợ hoặc người chồng chết, người còn
sống sẽ quản lý di sản. Người thừa kế bắt buộc phải đợi thời điểm người sau

17


cùng chết mới được hưởng phần di sản của mình và hưởng các quyền khác có
liên quan. Trường hợp đặc biệt cả hai người cùng chết thì thời điểm hai người
cùng chết là thời điểm di chúc phát sinh hiệu lực.
1.2. Quá trình hình thành và phát triển về di chúc chung của vợ,
chồng; sơ lƣợc lịch sử vấn đề qua các thời kỳ
1.2.1. Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về di chúc
chung của vợ chồng trên thế giới
Trước khi tìm hiểu pháp luật của Việt Nam về quyền lập di chúc chung
của vợ chồng, chúng ta đi xem xét pháp luật của những quốc gia trên thế giới.
Thứ nhất, Luật La Mã là một bộ luật cổ xưa nhất trong văn minh nhân
loại. Nó có vai trò và vị trí vô cùng lớn đối với sự phát triển pháp luật của tất
cả các nước trên thế giới từ cổ chí kim. Luật La Mã là một nguồn tài liệu

tham khảo quý giá cho các nhà nghiên cứu pháp luật và các nhà lập pháp
trong thời hiện đại. Luật La Mã quy định hai hình thức thừa kế là thừa kế theo
di chúc và thừa kế theo luật, ngoài ra còn có thừa kế theo lệnh của các quan.
Tuy nhiên, Luật La Mã lại không đề cập đến vấn đề di chúc chung của vợ
chồng.
Thứ hai, pháp luật Cộng hòa Pháp là một hệ thống được xếp vào hàng
danh giá, có ý nghĩa và ảnh hưởng lớn với các nước trên thế giới. Trong lĩnh
vực thừa kế dù pháp luật Pháp cho phép: “Mọi người đều có thể định đoạt
bằng di chúc để lập thừa kế hoặc để di tặng hoặc được gọi bằng bất cứ tên
nào khác để thể hiện ý chí của mình”. Tuy nhiên, cũng như Luật La Mã, các
nhà làm luật Pháp không chấp nhận vấn đề di chúc chung của vợ, chồng điều
đó thể hiện tại Điều 968 Bộ luật Dân sự: “Hai hoặc nhiều người không thể
làm chung một di chúc để lại tài sản cho người thứ ba hoặc để lại tài sản
cho nhau”. Điều đó có nghĩa mặc dù tôn trọng sự định đoạt tài sản của chủ
sở hữu nhưng pháp luật Pháp lại hạn chế một số trường hợp định đoạt tài sản

18


này, thể hiện qua việc không cho phép vợ chồng lập di chúc chung mà
không phân biệt vợ chồng đó theo chế độ cộng đồng tài sản hay chế độ phân
sản trong hôn nhân.
Như vậy, hai hệ thống pháp luật tiêu biểu trên đều không quy định di
chúc chung của vợ, chồng. Như chúng ta đã biết việc xây dựng pháp luật của
mỗi quốc gia phụ thuộc nhiều vào tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,
trình độ lập pháp của quốc gia đó. Việc quốc gia này quy định một vấn đề nào
mà các quốc gia khác không quy định là điều dễ hiểu và đương nhiên. Vậy
nên vẫn có những quốc gia khác quy định về di chúc chung của vợ chồng.
Thứ nhất, Bộ luật Dân sự Đức năm 1896 được gọi là
“professorenrechi”, tức là luật của các giáo sư bởi sự thành công trong kỹ

năng lập pháp cũng như trong các quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh. Pháp luật
của Đức quy định vợ chồng có thể lập di chúc chung.
Thứ hai, Bộ luật Dân sự của Canada cũng công nhận di chúc chung
của vợ, chồng.
Để tránh sự xung đột pháp luật trong việc giải quyết tranh chấp giữa
những quốc gia có công nhận và không công nhận di chúc chung của vợ,
chồng; công ước Whasington 1984 hay còn gọi là Công ước về vấn đề di chúc
quốc tế đã quy định: “Di chúc có hiệu lực kể từ thời điểm nó tuân thủ các quy
định về hình thức của di chúc của nước mà người lập di chúc có quốc tịch”.
Quy định này có ý nghĩa rất quan trọng, đặc biệt trong việc giải quyết các
tranh chấp liên quan đến vấn đề di chúc nói chung và di chúc chung của vợ
chồng nói riêng có tính chất nước ngoài.
1.2.2. Quá trình hình thành và phát triển của chế định di chúc chung
của vợ, chồng tại Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử.
Đây là phần tìm hiểu quá trình hình thành và phát triển của chế định di
chúc chung của vợ, chồng qua các thời kỳ lịch sử trong pháp luật Việt Nam

19


×