Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Thực trạng Ngân hàng Nhà nước quản lí, điều hành thị trường ngoại hối và đề xuất pháp lý

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.43 KB, 20 trang )

NỘI DUNG
I. Khái quát chung về ngoại hối và hoạt động ngoại hối:
1. Khái niệm ngoại hối:
Trong nền kinh tế hiện đại, mỗi quốc gia đều có nhu cầu sử dụng
ngoại hối để nhập khẩu hàng hóa hay can thiệp vào thị trường hàng hóa, thị
trường tiền tệ, điều hòa cán cân thanh toán quốc tế… Do ảnh hưởng lớn
của ngoại hối đối với đời sống kinh tế- xã hội nên chính phủ ở mỗi quốc
gia đều tìm cách chon lựa cho mình những chính sách thích hợp trong việc
quản lí ngoại hối và điều tiết hoạt động ngoại hối.
Cho đến nay, các công trình nghiên cứu chưa đưa ra định nghĩa
chính thức về ngoại hối. Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu về ngoại hối
đều thống nhất quan điểm cho rằng: Ngoại hối là danh từ dùng để chỉ các
phương tiện dùng trong thanh toán quốc tế như ngoại tề, vàng tiêu chuẩn
quốc tế và các giấy tờ có giá ghi bằng ngoại tệ.
Trong pháp luật Việt Nam hiện nay, định nghĩa về “ngoại hối” được
ghi nhận tại khoản 1 Điều 4 Pháp lệnh ngoại hối ngày 13/12/2005 và khoản
1 Điều 3 Nghị định của Chính phủ số 160/2006/NĐ-CP ngày 28/12/2006
quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh ngoại hối, trong đó, định nghĩa về
ngoại hối được hiểu bằng cách liệt kê các tài sản được coi là đồng ngoại
hối, bao gồm:
• Đồng tiền của quốc gia, lãnh thổ khác, đồng tiền chung châu Âu và
các đồng tiền chung khác dùng trong thanh toán quốc tế và khu vực
(gọi là ngoại tệ);
• Phương tiện thanh toán bằng ngoại tệ, gồm séc, thẻ thanh toán, hối
phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ, chứng chỉ tiền gửi và các phương
tiện thanh toán khác;
• Các loại giấy tờ có giá bằng ngoại tệ, gồm trái phiếu chính phủ, trái
phiếu công ty, kì phiếu, cổ phiếu và các loại giấy tờ có giá khác;
• Vàng thuộc dự trữ ngoại hối Nhà nước, trên tài khoản ở nước ngoai
của người cư trú; vàng dưới dạng khối, thỏi, hạt, miếng trong trường
hợp mang vào và mang ra khỏi lãnh thổ Việt Nam;


• Đồng tiền của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa VIệt Nam trong
trường hợp chuyển vào và chuyển ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc
được sử dụng trong thanh toán quốc tế.

1


2. Hoạt động ngoại hối và sự hình thành thị trường ngoại hối
a. Hoạt động ngoại hối:
“Hoạt động ngoại hối” là thuật ngữ có thể được hiểu và tiếp nhận từ
nhiều góc độ khác nhau.
Xét từ góc độ khoa học pháp lí, hoạt động ngoại hối được hiểu là
tổng hợp các hành vi pháp lí do các chủ thể khác nhau thực hiện trong quá
trình chiếm hữu, sử dụng và định đoạt các tài sản được coi là ngoại hối.
Các hành vi pháp lí này có thể có tính chất là hành vi dân sự hay hành vi
thương mại, tùy thuộc vào việc người thực hiện chúng vì nhu cầu dân sự
hay thương mại.
Xét từ góc độ pháp luật thực định, hoạt động ngoại hối được quy
định tại khoản 8 Điều 4 Pháp lệnh ngoại hối ngày 13/12/2005: “Hoạt động
ngoại hối là hoạt động của người cư trú, người không cư trú trong giao
dịch vãng lai, giao dịch vốn, sử dụng ngoại hối trên lãnh thổ Việt Nam,
hoạt động cung ứng dịch vụ ngoại hối và các giao dịch khác liên quan đến
ngoại hối”
Trong đó, hoạt động ngoại hối có những đặc điểm:


Chủ thể: là người cư trú và người không cư trú, trực tiếp tham gia
vào các giao dịch vãng lai, giao dịch vốn, sử dụng ngoại hối trên
lãnh thổ Việt Nam…




Đối tượng của hoạt động: Là các ngoại hối được phép lưu thông trên
lãnh thổ Việt Nam và các dịch vụ về ngoại hối

• Nội dung hoạt động: Gồm các dịch vụ vãng lai, giao dịch vốn, các
hành vi sử dụng ngoại hối hay cung ứng dịch vụ về ngoại hối trên
lãnh thổ Việt Nam
Như vậy, có thể hình dung hoạt động ngoại hối như là quá trình hoạt
động kinh tế- pháp lí của các chủ thể, thông qua việc xác lập và thực hiện
các giao dịch khác nhau về ngoại hối.
b. Các đặc điểm của thị trường ngoại hối:

Thị trường ngoại hối là nơi diễn ra các giao dịch ngoại hối. Trong đó có các
đặc điểm:

2


- Thị trường ngoại hối (Điển hình là thị trường hối đoái) hoạt động liên
tục 24/24h trên phạm vi toàn cầu với lưu lượng khổng lồ các ngoại tệ
được luân chuyển qua thị trường
- Đối tượng chủ yếu được mua bán trên thị trường ngoại hối là các khoản
tiền gửi ghi bằng ngoại tệ các ngân hàng, ngoại tệ hiện hữu và các loại
tài sản khác
- Thị trường ngoại hối tại một số quốc gia thường chịu ảnh hưởng sâu sắc
của nền kinh tế, chính trị, xã hội trong nước và quốc tế
3. Khái niệm quản lí nhà nước về ngoại hối:
Tại Điều 3 Pháp lệnh ngoại hối ngày 13/12/2005 có ghi rõ về Chính
sách quản lý ngoại hối của Việt Nam: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ

nghĩa Việt Nam thực hiện chính sách quản lý ngoại hối nhằm tao điều kiện
thuận lợi và bảo đảm lợi ích hợp pháp cho tổ chức, cá nhân tham gia hoạt
động ngoại hôi, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế; thực hiện mục tiêu
của chính sách tiền tệ quốc gia, nâng cao tính chuyển đổi của đồng Việt
Nam; thực hiện mục tiêu trên lãnh thổ Việt Nam chỉ sử dụng đồng Việt
Nam; thực hiện các cam kết của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
trong lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế, tăng cường hiệu lực quản lý nhà
nước về ngoại hối và hoàn thiện hệ thống quản lý ngoại hối của Việt Nam”.
Đồng thời, Pháp lệnh cũng có nguyên chương VIII quy định về Quản lý
nhà nước về hoạt động ngoại hối, trong đó, Điều 40 ghi rõ:
“1. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về hoạt động ngoại hối.
1. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chịu trách nhiệm trước Chính phủ
thực hiện quản lý nhà nước về hoạt động ngoại hối, xây dựng và ban
hành các chính sách quản lý ngoại hối, hướng dẫn và thanh tra, kiểm
tra việc chấp hành chế độ chứng từ và thông tin báo cáo.
2. Bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương có trách nhiệm quản lý nhà nước về hoạt động ngoại hối
trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình”
Quản lí nhà nước về ngoại hối là sự tác động của Nhà nước bằng những
phương thức khác nhau đến hành vi xử sự của những chủ thể có ngoại hối
hay có hoạt động ngoại hối.
Như vậy, nhà nước thực hiện việc quản lí ngoại hối và hoạt động
ngoại hối bằng phương thức chủ yếu là sử dụng pháp luật để quy định thẩm
quyền của các cơ quan nhà nước trong quản lí ngoại hối; quy định những
hành vi pháp lí cụ thể mà các chủ thể có hoạt động ngoại hối phải thực
hiện; quy định các chế tài áp dụng đối với người vi phạm pháp luật về
ngoại hối.
3



Trong đó, chủ thể mang quyền lực Nhà nước để quản lí nhà nước về
ngoại hối gồm Chính phủ, Ngân hàng nhà nước Việt Nam và các bộ, cơ
quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, ủy ban nhân dân các tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương được pháp luật trao quyền.
Hiện nay, đồng tiền Việt Nam không có giá trị thanh toán quốc tế
nên càng cần phải quản lí chặt chẽ về ngoại hối. Nếu quản lí tốt về ngoại
hối, không những uy tín của Chính phủ tăng cao, mà lượng ngoại hối đổ về
các Ngân hàng nhiều, khả năng sử dụng ngoại hối của nền kinh tế lớn hơn.
Do vậy, quản lí thị trường ngoại hối hiện nay là một trong những vấn đề tài
chính luôn được quan tâm hàng đầu.
Ngân hàng Nhà nước là một trong những chủ thể có thẩm quyền
quản lí Nhà nước về ngoại hối và ngày càng đóng vai trò quan trọng trực
tiếp đến sự ổn định và tính tích cực của thị trường ngoại hối. Ngân hàng
Nhà nước có thể thực hiện quản lí, điều hành thị trường ngoại hối như thế
là nhờ những cơ sở pháp lý chặt chẽ, rõ ràng cho quyền năng ấy.
II.

Cơ sở pháp lý để Ngân hàng Nhà nước quản lý, điều hành thị
trường ngoại hối:

Quản lí nhà nước về kinh tế nói chung và quản lí nhà nước về ngoại
hối nói riêng là hoạt động mang tính chức năng thuộc thẩm quyền của các
cơ quan hành pháp.
1. Cơ sở pháp lý về thẩm quyền và quyền hạn của Ngân hàng
Nhà nước trong quản lý và điều hành thị trường ngoại hối:
• Điều 40 Pháp lệnh số 28/2005/PL- UBTVQH11 ngày 13/12/2005 về
ngoại hối quy định: “…2. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chịu trách
nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về hoạt động ngoại
hối, xây dựng và ban hành chính sách quản lý ngoại hối, hướng dẫn và
thanh tra, kiểm tra việc chấp hành chế độ chứng từ và thông tin báo

cáo.”
• Đặc biệt, thẩm quyền quản lí nhà nước về hoạt động ngoại hối của Ngân
hàng Nhà nước cũng được quy định cụ thể và chi tiết hơn tại Nghị định
160/2006/NĐ-CP ngày 28/12/2006 của Chính phủ quy định chi tiết thi
hành Pháp luật ngoại hối. Trong đó, khoản 2 Điều 49 Chương VII Nghị
định này có ghi rõ:
“2.Trách nhiệm của Ngân hàng Nhà nước:
a)

Chịu trách nhiệm trước Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về
thực hiện quản lý nhà nước đối với hoạt động ngoại hối;

4


b)

Chủ trì xây dựng và soạn thảo các văn bản quy phạm pháp
luật về ngoại hối thuộc thẩm quyền;
c)
Phối hợp với các Bộ ngành liên quan khi xây dựng các văn
bản pháp luật có nội dung liên quan đến ngoại hối;
d)
Chịu trách nhiệm trước Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về
hợp tác quốc tế trong lĩnh vực ngoại hối;
e)
Cấp, thu hồi giấy phép hoạt động ngoại hối;
f)
Kiểm tra, thanh tra việc thực hiện các hoạt động ngoại hối
quy định tại Nghị định này và việc chấp hành chế độ chứng từ và

thông tin báo cáo;
g)
Xử lý các hành vi vi phạm về ngoại hối thuộc thẩm quyền.”
• Đồng thời, Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam số 46/2010/QH 12
cũng có nguyên Mục 5 để quy định về: Quản lý ngoại hối và hoạt động
ngoại hối của Ngân hàng Nhà nước. Trong đó, Điều 31 Luật Ngân hàng
Nhà nước quy định: “Nhiệm vụ, quyền hạn của Ngân hàng Nhà nước về
quản lý ngoại hối và hoạt động ngoại hối” gồm:
“1. Quản lí ngoại hối và sử dụng ngoại hối trên lãnh thổ Việt Nam theo
quy định của pháp luật.
2. Tổ chức và phát triển thị trường ngoại tệ
3. Cấp, thu hồi giấy phép hoạt động ngoại hối cho tổ chức tín dụng, các
tổ chức khác có hoạt động ngoại hối.
4. Trình Thủ tướng Chính phủ quyết đinh biện pháp hạn chế giao dịch
ngoại hối để bảo đảm an ninh tài chính, tiền tệ quốc gia.
5. Tổ chức, quản lý, tham gia thị trường ngoại tệ liên ngân hàng.
6. Nhiệm vụ, quyền hạn khác về quản lý ngoại hối và hoạt động ngoại hối
theo quy định của pháp luật.”
Như vậy, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là cơ quan chức năng của
Chính phủ, được Chính phủ trao quyền hạn trực tiếp tiến hành các hoạt
động quản lí nhà nước về ngoại hối trên lãnh thổ Việt Nam. Trong khi thực
hiện thẩm quyền này, Ngân hàng Nhà nước chịu trách nhiệm trước Quốc
hội và Chính phủ. Ngoài ra, với vai trò là ngân hàng trung ương, Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam còn có thẩm quyền thực hiện các nghiệp vụ
ngoại hối bằng cách tham gia trực tiếp vào các giao dịch ngoại hối, thông
qua đó nhằm thực hiện việc điều hành chính sách tiền tệ quốc gia theo nhu
cầu phát triển kinh tế - xã hội.

5



Ngoài ra, theo Điều 38 của Luật Ngân hàng Nhà nước về Quản lý Dự trữ
ngoại hối nhà nước cũng quy định: “Ngân hàng Nhà nước quản lý Dự trữ
ngoại hối nhà nước theo quy định của pháp luật về ngoại hối nhằm thực
hiện chính sách tiền tệ quốc gia, bảo đảm khả năng thanh toán quốc tế và
bảo toàn Dự trữ ngoại hối nhà nước”.
Theo đó, Ngân hàng nhà nước còn được trao thẩm quyền quản lí dự
trữ ngoại hối nhà nước để trực tiếp thực thi chính sách tiền tệ quốc gia, điều
hòa cán cân thanh toán quốc tế… Trong khi thực hiện thẩm quyền này,
Ngân hàng nhà nước có nhiệm vụ phải báo cáo với Chính phủ và Ủy ban
thường vụ Quốc hội về tình hình biến động của dự trữ ngoại hối nhà nước
cho các nhu cầu đột xuất, cấp bách của Nhà nước- sẽ do Thủ tướng Chính
phủ quyết định. Bộ tài chính là cơ quan được giao quyền kiểm tra việc
quản lí dự trữ ngoại hối nhà nước do Ngân hàng Nhà nước thực hiện theo
quy định của Chính phủ.
Như vậy, có thể thấy đây là một khung pháp lý rộng rãi, tạo mọi điều
kiện tập trung quyền quản lí trực tiếp để Ngân hàng Nhà nước có thể nhanh
chóng và linh hoạt thực hiện hiệu quả các chính sách tiền tệ và cơ chế quản
lí của mình đối với thị trường tài chính nói chung và thị trường ngoại hối
nói riêng. Tuy nhiên, dù được tạo điều kiện, được linh hoạt đến đâu, Ngân
hàng Nhà nước vẫn chịu sự giám sát của Quốc hội và Chính phủ. Tạo ra
một cơ chế như vậy là hợp lí, vừa chặt chẽ vừa linh hoạt.
2. Cơ sở pháp lí về đối tượng quản lí nhà nước về ngoại hối cũng
như nội dung quản lí nhà nước về ngoại hối của Ngân hàng
Nhà nước trong quản lý và điều hành thị trường ngoại hối:
Đối tượng quản lí nhà nước về ngoại hối không phải chính bản thân
ngoại hối mà là các tổ chức, cá nhân có ngoại hối hay có hoạt động ngoại
hối.
• Theo quy định tại Điều 2 Pháp lệnh ngoại hối, đối tượng chịu sự quản lí
nhà nước về ngoại hối bao gồm:

- Các tổ chức, cá nhân là người cư trú, người không cư trú có hoạt động
ngoại hối trên lãnh thổ Việt Nam;
- Các đối tượng khác có liên quan đến hoạt động ngoại hối.
Như vậy, có hai dấu hiệu cơ bản để xác định tổ chức hay cá nhân nào
đó là đối tượng chịu sự quản lí nhà nước về ngoại hối gồm:
- Tổ chức, cá nhân phải là người cư trú, người không cư trú theo quy
định của pháp luật Việt Nam.
6


- Có hoạt động ngoại hối tại Việt Nam.
Đồng thời, Điều 4 Pháp lệnh ngoại hối năm 2005 cũng quy định :
“2. Người cư trú là tổ chức, cá nhân thuộc các đối tượng sau đây:
a)Tổ chức tín dụng được thành lập, hoạt động kinh doanh tại Việt
Nam (sau đây gọi là tổ chức tín dụng);
b) Tổ chức kinh tế được thành lập, hoạt động kinh doanh tại Việt
Nam trừ đối tượng quy định tại điểm a khoản này (sau đây gọi là tổ
chức kinh tế);
c)Cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang, tổ chức chính trị, tổ
chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức
xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, quỹ xã hội, quỹ từ thiện của Việt
Nam hoạt động tại Việt Nam;
d)Cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự của Việt Nam tại
nước ngoài;
e)Văn phòng đại diện tại nước ngoài của các tổ chức quy định tại các
điểm a, b và c khoản này;
f) Công dân Việt Nam cư trú tại Việt Nam; công dân Việt Nam cư trú
ở nước ngoài có thời hạn dưới 12 tháng; công dân Việt Nam làm việc
tại các tổ chức quy định tại điểm d và điểm đ khoản này và cá nhân đi
theo họ;

g)Công dân Việt Nam đi du lịch, học tập, chữa bệnh và thăm viếng ở
nước ngoài;
h)Người nước ngoài cư trú tại Việt Nam có thời hạn từ 12 tháng trở
lên, trừ các trường hợp người nước ngoài học tập, chữa bệnh, du lịch
hoặc làm việc cho cơ quan đại diện ngoại giao, lãnh sự, văn phòng
đại diện của các tổ chức nước ngoài tại Việt Nam.
3. Người không cư trú là các đối tượng không quy định tại khoản 2 Điều
này.”
3. Nhiệm vụ cụ thể từng năm trong việc quản lí thị trường ngoại
hối do Quốc hội và Chính phủ giao cho Ngân hàng Nhà nước
thông qua kế hoạch phát triển kinh tế xã hội theo từng năm:
• Nghị quyết 11/NĐ-CP ban hành ngày 24/2/2011 của Chính phủ về
“Những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế
vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội” quy định tại Điều 1 như sau:
“1. Thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng

7


Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ
quan, địa phương:
a) Thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng, phối hợp hài
hòa giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa để kiềm chế lạm phát;
điều hành và kiểm soát để bảo đảm tốc độ tăng trưởng tín dụng năm 2011
dưới 20%, tổng phương tiện thanh toán khoảng 15 - 16%; tập trung ưu
tiên vốn tín dụng phục vụ phát triển sản xuất kinh doanh, nông nghiệp,
nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa; giảm
tốc độ và tỷ trọng vay vốn tín dụng của khu vực phi sản xuất, nhất là lĩnh
vực bất động sản, chứng khoán.
b) Điều hành chủ động, linh hoạt, hiệu quả các công cụ chính sách

tiền tệ, nhất là các loại lãi suất và lượng tiền cung ứng để bảo đảm kiềm
chế lạm phát.
c) Điều hành tỷ giá và thị trường ngoại hối linh hoạt, phù hợp với
diễn biến thị trường. Tăng cường quản lý ngoại hối, thực hiện các biện
pháp cần thiết để các tổ chức, cá nhân trước hết là các tập đoàn kinh tế,
tổng công ty nhà nước bán ngoại tệ cho ngân hàng khi có nguồn thu và
được mua khi có nhu cầu hợp lý, bảo đảm thanh khoản ngoại tệ, bình ổn tỷ
giá, đáp ứng yêu cầu ổn định, phát triển sản xuất kinh doanh và tăng dự
trữ ngoại hối.
d) Kiểm soát chặt chẽ hoạt động kinh doanh vàng; trong quý II năm
2011 trình Chính phủ ban hành Nghị định về quản lý hoạt động kinh doanh
vàng theo hướng tập trung đầu mối nhập khẩu vàng, tiến tới xóa bỏ việc
kinh doanh vàng miếng trên thị trường tự do; ngăn chặn hiệu quả các hoạt
động buôn lậu vàng qua biên giới.
đ) Phối hợp chặt chẽ với Bộ Công an, Bộ Công Thương, Ủy ban
nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các cơ quan chức
năng kiểm tra, giám sát việc tuân thủ các quy định về thu đổi ngoại tệ, kinh
doanh vàng. Ban hành quy định và chế tài xử lý vi phạm, kể cả việc đình
chỉ, rút giấy phép hoạt động, thu tài sản; quy định khen, thưởng đối với
việc phát hiện các hành vi vi phạm hoạt động thu đổi, mua bán ngoại tệ,
vàng. Xử lý nghiêm theo pháp luật đối với hành vi cố tình vi phạm.”
Như vậy, khung pháp lý dành cho Ngân hàng Nhà nước quản lí, điều
hành thị trường ngoại hối khá rõ ràng và cụ thể. Pháp luật quy định rõ từ
quyền quản lí, điều hành thị trường ngoại hối; đối tượng chịu sự điều chỉnh,
quản lí; đến những quyền và trách nhiệm của Ngân hàng Nhà nước…

8


III.


Thực trạng Ngân hàng Nhà nước quản lí, điều hành thị trường
ngoại hối và đề xuất pháp lý:
1. Những giải pháp kèm số liệu tích cực ban đầu trong hoạt động quản
lí ngoại hối:

• Về tỷ lệ dự trữ bắt buộc và dự trữ ngoại hối (DTNH):
Chính sách quản lý DTNH hiện nay được thực hiện theo Nghị định số
86/1999/NĐ-CP, ngày 30/8/1999, về quản lý DTNH nhà nước và Quy chế
tổ chức thực hiện những nhiệm vụ quản lý ngoại hối nhà nước ban hành
kèm theo Quyết định số 653/2001/QĐ-NHNN, ngày 17/5/2001, của Thống
đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN). Hoạt động quản lý DTNH
nhà nước đã đạt được một số kết quả như: Quản lý DTNH phối hợp với
điều hành chính sách tiền tệ, cán cân thanh toán. Quản lý DTNH đảm bảo
tính thanh khoản bằng việc chia nguồn DTNH nhà nước thành hai quỹ:
Quỹ DTNH và Quỹ bình ổn tỷ giá và giá vàng. Quỹ bình ổn tỷ giá và giá
vàng có tính thanh khoản cao. Phân cấp quản lý DTNH tại NHNN đã được
hình thành: Cấp cao nhất là Thống đốc, cấp trung gian là Ban Điều hành
quản lý DTNH nhà nước gồm 5 thành viên: 1 Lãnh đạo NHNN làm Trưởng
Ban, Vụ trưởng Vụ Quản lý ngoại hối, Vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ,
Giám đốc Sở Giao dịch và 1 Thư ký Ban. Ban điều hành có chức năng:
Tham mưu cho Thống đốc NHNN về các nội dung liên quan; Điều hành
việc thực hiện các nhiệm vụ về quản lý DTNH nhà nước theo qui định của
Thống đốc NHNN. Cấp thấp nhất là hoạt động điều hành và tác nghiệp tại
các Vụ Quản lý ngoại hối, Sở Giao dịch và các vụ, cục liên quan.
Kể từ kỳ dự trữ bắt buộc tháng 6/2011, tỉ lệ dự trữ bắt buộc đối với
tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng bằng ngoại tệ áp dụng
đối với các Ngân hàng thương mại (ngân hàng thương mại) là 7% trên tổng
số dư tiền gửi phải dự trữ bắt buộc; Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn (NHNo&PTNT) Việt Nam, Quỹ Tín dụng nhân dân Trung ương

(QTDNDTƯ), ngân hàng hợp tác là 6% trên tổng số dư tiền gửi phải dự trữ
bắt buộc. Tỉ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi từ 12 tháng trở lên bằng
ngoại tệ áp dụng đối với các ngân hàng thương mại (ngân hàng thương
mại) là 5% trên tổng số dư tiền gửi phải dự trữ bắt buộc; NHNo&PTNT
Việt Nam, QTDNDTƯ, ngân hàng hợp tác là 4% trên tổng số dư tiền gửi
phải dự trữ bắt buộc.
Trước đó, ngay từ ngày 9/4/2011, NHNN cũng đã ban hành Quyết
định số 750/QĐ-NHNN điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ
đối với các tổ chức tín dụng, thay thế cho Quyết định số 74/QĐ-NHNN
ngày 18/01/2010. Theo đó, tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi không kỳ
hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng bằng ngoại tệ áp dụng đối với các ngân

9


hàng thương mại nhà nước, ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng
100% vốn nước ngoài, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước
ngoài tăng từ 4% lên 6% trên tổng số dư tiền gửi phải dự trữ bắt buộc. Đối
với NHNo&PTNT Việt Nam, QTDNDTƯ, ngân hàng hợp tác tăng từ 3%
lên 5% trên tổng số dư tiền gửi phải dự trữ bắt buộc.
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi từ 12 tháng trở lên bằng ngoại
tệ áp dụng đối với các ngân hàng thương mại nhà nước, ngân hàng thương
mại cổ phần, ngân hàng 100% vốn nước ngoài, ngân hàng liên doanh, chi
nhánh ngân hàng nước ngoài tăng từ 2% lên 4% trên tổng số dư tiền gửi
phải dự trữ bắt buộc. Với NHNo&PTNT Việt Nam, QTDNDTƯ, ngân
hàng hợp tác tăng từ 1% lên 3% trên tổng số dư tiền gửi phải dự trữ bắt
buộc. Quyết định này có hiệu lực kể từ kỳ duy trì dự trữ bắt buộc tháng
5/2011.
• Về lãi suất tiền gửi ngoại tệ:
Với Thông tư số 14/2011/TT-NHNN, kể từ ngày 2/6/2011, lãi suất huy

động vốn tối đa bằng đô la Mỹ của tổ chức, doanh nghiệp tại các tổ chức
tín dụng điều chỉnh giảm xuống chỉ còn 0,5%/năm, của dân cư giảm còn
2,0%/năm. Trước đó, NHNN cũng đã quyết định, từ ngày 13/4/2011, lãi
suất tiền gửi ngoại tệ tối đa tại các tổ chức tín dụng đối với khách hàng cá
nhân chỉ có 3%/năm và của doanh nghiệp chỉ có 1%/năm.
Hai quyết định nói trên, một mặt, nhằm ngăn chặn cuộc đua tăng lãi
suất ngoại tệ trên thị trường; mặt khác, góp phần hạn chế việc chuyển đổi
từ nội tệ sang ngoại tệ, khuyến khích khách hàng gửi nội tệ vào ngân hàng,
giảm áp lực cầu ngoại tệ, tác động tích cực đến tỷ giá USD/VND và góp
phần giảm tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế.
• Về thu hẹp đối tượng vay vốn ngoại tệ:
Ngày 31/5/2011, NHNN cũng ban hành Thông tư số
3/2011/TTNHNN, quy định về việc mua, bán ngoại tệ của tập đoàn kinh tế,
tổng công ty nhà nước, có hiệu lực thi hành từ 1/7/2011. Theo đó, hằng
tháng, các đơn vị nói trên phải cân đối nguồn thu ngoại tệ và nhu cầu sử
dụng ngoại tệ hợp pháp, số ngoại tệ còn lại phải bán cho tổ chức tín dụng
được phép, không được sử dụng một nhu cầu ngoại tệ gửi cho nhiều tổ
chức tín dụng...
Trước đó, với Thông tư 07/2011/TT-NHNN của Thống đốc NHNN,
đối tượng vay vốn ngoại tệ cũng đã bị thu hẹp so với trước. Quyết định này
nhằm kiểm soát tốt hơn tín dụng ngoại tệ, hạn chế nhu cầu vay vốn ngoại tệ
của doanh nghiệp để nhập khẩu hàng hóa, chuyển dần sang quan hệ huy
10


động và cho vay bằng ngoại tệ sang quan hệ mua bán ngoại tệ, góp phần
hạn chế tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế.
Được biết, tính đến cuối tháng 5/2011, tốc độ tăng trưởng dư nợ
ngoại tệ vẫn ở mức cao hơn tốc độ tăng trưởng dư nợ VND, cụ thể tính đến
23/5/2011, so với cuối năm 2010, tín dụng VND tăng 2,59%, tín dụng

ngoại tệ tăng 18,9%. Nguyên nhân dư nợ ngoại tệ vẫn tăng mạnh chủ yếu
do vấn đề lãi suất và tỉ giá. Thời gian qua cũng như hiện nay, nhiều ngân
hàng thương mại đang thiếu tiền đồng nên vay tiền đồng vừa khó, lãi suất
lại cao, tới 24 -26%/năm, trong khi đó, vốn ngoại tệ sẵn, đến cuối tháng
5/2011, vốn huy động ngoại tệ tăng 18,84% so với cuối năm trước, lãi suất
vay ngoại tệ thấp, chỉ từ 5,5%- 8%/năm. Bởi vậy, các quyết định nói trên là
phù hợp với diễn biến thị trường. Nhìn chung, các quyết định nói trên
không gây sốc cho thị trường ngoại tệ và đặc biệt thị trường đang có những
phản ứng tích cực theo mục tiêu của Chính phủ và của NHNN. Với những
biện pháp kiên quyết của Chính phủ và NHNN, khó có khả năng tỉ giá có
những biến động tăng mạnh từ nay đến cuối năm 2011.
• Về điều hành tỷ giá và quản lý kinh doanh vàng:
Từ đầu tháng 7 đến nay, giá vàng thế giới liên tục tăng cao, từ mức
1.494USD/oz (ngày 01/7/2011) đã lên mức kỷ lục 1.869USD/oz (ngày
19/8/2011). Nguyên nhân của việc giá vàng thế giới tăng cao là do lo ngại
về cuộc khủng hoảng nợ công tại Mỹ và Châu Âu, đặc biệt là việc Standard
& Poor’s hạ mức tín nhiệm nợ công của Mỹ đã khiến giá vàng thế giới từ
ngày 8/8/2011 tăng mạnh.Cùng với biến động của giá vàng thế giới, giá
vàng trong nước cũng đã tăng theo.Tuy nhiên, từ thời điểm đầu tháng 7 đến
đầu tháng 8, do nhu cầu vàng trong nước luôn ở mức thấp, tốc độ tăng của
giá vàng trong nước chậm hơn giá vàng thế giới, do đó, có thời điểm, giá
vàng trong nước thấp hơn giá vàng thế giới 700 – 800 nghìn đồng/lượng.
Hiện tượng này là do chính sách tiền tệ chặt chẽ đã tạo ra sức hấp dẫn trong
việc nắm giữ tiền Đồng cho người dân, khuyến khích người dân bán vàng
lấy tiền gửi tiết kiệm. Do chênh lệch giữa giá vàng trong nước và giá vàng
thế giới, đã xuất hiện tình trạng xuất khẩu vàng biến tướng dưới dạng vàng
trang sức, mỹ nghệ. Trước diễn biến bất thường của thị trường vàng trong
nước, NHNN đã triển khai các biện pháp để bình ổn thị trường vàng, cụ
thể:
- NHNN đã có công văn số 539/NHNN-QLNH ngày 08/8/2011 và số

565/NHNN-QLNH ngày 26/7/2011 gửi Bộ Tài chính đề nghị quy định
giảm hàm lượng vàng thành phẩm chịu thuế suất thuế xuất khẩu 10% nhằm
ngăn chặn tình trạng xuất khẩu vàng nguyên liệu biến tướng dưới dạng
vàng trang sức, mỹ nghệ. Ngày 02/8/2011, Bộ Tài chính đã ban hành

11


Thông tư số 111/2011/TT-BTC, trong đó quy định sửa đổi thuế suất thuế
xuất khẩu một số mặt hàng vàng theo đề nghị của NHNN: áp thuế 10% đối
với các loại vàng thành phẩm có hàm lượng vàng từ 80% trở lên.
- Theo dõi sát diễn biến thị trường vàng thế giới và trong nước để
chủ động triển khai các biện pháp ổn định thị trường vàng. Ngày
08/8/2011, NHNN đã đăng tải thông điệp: NHNN sẵn sàng cho phép nhập
khẩu vàng khi cần thiết để bình ổn thị trường vàng, hạn chế tình trạng đầu
cơ, làm giá và nhập lậu.
- Ngày 09/8/2011, để ổn định tâm lý người dân và bình ổn thị trường
vàng trong nước, NHNN đã cấp phép nhập khẩu vàng cho một số doanh
nghiệp và tổ chức tín dụng, đồng thời, yêu cầu các đơn vị này phải khẩn
trương bán vàng ra thị trường để tăng nguồn cung, giảm chênh lệch giữa
giá vàng trong nước và giá vàng thế giới. Sau khi NHNN cho phép nhập
khẩu vàng, tâm lý người dân đã ổn định trở lại, nhu cầu mua vàng giảm
mạnh, giá vàng trong nước đã sát với giá thế giới, mặc dù giá vàng thế giới
vẫn liên tục diễn biến phức tạp.1
• Việc điều hành các công cụ chính sách tiền tệ, tỷ giá kết hợp với chính sách
quản lý ngoại hối đã góp phần ổn định tỷ giá, tăng lòng tin vào đồng Việt Nam,
từng bước thực hiện chủ trương chuyển dần quan hệ huy động – cho vay sang
quan hệ mua – bán ngoại tệ. Số liệu tiền tệ cho thấy huy động ngoại tệ và cho
vay ngoại tệ đều giảm hơn huy động và cho vay bằng VND. Tính đến ngày
30/6/2012, huy động vốn tăng 6,49%, trong đó huy động vốn VND tăng

8,62%, ngoại tệ giảm 2,2%. Hệ thống các tổ chức tín dụng mua được một
lượng lớn ngoại tệ từ tổ chức kinh tế và dân cư để bán cho NHNN, tăng dự trữ
Ngoại hối Nhà nước ở mức lớn. Các nhu cầu ngoại tệ hợp pháp, hợp lý của
người dân và doanh nghiệp được hệ thống tổ chức tín dụng đáp ứng đầy
đủ. Tâm lý găm giữ ngoại tệ đã giảm đáng kể, tình trạng đô la hóa được
đẩy lùi một bước, thị trường ngoại tệ tự do gần như không còn hoạt động,
tỷ giá biến động thấp.
Tất cả các biện pháp và số liệu cụ thể nói trên đã có tác động nhìn
thấy trong thực tế, đó là thị trường ngoại hối đã đi vào ổn định. Tỷ giá
USD/VND trên thị trường tự do đã giảm mạnh và từ đầu tháng 4/2011, chỉ
xoay quanh tỷ giá của ngân hàng thương mại giao dịch với khách hàng,
thậm chí nhiều thời điểm còn thấp hơn. Các doanh nghiệp đã tăng cường
bán ngoại tệ cho ngân hàng thương mại. Đến cuối tháng 4/2011, lần đầu
tiên trong 3 năm qua, nhiều ngân hàng thương mại đã mua USD theo giá
1

Tài liệu Về diễn biến thị trường vàng, ngoại tệ trong thời gian gần đây và công tác quản lý, điều hành
của Ngân hàng Nhà nước (Tài liệu phục vụ cuộc họp giao ban báo chí tại Bộ Thông tin và Truyền thông
sáng ngày 23/8/2011)

12


sàn theo quy định của NHNN. Nhìn nhận chung, thực hiện các giải pháp về
quản lý ngoại hối và điều hành tỷ giá theo mục tiêu kiềm chế lạm phát của
NHNN đã đạt được các kết quả cụ thể như sau:
• Một là, thị trường ngoại tệ đã đi vào ổn định thực sự. Các doanh nghiệp
không còn găm giữ ngoại tệ, mà khẩn trương bán ra cho các ngân hàng
thương mại. Cung cầu ngoại tệ trên thị trường đảm bảo, tạo điều kiện
cho NHNN trong tháng 5/2011, mua bổ sung quỹ dự trữ ngoại tệ

khoảng gần 1 tỷ USD. Khối lượng nội tệ cung ứng ra lưu thông để mua
số ngoại tệ đó đã được NHNN trung hoà thông qua hút ròng trên thị
trường mở.
• Hai là, khắc phục tình trạng hai hệ thống tỷ giá trong nền kinh tế. Tỷ giá
USD/VND của các ngân hàng thương mại giao dịch với khách hàng và
tỷ giá trên thị trường tự do ngang bằng nhau, khắc phục được cơ bản
tình trạng đầu cơ ngoại tệ của tư nhân và một số đối tượng khác.
• Ba là, nhu cầu ngoại tệ hợp lý, hợp pháp của các doanh nghiệp cho
thanh toán hàng nhập khẩu, chi trả dịch vụ, trả nợ; nhu cầu hợp lý và
hợp pháp của người dân được các ngân hàng thương mại đáp ứng đầy
đủ và kịp thời.
• Bốn là, cùng với tỷ giá ổn định và khắc phục được tình trạng hai tỷ giá,
cộng với việc hai lần tăng cao tỷ lệ dự trữ bắt buộc tiền gửi ngoại tệ, hai
lần điều chỉnh giảm thấp lãi suất tiền gửi ngoại tệ của dân cư và doanh
nghiệp tại ngân hàng thương mại đã làm cho tình trạng chuyển đổi từ
đồng Việt Nam sang USD hầu như không còn, góp phần ổn định sức
mua đối ngoại của đồng Việt Nam, tác động tích cực đến kiềm chế lạm
phát.
• Năm là, do kết quả của bốn điểm nói trên, dẫn đến tình trạng bán hàng
hoá và dịch vụ niêm yết giá bằng ngoại tệ hay tính bằng ngoại tệ giảm
hẳn. Kết quả này còn do việc tăng cường kiểm tra của các bên có liên
quan đối với các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế trong việc chấp hành
quy định về quản lý ngoại hối của Nhà nước.
2. Những tồn tại, yếu kém trong quá trình quản lí ngoại hối của
NHNN và nguyên nhân:
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, công tác quản lý, điều hành thị
trường ngoại hối của NHHH Việt Nam vẫn còn nhiều yếu kém, bất cập:
• Quản lý dự trữ ngoại hối (DTNH) của NHNN còn nhiều vấn đề trăn
trở :
- Hành lang pháp lý cho hoạt động quản lý DTNH còn bộc lộ nhiều

bất cập. Về tổ chức thực hiện quản lý DTNH, Khoản 1, Điều 6 của Quy
13


chế tổ chức thực hiện những nhiệm vụ về quản lý DTNH nhà nước về
xây dựng tiêu chuẩn, hạn mức đầu tư DTNH Nhà nước quy định: “Định
kỳ 6 tháng một lần hoặc khi cần thiết, Vụ Quản lý ngoại hối chủ trì, phối
hợp với Sở Giao dịch đánh giá lại tiêu chuẩn, hạn mức đầu tư DTNH nhà
nước của kỳ trước, xây dựng tiêu chuẩn và hạn mức mới và trình Thống
đốc quyết định”. Cũng tương tự, tại Khoản 5, Điều 7 của Quy chế này về
xây dựng phương án, quyết định, thực hiện đầu tư DTNH nhà nước quy
định: “Định kỳ 6 tháng một lần hoặc khi cần thiết, Sở giao dịch chịu
trách nhiệm đánh giá tình hình thực hiện các tiêu chuẩn, hạn mức, tỷ lệ
đầu tư…; Phối hợp với Vụ Quản lý ngoại hối xây dựng và điều chỉnh các
tiêu chuẩn, hạn mức, tỷ lệ đầu tư cho phù hợp với thực tế đảm bảo an
toàn và hiệu quả trong quá trình đầu tư”. Trong khi đó, tại Khoản 4, Điều
7 quy định: “Sở giao dịch chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện các phương
án đầu tư, theo dõi diễn biến hoạt động…” Nếu thực hiện như vậy, Vụ
Quản lý ngoại hối và Sở Giao dịch vừa là những đơn vị ban hành quy
định vừa là đơn vị thực hiện các tiêu chuẩn, hạn mức đó. Điều này dẫn
đến các tiêu chuẩn, hạn mức đầu tư DTNH đề ra không còn là chuẩn mực
vì nó có thể bị điều chỉnh cho phù hợp với kết quả của những hoạt động
quản lý yếu kém. Điều đó có thể dẫn đến những tổn thất rủi ro, thua lỗ,
hoặc giảm hiệu quả đầu tư DTNH và gây khó khăn cho việc đánh giá
hiệu quả hoạt động quản lý DTNH. Tại Điều 12 của Nghị định
86/1999/NĐ-CP quy định “Các tổ chức đối tác được lựa chọn để gửi
ngoại tệ và vàng, ủy thác đầu tư phải là tổ chức được xếp hạng tín nhiệm
quốc tế cao”. Trong Quy chế hướng dẫn không có quy định thêm về nội
dung này. Như vậy, điều này gây mơ hồ trong việc thực hiện và không có
cơ sở đánh giá hoạt động quản lý dự trữ…

Về nghiệp vụ kiểm soát, quản lý nội bộ hoạt động quản lý DTNH, Khoản
5, Điều 23 quy định: “Vụ Tổng kiểm soát chịu trách nhiệm định kỳ hoặc
đột xuất kiểm tra việc thực hiện quản lý DTNH nhà nước của các Vụ, Sở
Giao dịch theo các nhiệm vụ được giao và chấp hành các quy định tại
Nghị định 86/1999/NĐ-CP…”; Điểm a, Khoản 3, Điều 23 quy định: “Sở
giao dịch chịu trách nhiệm xây dựng các nguyên tắc quản lý nội bộ để tổ
chức thực hiện quản lý DTNH nhà nước theo quy định tại quy chế này”.
Như vậy, Vụ Tổng kiểm soát chỉ kiểm soát về mặt hành chính, chấp hành
quy định, quy chế,… còn hoạt động quản lý nội bộ do Sở Giao dịch vừa
xây dựng vừa thực hiện. Điều đó gây ra sự thiếu khách quan, có thể dẫn
đến tổn thất, mất mát do việc kiểm soát hoạt động dự trữ không chặt chẽ,
đặc biệt là các hoạt động nghiệp vụ đầu tư, kinh doanh dự trữ trên thị
trường quốc tế.

14


Các nội dung liên quan đến khen thưởng và xử lý vi phạm về quản lý dự
trữ chưa có hoặc mờ nhạt, không tạo ra được động lực cho cấp quản lý
đầu tư dự trữ trực tiếp.
- Chiến lược quản lý DTNH vẫn thụ động, hoạt động đầu tư dự trữ
đơn điệu, chưa tương xứng với các chiến lược phát triển kinh tế – xã hội
trong bối cảnh hội nhập. Định hướng chiến lược quản lý DTNH chủ yếu
mới chỉ đặt ra mặt cơ cấu đảm bảo an toàn tài sản, đáp ứng các nhu cầu
chi tiêu trả nợ của Chính phủ, đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế, mà chưa
đặt ra mức dự trữ, hay căn cứ để xác định DTNH chính thức của nhà
nước ở tầm vĩ mô phù hợp với các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô của Việt Nam
trong từng thời kỳ như tăng trưởng kinh tế, chỉ số lạm pháp, xuất khẩu,…
DTNH tăng chủ yếu do FDI, ODA và kiều hối thu hút tăng. Việc quản lý
các luồng ngoại tệ ra, vào Việt Nam nhất là nguồn trả nợ (như L/C trả

chậm, bảo lãnh…) còn hạn chế do sự phối hợp chưa hiệu quả, chưa nhịp
nhàng trong điều hành xuất, nhập khẩu, ngân sách…
Hình thức đầu tư còn đơn giản chủ yếu dưới hình thức tiền gửi tại các
ngân hàng, các công cụ tài chính như trái phiếu chính phủ, chưa áp dụng
các hình thức đầu tư mang lại lợi nhuận cao như đầu tư vào cổ phiếu hay
uỷ thác đầu tư vào các quỹ.
- Cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin còn rất hạn chế. Mặc dù nhận
được sự tài trợ một số dự án của các nhà tài trợ quốc tế như Ngân hàng
Phát triển Châu á…, nhưng các dự án này mới chỉ tập trung vào phần
công nghệ thông tin phục vụ mảng kinh doanh, nghiệp vụ… Công nghệ
thông tin phục vụ thu thập thông tin số liệu, phân tích dự báo còn hạn
chế.
- Thiếu cán bộ có trình độ và kinh nghiệm thực hiện quản lý dự trữ
ngoại hối và chuyên gia phân tích, dự báo giỏi. Nhân lực có trình độ
chuyên môn làm việc tại NHNN nói chung và tại bộ phận quản lý nói
riêng còn thiếu. Nguyên nhân chủ yếu là do sự đãi ngộ về tiền lương,
thưởng… chưa hợp lý. Hơn nữa, công tác đào tạo, đãi ngộ đội ngũ
chuyên gia phân tích thị trường chưa được quan tâm đúng mức.
- Việc điều hành quản lý dự trữ trực tiếp được giao cho Sở Giao dịch
trong khi đơn vị tham mưu chiến lược là Vụ Quản lý ngoại hối không
tiếp xúc trực tiếp và liên tục với thị trường quốc tế nên các chính sách
còn chậm so với biến động trên thị trường tài chính tiền tệ trong khu
vực, sự biến động của thị trường trong khủng hoảng; kế hoạch chuyển
đổi cơ cấu đồng tiền còn bị động.
- Công tác phân tích thị trường để thực hiện kinh doanh ngoại hối trên
thị trường quốc tế chủ yếu còn ở giai đoạn tập dượt. Đáng lo ngại là chất
lượng báo cáo lập và phân tích dự báo các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô thấp,
15



chậm và độ tin cậy số liệu không cao. Điều đó ảnh hưởng rất lớn đến
chất lượng quyết định điều hành hoạt động trong quản lý DTNH… có thể
dẫn đến những tổn thất về giá trị DTNH.
• Những bất cập, khó khăn trong vấn đề quản lý vàng của NHNN:
- Tỷ lệ nắm giữ vàng thuộc dự trữ ngoại hối nhà nước (dự trữ ngân
hàng nhà nước) còn ở mức khiêm tốn và chưa tương xứng với quy mô
phát triển của thị trường vàng trong nước. Quy mô dự trữ ngân hàng nhà
nước mỏng, thường ở mức từ 8-12 tuần nhập khẩu. Trong khi đó, vay nợ
nước ngoài ngày càng cao. Vàng dự trữ chiếm tỷ lệ nhỏ trong dự trữ
ngân hàng nhà nước và chỉ để trong kho nhằm hỗ trợ cán cân thanh toán
quốc tế kịp thời khi cần thiết. Chưa triển khai các nghiệp vụ đầu tư vàng
trên thị trường quốc tế.
- Hoạt động can thiệp bình ổn giá vàng của Quỹ bình ổn tỷ giá và giá
vàng còn đơn điệu, chỉ mới thực hiện dưới 2 hình thức (i) bán ngoại tệ
cho các doanh nghiệp nhập khẩu vàng mà không thực hiện can thiệp bán
vàng thuộc dự trữ ngân hàng nhà nước ra thị trường hoặc mua từ thị
trường bổ sung dự trữ ngân hàng nhà nước (ii) cấp giấy phép nhập khẩu
có hạn ngạch cho từng doanh nghiệp kinh doanh vàng.
- NHNN mới chỉ chú trọng vào việc bảo toàn giá trị vàng thuộc dự trữ
ngân hàng nhà nước dưới dạng bảo quản trong kho, mà chưa chú trọng
đến hoạt động đa dạng hóa các hình thức đầu tư dự trữ vàng thuộc dự
trữ ngân hàng nhà nước nhằm giảm thiểu rủi ro và nâng cao mức độ sinh
lời đối với nghiệp vụ này.
- NHNN chưa có qui định cụ thể về sử dụng vàng thuộc dự trữ ngân
hàng nhà nước để đầu tư trên thị trường quốc tế hay can thiệp thị trường
vàng trong nước vào những thời điểm cần thiết.
- Về môi trường pháp lý: Các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành
không cấm việc thành lập và hoạt động của sàn giao dịch vàng. Tuy
nhiên, hiện nay, cũng chưa có một văn bản pháp luật cụ thể nào điều
chỉnh trực tiếp về việc thành lập và hoạt động của Sàn giao dịch vàng.

Chỉ có một số văn bản pháp luật có liên quan đến vấn đề này như: Nghị
định 174/1999/NĐ-CP ngày 09/12/1999 của Chính phủ (Nghị định 174)
về quản lý hoạt động kinh doanh vàng, Nghị định 158/2006/NĐ-CP ngày
28/12/2006 quy định về Sở giao dịch hàng hoá, Luật chứng khoán và
Luật các tổ chức tín dụng
- Chính sách quản lý hoạt động xuất nhập khẩu vàng trong thời gian
qua đã có tác động tích cực đến biến động giá vàng trong nước cũng như
16


góp phần bình ổn thị trường ngoại tệ. Tuy nhiên hiện nay, hoạt động xuất
nhập khẩu vàng trang sức mỹ nghệ được thực hiện theo giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh, không cần có giấy phép của NHNN. Do đặc điểm
rất dễ chuyển đổi hình thức từ các loại vàng nguyên liệu khối, thỏi, hạt,
miếng sang thành vàng trang sức, mỹ nghệ để lợi dụng quy định thông
thoáng về việc không cần cấp giấy phép xuất nhập khẩu, đã xuất hiện
hành vi xuất nhập khẩu lậu vàng biến tướng.
- Với số lượng hạn chế các đơn vị được phép sản xuất vàng miếng như
hiện nay, thực tế xảy ra tình trạng nhu cầu mua bán vàng miếng tăng cao
mà các đơn vị này không sản xuất đáp ứng đủ thị trường. Do vậy, giá
vàng có lúc đã bị đẩy lên cao hơn giá vàng quốc tế. Ngoài ra, bất cập của
hoạt động sản xuất vàng miếng còn thể hiện ở chỗ chưa có tiêu chuẩn
chung cho vàng miếng sản xuất trong nước nên đã tạo nên thế độc quyền
tự nhiên cho vàng miếng SJC. Đồng thời, khi uy tín và chất lượng chưa
được công nhận theo tiêu chuẩn chung gây khó khăn cho việc xuất khẩu
vàng nếu có.
• Những vấn đề khác:
- Các chính sách đang làm hoạt động kinh doanh tiền tệ gượng ép, giả
tạo. Theo thoả thuận của ASEAN, AFTA bắt đầu có hiệu lực với Việt
Nam năm 2006. Vì vậy, hoạt động quản lý ngoại hối của Việt Nam trong

tương lai có thể được chia thành hai giai đoạn: giai đoạn ngắn hạn, trước
khi thực hiện các quy định của AFTA (từ nay đến 2005), sau khi trở
thành thành viên chính thức của AFTA (sau 2005).
Hiện nay, Ngân hàng Nhà nước đang áp dụng cơ chế tỷ giá thả nổi có sự
điều tiết của Chính phủ để điều hành chính sách tiền tệ. Theo đó, tỷ giá
chính thức do Ngân hàng Nhà nước được thiết lập trên cơ sở tỷ giá bình
quân của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng và tỷ giá kinh doanh ngoại tệ
của các ngân hàng thương mại không được lớn hơn +/- 0,25% so với tỷ
giá chính thức. Với cách tính này, Ngân hàng Nhà nước khống chế được
sự biến động thất thường của tỷ giá. Tuy nhiên, hạn chế của nó là tỷ giá
không phản ảnh đúng cung - cầu tiền tệ trên thị trường, làm cho hoạt
động kinh doanh tiền tệ của các ngân hàng gượng ép, giả tạo. Ngân hàng
Nhà nước sẽ phải giảm dần, tiến đến loại bỏ các biện pháp điều tiết tỷ giá
mang tính hành chính như khống chế tỷ giá kỳ hạn, giới hạn phí hoán đổi
tiền tệ, hạn chế biên độ trong xác định tỷ giá kinh doanh... để tạo điều
kiện cho các ngân hàng thương mại kinh doanh tiền tệ theo cơ chế thị
trường và quen dần với các công cụ phòng chống rủi ro tỷ giá. Nói cách
khác, tỷ giá phải được thả nổi và hoàn toàn được xác định dựa trên cung
cầu tiền tệ, SBV không nên áp đặt trực tiếp lên tỷ giá mà chỉ được quyền

17


tác động gián tiếp đến tỷ giá thông qua hoạt động mua bán ngoại tệ trên
thị trường ngoại hối.
- Một khía cạnh nữa khiến việc quản lý ngoại hối chưa hiệu quả là do
thị trường ngoại tệ liên ngân hàng vẫn hoạt động kém hiệu quả. Đây là
nơi cung cầu ngoại tệ gặp nhau, nhưng hoạt động của thị trường này
trong thời qua chưa phản ánh đúng thực trạng kinh doanh ngoại hối của
nền kinh tế. Nguyên nhân của vấn đề được ông Nguyễn Ngọc Lân - Vụ

Quản lý Ngoại hối của NHNN - cho rằng, trước hết là do Ngân hàng Nhà
nước chưa thực hiện tốt chức năng là người đặt lệnh mua, lệnh bán cuối
cùng để điều chỉnh thị trường.
Cụ thể, trong những năm 1994-1996, cung ngoại tệ trên thị trường dồi
dào do hoạt động xuất khẩu gạo, dầu thô... phát triển vượt trội, nguồn
vốn ODA, FDI tăng nhanh. Các doanh nghiệp có nhu cầu chuyển ngoại
tệ sang nội tệ để kinh doanh. Tại thời điểm này, hầu hết ngân hàng
thương mại đều đặt lệnh bán ngoại tệ. Để cân đối thị trường và bổ sung
nguồn dự trữ, lẽ ra Ngân hàng Nhà nước phải mua ngoại tệ vào, nhưng
điều này đã không được thực hiện một cách tương thích. Cung vượt cầu,
tỷ giá VND/USD có khuynh hướng hạ, giá trị đồng Việt Nam tăng vượt
qua giá trị thực của chúng tạo áp lực lên giá cả hàng hoá.
- Ngoài ra, NHNN còn chưa đưa ra thực sự đầy đủ các quy định quản
lí các hoạt động ngoại hối trong thị trường ngoại hối; Thời điểm và
thời hạn tăng giảm dự trữ bắt buộc chưa thực sự phù hợp với diễn
biến của thị trường ngoại tệ....
3. Một số đề xuất pháp lý:
Để khắc phục những tồn tại nêu trên, cần thực hiện đồng bộ các giải
pháp sau:


Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung quy định quản lý ngoại hối, đặc biệt là
DTNH.

Chương VI, Pháp lệnh Ngoại hối số 28/2005/PL-UBTVQH11, ngày
13/12/2005, có hiệu lực 1/6/2006, ra đời mới chỉ quy định những nội dung
cơ bản về quản lý DTNH như thành phần DTNH, nguồn hình thành DTNH
nhà nước, cơ quan quản lý DTNH. Những bất cập trong Nghị định số
86/1999/NĐ-CP, ngày 30/8/1999, của Chính phủ về quản lý ngoại hối nhà
nước như đã nêu ở trên cần được bổ sung, sửa đổi để tạo hành lang pháp lý

cho việc quản lý, thực hiện. NHNN cần rà soát, chỉnh sửa những điểm còn
bất cập như đã nêu ở trên. Đồng thời, cần bổ sung và hoàn thiện các quy
trình tạo thuận lợi cho quá trình tác nghiệp, đảm bảo an toàn như:
18


- Quy trình đầu tư DTNH cần đảm bảo mô tả công việc cụ thể, trách
nhiệm của từng bộ phận, trong đó, quy định rõ các bước công việc xử
lý đối với một đề xuất mới. Xây dựng quy định thống nhất về hồ sơ,
các mẫu biểu về báo cáo đề xuất, tờ trình phân tích…
- Cần có quy định về việc quản lý nguồn ngoại tệ tại Bộ Tài chính và
cơ chế phối hợp trong việc bán nguồn ngoại tệ này cho NHNN, khi có
nhu cầu, NHNN bán lại nguồn ngoại tệ này cho Bộ Tài chính.
- Quy định DTNH đảm bảo yêu cầu hội nhập quốc tế, thị trường chứng
khoán phát triển, là thành viên của WTO, tự do tài khoản vãng lai và
mức độ tự do tài khoản vốn cao…
- Quy định DTNH phải đáp ứng sự chủ động đối với cán bộ trực tiếp
tác nghiệp đầu tư dự trữ, cũng như đảm bảo việc quản lý của cán bộ
cấp cao.
- Quy định cụ thể về hoạt động uỷ thác đầu tư DTNH.
- Xây dựng hệ thống nhóm chỉ tiêu dự trữ ngoại hối làm cơ sở cho các
nhà quản lý đầu tư DTNH tuân theo cũng như để đánh giá hiệu quả
hoạt động quản lý DTNH của từng nhà đầu tư. Điều đó góp phần tăng
cường ý thức, trách nhiệm đối với các nhà quản lý DTNH. Các nhóm
chỉ tiêu bao gồm: Nhóm chỉ tiêu đáp ứng nhu cầu thanh khoản; Nhóm
chỉ tiêu hạn mức sinh lời và rủi ro của hoạt động đầu tư DTNH.
• Thứ hai, hoàn thiện chức năng nhiệm vụ của các cấp quản lý ngoại hối,
tách nhiệm vụ ban hành quy định và tác nghiệp.
Ví dụ như trong việc quản lý DTNH được phân thành 3 cấp rõ ràng với
chức năng và nhiệm vụ độc lập: Cấp quản lý dự trữ ngoại hối cao nhất là

Thống đốc NHNN, cấp thứ 2 là Ban điều hành quản lý DTNH và cấp thứ 3
là Vụ Quản lý dự trữ ngoại hối.
Ban điều hành quản lý DTNH ban hành các quy định có tính định hướng
chuẩn mức cho quản lý DTNH, thực hiện giám sát và thực hiện các nhiệm
vụ có ảnh hưởng lớn đến quỹ DTNH gồm: Xây dựng danh mục đầu tư
chuẩn; Phê duyệt chiến lược đầu tư DTNH; Giám sát thực hiện quản lý
DTNH; Phê duyệt những dự án đầu tư dự trữ lớn; Phê duyệt lựa chọn đối
tác nhận uỷ thác đầu tư DTNH bên ngoài…
Vụ Quản lý DTNH thực hiện công việc tác nghiệp về đầu tư, quản lý
thanh khoản, hạch toán kế toán, kiểm tra nội bộ…Văn phòng giao dịch tại
các trung tâm tài chính, thị trường ngoại hối quốc tế lớn giúp cho việc thực
hiện hoạt động đầu tư và các giao dịch ngoại hối đối với quỹ DTNH.
• Thứ ba, hình thành các quỹ DTNH theo chức năng và xây dựng cơ cấu
ngoại tệ và cơ cấu đầu tư DTNH cho từng quỹ.

19


Các quỹ DTNH bao gồm: (i) Quỹ bình ổn tỷ giá và giá vàng đảm bảo tính
thanh khoản cao cho mục đích sử dụng thường xuyên, mục tiêu lợi nhuận ở
mức thấp. Cơ cấu ngoại tệ DTNH của quỹ này phù hợp với cơ cấu thanh
toán các giao dịch thương mại hàng hoá và dịch vụ trong từng thời kỳ; (ii)
Quỹ trả nợ nước ngoài đầu tư vào những công cụ với cơ cấu đồng tiền và
kỳ hạn phù hợp với nghĩa vụ nợ công. Cơ cấu ngoại tệ dự trữ phù hợp với
cơ cấu tài sản nợ nước ngoài của Chính phủ và Ngân hàng Trung ương
(NHTW);(iii) Quỹ đầu tư dài hạn thực hiện đầu tư vào những công cụ sinh
lời cao; (iv) Quỹ đầu tư uỷ thác cho nhà đầu tư nước ngoài nhằm mục đích
sinh lời và chuyển giao kinh nghiệm quản lý. Đối với quỹ dự trữ đầu tư dài
hạn và uỷ thác, cơ cấu DTNH là các ngoại tệ mạnh khác nhau trên cơ sở
phân tích, đánh giá diễn biến trên thị trường.

Dự trữ được chia thành các quỹ khác nhau và mỗi quỹ sẽ được đầu tư
bằng những công cụ và hình thức khác nhau đảm bảo việc quản lý DTNH
đạt hiệu quả tối đa và phân tán rủi ro, đồng thời phải hình hành cơ chế điều
chuyển giữa các quỹ. Mỗi quỹ dự trữ sẽ được xây dựng danh mục đầu tư
chuẩn, phân cấp quản lý đầu tư… để đảm bảo dự trữ ngoại hối được quản
lý tốt nhất. Đặc biệt, Quỹ dự trữ đầu tư dài hạn phải chú trọng đến công
việc đánh giá, lựa chọn đối tác.
• Thứ tư, với vai trò người quản lí trực tiếp, NHNN cần thường xuyên rà
soát lại những văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội hay Chính
phủ và phát hiện, đề xuất hủy bỏ hoặc thay đổi các quy định ấy cho phù
hợp với sự phát triển của thị trường ngoại hối.
Việc ban hành QĐ432/2000/QĐ-NHNN đã tạo cơ sở pháp lý cho các
tổ chức tín dụng huy động vàng trong dân cư, sử dụng phục vụ hoạt động
sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện có một số vấn đề
phát sinh cần được chỉnh sửa cho phù hợp với thực tiễn như sau:
- NHNN cần sửa đổi QĐ432 theo hướng huy động vốn của tổ chức tín
dụng thực hiện theo hình thức phát hành giấy tờ có giá cần được thực
hiện theo một văn bản thống nhất
- NHNN cần nghiên cứu đề xuất điều chỉnh giảm tỷ lệ chuyển đổi
nguồn vốn huy động bằng vàng thành nguồn vốn bằng tiền cho phù
hợp với thực tế..

20



×