Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

CÁC CAM KẾT CỦA VIỆT NAM KHI GIA NHẬP WTO VỀ TỰ DO HÓA DỊCH VỤ BẢO HIỂM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.99 KB, 18 trang )

Pháp luật Kinh doanh Bảo hiểm

I. CÁC CAM KẾT CỦA VIỆT NAM KHI GIA NHẬP WTO VỀ TỰ DO
HÓA DỊCH VỤ BẢO HIỂM.
Theo Bảng lộ trình các cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO, các cam kết
về dịch vụ bảo hiểm thuộc ngành số 7 ngành dịch vụ tài chính, phân ngành A bảo
hiểm và các dịch vụ liên quan đến bảo hiểm, trong đó bao gồm: tiểu ngành a gồm
(a) bảo hiểm nhân thọ, trừ bảo hiểm y tế, (b) bảo hiểm phi nhân thọ; tiểu ngành b
tái bảo hiểm và nhượng tái bảo hiểm; tiểu ngành c trung gian bảo hiểm (như đại lý
bảo hiểm và môi giới bảo hiểm; tiểu ngành d là dịch vụ hỗ trợ bảo hiểm (như tư
vấn, tính toán, đánh giá rủi ro, giải quyết bồi thường). Các cam kết này đã bao gồm
tất cả các hoạt động kinh doanh bảo hiểm cùng những hoạt động có liên quan đến
bảo hiểm được quy định trong Luật Kinh doanh bảo hiểm, và được xây dựng dựa
trên ba nguyên tắc cơ bản: đối xử tối huệ quốc (MFN), đối xử quốc gia (NT) và mở
cửa thị trường (MA). Nếu hai nguyên tắc MFN và NT được quy định tương đối
giống nhau ở hầu hết các tiểu ngành, thì ở nguyên tắc cuối cùng, mặc dù tất cả các
loại bảo hiểm có tính chất kinh doanh đã cam kết đều thuộc đối tượng mở cửa thị
trường nhưng mức độ cam kết để mở cửa lại khác nhau ở mỗi loại. Sau đây chúng
ta sẽ cùng xem xét các nội dung cam kết cụ thể:
1. Cam kết của Việt Nam về phương thức tiêu dùng dịch vụ qua biên giới.
Theo WTO, cung cấp dịch vụ qua biên giới là phương thức mà dịch vụ được
cung cấp “…từ lãnh thổ của một Thành viên sang lãnh thổ của bất kỳ một Thành
viên khác”1. Điểm đặc biệt là phương thức này không đòi hỏi sự dịch chuyển địa lý
của bên cung cấp dịch vụ hoặc bên sử dụng dịch vụ, mà chỉ bản thân dịch vụ đó
được dịch chuyển và cung ứng cho người sử dụng tại nước sử dụng dịch vụ.
Với phương thức tiêu này, Việt Nam cam kết đối xử quốc gia và không hạn chế
tiếp cận thị trường đối với dịch vụ bảo hiểm cung cấp cho các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài, người nước ngoài làm việc tại Việt Nam; dịch vụ tái bảo hiểm;
1

Điểm a Khoản 2 Điều I Hiệp định GATS 1994



1


Pháp luật Kinh doanh Bảo hiểm

dịch vụ bảo hiểm vận tải quốc tế (gồm vận tải biển quốc tế, hàng không thương mại
quốc tế, hàng hóa đang vận chuyển quá cảnh quốc tế); dịch vụ môi giới bảo hiểm
và môi giới tái bảo hiểm; dịch vụ tư vấn, tính toán, đánh giá rủi ro và giải quyết bồi
thường. Các nội dung cụ thể như sau:
- Không hạn chế tiếp cận thị trường đối với dịch vụ bảo hiểm cung cấp cho
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, người nước ngoài làm việc tại Việt Nam.
Như vậy, các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài được phép cung cấp dịch vụ bảo
hiểm cho các dự án, doanh nghiệp có vốn nước ngoài tại Việt Nam, người nước
ngoài làm việc tại Việt Nam mà không cần thành lập pháp nhân ở Việt Nam. Cam
kết này là hợp lý, nhất là trong bối cảnh thị trườngViệt Nam đang ngày càng nhiều
tiềm năng phát triển, trở thành một điểm thu hút rất nhiều các nhà đầu tư nước
ngoài. Việc đầu tư này có thể đem lại cho các nhà đầu tư, các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài nhiều lợi nhuận, nhưng cùng với đó, nó cũng tiềm ẩn rất nhiều
rủi ro, nhu cầu bảo hiểm của nhóm đối tượng này là rất lớn. Trong khi các doanh
nghiệp bảo hiểm Việt Nam còn có những hạn chế nhất định (về vốn, về trình độ
chuyên môn,…) thì các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài có thể là một lựa chọn
an toàn hơn đối với nhóm đối tượng này. Như vậy, cam kết này đã mở ra nhiều cơ
hội cho các dự án hoặc các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
lựa chọn doanh nghiệp để thiết lập quan hệ bảo hiểm thay vì chỉ được phép giao
dịch với doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam, thông qua đó cũng thể hiện chính sách
khuyến khích sự đầu tư từ nước ngoài vào Việt Nam.
- Không hạn chế tiếp cận thị trường với dịch vụ bảo hiểm vận tải quốc tế: dịch
vụ bảo hiểm có thể được cung cấp qua biên giới đối với các rủi ro xảy ra khi đang
vận chuyển ở khu vực quốc tế như: vận tải biển quốc tế và vận tải hàng không quốc

tế; hàng hóa đang vận chuyển quá cảnh. Các rủi ro xảy ra ở khu vực quốc tế luôn
mang tính phức tạp, và không phải lúc nào khi đang trên đường vận chuyển, doanh
2


Pháp luật Kinh doanh Bảo hiểm

nghiệp bảo hiểm Việt Nam cũng có thể có mặt kịp thời để bảo hiểm cho các tổn
thất xảy ra. Việc hợp tác các nước về dịch vụ bảo hiểm trong trường hợp này là vô
cùng cần thiết và hợp lý.
- Ngoài ra, với các dịch vụ bảo hiểm khác, Việt Nam cũng có những cam kết
cụ thể: không hạn chế tiếp cận thị trường với các dịch vụ tái bảo hiểm; môi giới
bảo hiểm và môi giới tái bảo hiểm; các dịch vụ hỗ trợ bảo hiểm:
- Không hạn chế đối xử quốc gia với mọi hoạt động thuộc dịch vụ bảo hiểm
được đề cập trong cam kết: điều này có nghĩa là mọi nhà cung cấp dịch vụ bảo
hiểm ở nước ngoài cung cấp dịch vụ qua biên giới đều sẽ được hưởng những ưu đãi
không kém hơn các nhà cung cấp dịch vụ bảo hiểm ở Việt Nam. Cam kết này thể
hiện sự tôn trọng của Việt Nam đối với nguyên tắc đối xử quốc gia được ghi nhận
trong Hiệp định chung về thương mại dịch vụ GATS (phần II), đồng thời đảm bảo
cho các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài được hưởng sự đối xử bình đẳng như
đối với các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước.
Thêm nữa, Danh mục các biện pháp miễn trừ đối xử tối huệ quốc của Biểu cam
kết không liệt kê đến ngành bảo hiểm. Điều này chứng tỏ, Việt Nam sẽ phải tuân
thủ nguyên tắc đối xử tối huệ quốc – MFN (quy định tại khoản 1, Điều II, Phần II
Hiệp định GATS) mà không có bất kỳ ngoại lệ nào. Theo đó, Việt Nam sẽ có nghĩa
vụ đối xử bình đẳng (về chính sách pháp luật, các ưu đãi…) giữa các nhà cung cấp
dịch vụ bảo hiểm đến từ các nước khác nhau là thành viên WTO.
2. Cam kết của Việt Nam về phương thức tiêu dùng dịch vụ ở nước ngoài.
Điểm b Khoản 2 Điều I Hiệp định GATS ghi nhận tiêu dùng ngoài lãnh thổ là
phương thức cung cấp dịch vụ “…trên lãnh thổ của một Thành viên cho người tiêu

dùng dịch vụ của bất kỳ Thành viên nào khác”, hay hiểu đơn giản hơn, trong lĩnh
vực kinh doanh bảo hiểm, đó là việc Việt Nam cam kết cho phép tổ chức, cá nhân
trong nước di chuyển sang các nước thành viên khác của WTO để sử dụng dịch vụ
3


Pháp luật Kinh doanh Bảo hiểm

bảo hiểm của các nhà cung cấp dịch vụ bảo hiểm các nước này. Khác với phương
thức tiêu cung cấp dịch vụ qua biên giới, khi cam kết về phương thức này, Việt
Nam không đặt ra bất kỳ hạn chế nào. Điều này có thể lý giải bởi một số lý do sau:
- Thứ nhất, phương thức này áp dụng các tổ chức, cá nhân Việt Nam ra nước
ngoài hoạt động, học tập, lao động, hoạt động kinh doanh cũng có quyền mua bảo
hiểm của các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài. Việc hạn chế phương thức này
(nếu có) cũng sẽ là hạn chế phần nào quyền tự do đi lại – một trong những quyền
cơ bản của công dân đã được ghi nhận trong Hiến pháp 1992.
- Thứ hai, một khi đã sang nước ngoài và sử dụng dịch vụ bảo hiểm do nhà
cung cấp dịch vụ bảo hiểm nước ngoài cung cấp, hoạt động bảo hiểm lúc đó sẽ
hoàn toàn chịu sự điều chỉnh của pháp luật nước cung ứng dịch vụ, và Việt Nam
cũng không thể can thiệp để hạn chế pháp luật của nước ngoài.
- Thứ ba, Việt Nam cam kết cho phép tổ chức, cá nhân nước mình tự do sang
nước thành viên khác để sử dụng dịch vụ bảo hiểm của nước đó, thì theo nguyên
tắc có đi có lại, cũng sẽ có rất nhiều nước thành viên khác cam kết cho tổ chức, cá
nhân nước mình được tự do sang Việt Nam để sử dụng dịch vụ bảo hiểm của nước
ta. Và với cách đó, chúng ta có thể mở rộng thêm thị trường bảo hiểm trong nước
về quy mô khi trên thị trường xuất hiện thêm nhiều khách hàng là công dân, pháp
nhân của các nước thành viên WTO.
Với những lý do trên, không chỉ Việt Nam mà hầu hết các quốc gia khi gia
nhập WTO đều cam kết không hạn chế đối với phương thức này.
3. Cam kết của Việt Nam về phương thức hiện diện thương mại.

Hiện diện thương mại là một trong bốn phương thức để thực hiện các hoạt
động thương mại dịch vụ trong đó có hoạt động kinh doanh bảo hiểm trong phạm
vi quốc tế. Phương thức này liên quan trực tiếp đến việc đầu tư tại thị trường nước
khác để thiết lập công việc kinh doanh, và là việc cung cấp dịch vụ: “…trên lãnh
4


Pháp luật Kinh doanh Bảo hiểm

thổ của một Thành viên cho người tiêu dùng dịch vụ của bất kỳ Thành viên nào
khác”2. Hiện diện thương mại trong kinh doanh bảo hiểm được hiểu là nhà kinh
doanh dịch vụ bảo hiểm (hoặc tái bảo hiểm, môi giới bảo hiểm,…) một nước cung
cấp dịch vụ này tại một nước khác thông qua việc thiết lập sự hiện diện thương mại
của mình. Các hình thức hiện diện thương mại thông thường bao gồm: các văn
phòng đại diện, chi nhánh, công ty con 100% vốn nước ngoài, công ty liên doanh
hoặc là mua cổ phần. Hiện nay, hầu hết các cam kết về ngành dịch vụ đều tập trung
ở phương thức này. Tuy nhiên, với dịch vụ bảo hiểm thì các nhà cung cấp dịch vụ
nước ngoài chỉ được phép hiện diện ở Việt Nam dưới các hình thức: văn phòng đại
diện, liên doanh với đối tác Việt Nam, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và chi
nhánh, với những điều kiện nhất định trong từng hình thức. Cụ thể:
- Các doanh nghiệp bảo hiểm 100% vốn đầu tư nước ngoài không được kinh
doanh bảo hiểm bắt buộc, bao gồm: bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ
giới đối với người thứ ba, bảo hiểm xây dựng và lắp đặt, bảo hiểm các công trình
dầu khí và các công trình dễ gây nguy hiểm đến an ninh cộng đồng và môi trường.
Cam kết xuất phát do bản chất của bảo hiểm bắt buộc, là loại bảo hiểm: “…nhằm
mục đích bảo vệ lợi ích công cộng và an ninh xã hội” 3 nên cần hạn chế sự tham gia
của các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài để Nhà nước dễ quản lý, kiểm soát. Tuy
nhiên, hạn chế này được bãi bỏ vào ngày 01/01/2008.
- Sau 05 năm kể từ khi gia nhập, cho phép doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài
được thành lập chi nhánh bảo hiểm phi nhân thọ. Bảo hiểm phi nhân thọ thường là

những bảo hiểm có giá trị lớn, và trước khi gia nhập WTO, kinh doanh loại bảo
hiểm này đem lại nhiều lợi nhuận cho các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước, hay
nói cách khác, đây là “mảnh đất màu mỡ” cho các doanh nghiệp bảo hiểm trong
nước khai thác. Vậy nhưng, cùng với việc cam kết gia nhập WTO và mở cửa thị
2

Theo Điểm b Khoản 2 Điều I Hiệp định GATS.

3

Khoản 1 Điều 8 Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000.

5


Pháp luật Kinh doanh Bảo hiểm

trường đối với lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, nếu ngay lập tức mở cửa cho các
doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài tham gia vào hoạt động bảo hiểm phi nhân thọ,
lợi ích của các doanh nghiệp trong nước có thể bị ảnh hưởng; đồng thời các doanh
nghiệp này cũng sẽ rơi vào tình trạng bất lợi do sức ép cạnh tranh không chỉ trong
nước mà còn mở rộng ra quốc tế. Do vậy, quy định thời hạn 05 năm để các doanh
nghiệp bảo hiểm trong nước có đủ thời gian tạo dựng lòng tin nơi khách hàng và vị
thế vững chắc trên thị trường, chuẩn bị sẵn sàng cho sự gia nhập của các doanh
nghiệp bảo hiểm nước ngoài vào nước ta. Việt Nam gia nhập WTO vào tháng
01/2007, nên đến tháng 01/2012, cam kết này sẽ được triển khai. Cũng theo cam
kết này, việc thành lập chi nhánh bảo hiểm nhân thọ cũng phải căn cứ vào các “quy
định quản lý thận trọng”, mà theo GATS được hiểu là “những biện pháp vì lý do
thận trọng, bao gồm các biện pháp để bảo hộ nhà đầu tư, người gửi tiền, người
nắm giữ hợp đồng bảo hiểm hoặc những người nắm chứng từ tài chính đáo hạn

thuộc sở hữu của một người cung cấp dịch vụ tài chính, hoặc để đảm bảo tính
thống nhất và ổn định của hệ thống tài chính”.
- Cam kết không hạn chế đối xử quốc gia với phương thức hiện diện thương
mại:
Theo đó, các chi nhánh bảo hiểm được cấp phép thành lập với tư cách là đơn vị
phụ thuộc có chức năng kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài sẽ
đương nhiên được phép kinh doanh bảo hiểm như đối với doanh nghiệp bảo hiểm
trong nước trong phạm vi cam kết đối với phương thức hiện diện thương mại.
4. Cam kết của Việt Nam về phương thức hiện diện thể nhân.
Được quy định tại điểm d khoản 2 Điều I Hiệp định GATS, hiện diện thể nhân
được hiểu là việc cung ứng dịch vụ: “…bởi một người cung cấp dịch vụ của một
Thành viên thông qua sự hiện diện thể nhân trên lãnh thổ của bất kỳ Thành viên
nào khác”. Trong lĩnh vực bảo hiểm thì việc này được hiểu là người kinh doanh
6


Pháp luật Kinh doanh Bảo hiểm

dịch vụ bảo hiểm (hoặc tái bảo hiểm, trung gian bảo hiểm,…) di chuyển sang các
nước thành viên khác với tư cách cá nhân để cung cấp dịch vụ. Đây cũng là điểm
khác biệt cơ bản giữa phương thức này với phương thức hiện diện thương mại. Tuy
nhiên, khác với hiện diện thương mại được cam kết với mức độ mở cửa thị trường
khá rộng, thì với phương thức cuối cùng này, Việt Nam chưa có cam kết trừ các
cam kết chung được áp dụng với cả dịch vụ bảo hiểm. Việc không cam kết hiện
diện thể nhân trong phân ngành dịch vụ bảo hiểm là hợp lý, bởi như chúng ta đều
biết, lĩnh vực bảo hiểm là một lĩnh vực nhiều rủi ro, không chỉ với nhà kinh doanh
mà ngay cả khách hàng cũng có nhiều đắn đo trước khi quyết định đặt niềm tin vào
một hãng bảo hiểm. Việc cung cấp dịch vụ bảo hiểm dưới tư cách cá nhân sẽ không
thể đem lại cảm giác an toàn cho khách hàng; hơn nữa cũng là giúp cho Nhà nước
kiểm soát lĩnh vực bảo hiểm được tốt hơn, tránh trường hợp có quá nhiều người

sang nước ta và tự do hoạt động dưới danh nghĩa nhà kinh doanh bảo hiểm. Tuy
nhiên, theo cam kết chung, theo cam kết chung, Việt Nam cho phép nhập cảnh và
lưu trú tạm thời đối với các thể nhân là người di chuyển trong nội bộ doanh nghiệp,
nhân sự khác, người chào bán dịch vụ, người chịu trách nhiệm về thành lập hiện
diện thương mại, cũng như nhà cung cấp dịch vụ theo hợp đồng. Như vậy thì cá
nhân vẫn có thể sang Việt Nam để kinh doanh dịch vụ bảo hiểm trong trường hợp
cá nhân đó đi theo để phục vụ cho hoạt động của các hiện diện thương mại của các
tổ chức bảo hiểm nước ngoài tại Việt Nam, hoặc thông qua việc thực hiện cung cấp
dịch vụ theo hợp đồng (có thể theo phương thức cung cấp qua biên giới), hay là
chào bán dịch vụ bảo hiểm (một hình thức xúc tiến thương mại)4.
5. Đánh giá các cam kết của Việt Nam trong WTO về tự do hóa dịch vụ
bảo hiểm.

4

Nguồn: Pháp luật kinh doanh bảo hiểm trước yêu cầu sửa đổi, bổ sung để phù hợp với cam kết WTO và thực tiễn <

Tạp chí Khoa học pháp luật số 3 (40)/2007>

7


Pháp luật Kinh doanh Bảo hiểm

Với các nội dung cam kết như đã phân tích ở trên, có thể thấy Việt Nam còn
khá thận trọng trong việc mở cửa thị trường đối với dịch vụ bảo hiểm. Chúng ta
không mở cửa một cách ồ ạt mà luôn đặt ra những lộ trình để mở cửa từng bước.
Điều này là hoàn toàn phù hợp trong bối cảnh nước ta mới đổi mới từ năm 1986,
các vấn đề trong quan hệ quốc tế còn khá non trẻ; dịch vụ bảo hiểm, mặc dù là một
ngành nhiều tiềm năng nhưng cũng chưa thực sự phát triển ở Việt Nam. Hơn nữa,

việc đưa ra các cam kết cụ thể về tự do hóa dịch vụ bảo hiểm còn dựa trên sự cân
nhắc những cơ hội và thách thức mà thị trường bảo hiểm trong nước có thể gặp
phải khi nước ta gia nhập WTO, cụ thể 5:
Về cơ hội:
- Việc tham gia thị trường của những công ty bảo hiểm mới, đặc biệt là những
công ty bảo hiểm đến từ nước ngoài sẽ thúc đẩy sự phát triển và đa dạng hóa thị
trường bảo hiểm trong nước;
- Mở cửa thị trường tạo điều kiện tăng cường trao đổi kiến thức và kỹ năng
chuyên ngành, góp phần thúc đẩy năng lực cạnh tranh của các công ty bảo hiểm
trong nước.
Về thách thức:
- Thách thức lớn nhất đặt ra cho các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước là các
doanh nghiệp này sẽ bị đặt vào tình trạng cạnh tranh ngày càng “khốc liệt” hơn về
thị phần, nhân lực, trình độ kỹ thuật,…Mặc dù theo cam kết, Việt Nam đã đặt ra
một thời hạn nhất định để các doanh nghiệp trong nước có thể tranh thủ tạo dựng
thương hiệu và kiếm lời, cụ thể là cam kết doanh nghiệp bảo hiểm 100% vốn nước
ngoài bị hạn chế sản phẩm bảo hiểm bắt buộc đến 01/01/2008 nhưng thực tế doanh
nghiệp bảo hiểm Việt Nam cũng hưởng lợi không nhiều từ cam kết này vì từ năm
2003 mới có sản phẩm bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới,
sản phẩm bảo hiểm bắt buộc người kinh doanh vận tải hành khách và hàng dễ cháy
5

Nguồn: />
8


Pháp luật Kinh doanh Bảo hiểm

dễ nổ trên đường thuỷ nội địa. Các sản phẩm bảo hiểm bắt buộc khác như cháy nổ,
người Việt Nam du lịch lữ hành quốc tế, xây dựng – lắp đặt, người sử dụng lao

động trong hoạt động xây dựng, công trình dầu khí, công trình dễ gây nguy hiểm
đến an ninh cộng đồng và môi trường thì đến nửa cuối năm 2007 mới đưa ra dự
thảo và chuẩn bị ban hành6;
- Mức độ cạnh tranh cao còn có thể dẫn tới hiện tượng liên kết giữa các công ty
bảo hiểm lớn, thôn tính các doanh nghiệp nhỏ, ảnh hưởng tới sự cạnh tranh lành
mạnh của thị trường, gây thiệt hại cho các công ty vừa và nhỏ,…
II. NỘI LUẬT HÓA CÁC CAM KẾT CỦA VIỆT NAM KHI GIA NHẬP
WTO TRONG LUẬT KINH DOANH BẢO HIỂM (SỬA ĐỔI).
Kể từ khi có hiệu lực vào 1/4/2001 cho đến trước khi bị sửa đổi bổ sung vào
năm 2010, Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000 đã giúp đem lại một số kết quả rất tích
cực cho thị trường bảo hiểm trong nước. Luật đã tạo điều kiện cho thị trường bảo
hiểm Việt Nam phát triển và hội nhập quốc tế, tạo ra một khuôn khổ pháp lý vững
chắc giúp duy trì trật tự kinh doanh, ngăn ngừa những hành vi trục lợi trong lĩnh
vực bảo hiểm; số lượng doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm
cũng tăng từ 14 lên 50. Đến tháng 3/2010, các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài
đã đầu tư với tổng số vốn hơn 1 tỷ USD, trong đó có các doanh nghiệp bảo hiểm
hàng đầu thế giới như Công ty Bảo hiểm nhân thọ Manufactures (thuộc Tập đoàn
Manulife Financial),...7. Tuy nhiên, cùng với nhu cầu ngày càng phát triển của thị
trường bảo hiểm Việt Nam, nhất là trong bối cảnh Việt Nam đã ký Hiệp định
thương mại Việt Nam-Hoa kỳ (BTA) và cam kết gia nhập WTO những quy định
của Luật 2000 ngày càng bộc lộ nhiều hạn chế, cần được sửa đổi, bổ sung để phù
hợp với thực tiễn và thông lệ quốc tế. Chính vì vậy, Luật Kinh doanh bảo hiểm sửa

6

Nguồn: />
7

Nguồn: />
9



Pháp luật Kinh doanh Bảo hiểm

đổi bổ sung năm 2010 ra đời, và một trong những nội dung chính của việc sửa đổi
này là nhằm triển khai thực hiện các cam kết của Việt Nam gia nhập WTO.
1. Các quy định của Luật Kinh doanh bảo hiểm sửa đổi phù hợp với các
cam kết của Việt Nam trong WTO.
a) Về phân loại nghiệp vụ bảo hiểm:
Theo Điều 7 Luật KDBH 2000, nghiệp vụ bảo hiểm được chia thành 02 loại
hình là bảo hiểm nhân thọ (05 nghiệp vụ) và bảo hiểm phi nhân thọ (11 nghiệp vụ),
trong đó nghiệp vụ “bảo hiểm sức khỏe và bảo hiểm tai nạn con người;” (điểm a
khoản 2 Điều 7) được xếp vào nhóm bảo hiểm phi nhân thọ. Tuy nhiên, cách phân
loại và sắp xếp này chưa thực sự phù hợp như cách phân loại của WTO mà Việt
Nam đã cam kết thực hiện theo. Cụ thể, theo WTO, việc phân loại nghiệp vụ bảo
hiểm được thực hiện theo mã CPC, trong đó dịch vụ bảo hiểm được phân thành các
nhiều nhóm hơn, bao gồm: dịch vụ bảo hiểm nhân thọ và trợ cấp (mã CPC 7131),
dịch vụ bảo hiểm sức khỏe và tai nạn (mã CPC 7132), dịch vụ bảo hiểm phi nhân
thọ (mã CPC 7133), và cũng theo đó, bảo hiểm sức khỏe và tai nạn lại được xếp
vào nhóm loại hình bảo hiểm về sức khỏe8.
Từ sự “chênh nhau” giữa Luật KDBH 2000 và cam kết theo WTO này mà Luật
KDBH sửa đổi đã phải điều chỉnh, bổ sung các nghiệp vụ bảo hiểm mới để phù hợp
với thực tiễn và thông lệ quốc tế, điển hình việc phân loại nghiệp vụ bảo hiểm trong
Điều 7 Luật sửa đổi đã được chia thành 03 nhóm chính (như trong mã CPC), đồng
thời còn có thêm quy định về “các nghiệp vụ bảo hiểm khác do Chính phủ quy
định” ( khoản 4 điều 7) để phòng trường hợp thực tiễn hoạt động bảo hiểm đa dạng
có thể làm phát sinh các nghiệp vụ bảo hiểm mới. Cùng với đó là việc bổ sung
nghiệp vụ bảo hiểm hưu trí trong nhóm bảo hiểm nhân thọ và hưu trí, bổ sung các
nghiệp vụ bảo hiểm thuộc nhóm bảo hiểm sức khỏe tại Điều 7 Luật KDBH hiện
8


Nguồn: Hướng dẫn tra cứu mã CPC, />
10


Pháp luật Kinh doanh Bảo hiểm

hành, đồng thời bổ sung các khái niệm về “Bảo hiểm hưu trí” và “Bảo hiểm sức
khoẻ” trong phần giải thích từ ngữ tại Điều 3 Luật KDBH hiện hành.
b) Về phương thức cung cấp dịch vụ qua biên giới.
Luật KDBH 2000 chưa quy định về phương thức cung cấp dịch vụ bảo hiểm
qua biên giới, theo khoản 1 Điều 6 Luật này: “1. Tổ chức, cá nhân có nhu cầu bảo
hiểm chỉ được tham gia bảo hiểm tại doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động ở Việt
Nam”. Tổ chức, cá nhân ở đây mặc nhiên được hiểu bao gồm cả các tổ chức, cá
nhân nước ngoài đang đầu tư, làm việc tại Việt Nam, trong khi như chúng ta đã
phân tích ở trên, nhu cầu cần được bảo hiểm của các nhóm đối tượng này là rất lớn
và các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước chưa chắc đã thỏa mãn được những yêu
cầu của họ. Tuy nhiên, theo cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO trong lĩnh
vực bảo hiểm thì Việt Nam cho phép các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài được
cung cấp dịch vụ bảo hiểm qua biên giới, và do đó, để phù hợp với cam kết thì Luật
sửa đổi bổ sung đã sửa đổi khoản 1 Điều 6 ở trên như sau: “Tổ chức, cá nhân có
nhu cầu bảo hiểm chỉ được tham gia bảo hiểm tại doanh nghiệp bảo hiểm hoạt
động tại Việt Nam; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, người nước ngoài làm
việc tại Việt Nam có nhu cầu bảo hiểm được lựa chọn tham gia bảo hiểm tại
doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động tại Việt Nam hoặc sử dụng dịch vụ bảo hiểm
qua biên giới”.
c) Về phương thức hiện diện thương mại.
Cũng theo quy định tại Luật KDBH 2000, điều 59, có 5 loại hình doanh nghiệp
bảo hiểm (doanh nghiệp bảo hiểm nhà nước, công ty cổ phần bảo hiểm, tổ chức bảo
hiểm tương hỗ, doanh nghiệp bảo hiểm liên doanh và doanh nghiệp bảo hiểm 100%

vốn nước ngoài), trong đó, doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo
hiểm nước ngoài chỉ được phép hoạt động tại Việt Nam dưới các hình thức: doanh
nghiệp liên doanh; doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài; được đặt văn phòng đại
11


Pháp luật Kinh doanh Bảo hiểm

diện tại Việt Nam nhưng các văn phòng đại diện này không được phép kinh doanh
bảo hiểm tại Việt Nam (Điều 105). Các quy định này sau đó đều đã trở nên không
phù hợp, khi cùng với việc gia nhập WTO, Việt Nam không chỉ cam kết về phương
thức cung cấp dịch vụ qua biên giới mà còn cam kết mở cửa với các chi nhánh bảo
hiểm phi nhân thọ sau thời hạn 05 năm kể từ ngày gia nhập. Năm 2012 là hạn cuối
của thời hạn 05 năm, nên Luật KDBH sửa đổi đã phải sửa đổi quy định tại Điều
105 để phù hợp với cam kết như sau:
“1. Doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm nước ngoài được
phép hoạt động tại Việt Nam dưới các hình thức sau đây:
a) Công ty trách nhiệm hữu hạn...
b) Chi nhánh doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài.
2. Doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm nước ngoài cung
cấp dịch vụ bảo hiểm qua biên giới theo quy định của Chính phú.
3. Doanh nghiệp bảo hiểm...được đặt văn phòng đại diện tại Việt Nam. Văn
phòng đại diện không được kinh doanh bảo hiểm tại Việt Nam”.
d) Quy định lại về hình thức tái bảo hiểm bắt buộc.
Với những dịch vụ bảo hiểm lớn như bảo hiểm các công trình dầu khí, dàn
khoan,... thì các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước không đủ khả năng tài chính
cần phải tái bảo hiểm phần lớn giá trị công trình cho các doanh nghiệp ở nước
ngoài. Do đó, Luật KDBH 2000 có quy định tại điều 9 về trách nhiệm “tái bảo
hiểm bắt buộc một phần trách nhiệm cho doanh nghiệp kinh doanh tái bảo hiểm
trong nước” trước khi tái bảo hiểm ra nước ngoài, mà cụ thể là tái bảo hiểm cho

Công ty tái bảo hiểm Quốc gia. Tuy nhiên, trong cam kết với WTO, Việt Nam lại
không có cam kết về tái bảo hiểm bắt buộc. Hơn nữa, Công ty tái bảo hiểm Quốc
gia cũng đã được cổ phần hoá. Việc tái bảo hiểm lúc này không còn là trách nhiệm

12


Pháp luật Kinh doanh Bảo hiểm

bắt buộc mà do doanh nghiệp hoàn toàn chủ động nhằm san sẻ rủi ro và đảm bảo an
toàn tài chính9.
Vì vậy, để phù hợp hơn với các cam kết, Điều 9 Luật KDBH sửa đổi bổ sung
đã bỏ cơ chế tái bảo hiểm bắt buộc, theo đó doanh nghiệp có thể nhượng và nhận
tái bảo hiểm cho các doanh nghiệp bảo hiểm khác, kể cả doanh nghiệp, tổ chức
nhận tái bảo hiểm ở nước ngoài. Tuy nhiên, bảo đảm an toàn tài chính cho thị
trường bảo hiểm Việt Nam vẫn là nội dung quan trọng, nên thay vào quy định tái
bảo hiểm bắt buộc, Luật sửa đổi cũng bổ sung quy định trường hợp tái bảo hiểm ra
nước ngoài: “…. Doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài, tổ chức nhận tái bảo hiểm
nước ngoài phải đạt hệ số tín nhiệm theo xếp hạng của công ty đánh giá tín nhiệm
quốc tế do Bộ Tài chính quy định.”
2. Đánh giá việc nội luật hóa các cam kết của Việt Nam với WTO về tự do
hóa dịch vụ bảo hiểm và quá trình thực hiện.
2.1. Đánh giá chung.
Thực hiện các cam kết của Tổ chức thương mại thế giới WTO, Việt Nam phải
bằng các hành động của mình đưa những cam kết này vào thực tiễn. Chính vì vậy,
việc làm đầu tiên là cần nội luật hóa những cam kết tự do hóa thương mại dịch vụ
kinh doanh bảo hiểm nói chung và nội luật những cam kết trong từng phương thức
ở lĩnh vực này nói riêng.
Thực chất, việc nội luật hóa các cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO về
dịch vụ bảo hiểm không phải đến tận khi Luật KDBH được sửa đổi, bổ sung mới

có. Ngay sau khi gia nhập WTO vào đầu năm 2007, ngày 27/3/2007 Chính phủ đã
ban hành Nghị định số 45/2007/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của
Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000 để từ đó bắt đầu quá trình nội luật hóa các cam
kết. Chẳng hạn, nếu như trong Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000, các nhà làm
luật chỉ quy định về doanh nghiệp bảo hiểm và doanh nghiệp môi giới bảo hiểm có
9

Nguồn: />
13


Pháp luật Kinh doanh Bảo hiểm

vốn đầu tư nước ngoài với các quy định văn phòng đại diện của các doanh nghiệp
bảo hiểm nước ngoài còn sơ sài thì đến Nghị định này, các nhà làm luật đã dành
hẳn chương V để quy định chi tiết về văn phòng đại diện của doanh nghiệp bảo
hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm nước ngoài. Nhưng phải đến tận khi Luật
KDBH được sửa đổi, bổ sung năm 2010 thì việc nội luật hóa các cam kết này mới
từng bước được hoàn thiện. Nhìn chung, các quy định của Luật KDBH sửa đổi hiện
nay đã có sự thống nhất cao, phù hợp với tinh thần cam kết của Việt Nam trong
WTO.
Hơn nữa, các cam kết trên được chúng ta nội luật hóa một cách hết sức linh
hoạt mà không gò bó, định khung. Ngoài các hạn chế liệt kê trong Biểu cam kết
(như đã trình bày ở các câu trên), Việt Nam còn tăng cường áp dụng các điều kiện
kỹ thuật khác để đảm bảo năng lực của nhà cung cấp dịch vụ và chất lượng dịch
vụ. Theo các cam kết chung của WTO thì điều này là hoàn toàn được phép. Đặc
biệt là đối với các dịch vụ thuộc ngành tài chính – là ngành chứa đựng nhiều rủi ro
- thì các Thành viên WTO còn được áp dụng các điều kiện thận trọng khác để đảm
bảo sự ổn định của thị trường tài chính trong nước. Có thể lấy ví dụ về sự áp dụng
linh hoạt của Việt Nam như sau:

Theo cam kết, nước ta cho phép doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi
giới bảo hiểm ở nước ngoài không cần thành lập pháp nhân tại Việt Nam nhưng
vẫn được cung cấp dịch vụ bảo hiểm cho doanh nghiệp có vốn nước ngoài, người
nước ngoài làm việc tại Việt Nam. Cam kết này vô hình đã tạo cơ hội cho các
doanh nghiệp bảo hiểm ở nước ngoài có nhiều cơ hội “xâm chiếm” thị trường bảo
hiểm trong nước ngay cả khi không cần có mặt ở nước ta. Hơn nữa, nó còn liên
quan trực tiếp đến việc chuyển ngoại tệ từ trong nước ra nước ngoài thông qua
thanh toán phí bảo hiểm, cũng như dòng tiền từ nước ngoài vào Việt Nam thông
qua thanh toán bồi thường tổn thất, nên nếu không kiểm soát chặt chẽ dịch vụ bảo
14


Pháp luật Kinh doanh Bảo hiểm

hiểm qua biên giới, khả năng thất thoát ngoại tệ và thất thu thuế của Nhà nước là
rất lớn. Chính vì vậy, ngoài các quy định chung về việc cho phép hình thức cung
cấp dịch vụ bảo hiểm qua biên giới, Nghị định 123/2011/NĐ-CP còn dành ra 03
điều (Điều 5, 6, 7) để quy định về điều kiện thực hiện phương thức, trách nhiệm
của đối tượng cung cấp dịch vụ bảo hiểm qua biên giới, trách nhiệ của các đối
tượng liên quan đến việc cung cấp dịch vụ bảo hiểm qua biên giới.
Tương tự, ngoài việc quy định chi nhánh bảo hiểm phi nhân thọ của doanh
nghiệp bảo hiểm nước ngoài được hoạt động tại Việt Nam, nghị định cũng dành ra
hẳn Mục 2 (với 14 điều) để có các quy định cụ thể về điều kiện cấp giấy phép,
thành lập và hoạt động,…của các chi nhánh này ở Việt Nam.
2.2. Những điểm còn hạn chế của Luật Kinh doanh bảo hiểm.
Tuy đã đạt được những kết quả khả quan, nhưng việc nội luật hóa các cam kết
của Việt Nam khi gia nhập WTO về tự do hóa dịch vụ bảo hiểm vẫn còn một số
điểm hạn chế. Cụ thể:
Thứ nhất, hạn chế về kết cấu của Luật.
Luật KDBH 2000 và Luật sửa đổi bổ sung 2010 đều quy định một chương

riêng về doanh nghiệp bảo hiểm và doanh nghiệp môi giới bảo hiểm có vốn đầu tư
nước ngoài (chương VI). Trong khi khi gia nhập WTO, Việt Nam đã cam kết thực
hiện theo nguyên tắc đối xử quốc gia, việc đặt ra một chương điều chỉnh riêng về
doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài như vậy dường như đang đi
ngược lại với chính những gì chúng ta đã cam kết. Tuy vậy, để nội luật hoá các cam
kết quốc tế của Việt Nam, việc xây dựng các quy định dành riêng cho hoạt động
đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực bảo hiểm vẫn rất cần thiết 10. Vấn đề của nhà làm
luật ở đây là cần xây dựng cấu trúc luật thế nào để vừa đảm bảo được những nội

10

Nguồn: Các nội dung chưa hợp lý trong Luật Kinh doanh bảo hiểm – Th.S Trần Vũ Hải < Tạp chí Nghiên cứu lập

pháp số 130/2008>

15


Pháp luật Kinh doanh Bảo hiểm

dung đã cam kết, vừa tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai thực hiện các cam
kết ấy trên thực tế được tốt hơn.
Thứ hai, chưa có quy định cụ thể về phương thức “tiêu dùng dịch vụ ở nước
ngoài”.
Mặc dù Việt Nam cam kết không hạn chế đối với phương thức tiêu dùng dịch
vụ ở nước ngoài, nhưng rà soát lại toàn bộ Luật KDBH 2000 cũng như Luật sửa đổi
bổ sung và các văn bản hướng dẫn thi hành thì chưa có một quy định nào dành
riêng cho phương thức này cả. Pháp luật không đề cập đến việc tham gia bảo hiểm
theo phương thức tiêu dùng ngoài lãnh thổ có điểm gì đặc biệt không và cũng chưa
có cơ chế điều chỉnh việc cung cấp dịch vụ bảo hiểm đối với thực thể di chuyển

trong trường hợp phát sinh quan hệ hoặc có tranh chấp xảy ra.
Mặc dù như đã nói, tiêu dùng dịch vụ ở nước ngoài chủ yếu chịu sự điều chỉnh
của pháp luật nước ngoài, nhưng dù vậy, pháp luật Việt Nam cũng nên có những
quy định dự liệu cho tình huống ngược lại, tức là tổ chức, cá nhân nước khác di
chuyển sang Việt Nam để sử dụng dịch vụ bảo hiểm ở nước ta. Đặc tính “di
chuyển” không ổn định của thực thể tiêu dùng ngoài lãnh thổ sẽ làm nảy sinh các
vấn đề khác biệt cần được xác định như: đối tượng bảo hiểm (tài sản, trách nhiệm,
con người), phạm vi bảo hiểm, điều kiện bảo hiểm, thời hạn bảo hiểm.. Các nội
dung này sẽ thay đổi một khi họ dịch chuyển từ nơi này đến nơi khác. Việc không
quy định rõ ràng và cụ thể như trên sẽ dẫn đến nhiều khó khăn trong thực tiễn khi
phát sinh các tranh chấp về bảo hiểm khi có sự di chuyển nhiều giữa các chủ thể
tiêu dùng bảo hiểm ngoài lãnh thổ.
Thứ ba, hạn chế về các hình thức hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm nước
ngoài tại Việt Nam.
Theo các cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO, Việt Nam không cam kết
về hình thức hiện diện thương mại là công ty cổ phần hay mua cổ phần. Do đó,
16


Pháp luật Kinh doanh Bảo hiểm

Luật KDBH cũng quy định thì doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài không được
phép hoạt động tại Việt Nam dưới hình thức công ty cổ phần bảo hiểm. Điều này
đã phần nào làm hạn chế quyền lợi của các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài khi
muốn đầu tư vào thị trường bảo hiểm Việt Nam. Từ đó, nhiều doanh nghiệp bảo
hiểm nước ngoài đã chọn cách “đi tắt” qua việc mua cổ phần của các tập đoàn bảo
hiểm hay công ty cổ phần bảo hiểm trong nước khiến cho việc quản lý của Nhà
nước đối với các doanh nghiệp bảo hiểm trong và ngoài nước ngày càng trở nên
khó khăn và phức tạp hơn.
2.3. Một số phương hướng đề xuất sửa đổi luật để phù hợp hơn với các cam

kết của Việt Nam trong WTO.
Với những hạn chế đã trình bày, nhóm xin được đưa ra một số đề xuất nhằm
hoàn thiện hơn pháp luật kinh doanh bảo hiểm để phù hợp với các cam kết của Việt
Nam khi gia nhập WTO. Cụ thể:
- Sửa đổi lại cấu trúc của Luật KDBH, cụ thể: chương VI nên đổi tên thành:
“Những quy định về đầu tư nước ngoài trong kinh doanh bảo hiểm” 11. Cách đổi tên
như vậy vừa thể hiện quan điểm của chúng ta: đối xử bình đẳng giữa các nhà đầu tư
nước ngoài và trong nước, nhưng lại vẫn đảm bảo cho các quy định về dịch vụ bảo
hiểm có yếu tố nước ngoài được chặt chẽ, cụ thể và dễ áp dụng hơn;
- Chính phủ nên ra một văn bản riêng hướng dẫn về trình tự, thủ tục, thời hạn,
phạm vi bảo hiểm,...đối với đối tượng bảo hiểm là tổ chức, cá nhân nước ngoài
sang nước ta sử dụng dịch vụ bảo hiểm. Nếu các quy định này được xây dựng tốt,
việc bảo hiểm cho các đối tượng này tiến hành thuận lợi cũng sẽ góp phần nâng cao
hình ảnh chất lượng dịch vụ bảo hiểm Việt Nam trên quốc tế, từ đó đẩy mạnh địa
bàn hoạt động của chúng ta ra tầm quốc tế.

11

Nguồn: Nguồn: Các nội dung chưa hợp lý trong Luật Kinh doanh bảo hiểm – Th.S Trần Vũ Hải < Tạp chí Nghiên

cứu lập pháp số 130/2008>

17


Pháp luật Kinh doanh Bảo hiểm

MỤC LỤC

18




×