Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Những vấn đề pháp lí về việc phối hợp chính sách kinh tế của Liên minh châu Âu (EU)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.88 KB, 19 trang )

Bài tập nhóm tháng 2

Mơn Liên minh châu Âu

I. Những vấn đề pháp lí về việc phối hợp chính sách kinh tế của Liên minh châu
Âu (EU):
1. Chính sách kinh tế và việc phối hợp chính sách kinh tế:
Chính sách kinh tế đề cập đến các hành động của chính phủ áp dụng vào lĩnh vực kinh
tế. Chính sách kinh tế thường bị chi phối từ các chính đảng, nhóm lợi ích có quyền lực
trong nước, các cơ quan quốc tế như Quỹ tiền tệ quốc tế, Ngân hàng thế giới hay tổ chức
thương mại thế giới. Chính sách kinh tế bao gồm một số loại chủ yếu, đó là: chính sách
kinh tế vĩ mơ, chính sách điều tiết hoạt động kinh tế, chính sách kinh tế đối ngoại và chính
sách phát triển kinh tế. Theo đó, việc phối hợp chính sách kinh tế của các quốc gia là việc
các quốc gia phối hợp các hành động của mình trong lĩnh vực kinh tế nhằm đạt được mục
đích nhất định nào đó.
Trong nửa cuối những năm 1980, các nước EU tập trung theo đuổi chiến lược thống
nhất và hoàn thiện các thị trường. Sự điều chỉnh chiến lược phát triển kinh tế của EU được
thể hiện tập trung trong hàng loạt các văn kiện chính thức của EU cũng như trong quá trình
thực thi. Ba cột mốc quan trọng đánh dấu việc thực hiện chiến lược này là việc các nước
EU ký kết Định ước châu Âu duy nhất (1985), với mục tiêu chính là thực hiện lịch trình
7 năm nhằm xóa bỏ các đường biên giới nội bộ EU, tọa ra một thị trường nội địa cho sự
lưu thông tự do hàng hóa, con người, dịch vụ và tư bản. Hiệp ước thành lập liên minh
châu Âu ( Hiệp ước Maastricht, 1992) với mục tiêu chính là xây dựng một EU gắn kết
chặt chẽ hơn về kinh tế, chính sách kinh tế lẫn chính trị và xã hội. Một nội dung quan
trọng là thành lập Liên minh kinh tế và tiền tệ Châu Âu với một đồng tiền chung. Chiến
lược Lisbon (2000) đề ra mục tiêu chiến lược mới của EU cho thập kỷ 2000-2010 là “
trở thành một nền kinh tế tri thức có tính cạnh tranh và có tính năng động nhất thế giới, có
khả năng tăng trưởng kinh tế bền vững, nâng cao số lượng và chất lượng việc làm và gắn
kết xã hội chặt chẽ hơn”.
Theo đó, chiến lược phát triển kinh tế của các nước EU từ giữa những năm 1980 đến
nay bao gồm các nội dung chính sau:


(1) thúc đẩy tiến trình liên kết và mở rộng EU
(2) Thống nhất và nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường
(3) Xây dựng EMU với 1 đồng tiền chung, điều chỉnh các chính sách kinh tế vĩ mơ
theo hướng ổn định hóa
QT 33C 1-3 – Đại học Luật Hà Nội

1


Bài tập nhóm tháng 2

Mơn Liên minh châu Âu

(4) Chiến lược nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, thúc đẩy bước chuyển sang
nền kinh tế tri thức
(5) Củng cố và hiện đại hóa mơ hình xã hội châu Âu chú trọng bảo vệ mơi trường .
(6)

Kiên trì định hướng xây dựng nền kinh tế mở cửa, củng cố và tăng cường địa vị

của EU trong các quan hệ kinh tế quốc tế.
Nguyên nhân phải tăng cường phối hợp các chính sách kinh tế?
+ Trước hết, việc soạn thảo và thực hiện một chính sách chung đương nhiên cần sự
phối hợp chính sách. Tỷ lệ lạm phát của Khu vực đồng Euro, tỷ giá hối đoái của đồng
Euro đã là các “tài sản chung” của các nước tham gia Khu vực đồng Euro và chính các
nước này phải có trách nhiệm quan tâm. Một hành động chính sách quốc gia, nếu có tác
động đến các chỉ tiêu đó, có thể có tác động đến các quyết sách của ECB về lãi suất hay
quyết sách của Hội đồng các Bộ trưởng kinh tế tài chính châu Âu ( ECOFIN) về tỷ giá.
+ Do EMU mở ra một khn khổ chính sách kinh tế mới, độc đáo trong EU: có sự
“phân cấp” trách nhiệm về chính sách kinh tế giữa EU và các nước thành viên. Một chính

sách tiền tệ duy nhất là thẩm quyền duy nhất của ECB, một ngân hàng siêu quốc gia, độc
lập. Quyết sách tiền tệ của ECB do Hội đồng quản trị ECB đưa ra, Hội đồng này bao gồm
Ban Giám Đốc ECB và các Thống đốc ngân hàng trung ương quốc gia của các nước tham
gia Khu vực đồng Euro. Trong khi đó, các chính sách khác, nhất là ngân sách, các chính
sách, các chính sách cơ cấu, quyết định về tiền lương…nói chung vẫn chịu trách nhiệm
của các chính phủ quốc gia. Hơn nữa, chính sách của ECB phản ánh những tiến triển trong
Khu vực đồng Euro, với tư cách là một tổng thể. Ngược lại, phù hợp với nguyên tắc hỗ trợ,
các chính phủ quốc gia có trách nhiệm ( theo một số quy tắc chung) chăm lo cho nền kinh
tế nước mình, ví dụ trong trường hợp có những vấn đề hay những cú sốc mang đặc điểm
quốc gia.
+ Môi trường kinh tế của các nước thành viên EU có đặc điểm là phụ thuộc lẫn nhau
ngày càng gia tăng ( do thực hiện chiến lược Thị trường nội địa, EMU, tiến bộ cơng
nghệ…), nên chính sách kinh tế của một nước có thể sẽ có tác động tai hại đến các nước
láng giềng. Do vậy cần phối hợp chính sách để tránh những tác động “ vượt biên giới” đó
của các chính sách quốc gia. Sự phối hợp chính sách cũng cần thiết để ngăn chặn hành vi “
đi xe miễn phí” của các nước thành viên ( hành vi nhằm lợi dụng những điều chỉnh chính
sách của các nước thành viên khác trong EU, ví dụ chính sách tự do hóa thị trường).
QT 33C 1-3 – Đại học Luật Hà Nội

2


Bài tập nhóm tháng 2

Mơn Liên minh châu Âu

+ Ngồi ra, bên cạnh các lập luận kinh tế, sự phối hợp chính sách có ích nếu xét từ
quan điểm chính trị xã hội, vì nó giúp thực hiện những chính sách khơng được lịng dân
nhưng cần thiết ở cấp quốc gia.
Tuy nhiên sự phối hợp cũng có những cản lực. Trước hết, nó khơng phải là khơng tốn

kém (tính hợp lý kinh tế của sự phối hợp), và hơn nữa phải lưu ý đến nguyên tắc hỗ trợ, và
do những khác biệt trong các ưu tiên quốc gia. Do vậy, mức độ và các cơ chế phối hợp
khác nhau trong từng lĩnh vực chính sách:
+ Mất cân bằng tài khóa gây nguy cơ lớn cho sự ổn định của khu vực đồng Euro nên
đòi hỏi sự phối hợp dựa trên những nguyên tắc chặt chẽ bao gồm cả phạt tiền nếu thâm hụt
thái quá.
+ Tác động của các chính sách cơ cấu quốc gia đối với các thành viên khác trong EMU
và đối với các chính sách của EMU khơng dễ nhận thấy và thường có độ trễ. Mặc dù vậy,
các thị trường linh hoạt và vận hành có hiệu quả là then chốt để nâng cao tiền năng tăng
trưởng và sự vận hành trôi chảy của EMU. Cho nên, một mặt, sự phối hợp trong lĩnh vực
chính sách, cơ cấu chủ yếu dựa trên trao đổi thông tin, thảo luận về các kinh nghiệm hay
giám sát lẫn nhau. EU cũng khơng dự kiến một cơ chế chính thức để đảm bảo những tiến
bộ về cải cách cơ cấu của các nước thành viên. Tuy nhiên, để tránh những rối loạn trong
lĩnh vực đóng vai trị chuẩn mực và sự vận hành trôi chảy của thị trường nội địa, cần phối
hợp chặt chẽ các chính sách cơ cấu có thể tác động đến sự vận hành của thị trường nội địa
và sự cạnh tranh.
Cần nhấn mạnh rằng, phối hợp chính sách kinh tế trong EU và EMU được coi là một
khn khổ bao trùm tồn bộ các hoạt động tương tác giữa các chủ thể chính sách, gồm các
chủ thể chính sách tiền tệ, tài chính và Ủy ban Châu Âu với tư cách là đại diện cho lợi ích
chung của EU. Sự phối hợp này sử dụng một loại các biện pháp, gồm trao đổi thông tin,
thảo luận về các kinh nghiệm tốt, thảo luận chính sách, giám sát lẫn nhau giữa các nước
thành viên cho đến (nếu thích hợp) cùng đề ra các quy tắc và các mục tiêu chính sách, các
hành động chung.
2. Cơ sở pháp lý của việc phối hợp chính sách kinh tế:
a) Hướng dẫn rộng rãi chính sách kinh tế ( 1996 ):
Trước tình hình suy giảm đáng kể hoạt động kinh tế vào đầu năm 1995 và cuối năm
1996, Cộng đồng đã không thể đạt được tiến bộ đáng kể trong việc đạt được một số mục
QT 33C 1-3 – Đại học Luật Hà Nội

3



Bài tập nhóm tháng 2

Mơn Liên minh châu Âu

tiêu cơ bản về kinh tế, cụ thể là thúc đẩy tăng trưởng bền vững không lạm phát, và mức độ
cao làm việc.
Cho nên Hội Đồng đã đưa ra “ Hướng dẫn rộng rãi chính sách kinh tế (1996)”, theo đó
tất cả các bên được khuyến khích thực hiện các chính sách kinh tế của mình theo cách như
vậy là để góp phần đạt được các mục tiêu của cộng đồng và cải thiện điều phối các chính
sách của họ.
Hội đồng tái khẳng định sự cần thiết của một khuôn khổ kinh tế vĩ mô ổn định, đặc
trưng bởi:
+ Một sự ổn định theo định hướng chính sách tiền tệ;
+ Duy trì những nỗ lực để củng cố tài chính cơng
+ Xu hướng tiền lương danh nghĩa phù hợp với mục tiêu ổn định giá cả; xu hướng
lương thực tế thấp hơn tăng năng suất để tăng cường lợi nhuận của việc làm tạo ra đầu tư.
Đồng thời dựa trên những đặc điểm cụ thể của mỗi nước, một số nguyên tắc chung đã
được nêu ra:
+tăng chi tiêu kiềm chế, trái với việc tăng thêm gánh nặng thuế tổng thể;
+lại chỉ đạo chi tiêu chính phủ đối với đầu tư cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực và các biện
pháp thị trường lao động đang hoạt động;
+ nâng cao hiệu quả các dịch vụ công;
+ đảm bảo rằng việc giảm gánh nặng thuế tổng thể, mong muốn trong nhiều quốc gia
thành viên, không gây nguy hiểm giảm thâm hụt.
Để củng cố uy tín của cả hai khn khổ kinh tế vĩ mơ và hiệu quả của quá trình phối
hợp, các nước thành viên được mời để trình bày chương trình hội tụ cập nhật thể hiện một
cam kết chí nh trị mạnh mẽ. Và yêu cầu các nước thành viên cần tiếp tục điều trị tỷ giá của
các chính sách như là một vấn đề quan tâm chung.

b) Nghị quyết của Hội đồng châu Âu phối hợp chính sách kinh tế (1997)
Mục đích của Nghị Quyết: Hội đồng châu Âu thể hiện một cam kết chính thức để tơn
trọng các quy định của Hiệp ước về giám sát và điều phối các chính sách kinh tế, và tăng
cường phối hợp trong thực tế, cả hai đều giữa các thành viên, trong đó sẽ chia sẻ một đồng
tiền chung (trong số những thứ khác bằng cách thiết lập một “Euro” Group) và giữa các
thành viên đó sẽ khơng tham gia.
QT 33C 1-3 – Đại học Luật Hà Nội

4


Bài tập nhóm tháng 2

Mơn Liên minh châu Âu

Theo đó, khu vực đồng euro, các nước thành viên sẽ chia sẻ một chính sách tiền tệ duy
nhất và trao đổi tỷ lệ duy nhất, trong khi các khía cạnh khác của chính sách kinh tế sẽ vẫn
là vấn đề quốc gia. Cho rằng mức độ phát triển kinh tế quốc dân sẽ ảnh hưởng đến điều
kiện tiền tệ trong khu vực euro, gần giám sát cộng đồng và phối hợp các chính sách kinh tế
giữa các khu vực euro nước thành viên sẽ là cần thiết.
Nghị quyết cũng yêu cầu các nước thành viên tăng cường giám sát và phối hợp nên bao
gồm các lĩnh vực sau: (i) Kinh tế vĩ mô phát triển của các nước thành viên và sự phát triển
của tỷ giá hối đoái đối với đồng euro; (ii) Ngân sách các vị trí, chính sách; (iii)Cơ cấu
chính sách lao động , sản phẩm và dịch vụ thị trường, cũng như chi phí và giá các xu
hướng
c) Hiệp ước Lisbon 2009:
Cơ sở pháp lý của việc phối hợp chính sách tiền tệ Liên minh Châu Âu được quy định
cụ thể tại Điều 121 TFEU. Theo khoản 1 Điều 121 quy định thì Nước thành viên phải coi
chính sách kinh tế của họ là một vấn đề cùng quan tâm và có trách nhiệm phối hợp chúng
trong hội đồng đảm bảo nguyên tắc thị trường mở và cạnh tranh tự do, phân bổ một cách

hiệu quả các nguồn lực…Bên cạnh đó thì Điều 121 TFEU cũng quy định việc cơ chế giám
sát chặt chẽ việc thực hiện việc phối hợp thực hiện chính sách kinh tế của các quốc gia
thành viên cũng như là việc giải quyết các kiến nghị của các quốc gia thành viên.
Như vậy, với việc quy định cơ sở pháp lý cho việc phối hợp chính sách kinh tế Liên
minh Châu âu một cách rõ ràng như vậy vừa tạo ra sự thống nhất trong việc thực hiện
chính sách kinh tế của các quốc gia thành viên đồng thời đảm bảo sự tự do cạnh tranh giữa
các quốc gia với nhau.
Điều 121 TFEU qui định:
“ 1. Nước thành viên sẽ đối chính sách kinh tế của họ như là một vấn đề cùng quan
tâm và trách nhiệm phối hợp chúng trong Hội đồng, theo quy định tại Điều 120.
2. Hội đồng xem xét đề nghị của Ủy ban, xây dựng một dự thảo rộng hướng dẫn của
các chính sách kinh tế của các nước thành viên và của Liên minh, và phải báo cáo kết quả
cho Hội đồng châu Âu. Hội đồng châu Âu phải, hành động trên cơ sở báo cáo của Hội
đồng, thảo luận về một kết luận hướng dẫn mở rộng các chính sách kinh tế của các nước
thành viên và của Liên minh.Trên cơ sở kết luận này, Hội đồng sẽ thông qua một đề nghị
QT 33C 1-3 – Đại học Luật Hà Nội

5


Bài tập nhóm tháng 2

Mơn Liên minh châu Âu

thiết lập ra các hướng dẫn mở rộng. Hội đồng sẽ thông báo cho Nghị Viện Châu Âu để
giới thiệu nó.
3. Để đảm bảo phối hợp chặt chẽ hơn của chính sách kinh tế và hội tụ lâu dài của kinh
tế của các nước thành viên, Hội đồng trên cơ sở báo cáo của Ủy ban, theo dõi sự phát
triển kinh tế ở mỗi nước thành viên và trong Liên minh như cũng như sự nhất quán của
chính sách kinh tế với các hướng dẫn mở rộngi quy định tại khoản 2, và thường xuyên tiến

hành đánh giá tổng thể. 2008/05/09 EN Công báo của Liên minh châu Âu C 115/97. Với
mục đích giám sát đa phương này, thành viên sẽ gửi thông tin đến Ủy ban về các biện
pháp quan trọng trong lĩnh vực chính sách kinh tế của họ và như vậy các thông tin khác
mà họ cho là cần thiết.
4. Trường hợp thành lập, theo thủ tục quy định tại khoản 3, mà các kinh tế chính sách
của một nước thành viên không phù hợp với các hướng dẫn mở rộng quy định tại khoản 2
hoặc có nguy cơ gây nguy hiểm cho các hoạt động đúng đắn của cơng đồn kinh tế và
tiền tệ, Ủy ban có thể đưa ra một cảnh báo cho các nước thành viên liên quan. Hội đồng,
về một đề nghị từ Hoa hồng, có thể giải quyết các kiến nghị cần thiết để các nước thành
viên liên quan. Các Hội đồng có thể, trên một đề nghị của Ủy ban, quyết định kiến nghị
của công chúng. Trong phạm vi khoản này, Hội đồng hành động mà khơng tính đến bỏ
phiếu của thành viên của Hội đồng đại diện cho các quốc gia thành viên có liên quan. Một
phần lớn có trình độ của các thành viên khác của Hội đồng phải được xác định theo quy
định Điều 238 (3) (a).
5. Chủ tịch Hội đồng và Ủy ban phải báo cáo Quốc hội Châu Âu về kết quả giám sát
đa phương. Chủ tịch Hội đồng có thể được mời xuất hiện trước Ủy ban có thẩm quyền của
Nghị viện châu Âu nếu Hội đồng đã có những khuyến nghị của mình.
6. Nghị viện châu Âu và Hội đồng, hành động của phương tiện quy định theo thủ tục
lập pháp thơng thường, có thể áp dụng các quy tắc chi tiết cho các thủ tục giám sát đa
phương nêu tại các khoản 3 và 4.”
3. Cơ chế phối hợp các chính sách kinh tế
Hiệp ước Rôma 1965 cũng đã kêu gọi các nước thành viên phối hợp các chính sách
kinh tế của mình. Để đạt được điều đó, một số uỷ ban đặc biệt đã được thành lập, cũng
như đã triển khai một số thủ tục phối hợp chính sách kinh tế.
Theo các Hiệp ước đó, Cộng đồng đóng vai trị khác nhau tuỳ theo lĩnh vực.
QT 33C 1-3 – Đại học Luật Hà Nội

6



Bài tập nhóm tháng 2

Mơn Liên minh châu Âu

- Quản lý trực tiếp những lũnh vực có vấn đề, như các cuộc thương lượng quốc tế của
GATT, WTO.
- Hành động, nhưng chỉ giới hạn ở vai trò phối hợp giản đơn các chính sách quốc gia
hay thúc đẩy sự hợp tác giữa các nhà nước thành viên, như trong giáo dục và đào tạo.
- Thông qua các văn bản nhằm hài hồ hố các luật pháp quốc gia, như các chỉ thị
nhằm tạo điều kiện cho sự vận hành của Thị trường nội địa châu Âu.
- Thực hiện những “hành động tiên phong”, được giới hạn trong thời gian nhất định,
nhằm thay đổi ở cấp châu Âu, đối với những vấn đề như trao đổi sinh viên, trao đổi viên
chức, chương trình nhập học đối với những người khuyết tật.
Từ đó, “luật pháp Cộng đồng” thể hiện ở 4 hình thức (do Hội đồng Bộ trưởng châu Âu
quyết định, hoặc do Uỷ ban châu Âu cùng với Nghị viện châu Âu quyết định) khác nhau
về tính chất bắt buộc đối với các nước thành viên:
- Quy định (Regulation): được áp dụng trực tiếp
- Chỉ thị (Directive): buộc các nhà nước thành viên thực thi, nhưng để cho các nhà
chức trách quốc gia lựa chọn các hình thức và phương tiện áp dụng.
- Quyết định (Dicision): nhằm vào một số lĩnh vực, vào một hay tất cả các nước thành
viên.
- Khuyến nghị và ý kiến (Reconmmendation, Opinion).
Sự phối hợp chính sách kinh tế giữa các nước thành viên EU sẽ chặt chẽ hơn nếu tăng
thêm số lượng (và tầm ảnh hưởng) của các quy định, chỉ thị của EU, song do bản chất, đặc
điểm của tiến trình liên kết EU, hướng này có những giới hạn khách quan. Trong một số
trường hợp, các nước thành viên đã có những phản ứng rất khác nhau trước các cú sốc đến
từ bên ngoài, chủ yếu do thiếu nhất trí về các chính sách phối hợp, ví dụ như cuộc khủng
hoảng dầu mỏ năm 1973. Sự phối hợp chính sách kinh tế trong EU đã được khởi động lại
cùng với quá trình thành lập EMU – Liên minh kinh tế tiền tệ (với sự ra đời Hiệp ước
Masstricht năm 1992 ). Từ đó đến nay, sự phối hợp này đã khơng ngừng được hồn thiện,

đồng thời đã chứng tỏ tính hiệu quả của nó.
Các thủ tục phối hợp chính sách kinh tế đã được EU đưa ra đó là:
Các định hướng chính sách kinh tế tổng quát của EU (BEPG – Broad Economic
Policy Guidelines)
QT 33C 1-3 – Đại học Luật Hà Nội

7


Bài tập nhóm tháng 2

Mơn Liên minh châu Âu

Đây là thủ tục trung tâm của q trình phối hợp chính sách. Được xây dựng hàng năm
từ năm 1993, BEPG dựa trên khuyến nghị của Uỷ ban châu Âu, và được Hội đồng Bộ
trưởng châu Âu thông qua. Mục tiêu của các BEPG là đưa ra những khuyến nghị tổng hợp,
gắn kết tầm EU đối với các chủ thể chính sách kinh tế vĩ mơ và chính sách cơ cấu (EU và
các nước thành viên), đưa ra những tiêu chuẩn để đánh giá trong khuôn khổ giám sát lẫn
nhau. Lúc đầu còn khá chung chung (BEPG năm 1993 chỉ 4 trang), các BEPG ngày càng
trở thành cơng cụ phối hợp chính sách thực thụ, nó ngày càng đi vào các vấn đề cụ thể
hơn, chuyên biệt hơn, ngày càng tập trung vào các khuyến nghị đặc thù quốc gia, đồng
thời là một viễn cảnh chung tồn thể các đường lối chính sách của Cộng đồng.
Hiện nay, định hướng về chính sách kinh tế của liên minh châu âu được vạch ra cho
đến năm 2020. Việc vạch ra chiến lược dài hạn này có thể cho phép EU đạt được sự tăng
trưởng một cách bền vững và toàn diện trong khoảng 10 năm tiếp theo.
BEPG là trung tâm của quá trình phối hợp chính sách, bởi vì BEPG:
+ có tầm bao phủ rộng: khác với các thủ tục khác, BEPG bao gồm cả chính sách vĩ mơ
và các chính sách cơ câu.
+ có tính nhất qn: BEPG cung cấp một quan điểm gắn kết, hợp nhất, thúc đẩy tính
nhất quán trong tất cả các lĩnh vực chính sách khác nhau, từ đó cho phép tận dụng tác động

hỗ trợ lẫn nhau của các chính sách. Các thủ tục phối hợp khác diễn ra thống nhất trong
khn khổ BEPG.
+ mang tính đồng thuận chính sách: BEPG sản sinh ra tính đồng thuận, được thể hiện ở
văn kiện cuối cùng, Đến lượt mình, đồng thuận chính sách là cơ sở cho việc thực thi giám
sát lẫn nhau và là điều kiện cơ bản cho phối hợp chính sách thành cơng.
Ràng buộc về chính trị, song BEPG khơng có cơ chế trừng phạt về kinh tế, Việc tuân
thủ BEPG về cơ bản là mang tính tự nguyên, dựa trên sức ép giám sát lẫn nhau giữa các
nước thành viên và những khuyến nghị của ECOFIN đối với các nước khơng tn thủ (và
hình phạt nặng nhất là đưa ra công luận). Trên thực tế hiệu quả thực thi của BEPG khá
cao, bởi trước hết, BEPG là kết quả sự đồng thuận chính sách giữa các nước thành viên.
Thứ hai, do sức hấp dẫn của tư cách thành viên EU, sức ép của công luận, sức ép của các
nước thành viên khác, các chính phủ quốc gia thường khơng muốn mất uy tín trong điều
hành chính sách.
Thủ tục thâm hụt ngân sách thái quá:
QT 33C 1-3 – Đại học Luật Hà Nội

8


Bài tập nhóm tháng 2

Mơn Liên minh châu Âu

Xuất phát từ Hiệp ước ổn định và tăng trưởng (năm 1997), mục tiêu của thủ tục này là
đảm bảo sự cân bằng giữa: (1) việc ngăn chặn các hành động ngân sách quốc gia có tác hại
đến Khu vực đồng Euro và việc thực thi chính sách tiền tệ – (2) duy trì một giới hạn đủ lớn
để các chính sách ngân sách đóng vai trị ổn định hố.
Do vậy, trong thủ tục này đã thiết kế một hệ thống gồm một cơ chế có tính quy tắc (có
trừng phạt kinh tế) và một yếu tố mềm dẻo trong những bối cảnh nhất định và đặc biệt.
Thủ tục thâm hụt ngân sách thái quá đòi hỏi các nước thành viên đạt được ngân sách gần

tới cân bằng hoặc thặng dư xét về trung hạn. Nó cho phép các nước xử lý các giao động
chu kì, đồng thời kiềm chế thâm hụt ngân sách dưới giá trị tham chiếu là 3% GDP. Trên
mức đó là thâm hụt thái q, trừ những hồn cảnh nhất định và đặc biệt. Hệ thống đó dựa
trên các yếu tố cảnh báo và ngăn cản: (1) Cảnh báo thơng qua giám sát thường kì, hệ thống
cảnh báo sớm, kích thích các hành động chỉnh lý. Các nước thành viên đệ trình các
chương trình ổn định (nếu trong Khu vực đồng Euro), cập nhật hàng năm, trong đó trình
bày mục tiêu trung hạn và con đường điều chỉnh của mình. Hội đồng Bộ trưởng châu Âu
và Uỷ ban châu Âu cho ý kiến đối với chương trình đó. (2) Ngăn cản thông qua làm rõ thủ
tục thâm hụt thái quá, những điều kiện ngoại lệ và các cơ chế phạt.
Quy trình Luých-xăm-bua về chiến lược việc làm châu Âu (bắt đầu từ năm 1997)
Trong khuôn khổ Hiệp ước Amsterdam, chính sách việc làm vẫn thuộc trách nhiệm
của các nước thành viên. Nghị quyết của Hội đồng Bộ trưởng tại Luých-xăm-bua đã khởi
động áp dụng một khuôn khổ mới. Chiến lược này nhằm cải thiện hiệu quả và năng suất
của thị trường lao động thông qua đề ra các mục tiêu chung, và một quy trình đảm bảo
những bước tiến tới các mục tiêu đó. Do sự phối hợp chính sách trên lĩnh vực này kém
biện minh về tính hợp lý kinh tế, nên các bước tiến của sự phối hợp chính sách này là tự
nguyện và dựa trên một quy trình gồm: báo cáo thường kì, giám sát chéo, các đường lối
chung và các khuyến nghị của Hội đồng đối với từng nước thành viên (đây là sức ép lớn
nhất). Đường lối việc làm hàng năm do Uỷ ban châu Âu soan và do Hội đồng chính sách
việc làm và xã hội phê chuẩn. Nó phải nhất quán với BEPG, đưa ra những định hướng
chung và được các nước thành viên chuyển vào các Kế hoạch hành động quốc gia về việc
làm (NAP). Các NAP được Uỷ ban châu Âu và Hội đồng Bộ trưởng xem xét, phê duyệt.
Quy trình Cardiff về cải cách thị trường sản phẩm và vốn (bắt dầu từ năm 1998):
cách tiến hành giống Quy trình Luých-xăm-bua, song về các thị trường sản phẩm và vốn.
QT 33C 1-3 – Đại học Luật Hà Nội

9


Bài tập nhóm tháng 2


Mơn Liên minh châu Âu

Quy trình Cologne về đối thoại kinh tế vĩ mô.
Thủ tục này được đưa ra từ Hội nghị thượng định Cologne nhằm cải thiện sự tương tác
giữa các chính sách kinh tế vĩ mô và các tiến triển tiền lương để hỗ trợ tăng trưởng không
lạm phát và việc làm. Ở nhiều nước thành viên, đối thoại giữa giới quản lý và lao động về
các vấn đề quan tâm chung đã là truyền thống lâu đời. Gìơ đây, theo Quy trình Cologne,
các tác nhân liên quan, nhất là các đối tác xã hội, ECB – Ngân hàng trung ương châu Âu,
các đại diện Hội đồng Bộ trường và Uỷ ban châu Âu gặp nhau 2 lần/năm để trao đổi quan
điểm về cách thức thúc đẩy các điều kiện kinh tế vĩ mô phù hợp. Các cuộc hợp diễn ra ở
cấp chính trị và cấp kĩ thuật, xoay quanh các chủ đề như tình hình kinh tế, thách thức
chính sách, các chủ đề quan tâm chung khác...
Sự hợp tác của các nước Khu vực đồng Euro (Eurogroup).
Eurogroup là diễn đàn khơng chính thức nhằm trao đổi “thằng thắn và tự do” về các
vấn đề liên quan đến EMU, bao gồm các bộ trưởng trong nước Khu vực đòng Euro, đại
diện của Uỷ ban châu Âu và ECB. Diễn đàn này nhằm đi đến thống nhất quan điểm giữa
các nước về một loạt các vấn đề như tình thế chu kì, lập trường chính sách, tiến triển tỷ giá
hối đoái, những vấn đề cơ cấu có ảnh hưởng đến tài chính cơng...
Thêm vào đó, một công cụ đặc biệt khác để điều chỉnh việc phối hợp chính sách kinh tế
của EU đó là việc Hội đồng khuyến khích các quốc gia thành viên sử dụng đồng tiền
chung Euro như thể là đơn vị tiền tệ duy nhất hiện hành để có thể làm giảm đi sự mất cân
bằng về kinh tế vĩ mô trong khu vực đồng Euro của EU.
Như vậy, EU ngày càng hồn thiện cơ chế phối hợp chính sách kinh tế bằng cách bổ
sung thêm các quy trình mới. Quá trình này vẫn đang tiếp tục. Hiện nay, để cho sự phối
hợp chính sách kinh tế trong EU hiệu quả hơn, đã có một số đề nghị cải thiện cơ chế phối
hợp đó, đang chú ý là các đề nghị sau:
- BEPG nên trở thành một công cụ tham vọng hơn, cụ thể: nâng BEPG lên thành
cơng cụ chương trình hố nhiều năm; tăng cường tính bắt buộc của BEPG (có thể có
những hình thức phạt một nước thành viên khi nước này có chính sách kinh tế khơng

tương hợp với các định hướng đã nhất trí);
- Cải tiến chất lượng của các dữ liệu thống kê;
- Mở rộng thẩm quyền của Nghị viện châu Âu và các nghị viện quốc gia các nước
thành viên trong việc thảo luận và phê chuẩn BEPG;
QT 33C 1-3 – Đại học Luật Hà Nội

10


Bài tập nhóm tháng 2

Mơn Liên minh châu Âu

- Làm cho quy trình Cardiff, quy trình Luych-xăm-bua trở nên chính xác hơn;
- Gần đây, Uỷ ban châu Âu đã có ý định đưa ra một bộ các tiêu chuẩn chung về điều
hành các chính sách kinh tế, nhằm tiến tới sự đồng thuận cao hơn, quản trị kinh tế tốt hơn
và nâng cao tính minh bạch.
II. Những vấn đề thực tiễn về việc phối hợp chính sách kinh tế của EU:
1. Đối với EU:
1.1. Việc phối hợp của các nước thành viên theo các chính sách phối hợp kinh tế của
EU:
Thực tế, các nước thành viên của EU phối hợp trên rất nhiều phương diện trong khn
khổ các chính sách phối hợp kinh tế mà Eu đưa ra. Có thể kể đến một số phương diện sau:
a) về việc phối hợp các chính sách kinh tế trong việc thiết lập và cải cách thị trường nội
địa:
Thị trường nội địa ra đời vào ngày 31/12/1992 dựa trên định ước châu Âu duy nhất
(1987). Nhằm hoàn thiện thị trường nội địa và cải cách các thị trường, từ năm 1993, EU đã
liên tiếp đưa ra các “kế hoạch hành động thị trường nội địa” và các nước cũng như EU đã
có những nỗ lực trong việc thống nhất thị trường và nâng cao hiệu quả của các thị trường
trên các khía cạnh chính như:

- nâng cao tính hiệu quả của các qui tắc: mục tiêu quan trọng của EU là nâng cao tỷ lệ
dịch chuyển các qui tắc cộng đồng vào luật pháp quốc gia và các quốc gia đã nỗ lực
điều chỉnh các chính sách của mình và đến cuối năm 2000, tỉ số các chỉ thị thị
trường nội địa chưa được dịch chuyển hoàn toàn vào luật pháp quốc gia trên tồn Eu
cịn 12,8%.
- Hiện đại hóa chính sách cạnh tranh: với chủ trương của EU là tăng cường sức ép
cạnh tranh trong nền kinh tế nhất là trong việc tăng thẩm quyền của các cơ quan
quản lí cạnh tranh, nhiều nước thành viên đã có những điều chỉnh luật pháp nhằm
cho phép cơ quan quản lí cạnh tranh độc lập hoặc tăng cường thẩm quyền của các
cơ quan quản lí cạnh tranh, kiểm sốt việc sáp nhập và thơn tính được tăng cường ở
nhiều nước và chống việc lạm dụng vị trí độc quyền. ví dụ như Italy, kể từ đầu năm
1993, các biện pháp tăng cường cạnh tranh đã được Italy thực hiện trong đó việc dỡ
bỏ các hạn chế đối với dịch vụ hàng không cùng các dịch vụ liên quan như bốc dỡ
hàng, dịch vụ ăn uống hàng khơng vốn trước đó bị kiểm sốt bởi các tập đoàn của
QT 33C 1-3 – Đại học Luật Hà Nội

11


Bài tập nhóm tháng 2

Mơn Liên minh châu Âu

nhà nước; việc phân phối và cung cấp báo chí cũng được tự do hóa và mở rộng cho
rất nhiều laoij hình thức và Ủy ban chống độc quyền Italy đã xử lý dứt điểm vụ liên
kết nhằm áp đặt giá độc quyền giữa 2 tập đồn viễn thơng Dipital mobile network
và the fued public network…
- V.v…
b) về việc phối hợp các chính sách kinh tế trong việc điều chỉnh các chính sách tiền tệ
và tài khóa:

Emu ra đời dựa trên hiệp ước Mastricht và Euro ra đời vào ngày 1/1/1999. Cùng với sự ra
đời của EMU và Euro, nhất là sau khi các nước kí kết hiệp ước ổn định và tăng trưởng
(1997) đã có sự điều chỉnh rõ rệt trong mục tiêu của các chính sách tiền tệ và tài khóa của
EU và các nước thành viên. Việc phối hợp giữa các nước thành viên thể hiện trong việc
các nước nỗ lực đáp ứng các điều kiện trong hiệp ước masstricht để gia nhập và khu vực
đồng tiền chung châu âu đó là các tiêu chuẩn như tỉ lệ thâm hụt ngân sách không được quá
3% GDP hàng năm, tỉ lệ nợ chính phủ khơng q 60% GDP hàng năm…cịn trong việc
phối hợp để thực hiện các mục tiêu của EU đưa ra về chính sách tài khóa, thì các nước
thnafh viên đã nhất trí được về mức thuế giá trị gia tăng (VAT) tiêu chuẩn tối thiểu (15%)
vào năm 1992; các nước cũng nhất trí thơng qua “luật ứng xử về thuế của doanh nghiệp”
nhằm lạo bỏ cạnh tranh thuế không lành mạnh và cam kết không đưa ra những biện pháp
thuế mới được coi là có hại theo luật ứng xử, rà soát lại và sửa đổi các qui định thuế hiện
hành theo các nguyên tắc của luật ứng xử và trong bản thân các nước cũng tiến hành nhiều
kế hoạch hiện đại hóa cá chính sách thuế và ngân sách theo các hướng giảm thuế và các
khoản trích nộp bắt buộc, cải cách bản trợ xã hội...
1.2. kết quả:
EU là liên minh kinh tế- chính trị đa quốc gia. Đây là mơ hình liên kết độc đáo nhất
trên thế giới. Các lĩnh vực hợp tác giữa các quốc gia thành viên đã đi từ hài hịa hóa tiến
tới nhất thể hóa. Trong chính sách kinh tế cũng vậy, sự phối hợp chính sách kinh tế của
EU kể từ khi thành lập đến nay đã đạt được những hiệu quả mà ở đó vừa đảm bảo thực
hiện thắng lợi mục tiêu chung của Liên minh, vừa đảm bảo phù hợp với từng nước thành
viên. Với vai trò là một trong ba yếu tố của Liên minh kinh tế hình thành nên Liên minh
kinh tế tiền tệ, sự phối hợp chính sách kinh tế của EU có tác dụng thúc đẩy mối quan hệ
kinh tế giữa các quốc gia thành viên, hướng tới thực hiện mục tiêu của Liên minh.
QT 33C 1-3 – Đại học Luật Hà Nội

12


Bài tập nhóm tháng 2


Mơn Liên minh châu Âu

Kể từ khi Liên minh kinh tế tiền tệ (EMU) bắt đầu hình thành đến khi đồng tiền
chung EURO chính thức được đưa vào lưu thơng, sự phối hợp chính sách kinh tế giữa các
quốc gia trong Liên minh đã đạt được những hiệu quả to lớn. Việc hợp chính sách kinh tế
trong EU đã xóa bỏ những lực cản đối với việc phát triển kinh tế, thúc đẩy sự tăng trưởng
kinh tế của toàn Liên minh. EU là một trong 3 trung tâm kinh tế lớn nhất của Thế giới,
năm 2004, GDP của EU đạt cao nhất thế giới với 12690,5 tỷ USD, chiếm 31% tổng GDP
toàn thế giới. Cũng theo số liệu thống kê năm 2004, tỷ trọng xuất khẩu của EU chiếm
37,7% giá trị xuất khẩu toàn thế giới.
Trong đó, theo số liệu thống kê của Cơ quan thống kê châu Âu (Eurostat), trong năm
2006, mức tăng trưởng của 12 nước thuộc khu vực đồng tiền chung châu Âu (Eurozone)
đạt 2,6%, đây là mức tăng trưởng cao nhất của khu vực đồng Euro trong 6 năm qua. Kết
quả này đã giúp kinh tế EU (tính 25 nền kinh tế thành viên cũ) tăng trưởng 2,9% năm
2006, so với 1,7% năm 2005. Bắt đầu từ ngày 1/1/2007, Eurozone có 13 nước thành viên
(thêm Slovenia) và EU có thêm 2 thành viên là Bungari và Rumania, nâng tổng số thành
viên của liên minh này lên con số 27. Theo báo cáo mới nhất (11/2009) của Uỷ ban Châu
Âu (EC), suy thoái kinh tế đã chạm đáy và kinh tế EU bắt đầu tăng trưởng trở lại trong 6
tháng cuối năm. Khu vực Eurozone trong quý 3 tăng trưởng 0,4%, EU27 tăng trưởng
0,3%. Đây là Quý tăng trưởng đầu tiên sau 6 Quý GDP giảm liên tục, chính thức chấm dứt
thời kỳ suy thoái. EC dự báo kinh tế EU trong năm 2011 sẽ tăng 1,5% .
Qua một vài số liệu thống kê cho thấy, nền kinh tế EU nói chung và khu vực đồng
EURO nói riêng đang có những bước phục hồi và phát triển. Đó chính là kết quả của việc
phối hợp chính sách giữa các quốc gia trong Liên minh. Sự phát triển đó chứng tỏ rằng
mục tiêu của EMU đặt ra trong Hiệp ước Amsterdam là đúng đắn và hồn tồn có thể đạt
được bằng sự nỗ lực hợp tác kinh tế của các quốc gia. Và nhìn chung thì hiện nay, EU vẫn
là khối liên kết kinh tế lớn có tổ chức chặt chẽ nhất và có vị trí quan trọng trong nền kinh
tế thế giới.
Mặc dù việc phát triển kinh tế của EU còn gặp nhiều trở ngại như lạm phát, thất

nghiệp,… nhưng với nền kinh tế ổn định, và sức mạnh của một đồng tiền chung duy nhất
với chính sách tỷ giá hối đối hợp lý, nguồn nhân lực có chất lượng cao, cân bằng ngân
sách và lạm phát thấp thì EU đang trở thành môi trường đầu tư hấp dẫn cho các nhà đầu
QT 33C 1-3 – Đại học Luật Hà Nội

13


Bài tập nhóm tháng 2

Mơn Liên minh châu Âu

tư. EU là thị trường tiềm năng đầy hứa hẹn đối với các nước đang phát triển và có nền
kinh tế chuyển đổi trong đó có Việt Nam.
2. Đối với 1 số nước thành viên:
a) Sự trỗi dậy của nước Đức:
Kể từ ngày 1 tháng 1 năm 2002 đồng Euro đã chính thức được lưu hành trong 12 quốc
gia thành viên (còn gọi là khu vực đồng Euro) gồm Pháp, Đức, Áo, Bỉ, Phần Lan, Ireland,
Ý, Luxembourg, Hà Lan, Hy Lạp, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha; các nước đứng ngoài là
Anh, Đan Mạch và Thuỵ Điển. Đối với mỗi quốc gia tham gia vào khu vực đồng tiền
chung này có những bước phát triển, đạt được những thành tựu đáng kể. Song bên cạnh đó
cũng gặp những khó khăn nhất định. Đức là tiêu biểu cho điều đó.
ECB áp đặt một mức lãi suất cơ bản chung và đồng Euro có tỷ giá hối đối duy nhất để
các nước thành viên khơng thể phá giá đồng tiền của nước mình nhằm mục đích tạo thế
cạnh tranh. Do đó, ban đầu, các ngân hàng trung ương thành viên trong Eurozone đòi nới
lỏng luật lao động, bãi bỏ bớt quy định đối với một số lĩnh vực như dịch vụ bán lẻ, tăng
mức độ sẵn sàng của người châu Âu trong việc di chuyển để tìm cơng việc mới… Trong
hầu hết thời gian 10 năm qua, ECB là nguồn tín dụng dễ dàng của châu Âu, và đây là
chính sách phù hợp với sự tăng trưởng chậm chạp của kinh tế Đức và tỷ lệ lạm phát khiêm
tốn của nước này. Chính sách này cũng được tồn châu Âu ủng hộ vì tín dụng giá rẻ giúp

tạo ra sự phát triển bùng nổ của thị trường địa ốc và làm mờ đi sự cần thiết phải học theo
những cải cách “không giống ai” của Đức.
Nhìn lại quá trình phát triển từ sau những năm 60 cho tới trước thời điểm cựu Thủ
tướng Gerhard Schröder lên nắm quyền vào năm 1998, người ta khó tưởng tượng Đức –
nền kinh tế hùng mạnh nhất châu Âu hiện nay từng bị xếp hạng quốc gia yếu kém trong
khu vực với đà tăng trưởng kinh tế trì trệ, tỷ lệ thất nghiệp cao, nhiều hãng sản xuất lớn
đóng cửa vì khơng trang trải đủ chi phí. Việc định giá lại đồng D-mark vào năm 1969 đã
gây ảnh hưởng tiêu cực tới đời sống người dân và toàn bộ nền kinh tế.
Trong giai đoạn 2003 – 2004, cựu thủ tướng Gerhard Schröder đã chấp nhận áp lực
cạnh tranh từ các quốc gia khác trong khu vực sử dụng đồng tiền chung châu Âu và liên
tục cắt giảm lương thưởng nhằm đẩy mạnh cải cách thị trường lao động và hệ thống phúc
lợi. Chi phí nhân cơng tại Đức giảm tới 1,4% trong giai đoạn 2000- 2008, so với mức giảm
0,7% tại Mỹ và tăng lần lượt 0,8%, 0,9% tại Pháp, Anh.
QT 33C 1-3 – Đại học Luật Hà Nội

14


Bài tập nhóm tháng 2

Mơn Liên minh châu Âu

Nhờ chính sách siết chặt chi tiêu lương thưởng khu vực công, kích thích kinh tế phát
triển thơng qua việc cải thiện thị trường lao động, ổn định ngân sách, thúc đẩy thương mại,
giảm tỷ lệ thất nghiệp mà Đức vượt qua cuộc suy thối tồn cầu lần thứ hai tốt hơn so với
các nước khác. Điều này chứng tỏ hiệu quả đầu tư công tại Đức, ngay cả khi nước này
nhận viện trợ từ EU. Sau nhiều nỗ lực liên tục nhằm cải thiện bối cảnh nền kinh tế và vượt
qua suy thối, Đức ổn định được tình hình việc làm khi mà tỷ lệ thất nghiệp thấp hơn so
với các nước trong khu vực (7,2% lên 7,5% trong năm 2009) và so với một số cường quốc
khác. Tỷ lệ thất nghiệp tháng 1 đầu năm nay của Đức là 8,7%, Mỹ là 9,7%, Nhật là 5,1%.

Vượt qua suy thoái 2008 – 2009 với mức tăng trưởng GDP kém (1,3% vào cuối năm
2008 và – 6,2% năm 2009), Đức đối mặt với nhiều khó khăn. Tiết kiệm có thể xem là quốc
sách hàng đầu đối với nền kinh tế chiếm tỷ trọng GDP lớn nhất khu vực châu Âu. Nhờ chi
tiêu và đầu tư hợp lý, Đức khơng chỉ kiểm sốt được mức thâm hụt ngân sách, mà cịn duy
trì được thặng dư thương mại nhờ ưu thế cạnh tranh xuất khẩu so với các nước trong khối
và ngoài khối EU, cùng với khoản thu nhập tích lũy từ đầu tư tài chính vào các nền kinh tế
rủi ro như Mỹ và Hy Lạp.
Năm 2009, kinh tế Đức đã trải qua cuộc suy thoái nghiêm trọng nhất kể từ sau Đại
chiến II, mức độ suy thoái đạt 4,7%, cao hơn rất nhiều so với Mỹ, Anh, Pháp. Bước vào
năm 2010, bóng tối suy thối nhanh chóng bị đẩy lùi, GDP q I năm nay của Đức tăng
0,2%, quý II tăng 2,2%, biên độ tăng lớn nhất trong 20 năm qua. Tốc độ phục hồi kinh tế
Đức không chỉ nổi bật nhất tại khu vực đồng tiền chung châu Âu Eurozone, mà còn lớn
hơn cả Mỹ, Anh và Nhật Bản.
Tuy nhiên, đến nay, tình thế đã đảo ngược. Các nước Nam Âu hiện tăng trưởng ì ạch
trở lại, trong khi kinh tế Đức trở nên vững mạnh hơn cả nhờ đã trải qua nhiều năm với
những thay đổi cơ cấu đầy dũng cảm. Cũng nhờ đó mà Đức đã trở thành đầu tàu kinh tế
của châu Âu.
Tình thế khó xử
Sự ra đời thành công của đồng Euro cũng đem đến cho Thống đốc Trichet - Chủ tịch
ECB - và các đồng nghiệp của ơng những khó xử mới. Trước khi ECB đi vào hoạt động,
các ngân hàng trung ương của các nước thành viên đã lên tiếng kêu gọi cách nghĩ mới về
sự độc lập của các quốc gia thành viên trong liên minh.
QT 33C 1-3 – Đại học Luật Hà Nội

15


Bài tập nhóm tháng 2

Mơn Liên minh châu Âu


Tuy nhiên, cũng chính vào thời điểm hiện nay, ECB phải đối mặt với thách thức lớn
nhất kể từ khi Euro ra đời: Cần đưa ra chính sách tiền tệ mới, vừa phù hợp với nền kinh tế
các nước Nam Âu đang tăng trưởng chậm lại, vừa phù hợp với kinh tế Đức đang tăng
trưởng mạnh mẽ nhưng lại phải đương đầu với lạm phát. Bởi vì kinh tế Đức đã hồi sinh,
giờ là lúc ECB phải thắt chặt tính sách tiền tệ - điều mà nhiều người coi là một “phương
thuốc đắng” đối với phần còn lại của châu Âu.
b) Cuộc khủng hoảng nợ công ở Hy Lạp:
Trái ngược với Đức, cuộc khủng hoảng nợ ở Hy Lạp sau cuộc khủng hoảng tài chính
năm 2008 đã tác động tới các nước trong khu vực đồng euro kéo theo việc áp dụng một
loạt các biện pháp cắt giảm thâm hụt ngân sách. Tờ New York Times cho rằng, thách thức
chồng chất mà khủng hoảng nợ đem tới cho Hy Lạp nói riêng và châu Âu nói chung bắt
nguồn từ ngày Athens cố cơng để có được địa vị thành viên của EU. Năm 1981, Hy Lạp
đã vội vàng xin gia nhập Cộng đồng châu Âu (hiện nay là EU), sớm hơn các quốc gia giàu
có khác như Áo, Phần Lan và Thụy Điển tới 14 năm, và sớm hơn Tây Ban Nha và Bồ Đào
Nha 5 năm và đến tháng 1/2000 thì Hy Lạp là thành viên thứ 12 của EMU. Trong thập kỷ
đầu tiên là thành viên của EU, Hy Lạp đã được hưởng những khoản tài trợ hào phóng và
nhờ đó vượt qua được nhiều khó khăn kinh tế - chính trị. Tới giai đoạn 1996 - 1997, khi
châu Âu chuẩn bị cho ra đời một đồng tiền chung, Hy Lạp đã nhận được nhiều lời mời
chào hấp dẫn, trong đó có cả những lời ca ngợi tốc độ tăng trưởng 3% khi đó của quốc gia
này là phù hợp với việc sử dụng chung một đồng tiền với các quốc gia khác trong khu vực.
Đối với Athens khi đó, việc gia nhập khu vực sử dụng đồng Euro (Eurozone) vừa là
vấn đề danh dự, vừa là sự cần thiết, vì nếu Hy Lạp sử dụng đồng tiền chung, giới đầu cơ
tiền tệ sẽ không thể tấn công và nền kinh tế của nước này sẽ có được sự bình ổn. Bên cạnh
đó, việc tham gia “câu lạc bộ nhà giàu” Eurozone cũng đồng nghĩa với việc Hy Lạp có thể
tiếp cận được với nguồn vốn tín dụng lãi suất thấp và những dòng vốn khổng lồ. Nhưng
những dòng vốn này cũng đồng thời dẫn tới lạm phát và rốt cục, Hy Lạp nhận thấy mình
phải đương đầu với tình trạng leo thang của giá cả mạnh hơn ở các nền kinh tế lớn của
châu Âu.
Dần dần, Hy Lạp sẽ phải áp dụng chính sách tiền tệ giảm phát (bao gồm tăng lãi suất và

giảm cung tiền) để đưa tỷ lệ lạm phát về với mức “hợp chuẩn” với các quy định của khu
QT 33C 1-3 – Đại học Luật Hà Nội

16


Bài tập nhóm tháng 2

Mơn Liên minh châu Âu

vực đồng Euro. Và sự giảm phát sẽ làm cho gánh nặng nợ nần của Hy Lạp thêm tồi tệ,
trong khi lạm phát giúp nước Mỹ thời hậu Chiến tranh Thế giới nhẹ nợ.
Đó vẫn chưa phải là tất cả. Giảm phát có nhiều tác động bất lợi cho nền kinh tế, làm
giảm sút tăng trưởng và việc làm. Do đó, Hy Lạp sẽ khó tìm được đường ra cho mớ bịng
bong nợ nần của họ. Ngược lại, Athens sẽ phải giải quyết “núi nợ” trong bối cảnh nền kinh
tế ở trong tình trạng khả dĩ nhất cũng chỉ là đình trệ.
Do đó, cách duy nhất để Hy Lạp khắc phục khó khăn là cắt giảm chi tiêu và tăng thuế những biện pháp có thể làm tỷ lệ thất nghiệp của nước này thêm đáng ngại. Và khi đó,
chắc chắn là niềm tin của thị trường trái phiếu vào Hy Lạp càng bị xói mịn, đẩy quốc gia
này vào tình trạng tồi tệ hơn.
Hy Lạp có thể giải quyết một phần vấn đề của họ bằng cách rút khỏi khu vực sử dụng
đồng Euro và thực hiện phá giá đồng tiền. Nhưng nếu Athens làm vậy, chắc chắn hệ thống
ngân hàng của họ sẽ bị rút vốn ồ ạt. Trên thực tế, do lo ngại về khả năng vỡ nợ của Hy
Lạp, nhiều khách hàng đã bắt đầu tháo chạy khỏi các nhà băng của nước này.
Vậy giải pháp có thể là gì? Đó là việc EU và IMF đã hỗ trợ cho Hy Lạp các khoản viện
trợ, về phía EU việc hỗ trợ cho Hy Lạp các khoản viện trợ là theo đúng điều 1 Quy chế
(EC) số 332/2002: “Nhằm giữ gìn sự ổn định tài chính của Liên minh châu Âu, Quy chế
này quy định các điều kiện và thủ tục theo đó Liên minh hỗ trợ tài chính có thể được cấp
cho một quốc gia thành viên đó đang trải qua, hoặc bị đe dọa nghiêm trọng, một sự xáo
trộn kinh tế, tài chính nghiêm trọng do đặc biệt xảy ra ngồi tầm kiểm sốt của nó, có tính
ứng dụng có thể có của các cơ sở hiện có cung cấp trung hạn hỗ trợ tài chính cho cân đối

không khu vực đồng euro, các nước thành viên thanh toán, như thành lập theo Quy chế
(EC) số 332/2002.”
Tuy nhiên, “Cú sốc Hy Lạp lại cầu cứu viện trợ gây ra cho thị trường còn lớn hơn cú
sốc lần đầu tiên, bởi vì điều này đồng nghĩa khủng hoảng nợ Hy Lạp và toàn bộ khu vực
Eurozone đang xấu đi”. Một nhà phân tích ngân hàng đã bày tỏ với “Thời báo tài chính
quốc tế” rằng, “nếu Eurozone khơng thể tung ra một biện pháp đối phó mang tính thực
chất, đồng EUR có thế sẽ sụt giảm hơn”. Tại thị trường ngoại tệ New York ngày 9/5/2011,
tỷ giá EUR/USD giảm liên tục trong 4 phiên giao dịch liên tiếp, xuống cịn 1,4336. Thị
trường đều dự đốn, trong thời gian tới, tỷ giá EUR/USD sẽ giảm xuống còn 1,4200.
QT 33C 1-3 – Đại học Luật Hà Nội

17


Bài tập nhóm tháng 2

Mơn Liên minh châu Âu

Như vậy, việc phối hợp các chính sách kinh tế của EU nhìn chung đã mang lại những
hiệu quả nhất định và thành cơng của EU trong đó phải kể đến việc đưa EU trở thành một
“cường quốc” trên thế giới và nhanh chóng vượt qua cuộc khủng hoảng năm 2009. Tuy
nhiên, việc phối hợp chính sách đó khơng phải lúc nào cũng mang lại hiệu quả mà có thể
sẽ dẫn đến những cuộc khủng hoảng nhất định như cuộc khủng hoảng nợ công của Hy
Lạp, đẩy Eu đứng trước những thách thức to lớn.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Kinh tế Châu Âu năm 2010 – Tạp chí nghiên cứu Châu Âu, số 1 (124)/2010.
2. Đinh Công Tuấn – Kinh tế EU năm 2004. Triển vọng năm 2005 và quan hệ kinh tế
Việt Nam – EU – Tạp chí nghiên cứu Châu Âu – số 1/2005, trang 3-10.

3. Điều chỉnh chính sách kinh tế của Liên minh Châu Âu – Trung tâm khoa học xã hội
và nhân văn Quốc gia, Hà Nội, 9/2002.
4. />nd_growth_pact/index_en.htm
5.
6. />7. />
QT 33C 1-3 – Đại học Luật Hà Nội

18



×