Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Phân tích nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước trong Luật Ngân sách Nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.31 KB, 17 trang )

MỤC LỤC

TRANG

MỞ BÀI

1

NỘI DUNG

1

I. Khái quát chung

1

1. Khái niệm ngân sách nhà nước
2. Cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước

1

3. Quan điểm về nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước

2

4. Ý nghĩa của việc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước

3

II. Phân tích nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước
trong Luật Ngân sách Nhà nước



4

1. Sự thể hiện nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước
theo Luật Ngân sách Nhà nước

4

2. Đặc điểm của nguyên tắc cân đối theo Luật Ngân sách Nhà nước

8

II. Thực tiễn áp dụng nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách
nhà nước ở Việt Nam

9

1. Thành tựu đạt được

10

2. Một số hạn chế

12

IV. Một số phương hướng nhằm phát huy vai trò của nguyên tắc cân
đối trong hoạt động ngân sách nhà nước ở Việt Nam

14


KẾT LUẬN

15

TÀI LIỆU THAM KHẢO

16

1

1


MỞ ĐẦU
Cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước là một vấn đề quan trọng được đặt
ra đối với mỗi nhà nước, nó đảm bảo cho nhà nước thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ
của mình. Tuy nhiên đây là một vấn đề khó không chỉ với Việt Nam mà còn đối với cả
thế giới. Do vậy, bài viết này của em xin tìm hiểu về:“Nguyên tắc cân đối trong hoạt
động ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng.” để từ đó
hoàn thiện hơn vấn đề cân đối trong hoạt động ngân sách nước nhà.
NỘI DUNG
I. Khái quát chung
1. Khái niệm Ngân sách Nhà nước
Khi nói đến ngân sách nhà nước thì tồn tại hai phương diện có liên quan là ngân
sách nhà nước theo phương diện kinh tế và ngân sách nhà nước theo phương diện pháp
lý. Tuy nhiên chúng ta chỉ xem xét chủ yếu ngân sách nhà nước theo quy định của pháp
luật (phương diện pháp lý), bởi lẽ đây là công cụ được nhà nước thừa nhận trong pháp
luật và được ứng dụng trong thực tiễn.
Theo quy định tại Điều 1 Luật Ngân sách Nhà nước thì: “Ngân sách nhà nước là
toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền

quyết định và được thực hiện trong một năm để bảo đảm thực hiện các chức năng,
nhiệm vụ của Nhà nước”. Với quy định này, chúng ta thấy rằng ngân sách nhà nước
chính là một đạo luật tài chính do Quốc hội ban hành, dự toán về các khoản thu, chi thực
hiện trong một năm của một quốc gia, bên cạnh đó đây còn là công cụ tài chính quan
trọng để Nhà nước thực hiện và điều tiết các hoạt động kinh tế- xã hội của đất nước.
2. Cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước
Ngân sách nhà nước là một bảng kế hoạch tài chính của một quốc gia trong đó dự
trù các khoản thu và chi được thực hiện trong một năm. Trên thực tế, quá trình thu, chi
ngân sách nhà nước luôn trong trạng thái biến đổi không ngừng, nó bị ảnh hưởng bởi sự
vận động của nền kinh tế quốc gia, có khi những khoản thu dự kiến không đủ đáp ứng
nhu cầu chi tiêu trong năm đó hoặc có khi mức thu lại vượt xa những khoản chi. Do vậy,
các khoản chi tiêu và thu ngân sách nhà nước phải được tính toán chính xác và phù hợp
với thực tế để đảm bảo cho ngân sách nhà nước trong trạng thái cân bằng, ổn định. Thu

2

2


và chi ngân sách là hai vấn đề quan trọng để đảm bảo cho ngân sách nhà nước được cân
đối, hai vấn đề này lại nằm trong mối tương quan giữa tài chính và kinh tế.
Xét về bản chất, cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước là cân đối giữa các
nguồn thu mà Nhà nước huy động được tập trung vào ngân sách nhà nước trong một
năm và sự phân phối, sử dụng nguồn thu đó thỏa mãn nhu cầu chi tiêu của Nhà nước
trong năm đó;
Xét về góc độ tổng thể, cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước phản ánh
mối tương quan giữa hoạt động thu và hoạt động chi trong một tài khóa. Nó không chỉ
là sự tương quan giữa tổng thu và tổng chi mà còn thể hiện sự phân bổ hợp lý giữa cơ
cấu các khoản thu và cơ cấu các khoản chi của ngân sách nhà nước do các cơ quan có
thẩm quyền thực hiện;

Xét trên phương diện phân cấp quản lý nhà nước, cân đối trong hoạt động ngân
sách nhà nước là cân đối về phân bổ và chuyển giao nguồn thu giữa các cấp ngân sách,
giữa trung ương và địa phương và giữa các địa phương với nhau để thực hiện chức năng
và nhiệm vụ được giao.
Tựu trung lại ta có thể hiểu: Cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước là một
bộ phận quan trọng của chính sách tài khóa, phản ánh sự điều chỉnh mối quan hệ tương
tác giữa hoạt động thu và hoạt động chi ngân sách nhà nước nhằm thực hiện các mục
tiêu kinh tế- xã hội mà Nhà nước đã đề ra trong từng lĩnh vực và địa bàn cụ thể.
3. Quan điểm về nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước
Nguyên tắc ngân sách thăng bằng xuất hiện khá sớm trong lịch sử của nền tài
chính công ở nhiều quốc gia trên thế giới. Trong quá trình nghiên cứu về vấn đề này có
nhiều quan điểm về sự cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước này, cụ thể như sau:
- Theo lý thuyết cổ điển về cân bằng ngân sách, nội dung của cân bằng ngân
sách rất đơn giản: “ Mỗi năm số thu phải ngang với số chi”. Quan điểm này bao gồm
hai nguyên tắc cơ bản sau: Một là, tổng số những khoản chi không được quá tổng số
những khoản thu. Hai là, tổng số những khoản thu của ngân sách không bao giờ
được lớn hơn tổng số những khoản chi của ngân sách. Tức là ngân sách nhà nước
phải được cân bằng tuyệt đối vì trên thực tế tổng số thu và tổng số chi ngân sách nhà
nước bao giờ cũng được cân bằng ngay từ khi lập kế hoạch dự toán.

3

3


Sự so sánh giữa tổng thu và tổng chi ngân sách hàng năm để đánh giá sự
thăng bằng của ngân sách không được khách quan và chính xác, bởi lẽ trong nhiều
trường hợp những khoản thu có tính chất hoa lợi lại không đủ để trang trải những
khoản chi có tính chất phí tổn, mặc dù xét về tổng thể thì tổng số thu và tổng số chi
vẫn cân bằng.

- Quan điểm mới về sự cân đối của ngân sách nhà nước cho rằng sự thăng
bằng ngân sách không hoàn toàn đồng nghĩa với sự cân bằng giữa tổng thu và tổng
chi mà thực chất là sự cân bằng giữa tổng thu hoa lợi với tổng chi có tính chất phí
tổn. Từ quan điểm này có thể hiểu là, nếu tổng thu có tính chất hoa lợi lớn hơn tổng
các khoản chi có tính chất phí tổn thì ngân sách nhà nước khi đó sẽ có thặng dư (bội
thu ngân sach); ngược lại, nếu tổng thu có tính chất hoa lợi nhỏ hơn tổng các khoản
chi có tính chất phí tổn thì ngân sách nhà nước sẽ lâm vào tình trạng thâm hụt (bội
chi ngân sách).
Ưu điểm lớn nhất của quan điểm này là nó giúp cho việc xác định một cách
chính xác và thực chất về tình trạng thặng dư hay thâm hụt của ngân sách nhà nước
tại một thời điểm để từ đó đánh giá mức độ thăng bằng của ngân sách nhà nước.
Trên thực tế, quan điểm này đã được thừa nhận ở nhiều quốc gia và đồng thời cũng
được ghi nhận trong Luật ngân sách nhà nước hiện hành ở Việt Nam.
4. Ý nghĩa của việc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước
Thứ nhất, cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước có ý nghĩa trong việc phân
bổ, sử dụng và điều chỉnh nguồn lực tài chính có hiệu quả. Ý nghĩa này được thể hiện từ
việc lập dự toán nhà nước đã có ưu tiên hợp lý trong phân bổ ngân sách nhà nước và sự
gắn kết chặt chẽ giữa chiến lược phát triển kinh tế- xã hội với công tác lập kế hoạch
ngân sách, nhờ ý nghĩa định hướng của nguyên tắc này mà Nhà nước ta chủ động thực
hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế- xã hội đã đề ra. Đồng thời, nó còn giúp cho việc ổn
định hệ thống chính sách tài khóa tiến tới ổn định việc tiến hành những công việc đã đề
ra theo kế hoạch.
Thứ hai, nguyên tắc cân đối này còn góp phần vào việc tạo được nguồn dự trữ
ngân sách nhà nước vì nếu có sự cân đối trong thu và chi tiêu công thì những nguồn thu
nào mà chưa có nhiệm vụ chi cụ thể do các cơ quan nhà nước đã có kế hoạch sử dụng

4

4



những nguồn khác để đầu tư cho nhiệm vụ chi đó, tức là nguồn thu và nhiệm vụ chi nào
đó được hài hòa với nhau thì một phần sẽ được giữ lại trong ngân sách để dự trữ nhằm
đáp ứng những mục tiêu chi phát sinh đột xuất. Chúng ta sẽ không phải hoãn lại những
kế hoạch nào đó để chờ nguồn thu cụ thể mà sẽ thực hiện ngay do nguồn dữ trữ tài
chính sẵn có, điều này giúp những công việc được hoàn thành nhanh chóng và hiệu quả
góp phần làm cho kinh tế- xã hội được ổn định lâu dài.
Thứ ba, nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước còn có ý nghĩa
trong việc đảm bảo công bằng xã hội, bởi lẽ Nhà nước ta đã có kế hoạch cụ thể để xây
dựng những vùng dân cư đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa cho nên khi dự toán ngân
sách thì các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã điều chỉnh nhiệm vụ chi để tập trung
đầu tư cho những vùng khó khăn, để những vùng này bước đầu được cân đối trong mối
quan hệ tổng thể với các vùng phát triển khác trong cả nước, Nhà nước cũng có thể huy
động nguồn lực tài chính từ những vùng kinh tế vững mạnh để chung tay xây dựng
những vùng khó khăn mà không cần hoặc cần ít đến ngân sách nhà nước, những nguồn
lực đầu tư cho những vùng khó khăn sẽ được cân bằng với việc chi cho những công việc
quan trọng khác của đất nước. Cho nên, áp dụng nguyên tắc này khi thực hiện nhiệm vụ
kinh tế- xã hội của đất nước tức là sẽ có công bằng xã hội.
Thứ tư, nếu các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã có những tính toán cho việc
thu ngân sách, nguồn thu này có thể thu cao hay thấp hơn so với những năm ngân sách
trước và nguồn thu đó cũng đã được lên kế hoạch để đáp ứng chi cho những nhiệm vụ
chi cụ thể, điều này đòi hỏi “những cơ quan có thẩm quyền thu, cá nhân thực hiện nhiệm
vụ thu và những cơ quan và cá nhân có nghĩa vụ nộp vào ngân sách những khoản bắt
buộc mà pháp luật yêu cầu họ phải nộp phải thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ và
nghĩa vụ của mình”. Do những nguồn thu, mức thu đã được lên kế hoạch, tính toán cụ
thể cho nên không thể làm sai lệch những con số cụ thể đó, “nhằm đảm bảo cho các
nguồn thu đều được tập trung một cách đầy đủ vào ngân sách nhà nước để cơ quan có
thẩm quyền lên kế hoạch phân bổ những nguồn vừa thu được từ các hoạt động do những
cơ quan có thẩm quyền thu trực tiếp tập trung về ngân sách nhà nước”. Như vậy, việc
cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước còn có ý nghĩa “đấu tranh phòng, chống

tham nhũng.

5

5


II. Phân tích nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước trong
Luật Ngân sách Nhà nước
1. Sự thể hiện nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước trong
Luật Ngân sách Nhà nước
Luật Ngân sách Nhà nước năm 2002 đã ghi nhận nguyên tắc cân đối trong hoạt
động ngân sách nhà nước tại Điều 8 như sau: “1. Ngân sách nhà nước được cân đối
theo nguyên tắc tổng số thu từ thuế, phí, lệ phí phải lớn hơn tổng số chi thường xuyên
và góp phần tích luỹ ngày càng cao vào chi đầu tư phát triển; trường hợp còn bội chi,
thì số bội chi phải nhỏ hơn số chi đầu tư phát triển, tiến tới cân bằng thu, chi ngân
sách;
2. Bội chi ngân sách nhà nước được bù đắp bằng nguồn vay trong nước và ngoài
nước. Vay bù đắp bội chi ngân sách nhà nước phải bảo đảm nguyên tắc không sử dụng
cho tiêu dùng, chỉ được sử dụng cho mục đích phát triển và bảo đảm bố trí ngân sách
để chủ động trả hết nợ khi đến hạn;
3. Về nguyên tắc, ngân sách địa phương được cân đối với tổng số chi không vượt
quá tổng số thu; trường hợp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có nhu cầu đầu tư
xây dựng công trình kết cấu hạ tầng thuộc phạm vi ngân sách cấp tỉnh bảo đảm, thuộc
danh mục đầu tư trong kế hoạch 5 năm đã được Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định,
nhưng vượt quá khả năng cân đối của ngân sách cấp tỉnh năm dự toán, thì được phép
huy động vốn trong nước và phải cân đối ngân sách cấp tỉnh hàng năm để chủ động trả
hết nợ khi đến hạn. Mức dư nợ từ nguồn vốn huy động không vượt quá 30% vốn đầu tư
xây dựng cơ bản trong nước hàng năm của ngân sách cấp tỉnh”.
Như vậy, với quy định này thì nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà

nước bao gồm những nội dung sau đây:
Một là, Ngay từ quy định tại khoản 1 Điều 8 đã thể hiện rõ quan điểm của Việt
Nam về cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước, đó là: tổng số thu từ thuế, phí, lệ
phí phải lớn hơn tổng số chi thường xuyên và góp phần tích lũy ngày càng cao vào chi
đầu tư phát triển. Nội dung này của nguyên tắc cân đối đặt ra yêu cầu là tổng số thu có
tính chất hoa lợi (trong đó chủ yếu là thuế, phí, lệ phí) phải lớn hơn tổng số chi có tính
chất phí tổn là các khoản chi thường xuyên tiêu dùng. Đồng thời, quy định này cũng
phân định ranh giới giữa chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên, thể hiện sự thận
6
6


trọng trong chính sách tài khóa của Việt Nam. Theo đó, các khoản thu thường xuyên
được sử dụng để trang trải chi thường xuyên và một phần thu thường xuyên cùng với
thu bù đắp được sử dụng để chi đầu tư phát triển, trong đó chi đầu tư phát triển được
chú trọng hơn vì nó có thể làm tăng khả năng thu hồi vốn cho ngân sách nhà nước
nhưng phải đảm bảo được sự cân đối giữa chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên, bởi
lẽ giữa chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau trong chi tiêu công của Nhà nước. Chi
đầu tư phát triển là hoạt động cần thiết đối với sự phát triển kinh tế, xã hội của một quốc
gia, nó tạo ra những điều kiện cở sở vật chất kỹ thuật cần thiết cho nền kinh tế, cũng từ
đó kéo theo sự phát triển của nhiều lĩnh vực khác và đảm bảo các vấn đề xã hội của đất
nước, giúp nhà nước thực hiện tốt chức năng và nhiệm vụ của mình. Vì vậy, chi đầu tư
phát triển là vấn đề được Nhà nước ưu tiên trong xây dựng nguyên tắc cân đối trong
hoạt động ngân sách nhà nước.
Hai là, bội chi ngân sách nhà nước được bù đắp bằng nguồn vay trong nước và
nước ngoài. Trong điều kiện kinh tế thị trường như hiện nay thì vấn đề bội chi ngân sách
là không thể tránh khỏi đối với một quốc gia nhưng chưa hẳn bội chi ngân sách nhà
nước là biểu hiện của sự yếu kém của nền kinh tế mà nó còn là một trong các cách thức
tạo ra sự cân đối của hoạt động ngân sách nhà nước trong dài hạn, đảm bảo cho nền kinh
tế- xã hội phát triển và ổn định. Nguyên tắc vay bù đắp bội chi mang lại hiệu quả cao

nhưng không dẫn đến lạm phát và nhà nước có thể huy động các nguồn lực trong và
ngoài nước.
Tuy nhiên, Vay bù đắp bội chi ngân sách nhà nước phải đảm bảo nguyên tắc
không sử dụng cho tiêu dùng, chỉ được sử dụng cho mục đích phát triển và bảo đảm bố
trí ngân sách để chủ động trả hết nợ khi đến hạn. Chi cho tiêu dùng là hoạt động chi
không mang tính chất thu hồi vốn và không tạo ra thặng dư, do đó nguồn vay bù đắp bội
chi chỉ được để dành cho mục đích phát triển.
Ba là, theo khoản 3 ngân sách địa phương được cân đối với tổng số chi không
vượt quá tổng số thu. Ở đây, ta nhận thấy có sự khác biệt trong nguyên tắc cân đối
NSNN và NSĐP. Điều này xuất phát từ nguyên tắc phân cấp quản lý, giữa cấp NSTW
và NSĐP có nguồn thu, nhiệm vụ chi khác nhau, do đó để đảm bảo cân đối ngân sách
hợp lý thì cần có sự khác nhau này. Trong dự toán NSĐP luôn có sự cân bằng giữa thu
và chi vì NSĐP nếu thu cố định không đủ thì có thu điều tiết, thu điều tiết không đủ có
7
7


bổ sung ngân sách cấp trên để cân đối thu chi. Trong khi đó, NSTW để tạp ra sự cân
bằng không có sự hỗ trợ của NSĐP mà phải xem xét điều chỉnh lại nguồn thu và nguồn
chi. Điều này dẫn đến sự khác nhau trong nguyên tắc cân đối giữa hai cấp ngân sách
này.
Ngoài ra, nguyên tắc cân đối này còn tạo cho chính quyền địa phương có được
nhiều ưu thế hơn trong việc quyết định ngân sách cấp mình. Vấn đề cho phép cấp tỉnh
vay nợ là cần thiết, giúp cho chính quyền địa phương có thể chủ động hơn trong việc tạo
ra những điều kiện về cơ sở vật chất hạ tầng để phát triển kinh tế và đảm bảo các vấn đề
xã hội của địa phương mình. Tuy nhiên, khoản vay nợ này lại được tính vào thu trong
cân đối ngân sách địa phương, do vậy nhìn một cách tổng thể thì ngân sách địa phương
tôn trọng nguyên tắc phải cân bằng thu, chi theo quy định của Luật Ngân sách Nhà nước
năm 2002 song thực chất ngân sách địa phương có bội chi và khoản bội chi này lại
không tính vào trong bội chi ngân sách nhà nước. Điều này dẫn đến sự thiếu minh bạch

trong cân đối ngân sách nhà nước ở Việt Nam. Ngoài ra, việc quy định tỷ lệ tối đa chung
cho mọi địa phương là 30%( trừ Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh) là chưa hợp lý vì mỗi địa
phương có điều kiện kinh tế, xã hội khác nhau nên nhu cầu vay nợ, khả năng quản lý nợ
và hoàn trả nợ là khác nhau.
Bốn là, bên cạnh quy định của Luật ngân sách nhà nước, điểm 4 Mục II Thông tư
số 59/2003/TT-BTC hướng dẫn thực hiện Nghị định số 60/2003/NĐ-CP quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành Luật ngân sách nhà nước quy định ngân sách cấp trên được
phép chi bổ sung cho ngân sách cấp dưới để đảm bảo cân đối thu, chi. Quy định này có
ưu điểm là giúp cho chính quyền cấp dưới cân đối nguồn ngân sách để thực hiện nhiệm
vụ kinh tế xã hội, quốc phòng, an ninh được giao. Tuy nhiên, cơ chế này lại tạo cho địa
phương quá bị động và không đảm bảo tính trách nhiệm cũng như minh bạch trong quá
trình sử dụng và quản lý nguồn lực tài chính ở địa phương.
Năm là, ngoài những nội dung trên đây thì nguyên tắc cân đối trong hoạt động
ngân sách nhà nước cũng được thể hiện ở chỗ: phải dựa trên hệ thống các nguyên tắc lập
ngân sách và quản lý chi tiêu công. Cụ thể: về tính tổng thể và tính kỷ luật tài chính đó
là, để kiểm soát được các nguồn tài chính có hiệu quả, yêu cầu trong cân đối của hoạt
động ngân sách nhà nước phải đánh giá đúng nguồn lực tài chính đó và lựa chọn những
công cụ thích hợp nhất để phân bổ nguồn lực nhằm đạt được mục tiêu ngân sách đã đề
8
8


ra. Điều này có nghĩa là, khi cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước thì những
quyết định về chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên cần phải được gắn kết với nhau,
trong chi tiêu ngân sách nhà nước cần tập trung chi vào những khoản cần thiết, chi tiêu
tiết kiệm, tránh lãng phí để thực hiện tốt các chiến lược mà chính phủ đề ra.
“Về tính linh hoạt và tính tiên liệu, trong cân đối của hoạt động ngân sách nhà
nước, tính linh hoạt và tính tiên liệu là cần thiết vì nó giúp nhà quản lý đưa ra cách xử lý
và điều phối nguồn lực tài chính một cách hợp lý, tạo điều kiện thuận lợi để nhà nước
thực hiện các mục tiêu kinh tế- xã hội đã đề ra. Tính linh hoạt yêu cầu phải trao quyền

cho người quản lý trong việc ra quyết định phân bổ nguồn lực tài chính đã thu được từ
các nguồn thu khác nhau mà đất nước có. Tính tiên liệu đóng vai trò quan trọng trong
việc thực hiện chính sách và chương trình có hiệu quả. Nội dung này đòi hỏi nguyên tắc
cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước phải chú ý đến sự cân đối trong ngắn hạn
và dài hạn và phải vận dụng cách tiếp cận trung hạn đối với việc điều chỉnh mất cân đối
ngân sách nhà nước.
Về tính trung thực, thì khi sử dụng nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách
nhà nước nên dựa vào những dự toán đã được lập từ thực tế tình hình kinh tế- xã hội của
đất nước mà không có sự thiên vị về vấn đề thu hoặc chi ngân sách nhà nước. Những dự
toán quá lạc quan sẽ dễ đưa đến sự vi phạm tính kỷ luật tài chính và dẫn đến việc không
thực hiện được những chiến lược, chính sách mà Nhà nước đã đề ra do ngân sách nhà
nước không bảo đảm cân đối trong quá trình hoạt động khi chưa đưa ra những kế hoạch
cụ thể.
Về thông tin, minh bạch và trách nhiệm, đây là vấn đề rất cần thiết trong cân đối
trong hoạt động ngân sách nhà nước. Thông tin tốt sẽ làm tăng thêm tính trung thực và
giúp người quản lý sẽ đưa ra những quyết định hợp lý. Thông tin chính xác và kịp thời
về chi phí, đầu ra và kết quả đạt được sẽ giúp cho quá trình thực hiện cân đối trong hoạt
động ngân sách nhà nước đạt hiệu quả nhất định ”.
2. Đặc điểm của nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước theo
Luật Ngân sách Nhà nước
Thứ nhất, nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước phản ánh mối
quan hệ tương tác giữa các khoản thu và nhiệm vụ chi ngân sách nhà nước trong năm
ngân sách nhằm đạt được các mục tiêu đã đề ra. Việc cân đối trong hoạt động ngân sách
9
9


không phải chỉ là thu, chi cân đối hoặc chỉ là cân đối về mặt lượng mà còn nhằm thực
hiện các mục tiêu chiến lược kinh tế- xã hội của đất nước, đồng thời các chỉ tiêu kinh tếxã hội này cũng quyết định sự hình thành về thu, chi ngân sách nhà nước. Nguyên tắc
cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước với những đặc thù của nó được nhà nước

xây dựng trong luật nhằm làm ổn định chính sách tài chính tiền tệ của đất nước, bởi lẽ
nó có tác động làm thay đổi hoặc điều chỉnh một cách hợp lý các chỉ tiêu kinh tế- xã hội.
Thứ hai, nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước tham gia điều
chỉnh sự cân đối giữa tổng thu và tổng chi, giữa các khoản thu và các khoản chi, tham
gia cân đối về phân bổ và chuyển giao nguồn lực giữa các cấp trong hệ thống ngân sách
nhà nước, đồng thời nguyên tắc này còn có đặc điểm kiểm soát tình trạng ngân sách nhà
nước đặc biệt là tình trạng bội chi ngân sách nhà nước với đòi hỏi của nó là nếu có bội
chi thì số bội chi phải nhỏ hơn số chi đầu tư phát triển tiến tới cân bằng thu, chi trong
ngân sách.
Thứ ba, nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước còn là sự bình ổn
nguồn ngân sách, làm cho số bội chi ngân sách nhà nước được cân bằng so với các
nguồn thu để hoàn thiện các nhiệm vụ chi đó. Điều này có nghĩa là, đặc điểm nổi bật
của nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước (nguyên tắc ngân sách
thăng bằng) chính là sự định hướng được cho ngân sách nhà nước nếu có bội chi thì sẽ
có cách giải quyết, bình ổn tối ưu, được thể hiện rõ trong khoản 2 Điều 8 Luật Ngân
sách Nhà nước: “Bội chi ngân sách nhà nước được bù đắp bằng nguồn vay trong nước
và ngoài nước. Vay bù đắp bội chi ngân sách nhà nước phải bảo đảm nguyên tắc không
sử dụng cho tiêu dùng, chỉ được sử dụng cho mục đích phát triển và bảo đảm bố trí
ngân sách để chủ động trả hết nợ khi đến hạn”.
Thứ tư, nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước còn đòi hỏi
nguồn vay ngân sách từ trong và ngoài nước sẽ không được sử dụng cho các nhiệm vụ
chi nào khác ngoài nhiệm vụ chi cho đầu tư phát triển vì đây là nhiệm vụ quan trọng
hàng đầu đỏi hỏi phải có nguồn ngân sách thật sự ổn định để thực hiện nhiệm vụ và khi
nhiệm vụ hoàn thành sẽ nhanh chóng có nguồn tài chính để trả nợ. Do vậy, bắt buộc
phải tuân theo đặc điểm này để tránh sự xáo trộn trong hoạt động ngân sách nhà nước.
III. Thực tiễn áp dụng nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước ở
Việt Nam

10


10


Kể từ khi Luật Ngân sách Nhà nước năm 2002 có hiệu lực thi hành thì hoạt động
ngân sách nhà nước (hoạt động thu, chi ngân sách) đã có những chuyển biến theo cả hai
hướng tích cực và tiêu cực, đặc biệt là việc áp dụng nguyên tắc cân đối trong hoạt động
NSNN theo quy định của luật vào hoạt động thu, chi ngân sách bên cạnh việc đạt được
những thành tựu cụ thể cũng không ít những vấn đề tiêu cực nảy sinh. Cụ thể:
1. Những thành tựu đạt được
- Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong lĩnh vực thu, chi ngân sách nhà
nước trong hoạt động của mình luôn chú trọng áp dụng nguyên tắc cân đối theo quy
định của Luật Ngân sách Nhà nước để tạo ra sự cân bằng, ổn định cho NSNN nhằm
phục vụ tốt nhất cho những nhiệm vụ quan trọng của đất nước. Ngay từ khâu dự toánkhâu đầu tiên trước khi bắt tay trực tiếp vào hoạt động thu, chi cụ thể thì các cơ quan có
thẩm quyền trong việc dự toán NSNN cũng đã tuân thủ nguyên tắc này. Ví dụ: Trong
Bản cân đối dự toán ngân sách năm 2010, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải
tính toán “các khoản thu cân đối ngân sách nhà nước” và “các khoản chi cân đối ngân
sách nhà nước”. Cụ thể, tổng thu cân đối ngân sách nhà nước 461,500 tỷ đồng, bao gồm
các khoản: thu nội địa 294,700 tỷ đồng; thu từ dầu thô 66,300 tỷ đồng; thu từ xuất khẩu
nhập khẩu 95,500 tỷ đồng; thu viện trợ không hoàn lại 5,000 tỷ đồng. Tổng chi cân đối
ngân sách nhà nước 582,200 tỷ đồng; bao gồm các khoản: chi đầu tư phát triển 125,500
tỷ đồng; chi trả nợ và viện trợ 70,250 tỷ đồng; Chi phát triển sự nghiệp kinh tế - xã hội,
quốc phòng, an ninh, quản lý hành chính 335,560 tỷ đồng; Chi cải cách tiền lương
35,490 tỷ đồng; Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính 100 tỷ đồng; Dự phòng 15,300 tỷ
đồng. Tính cả khoản thu kết chuyến từ năm trước sang 1,000 tỷ đồng thì bội chi 119,700
tỷ đồng; tỷ lệ bội chi so với GDP là 6,20%. Để cân bằng ngân sách, nhà nước còn có
nguồn bù đắp bội chi từ vay trong nước và ngoài nước. Tuy nhiên đây chỉ là biện pháp
tạm thời. Việc cân đối triệt để NSNN là rất khó, đặc biệt là với nước đang phát triển như
Việt Nam còn cần chi rất nhiều để cải cách, phát triển. Đây đã là cố gắng không nhỏ của
nước ta.
- Trong những năm qua do việc áp dụng nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân

sách nhà nước được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quán triệt triệt để cho nên
nước ta đã kiểm soát được mức bội chi ngân sách nhà nước thấp hơn so với dự toán (Ví
dụ: Quyết toán cân đối ngân sách nhà nước năm 2010, trong đó, tổng thu cân đối ngân
11
11


sách nhà nước 777,282 tỷ đồng. Tổng chi cân đối ngân sách nhà nước 850,874 tỷ đồng.
Bội chi 109,190 tỷ đồng thấp hơn dự toán; tỷ lệ bội chi so với GDP là 5,50%.). Đây là
một thành công đáng ghi nhận trong việc kiểm soát bội chi NSNN ở nước ta khi có sự
áp dụng triệt để nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước, mặc dù chịu sự
tác động nghiêm trọng từ những cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính từ nền kinh tế thế
giới nhưng tình hình thu, chi ngân sách nhà nước của Việt Nam vẫn chuyển biến theo
chiều hướng tích cực. Mức thâm hụt NSNN được khống chế ở mức thấp, đây chính là
kết quả của những nỗ lực to lớn của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong hoạt
động thu, chi ngân sách nhà nước ở Việt Nam.
Trên thực tế, việc cân đối ngân sách đã giúp cho kinh tế-xã hội ở Việt Nam ngày
càng phát triển. GDP của Việt Nam đạt được sự tăng trưởng từ năm 2002 là 7%, năm
2003: 7,3%, năm 2004: 7,7%, năm 2005: 7,5%, năm 2006: 8,2%, năm 2007: 8,5%. Tuy
khủng hoảng kinh tế toàn cầu nhưng GDP của Việt Nam vẫn tăng trưởng, năm 2008:
6,23%, năm 2009: 5,32%, năm: 2010 6,78% và năm 2011 là 5,89%. So với các nước
trong khu vực, Việt Nam đứng vào hàng các quốc gia có tốc độ tăng trưởng rất cao. Sở
dĩ những con số này luôn lũy tiến theo các năm là do chúng ta biết cân đối giữa nguồn
thu và những nhiệm vụ chi cụ thể, nói cách khác chúng ta biết sử dụng nguồn thu ngân
sách nhà nước để tập trung đầu tư chi cho những công việc có lợi cho nguồn thu ngân
sách (có khả năng thu hồi nguồn ngân sách cao và nhanh nhất). Điều này hoàn toàn phù
hợp với bản chất của nguyên tắc cân đối và quy định của pháp luật là chi đầu tư phát
triển chiếm tỷ lệ cao nhất trong nhiệm vụ chi ngân sách.
Thu nhập bình quân đầu người ngày càng tăng: năm 2000 là 400 USD/người,
tăng lên 637,3 USD/người năm 2005. Con số này đã đạt được 820 USD/người năm

2007, 1.160 USD/người năm 2010 và 1.300 USD/người năm 2011. Bên cạnh đó, số hộ
giàu tăng lên và số hộ nghèo giảm xuống. Tỷ lệ nghèo đói giảm mạnh từ 58% năm 1993
giảm còn 37% năm 1998 tiếp tục giảm còn 28% năm 2004 và còn lại mức thấp 18,1%
năm 2006, đến năm 2011 chỉ còn 14%. Đời sống của người dân được cải thiện, các vấn
đề an sinh xã hội được đảm bảo hơn. Điều này do chúng ta đảm bảo được nguồn thu

cân đối, các nhiệm vụ chi khác nhau ở các lĩnh vực khác nhau được giải quyết tốt

12

12


cho nên nguồn tài chính được sử dụng để chi cho các lĩnh vực xã hội có bước lũy
tiến.
- Từ những kinh nghiệm đạt được trong việc áp dụng nguyên tắc cân đối trong
hoạt động NSNN ở nước ta, trong những năm gần đây, hoạt động cân đối ngân sách
không ngừng tiến bộ, việc áp dụng nguyên tắc này của các cán bộ, công chức ngày càng
linh hoạt hơn.
2. Một số hạn chế
- Mặc dù việc áp dụng nguyên tắc cân đối trong hoạt động NSNN đã được chú
trọng trong hoạt động của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng việc áp dụng
nguyên tắc này thật sự không đơn giản mà vẫn có những vướng mắc trong quá trình áp
dụng nguyên tắc đó vào thực tiễn hoạt động. Cụ thể: “việc thực hiện nguyên tắc cân đối
trong Luật Ngân sách Nhà nước đã xuất hiện một số vướng mắc, tồn tại, trong đó vấn đề
về phạm vi cân đối và cách tính bội chi NSNN còn có một số điểm chưa rõ ràng, chưa
đúng với quy định của Luật Ngân sách Nhà nước, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế. Số
thu về phí, lệ phí hiện nay chưa được quy định rõ ràng, khoản nào trong cân đối, khoản
nào ngoài cân đối NSNN, khoản nào hạch toán trong NSNN” (theo GS-TSKH Tào Hữu
Phùng, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban kinh tế và ngân sách của Quốc hội). Điều này một phần

do trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam, phần nữa do đặc thù của
hoạt động thu, chi ngân sách ở Việt Nam (thu từ nhiều nguồn và chi cho quá nhiều nhu
cầu khác nhau) tạo nên, chúng ta khó có thể cân đối trong mọi năm ngân sách.
- Một điểm vướng mắc nữa về thực tế áp dụng nguyên tắc cân đối trong hoạt
động NSNN của Việt Nam là khi thực hiện việc cân đối NSNN (cân đối các nguồn thu
với nhiệm vụ chi cụ thể của đất nước) thì chúng ta phải quán triệt nguyên tắc tổng số thu
từ thuế, phí, lệ phí phải lớn hơn tổng số chi thường xuyên; nên bội chi phải nhỏ hơn chi
đầu tư phát triển. Nhưng qua kết quả kiểm toán cho thấy một số khoản thu nêu trên
không được tính toán cân đối NSNN mà để lại đơn vị chi tiêu, khi quyết toán sẽ thực
hiện ghi thu, ghi chi vào NSNN. Kết quả kiểm toán cho thấy khoản phí, lệ phí là con số
không nhỏ (ước tính hàng ngàn tỷ đồng) và đây là nguồn thu ngân sách nhà nước cần
phải được đưa vào cân đối, bố trí trong dự toán hàng năm. Nếu thực tế đó không nhanh
chóng được khắc phục thì sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến quá trình lên kế hoạch cho
việc phân bổ nguồn NSNN của những năm tiếp theo và như vậy việc cân đối trong ngân
13
13


sách trong các năm sau đó là không thể đạt được mà tình trạng đó nếu tiếp tục diễn ra sẽ
làm cho nguồn thu và nhiệm vụ chi của nước ta bị xáo trộn.
- Trong khi áp dụng nguyên tắc cân đối thì tính minh bạch trong cân đối NSNN
chưa được vân dụng triệt để khi xác định tỷ lệ bội chi NSNN. Bên cạnh đó, vấn đề bội
chi NSNN trong thời gian qua cũng tồn đọng một số vấn đề mà chính phủ ta cần phải
xem xét, cân nhắc để có những giải pháp tốt hơn khi xử lý bội chi NSNN trong những
năm sắp tới như: số tiền vay, đặc biệt là vay nước ngoài cho đầu tư phát triển chưa được
quản lý chặt chẽ, chưa chú trọng đến mối quan hệ giữa chi đầu tư phát triển và chi
thường xuyên nên tạo ra áp lực bội chi ngân sách nhà nước (nhất là ngân sách địa
phương), ngân sách địa phương vẫn có bội chi nhưng mức bội chi này lại không được
tính vào bội chi NSNN. Do tính minh bạch trong cân đối ngân sách không được vận
dụng triệt để nên mặc dù nguyên tắc cân đối này có được áp dụng trong quá trình thu,

chi NSNN nhưng vẫn không thể phát huy được tác dụng làm cân bằng cho ngân sách để
thực hiện những công việc phát sinh trước đất nước, do vậy, không thể định hướng, lên
kế hoạch cho quá trình thu, chi ngân sách nhà nước cho những năm ngân sách sau đó.
- Phân tích đặc thù nguồn thu NSNN thời gian qua, TS. Nguyễn Thị Hải Hà (Viện
Khoa học Tài chính) cho rằng: giống như các nền kinh tế khác ở giai đoạn đầu phát
triển, thu NSNN của Việt Nam phụ thuộc nhiều vào nguồn thu từ hoạt động xuất nhập
khẩu, thu từ các cơ sở kinh doanh. Bên cạnh đó, do là nước xuất khẩu dầu thô nên thu từ
dầu thô cũng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu NSNN. Thu từ tài sản, từ thuế thu nhập
cá nhân, các khoản phí còn tương đối hạn chế. “Chẳng hạn năm 2008, tỷ trọng thu dầu
thô và thu từ hoạt động xuất nhập khẩu vẫn chiếm tới 48% tổng thu NSNN, điều này
cho thấy thu NSNN phụ thuộc đáng kể vào thị trường thế giới. Bên cạnh đó, thu từ các
cơ sở kinh tế trong năm 2008 chiếm 39% tổng thu NSNN, trong khi đó thu thuế thu
nhập cá nhân chỉ chiếm 3%, các khoản phí, lệ phí và thu từ nhà đất chiếm khoảng 10%,
do vậy nguồn thu trong nước cũng rất nhạy cảm với các biến động kinh tế. Về chi
NSNN, cũng do nền kinh tế nước ta đang trong giai đoạn đầu phát triển nên cơ sở hạ
tầng kinh tế - xã hội còn nhiều bất cập, thể chế tài chính chưa hoàn thiện và do tốc độ
tăng giá tương đối cao... nên áp lực tăng chi NSNN là rất lớn. Chính vì thế, áp lực cân
đối NSNN là rất lớn. Thêm vào đó, với quy trình ngân sách nhà nước truyền thống, theo
năm và giới hạn bội chi NSNN là 5% GDP nên mức bội chi thực tế luôn tiệm cận ở giới
14
14


hạn cho phép. Như vậy, khả năng điều chỉnh ngân sách theo các biến động kinh tế - xã
hội trong và ngoài nước rất hạn chế”.
- Việc thực hiện nhiệm vụ dự toán, quyết toán, thu, chi NSNN của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền tồn tại những hạn chế như việc vận dụng nguyên tắc cân đối trong
hoạt động NSNN vẫn còn lung túng, chưa thật sự hiểu bản chất của nguyên tắc này. Do
vậy, không thể khai thác lợi thế của nguyên tắc này để cân đối NSNN là điều không thể
tránh khỏi, hơn nữa nguyên tắc này tương đối là khó khi vận dụng vào thực tiễn.

IV. Một số phương hướng nhằm phát huy vai trò của nguyên tắc cân đối trong hoạt
động ngân sách nhà nước ở Việt Nam.
- Tăng cường kiểm soát bội chi NSNN: Cắt giảm những khoản chi tiêu NSNN
chưa thật cần thiết và kém hiệu quả, từ đó có sự chuyển đổi linh hoạt trong chi tiêu
NSNN để không làm mất cân đối NSNN, không lãng phí nguồn thu NSNN vào những
hoạt động chi không cần thiết, không hiệu quả. Nhà nước phải kiểm soát chặt chẽ ngay
từ khâu vay vốn để bù đắp bội chi và sử dụng cho đầu tư phát triển, duy trì mức bội chi
cho phép hàng năm do Quốc hội quyết định. Bên cạnh đó, Nhà nước cần tạo điều kiện
cho người dân tham gia giám sát, theo dõi quá trình thực hiện nhiệm vụ ngân sách của
các cấp, các ngành bằng cách Nhà nước phải cung cấp những thông tin chính xác, đầy
đủ và kịp thời cho người dân biết qua các phương tiện truyền thanh, báo chí. Có sự phối
hợp, giám sát chặt chẽ này giữa Nhà nước và nhân dân sẽ góp phần thúc đẩy tính minh
bạch và trách nhiệm của người sử dụng và quản lý NSNN.
Vấn đề vay nợ ở địa phương cũng cần được kiểm soát và quản lý hiệu quả hơn,
không để tình trạng địa phương còn kết dư ngân sách mà vẫn tiếp tục đi vay nợ. Để thực
hiện tốt chức năng kiểm soát NSNN, Quốc hội cần chú trọng ngay từ khâu lập dự toán,
cụ thể hóa từng khoản chi và phân chia nguồn thu hợp lý và trong khâu chấp hành và
quyết toán NSNN cần có sự đồng tâm nhất chí cao của các Bộ, ngành và địa phương
giám sát thực hiện dự toán đó. Bên cạnh đó cần thực hiện triệt để chính sách có thu mới
có chi, không để bội chi NSNN tăng quá cao, nếu cần thiết nên giảm tỷ lệ bội chi NSNN
so với GDP dưới mức 5% ở khoảng 3% – 4%, đây là mức bội chi NSNN tích cực thúc
đẩy kinh tế phát triển. Đồng thời tiến tới tính toán cân đối các nguồn phát hành trái
phiếu, công trái giáo dục hiệu quả hơn.

15

15


- Theo Luật NSNN năm 2002, biện pháp bù đắp bội chi NSNN là vay nợ. Nhằm

khắc phục những yếu kém về vay nợ cần có một số thay đổi về cách thức vay nợ và sử
dụng nguồn vay hợp lý:
Về vay nợ trong nước: Để phù hợp với cơ chế chi bội chi cho đầu tư phát triển
cần giảm phát hành các loại trái phiếu chính phủ kỳ hạn 1 năm và 2 năm, thay vào đó
phát hành trái phiếu chính phủ 5 năm, 10 năm, 20 năm. Củng cố và mở rộng thị trường
trái phiếu chính phủ để thu hút đầu tư nước ngoài, đồng thời hoàn thiện hệ thống thuế
đánh vào thu nập từ trái phiếu. Nhờ đó, Chính phủ sẽ linh hoạt hơn trong việc cân đối
nhu cầu vay nợ để bù đắp bội chi.
Về vay nợ nước ngoài: Để tăng tính chủ động trong cân đối NSNN, Chính phủ
cần làm hài hòa các thủ tục tiếp nhận các nguồn vốn ODA và tạo điều kiện thuận lợi cho
việc thực hiện các chương trình, dự án ODA giữa Việt Nam và các nhà tài trợ. Tuy vậy,
cơ cấu vay lãi này là phải trả nợ nếu về lâu dài không kiểm soát tốt bội chi NSNN sẽ
tăng gánh nặng về nợ cho chính phủ. Vì vậy hoàn thiện các biện pháp vay nợ để thuận
lợi hơn khi chính phủ thực hiện vay nợ bù đắp bội chi, chứ không phải khuyến khích
tăng bội chi và tăng vay nợ. Nhà nước cần đảm bảo mức vay nợ trong nước chiếm tỷ
trọng lớn để giảm sự lệ thuộc vào nước ngoài và khai thác được nội lực.
- Hoàn thiện phân cấp quản lý NSNN: Mở rộng phân định nguồn thu và xác định
rõ ràng nhiệm vụ chi của từng cấp chính quyền phù hợp với chức năng và năng lực của
từng cấp chính quyền địa phương. Hoàn thiện cơ chế bổ sung cân đối NSNN nhằm khắc
phục vấn đề NSĐP còn quá lệ thuộc vào sự hỗ trợ của NSTW, mà không linh động tân
dụng khả năng vốn có của địa phương.
- Nâng cao năng lực của cán bộ, công chức thông qua những lớp tổ chức nghiên
cứu về nguyên tắc cân đối để cho cán bộ, công chức thật sự hiểu bản chất của nó và tiến
hành áp dụng trong thực tế nguyên tắc này thật sự phù hợp với bản chất của nguyên tắc
nhằm thu được kết quả cân đối tốt nhất. Bên cạnh đó, cần tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến
bội chi NSNN để từ đó tìm ra những giải pháp phù hợp.
KẾT LUẬN
Qua phần phân tích trên cho thấy rằng, nguyên tắc này đóng một vai trò quan
trọng đặc biệt đối với hoạt động ngân sách của nước ta và ảnh hưởng rất lớn tới đời
sống, kinh tế. Với những thành tựu đạt được và một số hạn chế như vậy, chúng ta cần

16
16


phải không ngừng hoàn thiện hơn nữa công tác cân đối hoạt động ngân sách nhằm đạt
được một nền tài chính vững mạnh, ổn định, để giải quyết tốt nhất các mục tiêu kinh tếxã hội đặt ra.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật Ngân sách Nhà nước năm 2002;
2. Nghị định số 60/2003/NĐ-CP ngày 6/6/2003 quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành Luật Ngân sách Nhà nước năm 2002;
3. Thông tư số 59/2003/TT-BTC ngày 23/6/2003 hướng dẫn thực hiện Nghị định
số 60/2003/NĐ-CP ngày 6 tháng 6 năm 2003 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành Luật Ngân sách Nhà nước;
4. Cân đối ngân sách nhà nước – thực trạng và hướng hoàn thiện. Người thực
hiện: Quách Hồng Thơ. Giáo viên hướng dẫn: Lê Huỳnh Phương Chinh
-www.tailieu.vn;
5. Trường Đại học Luật Hà Nội – Giáo trình Luật Ngân sách Nhà nước. Nxb.
CAND 2010;
6. Cân đối ngân sách nhà nước - đảm bảo ổn định nền tài chính quốc gia – báo
Nhân Dân;
7. Thánh thức trong cân đối ngân sách nhà Nước – báo Nhân Dân;
8. các trang web. www.tapchitaichinh.vn
www.tailieu.vn
www.tapchiketoan.vn

17

17




×