Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Tìm hiểu về nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước theo Luật ngân sách và thực tế áp dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.37 KB, 16 trang )

MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU 1
NỘI DUNG 1
I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ CÂN ĐỐI
TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC: 1
1. Khái niệm Ngân sách nhà nước:
2. Khái niệm cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước: 2
3. Đặc điểm cân đối ngân sách nhà nước: 3
4. Vai trò của cân đối ngân sách nhà nước : 4
II. NGUYÊN TẮC CÂN ĐỐI TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN SÁCH NHÀ
NƯỚC THEO LUẬT NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC (NGUYÊN TẮC NGÂN
SÁCH THĂNG BẰNG): 5
1. Nội dung của nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước theo
Luật Ngân sách Nhà nước: 5
2. Đặc điểm của nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước theo
Luật Ngân sách Nhà nước: 7
3. Mối quan hệ giữa nguyên tắc cân đối đối với hoạt động NSNN: 7
4. Tác động của nguyên tắc cân đối đối với hoạt động ngân sách nhà nước: 8
III. THỰC TẾ ÁP DỤNG NGUYÊN TẮC CÂN ĐỐI TRONG HOẠT ĐỘNG
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC THEO LUẬT NGÂN SÁCH: 9
1. Thực tiễn việc thực hiện nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà
nước ở Việt Nam: 9
2. Những thành tựu đạt được và hạn chế còn tồn tại trong việc áp dụng nguyên
tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước ở Việt Nam: 10
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA NGUYÊN
TẮC CÂN ĐỐI TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Ở VIỆT
NAM: 13
KẾT LUẬN: 14
1
LỜI MỞ ĐẦU


Trong xu thế hội nhập kinh tế như hiện nay, vấn đề cân đối ngân sách
nhà nước (NSNN) là rất quan trọng và cần được quan tâm đúng mức. Bỡi lẽ,
ngân sách nhà nước là công cụ tài chính cốt yếu để Nhà nước điều phối toàn xã
hội, giải quyết những vấn đề khó khăn của đất nước, đem lại sự công bằng cho
người dân… Nhưng để đảm bảo tốt những vai trò trên thì NSNN phải được cân
đối. Thực tế ở Việt Nam trong thời gian vừa qua, NSNN không ổn định và mất
cân đối đã kéo theo những hậu quả làm ảnh hưởng đến sự phát triển của nền
kinh tế và nhiều vấn đề xã hội nãy sinh như: thu vào NSNN không đủ chi dẫn
đến nợ nước ngoài nhiều, lạm phát tăng nhanh, không có nguồn tài chính để
đầu tư đúng mức vào hoạt động kinh tế… Để khắc phục những vấn đề trên,
Chính phủ đã có nhiều cố gắng trong việc cải cách quản lý hành chính, đổi mới
chính sách thu, chi ngân sách để hướng tới một NSNN được cân đối nhằm góp
phần thúc đẩy kinh tế phát triển, ổn định xã hội và kiểm soát tình trạng lạm phát
đang diển ra ở nước ta và đưa Việt Nam tiến vào thời kỳ hội nhập của nền kinh
tế thế giới. Cân đối NSNN là một vấn đề phức tạp nhưng nó có một vai trò
quan trọng đối với kinh tế đất nước trong thời kỳ chuyển đổi, hội nhập và cùng
với những lý do nêu trên, em đã lựa chọn đề tài: “Tìm hiểu về nguyên tắc cân
đối trong hoạt động ngân sách nhà nước theo Luật ngân sách và thực tế áp
dụng” để nghiên cứu cho bài tập học kỳ của mình
NỘI DUNG
I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ CÂN
ĐỐI TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC:
1. Khái niệm Ngân sách nhà nước
Ngân sách nhà nước là một phạm trù rất rộng và bao quát, vừa liên quan
đến lĩnh vực kinh tế vừa liên quan đến góc độ quản lý Nhà nước. Vì vậy hiện
nay có nhiều ý kiến khác nhau định nghĩa về ngân sách Nhà nước, nhưng thể
hiện rõ nhất và đầy đủ nhất về bản chất của ngân sách nhà nước là hai định
nghĩa trên hai phương diện kinh tế và pháp lý.
1.1. Về phương diện kinh tế: NSNN là một khái niệm thuộc phạm trù
kinh tế học hay hẹp hơn là tài chính học. Theo đó, NSNN được hiểu là bản dự

toán về các khoản thu và các khoản chi tiền tệ của một quốc gia, được cơ quan
nhà nước có thẩm quyền quyết định thực hiện trong một khoảng thời hạn nhất
định, thường là một năm. Khái niệm NSNN định nghĩa theo phương diện này
có hai yếu tố:
Một là, NSNN là bản dự toán các khoản thu và chi tiền tệ của quốc gia.
Do đó phải được Quốc hội với tư cách là người đại diện cho toàn thể nhân dân
trong quốc gia đó quyết định trước khi chính phủ đem ra thi hành trên thực tế
để đảm bảo cho việc thu, chi ngân sách có hiệu quả và phù hợp với người dân.
Ngoài ra, Quốc hội còn là người giám sát chính phủ trong quá trình thi hành
ngân sách và có quyền phê chuẩn bảng quyết toán ngân sách hàng năm do
chính phủ đệ trình khi năm ngân sách kết thúc.
2
Hai là, NSNN có hiệu lực trong vòng một năm, tức là việc dự toán thu,
chi đã được đề ra phải hoàn thành trong năm ngân sách đó tính từ ngày 01/01
đến ngày 31/12 hàng năm. Khoảng thời gian này được pháp luật quy định nhằm
giới hạn rõ thời gian thực hiện bản dự toán NSNN và được gọi là “năm ngân
sách” hay “tài khóa”, thực chất là niên độ ngân sách. Khoảng thời gian này có
thể trùng hoặc không trùng với năm dương lịch tùy theo tập quán của mỗi nước.
Việc quy định rõ thời gian này nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của
NSNN, tránh sự tùy tiện, độc đoán của nhà nước trong việc thu nộp và chi tiêu
ngân sách.
1.2.Về phương diện pháp lý:
Theo quy định tại Điều 1 Luật Ngân sách Nhà nước thì: “Ngân sách nhà
nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để bảo đảm thực hiện
các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước”. Với quy định này, chúng ta thấy rằng
ngân sách nhà nước chính là một đạo luật tài chính do Quốc hội ban hành, dự
toán về các khoản thu, chi thực hiện trong một năm của một quốc gia, bên cạnh
đó đây còn là công cụ tài chính quan trọng để Nhà nước thực hiện và điều tiết
các hoạt động kinh tế- xã hội của đất nước.

Do yêu cầu của bài luận, chúng ta chỉ xem xét chủ yếu NSNN theo quy
định của pháp luật (phương diện pháp lý), bởi lẽ đây là công cụ được nhà nước
thừa nhận trong pháp luật và được ứng dụng trong thực tiễn.
2. Khái niệm cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước
NSNN là một bảng kế hoạch tài chính của một quốc gia trong đó dự trù
các khoản thu và chi được thực hiện trong một năm. Trên thực tế, quá trình thu,
chi NSNN luôn trong trạng thái biến đổi không ngừng, nó bị ảnh hưởng bởi sự
vận động của nền kinh tế quốc gia, có khi những khoản thu dự kiến không đủ
đáp ứng nhu cầu chi tiêu trong năm đó hoặc có khi mức thu lại vượt xa những
khoản chi. Do vậy, các khoản chi tiêu và thu NSNN phải được tính toán chính
xác và phù hợp với thực tế để đảm bảo cho NSNN trong trạng thái cân bằng, ổn
định. Thu và chi ngân sách là hai vấn đề quan trọng để đảm bảo cho NSNN
được cân đối, hai vấn đề này lại nằm trong mối tương quan giữa tài chính và
kinh tế, vì kinh tế có phát triển thì Nhà nước mới huy động được nguồn thu vào
NSNN còn kinh tế không ổn định, kém phát triển thì nguồn thu vào NSNN
giảm và còn phải chi nhiều để hổ trợ. Điều đó dễ dẫn đến NSNN bị mất cân
đối. Cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước được xem xét trên những khía
cạnh sau:
Xét về bản chất, cân đối trong hoạt động NSN là cân đối giữa các nguồn
thu mà Nhà nước huy động được tập trung vào NSNN trong một năm và sự
phân phối, sử dụng nguồn thu đó thỏa mãn nhu cầu chi tiêu của Nhà nước trong
năm đó;
Xét về góc độ tổng thể, cân đối trong hoạt động NSNN phản ánh mối
tương quan giữa hoạt động thu và hoạt động chi trong một tài khóa. Nó không
chỉ là sự tương quan giữa tổng thu và tổng chi mà còn thể hiện sự phân bổ hợp
lý giữa cơ cấu các khoản thu và cơ cấu các khoản chi của NSNN do các cơ
quan có thẩm quyền thực hiện;
3
Xét trên phương diện phân cấp quản lý nhà nước, cân đối trong hoạt
động NSNN là cân đối về phân bổ và chuyển giao nguồn thu giữa các cấp ngân

sách, giữa trung ương và địa phương và giữa các địa phương với nhau để thực
hiện chức năng và nhiệm vụ được giao.
Tóm lại, có thể hiểu: Cân đối trong hoạt động NSNN là một bộ phận
quan trọng của chính sách tài khóa, phản ánh sự điều chỉnh mối quan hệ tương
tác giữa hoạt động thu và hoạt động chi NSNN nhằm thực hiện các mục tiêu
kinh tế- xã hội mà Nhà nước đã đề ra trong từng lĩnh vực và địa bàn cụ thể.
3. Đặc điểm cân đối ngân sách nhà nước:
Từ khái niệm về cân đối ngân sách nhà nước ta có thể rút ra một số đặc
điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất: Cân đối ngân sách nhà nước phản ánh mối quan hệ tương tác
giữa thu và chi ngân sách nhà nước trong năm ngân sách nhằm đạt được các
mục tiêu đã đề ra. Nó vừa là công cụ thực hiện các chính sách xã hội của Nhà
nước, vừa bị ảnh hưởng bởi các chỉ tiêu kinh tế- xã hội. Cân đối ngân sách nhà
nước không phải là để thu chi cân đối hoặc chỉ là cân đối đơn thuần về mặt
lượng, mà cân đối ngân sách nhà nước nhằm thực hiện các mục tiêu chiến lược
kinh tế- xã hội của Nhà nước đồng thời các chỉ tiêu kinh tế- xã hội này cũng
quyết định sự hình thành về thu, chi ngân sách nhà nước. Tuy nhiên việc tính
toán thu, chi không phản ánh một cách thụ động các chỉ tiêu kinh tế- xã hội, mà
cân đối ngân sách nhà nước có tác động làm thay đổi hoặc điều chỉnh một cách
hợp lý các chỉ tiêu kinh tế- xã hội, bằng khả năng quản lý hoặc phân bổ nguồn
lực có hiệu quả.
Thứ hai: Cân đối ngân sách nhà nước là cân đối giữa tổng thu và tổng
chi, giữa các khoản thu và các khoản chi, cân đối về phân bổ và chuyển giao
nguồn lực giữa các cấp trong hệ thống ngân sách nhà nước, đồng thời kiểm soát
được tình trạng ngân sách nhà nước đặc biệt là tình trạng bội chi ngân sách nhà
nước. Cân bằng thu- chi ngân sách nhà nước chỉ là tương đối chứ không thể đạt
mức tuyệt đối được vì hoạt động kinh tế luôn ở trạng thái biến động Nhà phải
điều chỉnh hoạt động thu, chi cho phù hợp. Bên cạnh đó, cần phân bổ nguồn thu
cho hợp lý để đảm bảo sự ổn định về kinh tế- xã hội giữa các địa phương. Mặt
khác, nếu ngân sách không cân bằng mà rơi vào tình trạng bội chi thì cần đưa ra

những giải quyết kịp thời để ổn định lại ngân sách nhà nước.
Thứ ba: Cân đối ngân sách nhà nước mang tính định lượng và tính tiên
liệu. Trong quá trình cân đối ngân sách nhà nước, người quản lý phải xác định
các con số thu, chi ngân sách nhà nước so với tình hình thu nhập trong nước,
chi tiết hóa từng khoản thu, chi nhằm đưa ra cơ chế sử dụng và quản lý nguồn
thu phù hợp với hoạt động chi, từ đó để làm cơ sở phân bổ và chuyển giao
nguồn lực giữa các cấp ngân sách. Cân đối ngân sách nhà nước phải dự đoán
được các khoản thu, chi ngân sách một cách tổng thể để đảm bảo thực hiện các
mục tiêu kinh tế - xã hội.
4. Vai trò của cân đối ngân sách nhà nước
Cân đối ngân sách nhà nước là một công cụ quan trọng để Nhà nước can
thiệp vào hoạt động kinh tế- xã hội của đất nước, với vai trò quyết định đó thì
cân đối ngân sách nhà nước trong nền kinh tế thị trường có các vai trò sau:
4
Thứ nhất, cân đối ngân sách nhà nước góp phần ổn định kinh tế vĩ mô.
Nhà nước thực hiện cân đối ngân sách nhà nước thông qua chính sách thuế,
chính sách chi tiêu hàng năm và quyết định mức bội chi cụ thể nên có nhiều tác
động đến hoạt động kinh tế cũng như cán cân thương mại quốc tế. Từ đó góp
phần ổn định việc thực các mục tiêu của chính sách kinh tế vĩ mô như: Tăng
trưởng mức thu nhập bình quân trong nền kinh tế, giảm tỷ lệ thất nghiệp, lạm
phát được duy trì ở mức ổn định và có thể dự toán được,…
Thứ hai, cân đối ngân sách nhà nước góp phần phân bổ, sử dụng nguồn
lực tài chính có hiệu quả, để đảm bảo được vai trò này ngay từ khi lập dự toán
Nhà nước đã lựa chọn trình tự ưu tiên hợp lý trong phân bổ ngân sách nhà nước
và sự gắn kết chặt chẽ giữa chiến lược phát triển kinh tế- xã hội với công tác
lập kế hoạch ngân sách. Trong phân cấp quản lý ngân sách, nếu cân đối ngân
sách nhà nước phân định nguồn thu một cách hợp lý giữa trung ương với địa
phương và giữa các địa phương với nhau thì sẽ đảm bảo thực hiện được các
mục tiêu kinh tế- xã hội đã đề ra.
Thứ ba, cân đối ngân sách nhà nước góp phần đảm bảo công bằng xã

hội, giảm thiểu sự bất bình đẳng giữa các địa phương. Nước ta với mỗi một
vùng lại có một điều kiện kinh tế- xã hội khác nhau, có những vùng điều kiện
kinh tế- xã hội rất khó khăn làm ảnh hưởng đến thu nhập và chất lượng cuộc
sống của người dân, có những vùng điều kiện kinh tế- xã hội thuận lợi, phát
triển làm cho thu nhập và cuộc sống của người dân được nâng lên. Vì vậy cân
đối ngân sách nhà nước sẽ đảm được sự công bằng, giảm thiểu sự bất bình đẳng
giữa người dân và các vùng miền. Nhà nước có thể huy động nguồn lực từ
những người có thu nhập cao, những vùng có kinh tế phát triển để hổ trợ, giúp
đỡ những người nghèo có thu nhập thấp và những vùng kinh tế kém phát triển.
Bên cạnh đó, cân đối ngân sách nhà nước góp phần phát huy lợi thế của từng
địa phương, tạo nên thế mạnh kinh tế cho địa phương đó dựa trên tiềm năng có
sẳn của địa phương.
Tóm lại, , Ngân sách nhà nước vừa là công cụ tài chính quan trọng, vừa
là đạo luật của một quốc gia. Nó được thiết lập và vận hành cùng với sự tồn tại
và phát triển của quốc gia đó. Đặc biệt trong thời kỳ chuyển đổi và hội nhập
như hiện nay, ngân sách nhà nước và vấn đề cân đối ngân sách càng đóng vai
trò quan trọng hơn vào sự phát triển đất nước, bình ổn xã hội. Hiểu và vận dụng
tốt các học thuyết về cân đối ngân sách nhà nước sẽ giúp nước ta có thể giải
quyết những vấn đề còn tồn đọng về ngân sách nhà nước trong thời gian vừa
qua. Ngân sách nhà nước được cân đối, ổn định sẽ giúp Nhà nước thực hiện tốt
chức năng và nhiệm vụ của mình đối với toàn dân, toàn xã hội.
II. NGUYÊN TẮC CÂN ĐỐI TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN SÁCH NHÀ
NƯỚC THEO LUẬT NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC (NGUYÊN TẮC NGÂN
SÁCH THĂNG BẰNG)
1. Nội dung của nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước
theo Luật Ngân sách Nhà nước
Luật Ngân sách Nhà nước năm 2002 đã ghi nhận nguyên tắc cân đối
trong hoạt động ngân sách nhà nước tại Điều 8 như sau:
5
“1. Ngân sách nhà nước được cân đối theo nguyên tắc tổng số thu từ

thuế, phí, lệ phí phải lớn hơn tổng số chi thường xuyên và góp phần tích luỹ
ngày càng cao vào chi đầu tư phát triển; trường hợp còn bội chi, thì số bội chi
phải nhỏ hơn số chi đầu tư phát triển, tiến tới cân bằng thu, chi ngân sách;
2. Bội chi ngân sách nhà nước được bù đắp bằng nguồn vay trong nước
và ngoài nước. Vay bù đắp bội chi ngân sách nhà nước phải bảo đảm nguyên
tắc không sử dụng cho tiêu dùng, chỉ được sử dụng cho mục đích phát triển và
bảo đảm bố trí ngân sách để chủ động trả hết nợ khi đến hạn;
3. Về nguyên tắc, ngân sách địa phương được cân đối với tổng số chi
không vượt quá tổng số thu; trường hợp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
có nhu cầu đầu tư xây dựng công trình kết cấu hạ tầng thuộc phạm vi ngân sách
cấp tỉnh bảo đảm, thuộc danh mục đầu tư trong kế hoạch 5 năm đã được Hội
đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định, nhưng vượt quá khả năng cân đối của ngân
sách cấp tỉnh năm dự toán, thì được phép huy động vốn trong nước và phải cân
đối ngân sách cấp tỉnh hàng năm để chủ động trả hết nợ khi đến hạn. Mức dư
nợ từ nguồn vốn huy động không vượt quá 30% vốn đầu tư xây dựng cơ bản
trong nước hàng năm của ngân sách cấp tỉnh”.
Như vậy, với quy định này thì nguyên tắc cân đối trong hoạt động NSNN
bao gồm những nội dung sau đây:
Thứ nhất: Tổng số thu từ thuế, phí, lệ phí phải lớn hơn tổng số chi
thường xuyên và góp phần tích lũy ngày càng cao vào chi đầu tư phát triển,
trường hợp còn bội chi thì số bội chi phải nhỏ hơn chi đầu tư phát triển, tiến tới
cân bằng thu, chi ngân sách. Nội dung này của nguyên tắc cân đối đã phân định
ranh giới giữa chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên, thể hiện sự thận trọng
trong chính sách tài khóa của Việt Nam. Theo đó, các khoản thu thường xuyên
được sử dụng để trang trải chi thường xuyên và một phần thu thường xuyên
cùng với thu bù đắp được sử dụng để chi đầu tư phát triển, trong đó chi đầu tư
phát triển được chú trọng hơn vì nó có thể làm tăng khả năng thu hồi vốn cho
ngân sách nhà nước nhưng phải đảm bảo được sự cân đối giữa chi đầu tư phát
triển và chi thường xuyên, bởi lẽ giữa chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau
trong chi tiêu công của Nhà nước. Chi đầu tư phát triển là hoạt động cần thiết

đối với sự phát triển kinh tế, xã hội của một quốc gia, nó tạo ra những điều kiện
cở sở vật chất kỹ thuật cần thiết cho nền kinh tế, cũng từ đó kéo theo sự phát
triển của nhiều lĩnh vực khác và đảm bảo các vấn đề xã hội của đất nước, giúp
nhà nước thực hiện tốt chức năng và nhiệm vụ của mình. Vì vậy, chi đầu tư
phát triển là vấn đề được Nhà nước ưu tiên trong xây dựng nguyên tắc cân đối
trong hoạt động NSNN.
Hai là: Bội chi NSNN được bù đắp bằng nguồn vay trong nước và nước
ngoài. Vay bù đắp bội chi NSNN phải đảm bảo nguyên tắc không sử dụng cho
tiêu dùng, chỉ được sử dụng cho mục đích phát triển và bảo đảm bố trí ngân
sách để chủ động trả hết nợ khi đến hạn. Trong điều kiện kinh tế thị trường như
hiện nay thì vấn đề bội chi ngân sách là không thể tránh khỏi đối với một quốc
gia nhưng chưa hẳn bội chi NSNN là biểu hiện của sự yếu kém của nền kinh tế
mà nó còn là một trong các cách thức tạo ra sự cân đối của hoạt động NSNN
trong dài hạn, đảm bảo cho nền kinh tế- xã hội phát triển và ổn định. Nguyên
6

×