Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Phân tích một số bất cập trong quy định về quyền tác giả trong pháp luật sở hữu trí tuệ và đề xuất hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.14 KB, 12 trang )

Bài tập học kì môn Luật sở hữu trí tuệ

MỤC LỤC
Trang

A. LỜI MỞ ĐẦU

1

B. NỘI DUNG

1

I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN TÁC GIẢ THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM HIỆN HÀNH

1

1. Chủ thể của quyền tác giả

1

2. Nội dung quyền tác giả

2

3. Giới hạn quyền tác giả

3

4. Thời hạn bảo hộ quyền tác giả



4

II. PHÂN TÍCH MỘT SỐ BẤT CẬP TRONG QUY ĐỊNH VỀ QUYỀN
TÁC GIẢ TRONG PHÁP LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ VÀ ĐỀ XUẤT
HOÀN THIỆN:

4

1. Về thuật ngữ “tác giả” và “đồng tác giả”

4

2. Quyền nhân thân của tác giả

6

3. Về những vấn đề liên quan đến quyền sao chép:

7

4. Quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian

7

5. Về hành vi “cố ý hủy bỏ hoặc làm vô hiệu các biện pháp kỹ thuật do
chủ sở hữu quyền tác giả thực hiện để bảo vệ quyền tác giả đối với tác
phẩm của mình”
8
6. Quy định về “Bản sao tác phẩm là bản sao chép trực tiếp hoặc gián

tiếp một phần hoặc toàn bộ tác phẩm” (khoản 4 Điều 4 Nghị định
100/2006/NĐ-CP)

9

7. Quy định “Các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân có quyền và nghĩa
vụ liên quan khi phát hiện các hành vi xâm phạm quyền nhân thân quy
định tại ……………

9

C. KẾT LUẬN

10

A. LỜI MỞ ĐẦU
Nguyễn Hải Yến. Nhóm 11 lớp N02

1


Bài tập học kì môn Luật sở hữu trí tuệ

Pháp luật về quyền tác giả được hình thành nhằm đảm bảo về quyền lợi
cho chủ thể sáng tạo, thúc đẩy sáng tạo, đồng thời khai thác hiệu quả các sản
phẩm trí tuệ trong lĩnh vực này. Ở Việt Nam, quyền “sáng tác, phê bình văn
học, nghệ thuật và tham gia vào các hoạt động văn hóa khác” là quyền hiến
định (Điều 60 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi). Quyền tác giả được quy định trong
Bộ luật Dân sự năm 2005 (từ Điều 736 đến Điều 743) và Luật sở hữu trí tuệ năm
2005, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật sở hữu trí tuệ (năm 2009) và

các văn bản hướng dẫn thi hành. Tuy pháp luật sở hữu trí tuệ nước ta đã quy
định khá cụ thể về quyền tác giả nhưng không thể tránh khỏi những kẽ hở của
luật. Chính vì muốn tìm hiểu thêm về vấn đề này, em đã lựa chọn đề tài: “Phân
tích một số bất cập trong quy định về quyền tác giả trong pháp luật sở hữu trí
tuệ và đề xuất hoàn thiện” để nghiên cứu thực hiện bài tập cuối kì của mình.

B. NỘI DUNG
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN TÁC GIẢ THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM HIỆN HÀNH
1. Chủ thể của quyền tác giả
Theo Điều 4 Luật sở hữu trí tuệ (Luật SHTT), quyền tác giả là quyền của
tổ chức , cá nhân đối với tác phẩm do mình sang tạo ra hoặc sở hữu. Và chủ thể
quyền sở hữu trí tuệ là chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ hoặc tổ chức, cá nhân
được chủ sở hữu chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ. Như vậy, chủ thể của quyền
tác giá có thể là chính tác giả (đồng tác giả), hoặc chủ sở hữu quyền tác giả hoặc
tổ chức, cá nhân được chủ sở hữu quyền tác giả chuyển giao quyền tác giả.
- Tác giả: là cá nhân trực tiếp sáng tạo ra một phần hoặc toàn bộ tác phẩm
văn học, nghệ thuật, khoa học từ lao động trí óc. Theo Điều 8 Nghị định
100/2006/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một sô điều của Bộ
luật Dân sự luật sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan (Nghị định
100/2006/NĐ-CP), tác giả có thể là:
+ Cá nhân Việt Nam có tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả;
+ Cá nhân nước ngoài có tác phẩm được sáng tạo và thể hiện dưới hình
thức vật chất nhất định tại Việt Nam;

Nguyễn Hải Yến. Nhóm 11 lớp N02

2



Bài tập học kì môn Luật sở hữu trí tuệ

+ Cá nhân nước ngoài có tác phẩm được công bố lần đầu tiên tại Việt
Nam;
+ Cá nhân nước ngoài có tác phẩm được bảo hộ tại Việt Nam theo Điều
ước quốc tế về quyền tác giả mà Việt Nam là thành viên.
Cho dù tác giả là người Việt Nam hay người nước ngoài đều được chịu
sự điều chỉnh của các quy định pháp luật quyền tác giả như nhau, được hưởng
quyền và có nghĩa vụ như nhau. Quy định này xuất phát từ nguyên tắc đối xử
quốc gia trong pháp luật quốc tế, nhằm thu hút những sản phẩm trí tuệ trong
lĩnh vực văn học, nghệ thuật và khoa học được bảo hộ tại Việt Nam và tạo điều
kiện cho chúng ta tiếp cận dễ dàng hơn với những sản phẩm trí tuệ này.1
- Chủ sở hữu quyền tác giả: là cá nhân, tổ chức nắm giữ một, một số
hoặc toàn bộ các quyền tài sản thuộc quyền tác giả theo quy định tại Điều 20
Luật SHTT. Theo Điều 27 Nghị định 100/2006/NĐ-CP, chủ sở hữu quyền tác
giả bao gồm:
+ Tổ chức, cá nhân Việt Nam;
+ Tổ chức, cá nhân nước ngoài có tác phẩm được sáng tạo và thể hiện
dưới hình thức vật chất nhất định tại Việt Nam;
+ Tổ chức, cá nhân nước ngoài có tác phẩm được công bố lần đầu tiên tại
Việt Nam;
+ Tổ chức, cá nhân nước ngoài có tác phẩm được bảo hộ tại Việt Nam
theo Điều ước quốc tế về quyền tác giả mà Việt Nam là thành viên.
Chủ sở hữu quyền tác giả có thể đồng thời là tác giả hoặc không đồng
thời là tác giả.
2. Nội dung quyền tác giả
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, quyền tác giả được tạo thành bới
quyền nhân than và quyền tài sản. Nội dung quyền tài sản được quy định tài
Điều 738 Bộ luật Dân sự 2005 và Điều 19, 20 Luật SHTT
Các quyền nhân thân thuộc quyền tác giả có những đặc điểm sau: là

quyền của tác giả (tác giả đồng thời là chủ sơ hữu quyền tác giả hoặc tác giả
không đồng thời là chủ sở hữu quyền tác giả); mang lại giá trị tinh thần cho tác
1

TS. Lê Đình Nghị - TS Vũ Thị Hải Yến, Giáo trình luật sở hữu trí tuệ, tr36, Nxb Giáo dục.

Nguyễn Hải Yến. Nhóm 11 lớp N02

3


Bài tập học kì môn Luật sở hữu trí tuệ

giả, được bảo hộ vô thời hạn (trừ quyền công bố tác phẩm); không được
chuyển giao hay để lại thừa kế (trừ quyền công bố tác phẩm). Quyền nhân thân
thuộc quyền tác giả bao gồm các quyền sau: Quyền đặt tên cho tác phẩm;
Quyền đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm, được nêu tên thật hoặc bút
danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng; Quyền công bố tác phẩm hoặc cho
phép người khác công bố tác phẩm và quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm,
không cho người khác sửa chữa, cắt xén tác phẩm hoặc xuyên tạc tác phẩm
dưới bất kì hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.
Còn quyền tài sản thuộc quyền tác giả là những quyền của chủ sở hữu
quyền tác giả (chủ sở hữu đồng thời là tác giả hoặc chủ sở hữu không đồng thời
là tác giả); mang lại giá trị vật chất cho chủ sở hữu quyền tác giả; được bảo hộ
có thời hạn; là đối tượng của hợp đồng chuyển nhượng quyền tác giả hoặc hợp
đồng sử dụng quyền tác giả. Quyền tài sản thuộc quyền tác giả bao gồm các
quyền sau: Quyền làm tác phẩm phái sinh; Quyền biểu diễn tác phẩm trước
công chúng; Quyền sao chép tác phẩm; Quyền phân phối, nhập khẩu bản gốc
hoặc bản sao tác phẩm; Quyền truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng
phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kì phương

tiện kĩ thuật nào khác; Quyền cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện
ảnh, chương trình máy tính.
3. Giới hạn quyền tác giả
Ở nước ta, Luật sở hữu trí tuệ và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật sở hữu trí tuệ xác định giới hạn cho quyền tác giả bằng việc quy định các
trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không phải trả
tiền nhuận bút, thù lao (Điều 25) và các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công
bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao (Điều 26). Giới
hạn quyền tác giả trong những trường hợp này giúp cho công chúng có khả
năng khai thác, sử dụng các tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học vào mục
đích phi thương mại (như nghiên cứu khoa học, giảng dạy, sử dụng riêng) dễ
dàng hơn. Tuy nhiên, bên cạnh quyền lợi này, tổ chức, cá nhân sử dụng tác
phẩm trong những trường hợp giới hạn quyền tác giả có nghĩa vụ làm ảnh
hưởng đến việc khai thác bình thường tác phẩm, không gây phương hại đến các
Nguyễn Hải Yến. Nhóm 11 lớp N02

4


Bài tập học kì môn Luật sở hữu trí tuệ

quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả; phải thông tin về tên tác giả và
nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm. Hơn nữa, bản sao tác phẩm trong những
trường hợp này cũng bị giới hạn ở số lượng một bản.
4. Thời hạn bảo hộ quyền tác giả
Theo quy định tại Điều 27 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật sở
hữu trí tuệ, thời hạn bảo hộ quyền tác giả được xác định như sau:
- Quyền tác giả được bảo hộ vô thời hạn: Các quyền thuộc quyền tác giả
được bảo hộ vô thời hạn là quyền nhân thân gắn với tác giả và không thể
chuyển giao được cho chủ thể khác. Đó là các quyền: Đặt tên cho tác phẩm;

đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút danh khi
tác phẩm được công bố, sử dụng; bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho
người khác sửa chữa, cắt xén tác phẩm hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kì
hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.
- Quyền tác giả được bảo hộ có thời hạn: Bao gồm các quyền công bố
tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm (đây là quyền nhân thân
có thể chuyển giao) và các quyền tài sản. Thời hạn bảo hộ quyền tác giả được
quy định đối với các loại tác phẩm được pháp luật sở hữu trí tuệ quy định cụ
thể.
II. PHÂN TÍCH MỘT SỐ BẤT CẬP TRONG QUY ĐỊNH VỀ QUYỀN
TÁC GIẢ TRONG PHÁP LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ VÀ ĐỀ XUẤT
HOÀN THIỆN:
1. Về thuật ngữ “tác giả” và “đồng tác giả”2
Thuật ngữ “tác giả” được nhắc đến rất nhiều, tuy nhiên trên thực tế trong
Luật không có định nghĩa về thuật ngữ này. Điều 8 Nghị định 100 đã quy định
chi tiết “tác giả là người trực tiếp sáng tạo ra một tác phẩm hoặc toàn bộ tác
phẩm văn học nghệ thuật và khoa học”. Song tại Nghị định này cũng không có
2

TS. TRẦN VĂN HẢI – Khoa Khoa học quản lý, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân

văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, “Những bất cập trong quy định của pháp luật SHTT Việt Nam
hiện hành về quyền tác giả, quyền lien quan”.

Nguyễn Hải Yến. Nhóm 11 lớp N02

5


Bài tập học kì môn Luật sở hữu trí tuệ


quy định tác giả là pháp nhân, do đó có thể nói rằng “tác giả chỉ có thể là cá
nhân”.
Cũng tương tự như vậy, thuật ngữ “đồng tác giả” cũng không được định
nghĩa cụ thể trong pháp luật sở hữu trí tuệ của Việt Nam, mặc nhiên thuật ngữ
này được hiểu là trường hợp có từ hai tác giả trở lên cùng sáng tạo nên một tác
phẩm thì họ là các đồng tác giả của tác phẩm đó. Quan niệm này chỉ điều chỉnh
được mối quan hệ về quyền tài sản đối với tác phẩm giữa các đồng tác giả với
trường hợp:
- Tác phẩm được coi là đồng sở hữu chung duy nhất.
- Tác phẩm được coi là đồng sở hữu chung theo phần, trường hợp này
được điều chỉnh theo Điều 18 của Luật SHTT. Các đồng tác giả sáng
tạo ra tác phẩm, nếu có phần riêng biệt có thể tách ra sử dụng độc lập
mà không làm phương hại đến phần của các đồng tác giả khác thì có
đặc quyền nhân thân và quyền tài sản đối với phần riêng biệt đó.
Quan niệm quá đơn giản như trên là không phổ quát, bởi lẽ không thể
điều chỉnh được quyền nhân thân đối với tác phẩm mà các ví dụ sau đây là mình
chứng:
Tác giả của một bản nhạc không lời đã chết, một người viết thêm lời vào
và bản nhạc thành bài hát có lời, nếu quan niệm như trên thì phải coi bài hát là
một tác phẩm đồng tác giả vì đã có hai tác giả cùng sáng tạo nên một tác phẩm.
Nổi cộm lên như trương hợp của nhạc sĩ Dương Thụ và ca sĩ Mỹ Linh đối với
album “Chat với Mozat” thì quan điểm như trên là không đúng, bởi vì đây
không thể coi là tác phẩm đồng tác giả vì họ không có sự thống nhất ý chí để
tạo ra tác phẩm, nên chăng coi đây là tác phẩm gốc và tác phẩm phái sinh từ tác
phẩm gốc?
Đề xuất hoàn thiện
Tham khảo quy định về tác phẩm đồng tác giả trong Luật quyền tác giả
của Hoa Kì: “Tác phẩm đồng tác giả là tác phẩm được sáng tạo bởi hai hay
nhiều tác giả với chú ý là sự đóng góp của họ được kết hợp thành các thành

phần không thể tách rời và phụ thuộc lẫn nhau trong một tổng thể hoàn chỉnh”,

Nguyễn Hải Yến. Nhóm 11 lớp N02

6


Bài tập học kì môn Luật sở hữu trí tuệ

trong đó, nhất thiết các đồng tác giả phải chú ý là cũng sáng tạo nên một tác
phẩm chung.
2. Quyền nhân thân của tác giả
Theo quy định của pháp luật, quyền nhân thân của tác giả bao gồm: quyền
nhân thân không thể chuyển giao và quyền nhân thân có thể chuyển giao. Trong
đó, quyền nhân thân không được chuyển giao được pháp luật bảo hộ vô thời hạn
và tồn tại vĩnh viễn cùng với tác phẩm.
Trong các quyền nhân thân không thể chuyển giao thì quyền “bảo vệ sự
toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc
tác phẩm dưới bất kì hình thức nào gây phương hại đến danh dự, uy tín của tác
giả”(khoản 4 Điều 19 Luật SHTT) được coi là quan trọng nhất và trong thực tiễn
số đông hay bị xâm phạm nhất.
Cụm từ “gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả” có thể làm
cho khoản 4 Điều 19 Luật SHTT được hiểu là: nếu một người thực hiện hành vi
sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm của người khác, nhưng lại chứng
minh được là hành vi đó không gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác
giả hoặc chứng minh là hành vi đó đã làm cho tác phẩm “hay” lên thì không vi
phạm khoản 4 Điều 19 Luật SHTT.
Điều 22.3 Nghị định 100/2006/NĐ-CP quy định chi tiết “quyền bảo vệ sự
toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén tác phẩm quy
định tại khoản 4 Điều 19 Luật SHTT là việc không cho người khác sửa chữa,

cắt xén tác phẩm trừ trường hợp có thỏa thuận của tác giả”. Quy định này nêu
lên là để tránh cách hiểu không thống nhất như trên, tạo ra cách hiểu chung nhất.
Tuy nhiên, các nhà làm luật soạn thảo Nghị định 100/2006 đã tùy tiện cắt
xén cụm từ “xuyên tạc” trong khoản 4 Điều 19 Luật SHTT. Chính điều này đã
gây khó khăn trong việc giải quyết trường hợp nếu tác giả qua đời thì người sử
dụng tác phẩm sẽ “thỏa thuận” với ai. Bởi lẽ không thể thỏa thuận với người
thừa kế quyền tài sản đối với tác phẩm vì theo quy định của pháp luật thì quyền
nhân thân quy định tại khoản 4 Điều 19 Luật SHTT là không thể chuyển giao.

Nguyễn Hải Yến. Nhóm 11 lớp N02

7


Bài tập học kì môn Luật sở hữu trí tuệ

Đặc biệt là khoản 1 Điều 738 Bộ luật Dân sự 2005 chỉ quy định quyền
nhân thân: “bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa,
cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm”.
Đề xuất hoàn thiện:
Sửa đồi quyền nhân thân không thể chuyển giao tại khoản 4 Điều 19 Luật
SHTT như khoản 1 Điều 738 Bộ luật Dân sự 2005 đã quy định.
3. Về những vấn đề liên quan đến quyền sao chép
Kiến nghị Điều 25 Luật SHTT Việt Nam quy định về các trường hợp sử
dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút,
thù lao thì nên mở rộng hơn ngoại lệ cho việc sao chép với mục đích sử dụng cá
nhân, phi thương mại. Cụ thể, thay vì buộc các chủ thể này khi sao chép (với số
lượng lớn) phải xin phép, trả tiền cho chủ sở hữu quyền tác giả, có thể thay thế
bằng việc thu một khoản tiền đền bù bản quyền của những nhà sản xuất, kinh
doanh nhập khẩu các thiết bị.

4. Quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian3
Khoản 1 Điều 23 của Luật SHTT định nghĩa: “Tác phẩm văn học, nghệ
thuật dân gian là sáng tạo tập thể trên nền tảng truyền thống của một nhóm
hoặc các cá nhân nhằm phản ánh khát vọng của cộng đồng, thể hiện tương
xứng đặc điểm văn hoá và xã hội của họ, các tiêu chuẩn và giá trị được lưu
truyền bằng cách mô phỏng hoặc bằng cách khác”.
Sau đó khoản 2 Điều 23 quy định: “Tổ chức, cá nhân khi sử dụng tác
phẩm văn học, nghệ thuật dân gian phải dẫn chiếu xuất xứ của loại hình tác
phẩm đó và bảo đảm giữ gìn giá trị đích thực của tác phẩm văn học, nghệ thuật
dân gian”.
Như vậy, với quy định tại khoản 2 Điều 23 tác phẩm văn học, nghệ thuật
dân gian được bảo hộ như tác phẩm thuộc về công chúng như quy định tại Điều
3

TS. TRẦN VĂN HẢI – Khoa Khoa học quản lý, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân

văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, “Những bất cập trong quy định của pháp luật SHTT Việt Nam
hiện hành về quyền tác giả, quyền lien quan”.

Nguyễn Hải Yến. Nhóm 11 lớp N02

8


Bài tập học kì môn Luật sở hữu trí tuệ

43 của Luật, có nghĩa là Luật chỉ bảo hộ quyền nhân thân chứ không bảo hộ
quyền tài sản đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian.
Để sửa chữa những lỗi như vừa phân tích, khoản 2, 3 Điều 20 Nghị định
100/2006/NĐ-CP quy định chi tiết: “Sử dụng tác phẩm văn học, nghệ thuật dân

gian quy định tại khoản 2 Điều 23 của Luật Sở hữu trí tuệ là việc nghiên cứu
sưu tầm, giới thiệu giá trị đích thực của tác phẩm văn học, nghệ thuật dân
gian” và “Người sử dụng tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian quy định tại
khoản 2 Điều này phải thoả thuận về việc trả thù lao cho người lưu giữ tác
phẩm văn học, nghệ thuật dân gian và được hưởng quyền tác giả đối với phần
nghiên cứu sưu tầm, giới thiệu của mình”. Như vậy, thuật ngữ “sử dụng” trong
khoản 2 Điều 20 Nghị định 100/2006/NĐ-CP quy định là việc nghiên cứu sưu
tầm, giới thiệu giá trị đích thực tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian. Đây thực
chất là hành vi “phi thương mại”, nếu hành vi phi thương mại mà phải trả thù
lao thì lại trái với quy định tại điều 25 của Luật.
Còn quá nhiều bất cập khi quy định về quyền tác giả đối với tác phẩm văn học,
nghệ thuật dân gian, như không thể biết chính xác ai là người lưu giữ tác phẩm
văn học, nghệ thuật dân gian, chưa có quy định về mối quan hệ giữa tác giả của
tác phẩm phái sinh từ tác phẩm gốc là tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian với
người lưu giữ tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian (nếu xác định được)…
nhưng khuôn khổ có hạn của bài viết không cho phép bàn rộng hơn.
Đề xuất hoàn thiện:
- Định nghĩa lại thuật ngữ “sử dụng” tại Khoản 2 Điều 20 Nghị định
100/2006/NĐ-CP theo hướng sử dụng với nghĩa là hành vi thực hiện quyền tài
sản đối với tác phẩm tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian.
- Nếu không định nghĩa lại thuật ngữ “sử dụng” tại Khoản 2 Điều 20 Nghị
định 100/2006/NĐ-CP thì phải bỏ quy định tại Khoản 3 Điều 20 vì quy định như
vậy là ngăn cản các nhà nghiên cứu khi nghiên cứu sưu tầm, giới thiệu giá trị
đích thực của tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian.
5. Về hành vi “cố ý hủy bỏ hoặc làm vô hiệu các biện pháp kỹ thuật
do chủ sở hữu quyền tác giả thực hiện để bảo vệ quyền tác giả đối với tác
phẩm của mình” (khoản 12 Điều 28 Luật SHTT) là xâm phạm quyền tác giả.
Nguyễn Hải Yến. Nhóm 11 lớp N02

9



Bài tập học kì môn Luật sở hữu trí tuệ

Nên đặt quy định này trong một điều khoản khác, bởi lẽ không thể coi các biện
pháp kỹ thuật do chủ sở hữu quyền tác giả thực hiện để bảo vệ quyền tác giả đối
với tác phẩm là một bộ phận của tác phẩm, vì nội dung của quyền tác giả chỉ bao
gồm quyền nhân thân (được quy định tại Điều 19 của Luật SHTT) và quyền tài
sản (được quy định tại điều 20 của Luật SHTT).
6. Quy định về “Bản sao tác phẩm là bản sao chép trực tiếp hoặc gián
tiếp một phần hoặc toàn bộ tác phẩm” (khoản 4 Điều 4 Nghị định
100/2006/NĐ-CP)
Không thể coi bản sao một phần tác phẩm là bản sao tác phẩm được, chỉ
có bản sao toàn bộ tác phẩm mới là bản sao tác phẩm. Bởi lẽ, nếu quan niệm
như vậy thì phần trích dẫn tác phẩm cũng bị coi là bản sao tác phẩm. Pháp luật
điều chỉnh phần trích dẫn tác phẩm và bản sao tác phẩm rất khác nhau, vì:
+ Quyền trích dẫn tác phẩm không bị pháp luật ngăn cấm như đã quy định
tại Điều 25 của Luật SHTT.
+ Quyền sao chép tác phẩm là một trong những quyền thuộc nhóm quyền
tài sản được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 20 của Luật SHTT, quyền này chỉ
thuộc độc quyền của chủ sở hữu tác phẩm. Thực chất quyền sao chép theo định
nghĩa tại khoản 10 Điều 4 Luật SHTT: “Sao chép là việc tạo ra một hoặc nhiều
bản sao tác phẩm hoặc bản ghi âm, ghi hình bằng bất kỳ phương tiện hay hình
thức nào, bao gồm cả việc tạo bản sao dưới hình thức điện tử”.
7. Quy định “Các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân có quyền và
nghĩa vụ liên quan khi phát hiện các hành vi xâm phạm quyền nhân thân quy
định tại khoản 1, 2 và 4 Điều 19 của Luật Sở hữu trí tuệ đối với các tác phẩm
đã kết thúc thời hạn bảo hộ thì có quyền yêu cầu người có hành vi xâm phạm
chấm dứt hành vi xâm phạm, xin lỗi, cải chính công khai, bồi thường thiệt
hại” (khoản 2 Điều 30 Nghị định 100/2006/NĐ-CP)

Một phần của quy định này không có khả năng thực thi, bởi lẽ:
+ Tác phẩm đã kết thúc thời hạn bảo hộ quyền tài sản, do đó cụm từ “bồi
thường thiệt hại” chắc chắn không phải là bồi thường về vật chất;
+ Nếu bồi thường về uy tín và danh dự của tác giả thì tổ chức, cá nhân
nào là chủ thể nhận bồi thường? Hơn nữa, hành vi này chỉ xâm phạm các quyền
Nguyễn Hải Yến. Nhóm 11 lớp N02

10


Bài tập học kì môn Luật sở hữu trí tuệ

nhân thân không thể chuyển giao được quy định tại các khoản 1, 2 và 4 điều 19
của Luật (mà các quyền này lại vĩnh viễn thuộc về tác giả – là người đã chết).Để
cho chặt chẽ, có lẽ nên bỏ cụm từ “bồi thường thiệt hại” trong quy định trên.

C. KẾT LUẬN
Quyền tác giả không còn là điều mới mẻ tại Việt Nam nhưng do ảnh
hưởng của thói quen trong thời gian quá dài không quan tâm đến chuyện bản
quyền nên việc thực thi pháp luật trong lĩnh vực này gặp rất nhiều khó khăn.
Ngoài ra, pháp luật sở hữu trí tuệ còn có nhiều tồn tại cẩn phải khắc phục. Bài
viết trên đây đã nêu khái quát được quyền tác giả theo quy định của pháp luật sở
hữu trì tuệ Việt Nam và phân tích những tồn tại, đưa ra được những đề xuất
hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
Do phạm vi nhận thức còn hạn chế nên bài viết không thể tránh khỏi
những thiếu sót, em mong nhận được lời nhận xét từ thầy cô để bài viết được
hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

Nguyễn Hải Yến. Nhóm 11 lớp N02


11


Bài tập học kì môn Luật sở hữu trí tuệ

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật SHTT Việt Nam, Nxb. Công an
nhân dân, Hà Nội, 2009.
2. Lê Đình Nghị và Vũ Thị Hải Yến (chủ biên), Giáo trình luật SHTT, Nxb.
Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2009.
3. TS. TRẦN VĂN HẢI – Khoa Khoa học quản lý, Trường Đại học Khoa học

Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, “Những bất cập trong quy
định của pháp luật SHTT Việt Nam hiện hành về quyền tác giả, quyền lien
quan”
4. Nguyễn Thị Lam – DS33A, Nội dung quyền tác giả theo pháp luật sở hữu trí
tuệ Việt Nam, Khóa luận tốt nghiệp, 2012.
5. Nguyễn Hồng Oanh, Xâm phạm quyền tác giả ở Việt Nam – Thực trạng và
giải pháp, Khóa luận tốt nghiệp, 2012
6. Luật SHTT năm 2005
7. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật SHTT năm 2009.
8. Các văn bản hướng dẫn thi hành.

Nguyễn Hải Yến. Nhóm 11 lớp N02

12




×