Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Hoàn thiện hệ thống pháp luật để thực hiện các cam kết về thương mại hàng hoá của Việt nam trong khuôn khổ WTO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.7 KB, 19 trang )

MỞ BÀI
Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) được thành lập và hoạt động từ
ngày 01/01/1995 với mục tiêu thiết lập và duy trì một nền thương mại toàn
cầu tự do, thuận lợi và minh bạch. Tính đến ngày 01/01/ 2010 tổ chức này có
153 thành viên và Việt Nam là thành viên thứ 150. Trải qua quá trình đàm
phán, đấu tranh ngoại giao trong 11 năm kể từ ngày 1/1/1995 (Việt Nam
nộp đơn xin gia nhập WTO) thì đến ngày 7/11/2006 Việt Nam ta được kết
nạp vào tổ chức Thương mại thế giới và ngày 11-01-2007 WTO nhận được
được quyết định phê chuẩn chính thức của Quốc hội nước CHXHCN Việt
Nam. Kể từ đây, Việt Nam trở thành thành viên đầy đủ của WTO.
Để gia nhập tổ chức thương mại thế giới thì Việt Nam phải đưa ra các
cam kết nhằm phù hợp với mục tiêu hoạt động của tổ chức Thương mại thế
giới. Trong đó những cam kết của Việt Nam về thương mại hàng hóa gồm:
Cam kết chung về mở cửa thị trường hàng hoá; Cam kết mở cửa thị trường
phi nông sản; Cam kết mở cửa thị trường nông sản. Một trong những vấn đề
tất yếu khi gia nhập WTO của Việt Nam nói riêng và các quốc gia khác nói
chung là phải hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm thực hiện các cam kết của
mình. Vì vậy đề tài của nhóm em là tìm hiểu về việc Hoàn thiện hệ thống
pháp luật để thực hiện các cam kết về thương mại hàng hoá của Việt
nam trong khuôn khổ WTO.


NỘI DUNG
• Các cam kết về thương mại hàng hoá của Việt Nam trong khuôn
khổ WTO
• Cam kết chung về mở cửa thị trường hàng hoá
Thương mại hàng hoá (tiếng Anh là Trade in goods) là việc trao đổi,
mua bán, cung ứng, kinh doanh hàng hoá và xúc tiến thương mại nhằm mục
đích sinh lợi. Để dễ hiểu hơn, người ta thường định nghĩa thương mại hàng
hoá bằng việc phân biệt thương mại hàng hoá với thương mại dịch vụ. Nếu
như đối tượng mua bán trong thương mại hàng hoá là hàng hoá - tức là các


sản phẩm hữu hình thì trong thương mại dịch vụ, đối tượng mua bán lại là
dịch vụ - tức là các sản phẩm vô hình. Nhìn chung, Việt Nam thực hiện theo
hai loại cam kết chính về thương mại hàng hoá khi gia nhập WTO đó là thực
hiện các cam kết về mức thuế quan bình quân và các cam kết thực hiện tự do
hoá theo ngành.
• Đối với các cam kết về mức thuế quan bình quân (được thể hiện
trong Biểu cam kết về Hàng hoá của Việt nam) có thể rút ra một số nét lớn
như sau: Việt Nam sẽ giảm mức thuế bình quân từ mức hiện hành 17,4%
xuống còn 13,4%, thực hiện dần trong vòng 5-7 năm. Theo đó, Việt Nam sẽ
cắt giảm thuế với khoảng 3.800 dòng thuế (chiếm 35,5% số dòng của Biểu
thuế); ràng buộc ở mức thuế hiện hành với khoảng 3.700 dòng (chiếm 34,5%
số dòng của Biểu thuế); ràng buộc theo mức thuế trần – cao hơn mức thuế
suất hiện hành với 3.170 dòng thuế (chiếm 30% số dòng của Biểu thuế), chủ
yếu là đối với các nhóm hàng như xăng dầu, kim loại, hoá chất, một số
phương tiện vận tải. Tuy nhiên, một số mặt hàng đang có thuế suất cao từ
30% trở lên sẽ được cắt giảm thuế ngay khi gia nhập. Những nhóm mặt hàng
có cam kết cắt giảm thuế nhiều nhất bao gồm: dệt may, cá và sản phẩm cá,
gỗ và giấy, hàng chế tạo khác, máy móc thiết bị điện-điện tử. Đồng thời,
Việt Nam sẽ được áp dụng cơ chế hạn ngạch thuế quan đối với 4 mặt hàng
gồm: trứng, đường, thuốc lá lá, muối. Đối với 4 mặt hàng này, mức thuế
trong hạn ngạch là tương đương mức thuế MFN hiện hành (trứng: 40%,
đường thô: 25%, đường tinh: 50-60%, thuốc lá lá: 30%, muối ăn: 30%), thấp
hơn nhiều so với mức thuế ngoài hạn ngạch.
• Như tất cả các nước mới gia nhập khác, Việt Nam cũng cam kết
tham gia vào một số Hiệp định tự do hoá theo ngành. Để thực hiện các hiện
định này, Việt Nam đã có những cam kết thực hiện tự do hoá theo ngành,
tựu chung lại có những điểm nổi bật sau đây:
Những ngành mà Việt Nam cam kết tham gia đầy đủ là sản phẩm công
nghệ thông tin (ITA), dệt may và thiết bị y tế. Những ngành mà Việt Nam



tham gia một phần là thiết bị máy bay, hoá chất và thiết bị xây dựng. Thời
gian để thực hiện cam kết giảm thuế là từ 3-5 năm. Trong các Hiệp định
trên, tham gia ITA là quan trọng nhất, theo đó khoảng 330 dòng thuế thuộc
diện công nghệ thông tin sẽ phải có thuế suất 0% sau 3-5 năm, tối đa là sau 7
năm. Việc tham gia Hiệp định dệt may cũng dẫn đến giảm thuế đáng kể đối
với các mặt hàng này: vải từ 40% xuống 12%, quần áo từ 50% xuống 20%,
sợi từ 20% xuống 5%.
Việt Nam chỉ cam kết giảm thuế xuất khẩu với hai mặt hàng là phế liệu
kim loại đen và phế liệu kim loại màu ( theo yêu cầu của một số nước thành
viên như Mỹ, Úc, Canada, EU,…). Cam kết của Việt Nam hiện nay là sẽ
giảm thuế xuất khẩu đối với phế liệu kim loại đen từ 35% xuống 17% trong
5 năm; giảm thuế phế liệu kim loại màu từ 45% xuống 22% trong 5 năm.
Đối với thuế nội địa, Việt Nam cam kết trong vòng 3 năm kể từ ngày gia
nhập WTO, tất cả các loại rượu được chưng cất có nồng độ từ 20 độ cồn trở
lên sẽ chịu một mức thuế tuyệt đối tính theo lít của rượu cồn nguyên chất
hoặc một mức thuế phần trăm. Đối với bia, trong vòng 3 năm kể từ khi gia
nhập WTO sẽ áp dụng một mức thuế suất phần trăm chung đối với bia,
không phân biệt hình thức đóng gói, bao bì.
• Cam kết mở cửa thị trường nông sản
Cam kết WTO về nông nghiệp rất rộng. Ngoài các nguyên tắc chung mà
tất cả các ngành kinh tế phải thực hiện như Quy chế tối huệ quốc (MFN),
Quy chế đối xử quốc gia (NT), Tính minh bạch thì các cam kết trong lĩnh
vực nông nghiệp bao gồm: Mở cửa thị trường hàng hoá (cam kết thuế và loại
bỏ hàng rào phi thuế); Chính sách nông nghiệp (hỗ trợ trong nước và trợ cấp
xuất khẩu); Cam kết trong lĩnh vực kiểm dịch động thực vật và vệ sinh an
toàn thực phẩm (Hiệp định SPS); Bảo hộ giống cây trồng mới.
+ Cam kết về thuế quan: Mức cam kết cắt giảm là 10,6% so với mức
thuế MFN hiện hành (nếu tính theo mức thuế ngoài hạn ngạch của các mặt
hàng áp dụng hạn ngạch thuế quan (TRQ), giảm 20% thuế nông sản so với

mức MFN hiện hành (từ 23,5 % xuống còn xấp xỉ 20% nếu tính theo mức
thuế trong hạn ngạch). Nếu không tính đồ uống, rượu bia và thuốc lá thì mức
cam kết giảm thuế nông sản giảm 18,2 % so với mức thuế MFN hiện hành
(từ 22% xuống 18%). Mức độ giảm có sự khác nhau giữa các sản phẩm hoặc
nhóm sản phẩm nhưng tổng quát chung là các sản phẩm chế biến hiện có
mức thuế cao 40-50% thì bị yêu cầu giảm nhiều hơn so với nông sản thô.
Những nhóm hàng cụ thể phải giảm nhiều hơn là thịt, sữa, rau quả chế biến,
thực phẩm chế biến, quả ôn đới (táo, nho, đào, lê, kiwi…) và quả có múi
(cam, quýt). Các mặt hàng nông sản thô mà ta có khả năng xuất khẩu lớn
như gạo, cà phê, cao su, hạt tiêu, hạt điều, v.v không giảm hoặc giảm rất ít.
Thời gian cắt giảm từ 3-5 năm, tức là sẽ bắt đầu giảm từ năm 2007 và hoàn


thành cắt giảm vào các năm 2009 – 2012 tuỳ theo sản phẩm, với mức giảm
bằng nhau cho mỗi năm.
+ Cam kết về hàng rào phi thuế: Những hàng rào phi thuế, nhất là các
hạn chế định lượng nhập khẩu sẽ bị loại bỏ, trừ các biện pháp dưới đây: Hạn
ngạch thuế quan (TRQ) được áp dụng cho 4 mặt hàng là trứng gia cầm,
đường ăn, lá thuốc lá và muối; Quyền tự vệ đặc biệt (SSG), theo đó nước ta
không được quyền áp dụng SSG cho mặt hàng nông sản nào vì đây là biện
pháp quá độ hầu như chỉ dành cho các nước thành viên WTO trong vòng
Urugoay. Trong trường hợp khẩn cấp, nước ta chỉ được quyền áp dụng biện
pháp tự vệ; Quản lý xuất nhập khẩu các mặt hàng thuộc diện chuyên ngành
chuyên ngành nông nghiệp (giống cây trồng, giống vật nuôi, thuốc thú ý,
thuốc bảo vệ thực vật, phân bón, động thực vật hoang dã, quý hiếm, gỗ) như
hiện nay là phù hợp, không phải điều chỉnh.
+ Chính sách nông nghiệp: Bao gồm chính sách hỗ trợ trong nước và
chính sách trợ cấp xuất khẩu. Chính sách hỗ trợ trong nước của ta hầu hết
nằm trong các nhóm chính sách “Hộp xanh” và “Chương trình phát triển”.
Nhóm chính sách “Hộp hổ phách” ở dưới mức tối thiểu. Do vậy, ta cam kết

là sẽ thực hiện theo đúng quy định của WTO, nghĩa là được tự do áp dụng
các chính sách trong nhóm “Hộp xanh”, “Chương trình phát triển”; Đối với
nhóm “Hộp hổ phách”, sẽ sử dụng ở mức tối thiểu (10% giá trị sản lượng
nông nghiệp), ngoài ra, còn thêm 4.000 tỷ đồng trong tổng mức hỗ trợ tính
gộp (AMS). Đối với chính sách trợ cấp xuất khẩu, nước ta đã cam kết bỏ trợ
cấp xuất khẩu ngay khi gia nhập WTO; Bảo lưu được quyền áp dụng điều
khoản đối xử đặc biệt và khác biệt (S & D) dành cho các nước đang phát
triển trong lĩnh vực này, nghĩa là là được phép áp dụng 2 loại trợ cấp nêu
trên.
+ Hiệp định vệ sinh kiểm dịch động, thực vật (SPS): Nước ta cam kết
sẽ thực hiện quyền lợi và nghĩa vụ của Hiệp định này ngay khi gia nhập. Với
tư cách là nước đang phát triển, ta yêu cầu hỗ trợ kỹ thuật để thực thi Hiệp
định.
+ Hiệp định về trị giá hải quan (CVA): Ta cam kết tuân thủ Hiệp định
CVA của WTO ngay từ khi gia nhập.
+ Hiệp định về các hàng rào kỹ thuật đối với thương mại (TBT): Ta
cam kết tuân thủ đầy đủ các quy định của Hiệp định TBT ngay từ khi gia
nhập.
• Cam kết mở cửa thị trường phi nông sản
• Các cam kết chung trong lĩnh vực công nghiệp
+ Cam kết về thuế nhập khẩu: Mức cam kết bình quân vào thời điểm
gia nhập là 16,1% và mức cắt giảm cuối cùng sẽ là 12,6%. So sánh với mức
thuế MFN bình quân của hàng công nghiệp hiện nay là 16,6% thì mức cắt


giảm đi sẽ là 23,9%. Các mức cắt giảm này có thể so sánh tương ứng với các
mức cắt giảm trung bình của các nước đang phát triển và đã phát triển trong
vòng đàm phán Uruguay (1994) như sau: trong lĩnh vực công nghiệp các
nước đang phát triển và đã phát triển cam kết cắt giảm là 24% và 37%;
Trung Quốc trong đàm phán gia nhập của mình cam kết cắt giảm khoảng

45% thuế nhập khẩu (từ 17,5% xuống 10%).
+ Cam kết về trợ cấp: Tương tự các sản phẩm nông sản, đối với sản
phẩm phi nông sản, có 3 nhóm trợ cấp: Nhóm hộp đỏ là trợ cấp cấm được áp
dụng (gồm trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp thay thế nhập khẩu). Nhóm hộp
vàng là trợ cấp riêng biệt cho một ngành, gây bóp méo thương mại, không bị
cấm áp dụng nhưng có thể bị “trả đũa”. Nhóm hộp xanh là trợ cấp được coi
là ít gây bóp méo thương mại. Tuy nhiên, WTO cũng có những ngoại lệ
dành cho các nước đang và kém phát triển. Việt Nam cam kết bãi bỏ hoàn
toàn các loại trợ cấp bị cấm theo qui định của WTO (trợ cấp gắn với thành
tích xuất khẩu và trợ cấp gắn với tỷ lệ nội địa hoá). Tuy nhiên, với các ưu
đãi đầu tư dành cho sản xuất hàng xuất khẩu đã cấp trước ngày gia nhập
WTO, Việt Nam bảo lưu được thời gian quá độ là 5 năm (trừ ngành dệt
may).
• Các cam kết đối với một số ngành công nghiệp cụ thể
+ Cam kết gia nhập WTO của Việt Nam về ngành giấy: Đối với ngành
giấy, gia nhập WTO, Việt Nam cam kết cắt giảm hoặc ràng buộc ở mức thuế
suất hiện hành của khoảng 230 dòng thuế liên quan đến mặt hàng bột giấy và
các sản phẩm giấy. Cụ thể : Cam kết cắt giảm thuế với khoảng 110 dòng
thuế liên quan đến sản phẩm giấy; Ràng buộc ở mức thuế suất trần và không
tăng thuế so với mức hiện hành đối với khoảng 120 dòng.
+ Cam kết gia nhập WTO của Việt Nam về ngành dệt may: Vì không
có lộ trình cho việc cắt giảm thuế đối với hàng dệt may nên Việt Nam phải
cắt giảm thuế xuống mức cuối cùng ngay khi Việt Nam gia nhập WTO
(ngày 11/1/2007) trong khi lộ trình cắt giảm thuế đối với các hàng hóa khác
thường là từ 5-7 năm; do đó ngành dệt may sẽ không có thời gian chuẩn bị
mà phải lập tức cạnh tranh ngay với hàng nhập khẩu được cắt giảm thuế
quan kể từ 11/1/2007. Đồng thời, dệt may cũng là mặt hàng có mức cắt giảm
thuế nhập khẩu cao nhất, trong đó nhóm hàng giảm thuế nhiều nhất là xơ,
sợi, vải, quần áo, đồ may sẵn.
+ Cam kết cắt giảm thuế nhập khẩu đối với ngành điện tử: Thiết bị

điện, điện tử là một trong số các nhóm mặt hàng có cam kết cắt giảm thuế
nhiều nhất trong Biểu cam kết về thuế quan của Việt Nam trong khuôn khổ
WTO.
+ Cam kết thuế quan đối với ngành ôtô: Đối với ô tô thì mức thuế suất
theo cam kết WTO sẽ được giảm dần xuống mức 70%, 52% và 47% trong


khoảng thời gian từ 7 đến 12 năm và nhà nước có thể chủ động điều hành
trong phạm vi cho phép. Đối với thiết bị vận tải từ mức thuế suất trung bình
giảm từ 46,9% tại thời điểm gia nhập xuống còn 37,4% vào thời điểm kết
thúc việc thực hiện các cam kết này.
+ Cam kết về thuế quan trong ngành thép: Việt Nam đã đồng ý cam kết
cắt giảm và ràng buộc ở mức thuế suất hiện hành của hơn 700 dòng thuế liên
quan đến mặt hàng sắt thép và các sản phẩm từ sắt thép nhập khẩu từ tất cả
các nước thành viên WTO. Mức cắt giảm về thuế nhập khẩu đối với ngành
thép trong khuôn khổ WTO về cơ bản ngang bằng với mức cắt giảm bình
quân chung của toàn bộ Biểu thuế. Mức thuế suất trần cho thép xây dựng và
phôi thép theo các cam kết trong WTO đều ở mức cao hơn mức thuế suất
thực tế đang áp dụng.
• Hoàn thiện hệ thống pháp luật để thực hiện các cam kết về
thương mại hàng hoá của Việt Nam trong khuôn khổ WTO
• Hoàn thiện Luật thương mại Việt Nam 2005
Luật thương mại 2005 ra đời đã có nhiều quy định mới và sửa đổi để đáp
ứng được yêu cầu gia nhập WTO của Việt Nam, tuy nhiên vẫn còn những
điểm vướng mắc cần phải được hoàn thiện để thực hiện các cam kết về
thương mại hàng hoá của Việt Nam trong khuôn khổ WTO.
Thứ nhất, sự khác biệt giữa các quy định có tính công pháp của Luật
Thương mại Việt Nam với các chế định của WTO nói chung và chế định
thương mại hàng hoá nói riêng tập trung chủ yếu ở chương I (Những quy
định chung). Điểm thiếu sót lớn của Luật thương mại 2005 là chưa thể hiện

một cách đầy đủ và rõ ràng các nguyên tắc cơ bản của WTO và hệ thống
thương mại toàn cầu, đặc biệt là nguyên tắc không phân biệt đối xử trong
thương mại quốc tế thông qua quy chế MFN, NT; nguyên tắc thương mại
ngày càng tự do hơn thông qua đàm phán; tạo dựng một nền tảng ổn định
cho thương mại; tăng cường cạnh tranh công bằng; và tạo thuận lợi hơn cho
các nước kém phát triển về mặt kinh tế. Trong thực tiễn lập pháp và hành
pháp của nước ta thời gian qua đã có nhiều cố gắng để xử lý vấn đề này. Tuy
nhiên, mức độ xử lý cũng còn hạn chế, chưa đáp ứng được các yêu cầu
chung của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Do đó, Luật thương mại 2005
thời gian tới cần phải sửa đổi theo hướng quy định rõ ràng các nguyên tắc cơ
bản mà WTO đề cập.
Thứ hai, một số vấn đề được quy định trong Luật thương mại 2005 của
Việt Nam còn chưa thể hiện được sự tương thích với những cam kết của
Việt Nam với WTO. Ví dụ như về đối tượng thực hiện hoạt động gia công
thương mại, Điều 178 Luật Thương mại đưa ra định nghĩa gia công là hoạt
động thương mại giữa “ bên đặt gia công” và “ bên nhận gia công”, ngoài ra


không có bất kỳ quy định rõ ràng nào về đối tượng đặt, nhận gia công là:
doanh nghiệp có vốn trong nước, doanh nghiệp liên doanh hay doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài. Theo Biểu cam kết WTO của Việt Nam, hoạt
động gia công tại Điều 178 được liệt kê vào hoạt động “Dịch vụ liên quan
đến sản xuất” (CPC 884 và 885) với cam kết về hiện diện thương mại như
sau: sau 3 năm kể từ ngày gia nhập, chỉ cho phép thành lập liên doanh trong
đó tỷ lệ vốn góp của phía nước ngoài không được vượt quá 50%. 5 năm sau
đó: cho phép thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Do quy định
không rõ ràng nêu trên, nên việc một doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài thực hiện hoạt động “đặt gia công” với một bên là doanh nghiệp cung
ứng dịch vụ gia công vẫn được xem là vi phạm WTO và bị từ chối cấp phép
bởi cơ quan có thẩm quyền. Do đó, cần bổ sung định nghĩa rõ ràng hơn về

bên nhận gia công – bên đặt gia công để phù hợp với biểu cam kết WTO của
Việt Nam.
Hoặc là vấn đề về dịch vụ cấm kinh doanh, dịch vụ hạn chế kinh doanh
và dịch vụ kinh doanh có điều kiện được quy định tại Điều 76 Luật thương
mại 2005 và được quy định hướng dẫn cụ thể trong Nghị định 59/2006/NĐCP ngày 12/6/2006, được sửa đổi bởi nghị định 43/2009/NĐ-CP ngày 7/5/
2009. Liên quan đến vấn đề quyền nhập khẩu thuốc của thương nhân nước
ngoài có thể dẫn đến vi phạm các cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO,
tồn tại nhiều quy định hạn chế việc tiếp cận thị trường của doanh nghiệp
kinh doanh bảo hiểm nước ngoài có thể dẫn đến vi phạm các quy định của
GATS liên quan đến nguyên tắc đối xử quốc gia...Do đó cần quy định chi
tiết và thống nhất các yêu cầu và ràng buộc đối với thương nhân nước ngoài,
đặc biệt tôn trọng tuyệt đối các cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO
trong vấn đề về dịch vụ cấm kinh doanh, dịch vụ hạn chế kinh doanh và dịch
vụ kinh doanh có điều kiện của pháp luật thương mại.
• Hoàn thiện quy định về đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia
• Về Đối xử Tối huệ quốc (MFN): Theo quy định trong Điều I – Hiệp
định GATT 1994 của WTO, Nguyên tắc đối xử Đãi ngộ Tối huệ quốc yêu
cầu các bên ký kết phải dành ngay lập tức và vô điều kiện mọi sự đãi ngộ đối
với các khoản thuế, phương thức thanh toán, mọi luật lệ, thủ tục, mọi lợi thế,
biệt đãi, đặc quyền hay quyền miễn trừ dành cho sản phẩn có xuất xứ hay
đươc giao tới bất kỳ một nước nào khác sẽ phải dành cho sản phẩm tương tự
có xuất xứ hoặc giao tới mọi bên ký kết khác. Tại Việt Nam, nguyên tắc Đãi
ngộ Tối huệ quốc được quy định trong các văn bản pháp luật hiện hành như:
Luật Thương mại 2005; Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 2005; Luật
Hải quan 2001; Pháp lệnh MFN và NT 2002; và một số văn bản khác.
• Về Đối xử quốc gia (NT): Điều III GATT 1994 của WTO quy định
dành cho hàng nhập khẩu từ lãnh thổ của một bên sự đãi ngộ không kém


thuận lợi hơn so với hàng hóa tương tự trong nước liên quan đến các khoản

thuế, khoản thu nội địa hay bất kỳ các quy định pháp luật nào khác. Trong
khi đó, vấn đề NT của Việt Nam được điều chỉnh trong các văn bản như:
Pháp lệnh MFN và NT 2002; Luật thương mại 2005; Luật Thuế tiêu thụ đặc
biệt 2008; Luật Thuế giá trị gia tăng 2008.
Việc ban hành Pháp lệnh về Đãi ngộ Tối huệ quốc (MFN) và đối xử
quốc gia (NT) trong thương mại quốc tế 2002 của Việt Nam đã tạo môi
trường pháp lý thuận lợi cho các doanh nghiệp nước ngoài, đồng thời thích
ứng với các quy định không phân biệt đối xử của WTO. Về mặt hình thức,
Pháp lệnh MFN và NT đã quy định thủ tục pháp lý cho việc thực hiện cam
kết về MFN và WTO. Tuy nhiên về mặt nội dung cần đối chiếu xem xét
thêm các quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật khác của Việt Nam vì
đôi khi vẫn còn chưa hoàn toàn phù hợp. Tuy đã có quy định về chế độ Đãi
ngộ Tối huệ quốc trong Pháp lệnh về MFN và NT, song quy định này còn rất
chung chung. Các quy định khác trong các văn bản liên quan đến xuất nhập
khẩu hàng hóa nhìn chung không có sự phân biệt đối xử giữa hàng hóa của
các nước nhập khẩu vào Việt Nam. Do đó, trong thời gian tới cần sửa đổi, rà
soát và kiểm tra lại các quy định của Pháp lệnh MFN và NT so với các quy
định pháp luật khác. Đồng thời, chúng ta cần tiến hành xây dựng Luật về
MFN và NT để cụ thể hoá hơn nữa pháp lệnh MFN và NT.
• Hoàn thiện các quy định về thuế quan
Việt nam đã ban hành Luật thuế xuất, nhập khẩu 2005 và Luật quản lý
thuế 2006 (sửa đổi, bổ sung 20/11/2012) sửa đổi nhiều quy định cho phù
hợp với yêu cầu gia nhập WTO. Tuy nhiên, trong thực tiễn áp dụng, chúng
ta vẫn cần phải tiếp tục hoàn thiện theo hướng sau:
• Về giá tính thuế: Việt Nam triển khai áp dụng xác định giá tính thuế
nhập khẩu theo hiệp đinh Hải quan GATT từ 1/1/2004. Khi áp dụng giá tính
thuế theo hiệp định GATT thì gian lận qua giá sẽ trở nên phổ biến, nhất là
trong điều kiện quan hệ thương mại quốc tế mở rộng. Nguồn thông tin chủ
yếu được cơ quan Hải quan sử dụng trong việc kiểm tra đối chiếu là từ giá
chào hàng trên internet, giá thị trường, hệ thống thông tin về dữ liệu giá

trong nội bộ ngành Hải quan. Tuy nhiên, việc xây dựng ngân hàng dữ liệu về
giá của hàng hoá nhập khẩu của ngành Hải Quan chưa đáp ứng yêu cầu đặt
ra, dữ liệu về giá còn sơ sài, chưa cập nhật kịp thời nên gây trở ngại cho
công tác tham vấn về giá. Do đó, trong thời gian tới chúng ta phải xây dựng
và hoàn thiện ngân hàng giữ liệu về giá của ngành hải quan.
Ngoài ra, mặc dù trong cam kết không yêu cầu về thuế xuất khẩu, tuy
nhiên chúng ta vẫn cần quan tâm đến thuế này để đảm bảo sự phát triển và
cạnh tranh của hàng hóa trong nước. Thuế xuất khẩu chỉ nên áp dụng đối với
những sản phẩm thô, tài nguyên khoáng sản phục vụ chế biến sản phẩm


công nghiệp trong nước nhằm hạn chế xuất khẩu sản phẩm thô, làm cạn kiệt
nguồn tài nguyên quốc gia.
• Về danh mục biểu thuế:
+ Bước sang năm 2012, Bộ Tài chính cũng đã ban hành các Biểu thuế
xuất nhập khẩu ưu đãi và ưu đãi đặc biệt theo phiên bản HS 2012 và Danh
mục thuế quan hài hoà ASEAN 2012 (AHTN) để thực hiện theo các cam kết
đã tham gia và lộ trình cắt giảm thuế theo cam kết WTO và chi tiết ở cấp 8
chữ số. Tuy nhiên biểu thuế nhập khẩu hiện hành đã không theo kịp sự đa
dạng về hang hoá trong hoạt động xuất nhập khẩu, mã số giữa biểu thuế
nhập khẩu so với mã số theo danh mục HS ngày càng bộc lộ nhiều điểm
chưa thống nhất. Chỉ một sản phẩm nhưng có thể các cơ quan chức năng lại
xác định khác nhau. Để hạn chế tình trạng cùng một loại hang hoá nhập
khẩu nhưng lại có nhiều cách áp mã khác nhau thì biểu thuế nhập khẩu cần
được cập nhật bổ sung chi tiết, cụ thể phù hợp với danh mục HS trong điều
kiện hàng hoá nhập khẩu ngày càng nhiều.
• Về kê khai nộp thuế: Theo quy định hiện hành, để khuyển khích
nhập khẩu máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu… phục vụ cho sản xuất xuất
khẩu thì quy định hiện hành cho phép một số trường hợp đơn vị nhập khẩu
được nợ thuế nhập khẩu từ 30 đến 275 ngày. Tuy nhiên, một số doanh

nghiệp đã lợi dụng quy định này để nhập khẩu hàng hoá về tiêu thụ rồi bỏ
trốn, không thực hiện nghĩa vụ thuế của mình. Để khắc phục vấn đề này,
thời gian ân hạn nộp thuế nhập khẩu cần được sửa đổi theo hướng: đơn vị
nhập khẩu phải nộp thuế ngay trước khi hàng hoá được thông quan, nếu
trường hợp doanh nghiệp không thể nộp thuế Nhập khẩu ngay thì doanh
nghiệp có thể kỹ quỹ, thế chấp, cầm cố với ngân hàng để ngân hàng đứng ra
bảo lãnh cho doanh nghiệp về khoản tiền thuế Nhập khẩu phải nộp. Sau đó,
khi đến hạn nộp thuế nhập khẩu nếu doanh nghiệp không nộp thuế nhập
khẩu thì ngân hàng sẽ thay doanh nghiệp nộp tiền thuế nhập khẩu vào ngân
sách nhà nước theo thông báo của cơ quan hải quan mà không cần có sự
đồng ý của doanh nghiệp.
• Hoàn thiện những quy định về các biện pháp phi thuế quan
• Biện pháp cấm xuất khẩu, nhập khẩu
Quan điểm của WTO là việc cấm xuất khẩu, nhập khẩu phải bị loại bỏ
hoàn toàn, trừ một số trường hợp ngoại lệ. Việt Nam hiện nay đang áp dụng
quy định cấm xuất khẩu, nhập khẩu một số mặt hàng. Tuy nhiên, không phải
tất cả đều có thể biện minh được theo các trường hợp ngoại lệ của WTO.
Cụ thể, theo Nghị định số 12/2006/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành
Luật Thương mại về hoạt động mua bán hàng hoá quốc tế và các hoạt động
đại lý mua, bán, gia công và quá cảnh hàng hóa với nước ngoài thì những


mặt hàng cấm xuất khẩu, nhập khẩu của Việt Nam có thể biện minh theo
trường hợp ngoại lệ của WTO gồm: Vũ khí, đạn dược, vật liệu nổ, trang
thiết bị kỹ thuật quân sự (Lý do đảm bảo an ninh quốc gia theo Điều XXI –
GATT 1994); Di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia (Lý do bảo vệ di sản quốc gia
có giá trị nghệ thuật, lịch sử hay khảo cổ theo Điều XX.(f) – GATT 1994);
Các loại văn hoá phẩm thuộc diện cấm phổ biến và lưu hành tại Việt Nam (lý do
bảo vệ đạo đức xã hội theo Điều XX.(a) – GATT 1994); Hoá chất độc bảng I
được quy định trong Công ước cấm vũ khí hoá học (Lý do bảo vệ sức khoẻ

con người và an ninh quốc gia theo Điều XX.(a) và Điều XXI – GATT
1994); Pháo các loại (Lý dó bảo vệ sức khoẻ con người theo Điều XX.(b) –
GATT 1994); Phương tiện vận tải tay lái bên phải ( lý do bảo vệ sức khoẻ
con người theo Điều XX.(b) – GATT 1994). Theo cam kết gia nhập WTO,
Việt Nam đã cho nhập khẩu thuốc lá điếu; cho nhập khẩu xe máy trên 175cc
(sau 31/5/2007) nhưng bảo lưu quyền áp dụng các biện pháp hành chính như
độ tuổi người sử dụng và chế độ cấp bằng lái đặc biệt....Việt Nam cũng đã
cho nhập khẩu ô tô đã qua sử dụng trong thời gian dưới 5 năm nhưng bảo
lưu quyền áp dụng thuế nhập khẩu ở mức cao, chỉ cho làm thủ tục tại 4 cảng
biển, hải quan Việt Nam được xác định lại giá nhập khẩu và với những yêu
cầu khắt khe về an toàn và khí thải.
Ngoài những mặt hàng trên thì những mặt hàng còn lại theo quy định
của Nghị định 12/2006/NĐ-CP, và gần đây là thông tư số 04/2012/TT-BXD
của Bộ xây dựng hướng dẫn xuất khẩu khoáng sản làm vật liệu xây dựng
đều vi phạm các nguyên tắc của WTO. Ví dụ: các mặt hàng gỗ tròn, gỗ xẻ từ
gỗ rừng tự nhiên trong nước; Động vật, thực vật, thuỷ sản quý hiếm và giống
vật nuôi, cây trồng quý hiếm; Các loại máy móc chuyên dụng và các chương
trình phần mềm mật mã sử dụng trong phạm vi bảo vệ bí mật Nhà nước; 8
loại khoáng sản bị cấm xuất khẩu theo thông tư 04/2012/TT-BXD; hàng tiêu
dùng, vật liệu đã qua sử dụng,...
Có thể Việt Nam sẽ lập luận cấm nhập, xuất khẩu các mặt hàng này để
bảo hộ cho nền kinh tế còn non trẻ trong nước, tiết kiệm ngoại tệ nhưng
cũng cần nhìn nhận khách quan những hạn chế sau đây: Việc Việt Nam cấm
xuất khẩu các hoá chất độc hại có thể làm giảm lợi nhuận của các nhà sản
xuất hoá chất độc và vô hình chung hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong nước
sử dụng các loại hoá chất này; Cấm xuất khẩu các mặt hàng gỗ có thể
khuyến khích buôn lậu, làm suy giảm nghiêm trọng nguồn thu ngân sách;
Mặc dù Việt Nam có quy định là hàng hoá cấm nhập khẩu, nhưng lại cho
tạm nhập tái xuất và lưu lại trên lãnh thổ Việt Nam 195 ngày nên rất khó
quản lý lượng hàng hóa bị cấm nhập khẩu này, dẫn đến hiện tượng buôn lậu

đối với những hàng hóa có thuế xuất cao (Xăng dầu, thuốc lá, rượu mạnh...
nhóm hàng vi phạm công ước quốc tế như ngà voi, tê tê, ắc quy chì...).


Do đó, theo nhóm em cần thay đổi cơ bản những vấn đề sau:
+ Việc cấm nhập khẩu một số hàng tiêu dùng đã qua sử dụng thì nên
thay thế bằng các biện pháp khác. Tuỳ theo tính chất của từng loại hàng hoá
có thể chuyển sang danh mục hàng hoá nhập khẩu thuộc diện quản lý
chuyên ngành với các quy định về điều kiện kỹ thuật rất chặt chẽ ở mức độ
cao, chẳng hạn thay bằng các tiêu chuẩn kỹ thuật, các tiêu chuẩn về môi
trường... để hàng hoá đã qua sử dụng rất khó có thể xâm nhập được vào thị
trường Việt Nam mà không vi phạm các quy định của quốc tế. Trường hợp
tiếp tục để ở danh mục hàng cấm nhập khẩu thì cần nêu rõ mục đích cấm là
vì vấn đề môi trường, sức khoẻ hoặc vì những lý do rõ ràng khác mà WTO
cho phép.
+ Yêu cầu cấp thiết là chúng ta nên đưa ra các biện pháp quản lý hữu
hiệu hơn trong vấn đề tạm nhập tái xuất để hạn chế tình trạng buôn lậu.
• Về hạn ngạch
Điều XI GATT 1994 quy định “Không một nước thành viên nào được sử
dụng một biện pháp cấm hay hạn chế nào trừ thuế quan, dù mang hình thức hạn
ngạch, giấy phép nhập khẩu hay xuất khẩu hoặc các biện pháp khác nhằm vào
việc nhập khẩu từ bất kỳ một nước thành viên khác” Tuy vậy, WTO vẫn cho
phép được sử dụng hạn ngạch trong một số trường hợp ngoại lệ. Đối với vấn đề
hạn ngạch, Việt Nam cần sửa đổi những vấn đề sau đây:
• Hạn ngạch nhập khẩu: Hiện nay chúng ta đã bãi bỏ hoàn toàn hạn
ngạch nhập khẩu. Tuynhiên, trong một số trường hợp cá biệt (có sự đe doạ
đến chương trình an toàn lương thực quốc gia, cán cân thanh toán mất cân
đối nghiêm trọng, môi trường sinh thái bị ô nhiễm và xâm phạm…) thì
chúng ta vẫn có quyền áp dụng biện pháp này, vì đây là những trường hợp
nằm trong ngoại lệ mà WTO cho phép.

Do đó, về hạn ngạch nhập khẩu, có thể cải cách theo hướng: Chỉ sử dụng
trong các trường hợp ngoại lệ cho phép (ví dụ: mất mùa do hạn hán, lũ lụt,
dịch bệnh, hoặc cán cân thanh toán có sự đe doạ…); Công bố công khai mức
hạn ngạch và mức tăng trưởng. Đây là một tín hiệu rõ ràng để các doanh
nghiệp có thể chủ động hơn trong việc đưa ra các quyết định đầu tư cũng
như tạo ra áp lực cạnh tranh tăng dần với họ. Mặt khác, đây cũng là cách
thông tin mang tính minh bạch, rõ ràng thông báo cho các quốc gia có quan
hệ buôn bán với Việt Nam, tạo ra khả năng cạnh tranh công bằng.
• Hạn ngạch thuế quan: Đối với các sản phẩm nông nghiệp (Phụ lục
I, Hiệp định Nông nghiệp) có thể áp dụng một hình thức hạn ngạch đặc biệt
gọi là hạn ngạch thuế quan (TRQ). Hạn ngạch thuế quan có thể coi là một
biện pháp phi thuế quan khá hiện đại, bởi nó phù hợp với những quy định
của các tổ chức thương mại quốc tế, đồng thời lại bảo hộ một cách tích cực
nền kinh tế. Thông qua hạn ngạch thuế quan có thể hạn chế số lượng hàng


hóa nhập khẩu song vẫn đảm bảo cung cầu của thị trường trong nước. Tuy
nhiên không thể áp dụng biện pháp này với nhiều mặt hàng do phải đàm
phán với các nước thành viên khác để đạt được các thoả thuận về mức hạn
ngạch ban đầu, mức thuế trong và ngoài hạn ngạch... Việt Nam đã cắt giảm
thực hiện hạn ngạch thuế quan từ 7 mặt hàng xuống còn 4 mặt hàng. Hiện
Việt Nam vẫn được bảo lưu duy trì hạn ngạch thuế quan đối với 4 sản phẩm:
đường, trứng gia cầm, thuốc lá nguyên liệu, muối. Việt Nam chỉ nên duy trì
hạn ngạch thuế quan trong chừng mực này, để có thể làm vừa lòng được các
đối tác khi Việt Nam hội nhập WTO.
• Về cấp phép nhập khẩu
Theo Điều 1 khoản 1 Hiệp định về thủ tục cấp phép nhập khẩu (hiệp
định ILP) thì cấp phép nhập khẩu là các thủ tục hành chính được sử dụng để
thực hiện chế độ cấp phép nhập khẩu, đòi hỏi đệ trình đơn hay các tài liệu
khác (không liên quan tới mục đích hải quan) tới các cơ quan hành chính

thích hợp là điều kiện tiên quyết để được phép nhập khẩu. Thủ tục cấp phép
nhập khẩu của mỗi loại mặt hàng được ghi nhận trong các văn bản riêng (Ví
dụ: Thủ tục cấp phép nhập khẩu xuất bản phẩm không kinh doanh được quy
định tại Luật Xuất bản 2004; Nghị định số 11/2009/NĐ-CP ngày 10/02/2009
của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung Nghị định số 111/2005/NĐ-CP ngày
26/8/2005 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số
điều của Luật Xuất bản). Trước đây, Việt Nam vẫn còn áp dụng chế độ cấp
giấy phép nhập khẩu tự động (theo thông tư số 24/2010/TT-BCT ngày
28/5/2010 của Bộ Công Thương) tuy nhiên chế độ này đã bị bãi bỏ theo
thông tư số 27/2012/TT-BCT ngày 26/9/2012 của Bộ Công thương. Đây là
điểm hợp lí việc chờ thủ tục cấp giấy phép nhập khẩu tự động đã gây khó
khăn hơn cho doanh nghiệp, làm ách tắc hoạt động xuất nhập khẩu.
Tuy nhiên, chúng ta vẫn phải tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về
cấp phép nhập khẩu. Hiện nay, danh mục hàng hoá thuộc diện quản lý của
Bộ Thương mại (Ban hành kèm theo Nghị định số 12/2006/NĐ-CPngày
23 tháng 01 năm 2006 của Chính phủ) và các cơ quan chuyên ngành còn khá
dài. Cần đổi mới biện pháp quản lý đối với hàng hoá thuộc diện quản lý
chuyên ngành bằng giấy phép nhập khẩu sang quản lý theo các quy định tiêu
chuẩn kỹ thuật về môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm và các tiêu chuẩn
kỹ thuật chuyên ngành khác, đặc biệt, cần chú trọng đến các quy định về quy
trình và phương pháp sản xuất, các biện pháp kiểm dịch động thực vật và
các tiêu chuẩn, quy định đối với sản phẩm; nhãn mác sinh thái, chứng chỉ về
xuất xứ sản phẩm.
• Về hàng rào kỹ thuật trong thương mại
Hiệp định về hàng rào kĩ thuật trong thương mại (Hiệp định TBT) của
WTO gồm 15 Điều và 3 Phụ lục, xoay quanh các quy định về tiêu chuẩn kỹ


thuật và sự phù hợp với các quy định và tiêu chuẩn đó. Điều 2 Hiệp định
TBT quy định về việc chuẩn bị, thông qua và áp dụng các quy định về kỹ

thuật của các cơ quan chính quyền Trung ương, ghi nhận nguyên tắc đối xử
quốc gia về mặt tiêu chuẩn như sau “Đối với các quy định về kỹ thuật, các
sản phẩm nhập khẩu từ lãnh thổ của bất cứ thành viên nào đều được đối xử
không kém phần ưu đãi hơn so với hàng hoá tương tự được sản xuất trong
nước của nước thành viên đó và hàng hoá tương tự có xuất xứ từ bất cứ
nước nào khác”. Điều 2 Hiệp định TBT còn quy định về việc áp dụng một
phần hoặc toàn bộ các tiêu chuẩn quốc tế đã tồn tại hoặc sắp được ban hành
làm cơ sở cho việc ban hành các quy định kỹ thuật của quốc gia trừ trường
hợp các tiêu chuẩn này không hiệu quả hoặc không phù hợp (như về địa lý
hay công nghệ chẳng hạn).
Hiện nay, Việt Nam đã ban hành Luật chất lượng sản phẩm hàng hoá
2007, pháp lệnh MFN và NT trong thương mại quốc tế 2002 đảm bảo cơ bản
các yêu cầu của Hiệp định TBT. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam vẫn còn
chưa có quy định tương ứng với một số quy định của Điều 2 Hiệp định TBT.
Đồng thời, các nội dung khác trong Hiệp định TBT, Việt Nam hầu như chưa
có các văn bản điều chỉnh tương ứng hoặc có quy định trong Luật chất lượng
sản phẩm hàng hoá 2007 nhưng nội dung còn chưa đầy đủ. Do đó, Việt Nam
cần đưa các nội dung còn thiếu vào nghị định hướng dẫn thi hành Luật chất
lượng sản phẩm hàng hoá 2007.
• Về các biện pháp kiểm dịch động thực vật
Theo Điều 2 Hiệp định về áp dụng các biện pháp kiểm dịch động thực
vật (Hiệp định SPS) quy định quyền và nghĩa vụ cơ bản thì bất kỳ biện pháp
kiểm dịch động thực vật và vệ sinh an toàn thực phẩm bào cũng chỉ được áp
dụng ở mức độ cần thiết để bảo vệ cuộc sống và sức khoẻ con người, động
vật và thực vật và dựa trên các nguyên tắc Tối huệ quốc và tuân thủ các điều
khoản liên quan của Hiệp định này và quy định của Điều XX (b) GATT
1994. Theo đó, Việt Nam sẽ lấy các tiêu chuẩn, hưởng dẫn và khuyến nghị
quốc tế, nếu có, làm cơ sở cho các biện pháp kiểm dịch động thực vật và vệ
sinh an toàn thực phẩm.
Hiện nay, Việt Nam mới chỉ ban hành pháp lệnh thú y, pháp lệnh Bảo vệ

và kiểm dịch thực vật và vẫn trong giai đoạn xây dựng dự thảo Luật, duy chỉ
có Luật vệ sinh an toàn thực phẩm 2010 được ban hành thay thế cho Pháp
lệnh vệ sinh an toàn thực phẩm. Có thể thấy rằng, các văn bản pháp luật này
vẫn chưa phản ánh được đầy đủ nội dung các quy định trong Hiệp định SPS
(ví dụ: định nghĩa liên quan đến biện pháp vệ sinh động vật, hài hoà, các tiêu
chuẩn, hướng dẫn và khuyến nghị quốc tế, đánh giá nguye cơ, mức bảo vệ
động vật, thực vật phù hợp,...như trong Điều 3 Hiệp định SPS; chưa có quy
định về tính tương đương, đánh giá rủi ro và xác dịnh mức độ bảo vệ động


thực vật; thích ứng với các điều kiện khu vực như trong các Điều 4,5,6 Hiệp
định SPS).
Do đó, trong thời gian tới, Việt Nam cần đẩy nhanh tiến trình ban hành
Luật thú y, Luật bảo vệ và kiểm dịch thực vật, trong đó đảm bảo các nội
dung được ghi nhận trong Hiệp định SPS.


KẾT LUẬN
Như vậy qua tìm hiểu chúng ta thấy được việc hoàn thiện hệ thống pháp
luật của Việt Nam để thực hiện các cam kết về thương mại hàng hóa trong
khuôn khổ WTO là một vấn đề lớn, quan trọng và tốn nhiều công sức gồm:
Hoàn thiện Luật thương mại việt nam 2005; Hoàn thiện quy định về đối xử
tối huệ quốc và đối xử quốc gia; Hoàn thiện những quy định về các biện
pháp phi thuế quan; Hoàn thiện các quy định về thuế quan và hoàn thiện
những quy định về các lĩnh vực cụ thể khác. Tuy nhiên dưới sự lãnh đạo của
Đảng và nhà nước, chúng ta hoàn toàn tin tưởng rằng hệ thống pháp luật
nước ta càng ngày càng hoàn thiện hơn, đáp ứng nhu cầu thực hiện các cam
kết về thương mại hàng hóa trong khuôn khổ WTO nói riêng và hội nhập
sau rộng hơn nữa vào nền kinh tế thế giới nói chung.



PHỤ LỤC 1
Hoàn thiện hệ thống pháp luật về thương mại hàng hoá của Việt
Nam trong một số lĩnh vực cụ thể khác
• Về định giá hải quan
Về mặt hình thức và thủ tục, Việt Nam mới chỉ áp dụng Nghị định
60/2002/NĐ-CP về việc xác định trị giá hải quan (CVA) của WTO đối với
hàng hoá nhập khẩu theo nguyên tắc của Hiệp định trị giá hải quan (CVA)
của WTO. Có thể thấy những hạn chế cần sửa đổi nghị định 60/2002/NĐ-CP
như sau:
- Thứ nhất: Nghị định hạn chế việc áp dụng là chỉ với hàng hóa thuộc
chương trình CEPT. Do đó, cần huỷ bỏ quy định này và cho phép áp dụng
Nghị định đối với hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ từ các nước có cam kết
thực hiện
- Thứ hai: bãi bỏ việc chỉ áp dụng nghị định 60/2002/NĐ- CP đối với
điều kiện là hàng nhập khẩu theo hợp đồng thương mại vì Hiệp định CVA
của WTO không có quy định này và các quy định hợp đồng của Việt Nam
cũng gây phức tạp và khó khăn cho việc áp dụng nghị định
- Thứ ba: Sửa đổi khoản 4 Điều 7 cho phù hợp với điều 5.2 Hiệp định
CVA của WTO ở 2 điểm: sửa đổi để quy định việc áp dụng trị giá đối với
hàng nhập khẩu sau khi đã qua gia công hay chế biến nếu đáp ứng được 2
điều kiện là khi không có hàng hóa nhập khẩu giống hệt hoặc tương tự được
bán tại Việt Nam và khi người nhập khẩu yêu cầu; sửa đổi để có thể áp dụng
chú thích cho điều 5.2 Hiệp định CVA.
Ngoài ra, Việt Nam cũng nên áp dụng không chỉ mình phương pháp tính
thuế theo giá mà còn nên áp dụng thêm cả cách tính thuế theo lượng nhập
khẩu hoặc hỗn hợp cả hai đối với mặt hàng nhập khẩu thích hợp nhằm ổn
định thu cho ngân sách mà vẫn thỏa mãn quy định của WTO.
• Về giám định trước khi gửi hàng
Hoạt động giám đinh hàng hóa được quy định trong Luật Hải quan năm

2001, chương III về kiểm tra haỉ quan, Điều 25, Điều 27 và nghị định số
101/2001/NĐ – CP 31/12/2001 quy định chi tiết thi hành một số điều Luật
Hải quan về thủ tục hải quan, chế độ kiểm tra, giám sát hải quan đã phù hợp
và tương đông vói các quy định của WTO.
Tuy nhiên còn một số điều chưa quy định đầy đủ: thủ tục rà soát độc lập
quy định trong luật hải quan chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu như quy định tại
Điều 4 Hiệp định PSI, vì thế Việt Nam cần ban hành quy định cụ thể về vấn
đề trên. Mặt khác, Việt Nam nên được tư vấn dự thảo các quy định về giám
định trước khi gửi hàng phù hợp với các yêu cầu của WTO và cần ban hành


một chế độ pháp lí về quy tắc xuất xứ đa biên chứ không phải chỉ trong
khuôn khổ AFTA như hiện nay.
• Về quy tắc xuất xứ
Pháp luật Việt Nam mới chỉ dùng lại ở các văn bản pháp luật như: Nghị
định số 19/2006/NĐ-CP ngày 20/2/2006 quy định chi tiết Luật Thương mại
về xuất xứ hàng hoá và Nghị định số 89/2006/NĐ-CP ngày 30/8/2006 của
Chính phủ quy định về nhãn hàng hoá.
Rõ ràng, lĩnh vực kiểm tra xuất xứ của hàng hóa nhập khẩu ở nước ta
chưa được điều chỉnh đầy đử bởi các văn bản. Do đó, Việt nam cần xây
dựng nghị định quy định về việc xác định xuất Xứ của hàng hóa nhập khẩu
trên cơ sở không phân biệt đối xử trên tinh thần và nội dung phù hợp với
Hiệp định ROA và WTO
• Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại
TRIMs không phù hợp với WTO đã được Việt Nam xóa bỏ, là yêu cầu
tự đảm bảo cân đối ngoại tệ, ưu tiên chuyển nhượng vốn cho bên Việt Nam,
miễn giảm thuế khi chuyển nhượng vốn cho bên Việt Nam. Việt Nam gia
nhập WTO đem lại không ít thuận lợi cho nhà đầu tư nước ngoài. Cái lớn
nhất hiện nay có thể cảm nhận được là sự tác động của Việt Nam gia nhập
WTO đối với việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách đầu

tư của Việt Nam.
Trong Luật Đầu tư 2005 đã quy định Việt Nam xóa bỏ các rào cản
thương mại liên quan đến đầu tư, mà nội dung hầu hết liên quan đến các nội
dung trong Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại
(TRIMS) của WTO. Theo quy định này, các yêu cầu về xuất khẩu, tỷ lệ nội
địa hóa, chuyển giao công nghệ, yêu cầu về tỷ lệ vốn, cân đối ngoại tệ, cân
đối xuất nhập khẩu... đã bị loại bỏ. Cũng do gia nhập WTO nên các quy định
liên quan đến các trợ cấp, phân biệt các vùng miền xuất xứ của đầu tư cũng
đã được bãi bỏ. Các hạn chế đối với đầu tư nước ngoài (chẳng hạn như tỷ lệ
góp vốn, hình thức đầu tư) cũng chỉ áp dụng đối với một số lĩnh vực. Mặt
khác, để gia nhập WTO, Luật cũng đưa thêm vào các cơ chế giải quyết tranh
chấp để bảo đảm cho hoạt động đầu tư, kinh doanh của doanh nghiệp, nhất
là các biện pháp mà các nước hiện nay đang áp dụng (phần lớn là áp dụng
cho các sản phẩm của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam).
Tuy nhiên, bên cạnh các điểm tích cực thì từ thực tế thực hiện TRIMs ở
các nước đang phát triển, Việt Nam cần phải rút ra cho mình những bài học
quý giá. Trước hết chúng ta cần tạo lập một môi trường đầu tư đồng bộ và
tốt hơn, tích cực xây dựng năng lực, từ nguồn nhân lực đến cơ sở vật chất và
tài chính, nhằm đảm bảo năng lực đàm phán và thực thi hiệu quả những cam


kết kinh tế đa phương. Đồng thời, Việt Nam cũng cần tranh thủ tối đa những
lợi thế và cơ hội trong vai trò là thành viên chính thức của WTO, cũng như
đặt ra một lộ trình để thực hiện thành công những biện pháp cần thiết nhằm
tạo dựng cho mình một nội lực mạnh về kinh tế, đảm bảo đủ khả năng thực
hiện TRIMs một cách thành công.
• Các biện pháp chống bán phá giá
Pháp lệnh về thuế chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu 2004 đã ra đời
và đi vào thực tiễn. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề được đặt ra như: nhiều
chi tiết để bỏ ngỏ chờ hướng dẫn bởi các thông tư, nghị định, và do đó là cơ

sở tạo bất trắc; luật định của Việt Nam có tất cả những thiên lệch nghiêng về
phía bảo hộ của những điều khoản chống bán phá giá của WTO; và biện
pháp chống phá giá của Việt Nam có xu hướng không chỉ là một công cụ để
bảo vệ thị trường trong nước mà còn được coi là một công cụ để trả đũa các
hành động chống bán phá giá của nước ngoài được cho là bất hợp lý, gây hại
cho xuất khẩu của Việt Nam. Do đó, một yêu cầu cấp bách là Việt Nam phải
quản lý chặt việc sử dụng biện pháp chống bán phá giá ở thị trường trong
nước và thực hiện một số giải pháp sau: Không cho phép bảo hộ kép (ví dụ
bảo hộ bằng cả thuế trừng phạt và quota); Các biện pháp chống phá giá
không kéo dài quá 5 năm; Không cho phép sự lặp lại biện pháp chống phá
giá trong thời gian ngắn; Không cho phép hoặc hạn chế sự cộng dồn mức
nhập khẩu từ các nước khác nhau trong việc điều tra phá giá, trừ khi sản
phẩm này là do cùng một công ty hoặc chi nhánh của nó làm ra; Cấm việc
gạt bỏ mọi giao dịch liên quan đến xuất khẩu ra khỏi tính toán giá thành xuất
khẩu trong điều tra bán phá giá ở trong nước.
• Các biện pháp tự vệ trong thương mại
Quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam về tự vệ trong thương mại
được điều chỉnh bởi Pháp lệnh về tự vệ trong nhập khẩu hàng hoá nước
ngoài vào Việt Nam năm 2002 và nghị định số 150/2003/NĐ-CP quy định
chi tiết thi hành pháp lệnh này. Pháp lệnh được xây dựng và ban hành dựa
trên cơ sở nội dung các điều trong Hiệp định về các biện pháp tự vệ của
WTO (Hiệp định AS), do đó Pháp lệnh này hoàn toàn tương đồng với quy
định của WTO. Tuy nhiên, một số điều vẫn chưa được rõ ràng như khoản 2
Điều 3 về biện pháp hạn ngạch nhập khẩu, Khoản 2 Điều 22 chưa quy định
trường hợp được gia hạn áp dụng biện pháp tự vệ.
Do đó, trong thời gian tới, các nội dung này cần được sửa đổi, bổ sung
cho phù hợp.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

• Các văn bản pháp luật liên quan
• />• />• />• ThS. Nguyễn Thành Hưng, “Cần hoàn thiện chính sách thuế xuất
nhập khẩu”, nguồn
• Báo cáo nghiên cứu Dự án VIE/01/004 “Những khác biệt giữa Luật
thương mại Việt Nam với Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ và các
chế định của WTO” – TS. Hoàng Phước Hiệp (trưởng nhóm), Quyền vụ
trưởng Vụ pháp luật quốc tế và Hợp tác quốc tế, Bộ Tư pháp.
• Khoá luận tốt nghiệp đề tài “Hoàn thiện pháp luật về thương mại
hàng hoá của Việt Nam trước yêu cầu gia nhập tổ chức thương mại thế giới
(WTO)”, Sinh viên Hoàng Anh Tuấn, lớp Anh9-K38C-KTNT, tháng
12/2003.



×