Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Khái quát về thuế thu nhập cá nhân (TNCN), thu nhập chịu thuế của thuế TNCN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.84 KB, 17 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Xã hội và kinh tế ngày càng phát triển, các khoản thu nhập cá nhân (TNCN) cũng theo đó ngày càng
phong phú, tuy nhiên, thực tế không phải toàn bộ các khoản thu nhập đều là đối tượng điều chỉnh của thuế
thu nhập cá nhân (TNCN). Thuế thu nhập cá nhân chỉ điều chỉnh phần thu nhập chịu thuế. Thu nhập chịu
thuế trong thuế TNCN thường được xác định là phần thu nhập làm cơ sở đánh thuế thu nhập và được xác
định trên cơ sở phần thu nhập thực tế nhận được đã trừ một số khoản thu nhập và chi phí hợp lý. Tuy nhiên,
để có cái nhìn toàn diện hơn về vấn đề thu nhập chịu thuế trong thuế TNCN, nhóm chúng em xin được lựa
chọn đề tài “Phân tích và làm sáng tỏ quy định của pháp luật về thu nhập chịu thuế trong thuế thu nhập cá
nhân; những hạn chế, hướng khắc phục khi xác định thu nhập chịu thuế khi tuân thủ pháp luật thuế thu
nhập cá nhân.” làm đề tài cho bài tập nhóm lần thứ II, nhằm qua việc tìm hiểu, nghiên cứu các quy định của
pháp luật thuế TNCN, chúng em phần nào có thể nhận ra một số hạn chế để qua đó sẽ đề ra, kiến nghị một
số giải pháp khắc nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật
I. Khái quát về thuế thu nhập cá nhân (TNCN), thu nhập chịu thuế của thuế TNCN.
1.1 Khái niệm thuế thu nhập cá nhân
Bất kỳ một quốc gia nào có nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường cũng đều coi thuế TNCN là
một sắc thuế có tầm quan trọng lón trong việc huy động nguồn thu cho ngân sách nhà nước và thực hiện
công bằng xã hội. Ở Việt Nam, thuế TNCN dần được thực hiện theo thời gian. Từ 1991-trước 2009, để phù
hợp với tình hình thực tế, thuế TNCN ở Việt Nam được quy định dưới hình thức thuế thu nhập đối với người
có thu nhập cao. Từ 01/01/2009, Luật thuế TNCN chính thức có hiệu lực, đánh dấu bước phát triển quan
trọng của sắc thuế này. Theo đó khái niệm thuế TNCN ở Việt Nam cũng dần được bổ sung đầy đủ như sau:
“Thuế TNCN là khoản đóng góp bằng tiền mà cá nhân có đủ điều kiện theo luật định phải nộp cho
nhà nước theo nguyên tắc bắt buộc, không hoàn trả khi phát sinh thu nhập chịu thuế trong kỳ tính thuế”.
Qua đó, có thể thấy rằng thuế TNCN là một loại thuế trực thu vì nó đánh trực tiếp vào thu nhập của
cá nhân. Với loại thuế này, cá nhân khó có thể chuyển gánh nặng thuế sang cho chủ thể khác.
1.2. Khái niệm thu nhập chịu thuế.
Có thể hiểu thu nhập chịu thuế thu nhập cá nhân là các khoản thu nhập phát sinh từ kinh doanh, từ lao
động và từ các khoản thu nhập khác không từ kinh doanh của các cá nhân mà đây chính là cơ sở cho việc
đánh thuế thu nhập và được xác định trên cơ sở các khoản thu nhập nhận được sau khi đã trừ đi một số
khoản thu nhập và chi phí. Thu nhập chịu thuế có những đặc điểm chính như sau:
Thứ nhất, thu nhập chịu thuế luôn luôn gắn với một chủ thể nhất định trong nền kinh tế -thể hiện tính
sở hữu của thu nhập. pháp luật quy định chủ thể nộp thuế thu nhập cá nhân bao gồm:cá nhân cư trú và cá


nhân không cư trú có thu nhập chịu thuế phát sinh trong lãnh thổ Việt Nam, được quy định tại Điều 3 Luật
thuế TNCN 2007.
Thứ hai, thu nhập chịu thuế là thu nhập phát sinh của mỗi cá nhân. Các loại thuế khác như thuế giá trị
gia tăng đánh vào hành vi tiêu dùng của người chịu thuế trả một phần thu nhập do hành vi tiêu dùng. Đặc
điểm này gây tâm lý muốn thoái thác nghĩa vụ đóng thuế, cá nhân thuộc diện nộp thuế cho rằng những thu
nhập của họ là do quá trình lao động, sáng tạo mới có lại phải nộp cho nhà nước nên tình trạng gian lận, trốn
thuế TNCN thường chiếm tỷ lệ cao, đặc biệt là những nước có trình độ quản lý thuế còn hạn chế, ý thức
chấp hành pháp luật của người dân thấp. Đây chính là sự khác biệt giữa thuế đánh vào TNCN so với loại
thuế khác.
1


Thứ ba, thu nhập chịu thuế thường là những khoản thu nhập hợp pháp, đã thực tế phát sinh, có tính
phổ biến và nhà nước có thể kiểm soát được nhằm đảm bảo tính khả thi, tính công bằng cho các đối tượng
nộp thuế, nguồn thu ổn định cho ngân sách nhà nước.
Thứ tư, thu nhập chịu thuế làm cơ sở cho việc tính thuế thu nhập và các khoản thu nhập chịu thuế ở
mỗi quốc gia khác nhau thì không giống nhau, phụ thuộc vào nguồn gốc phát sinh của các khoản thu nhập
và căn cứ vào đặc điểm cư trú hay một số điểm khác tùy theo luật từng nước.
II. Quy định pháp luật về thu nhập chịu thuế của thuế TNCN.
2.1 Phân loại thu nhập chịu thuế (TNCT)
Để giải quyết sự bất công bằng thu nhập chịu thuế (TNCT) của Pháp lệnh thuế thu nhập đối với
người có thu nhập cao, luật thuế thu nhập cá nhân không chia TNCT thành 2 loại thu nhập thường xuyên và
thu nhập không thường xuyên, mà chia TNCT thành các 10 loại sau theo quy định tại Điều 3 Luật thuế
TNCN:
“1. Thu nhập từ kinh doanh, bao gồm:
a) Thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ;
b) Thu nhập từ hoạt động hành nghề độc lập của cá nhân có giấy phép hoặc chứng chỉ hành nghề
theo quy định của pháp luật.
2. Thu nhập từ tiền lương, tiền công, bao gồm:
a) Tiền lương, tiền công và các khoản có tính chất tiền lương, tiền công;

b) Các khoản phụ cấp, trợ cấp, trừ các khoản phụ cấp, trợ cấp theo quy định của pháp luật về ưu đãi
người có công, phụ cấp quốc phòng, an ninh, phụ cấp độc hại, nguy hiểm đối với những ngành, nghề hoặc
công việc ở nơi làm việc có yếu tố độc hại, nguy hiểm, phụ cấp thu hút, phụ cấp khu vực theo quy định của
pháp luật, trợ cấp khó khăn đột xuất, trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, trợ cấp một lần khi sinh
con hoặc nhận nuôi con nuôi, trợ cấp do suy giảm khả năng lao động, trợ cấp hưu trí một lần, tiền tuất hàng
tháng, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm theo quy định của Bộ luật lao động, các khoản trợ cấp khác do
Bảo hiểm xã hội chi trả, trợ cấp giải quyết tệ nạn xã hội;
c) Tiền thù lao dưới các hình thức;
d) Tiền nhận được từ tham gia hiệp hội kinh doanh, hội đồng quản trị, ban kiểm soát, hội đồng quản
lý và các tổ chức;
đ) Các khoản lợi ích khác mà đối tượng nộp thuế nhận được bằng tiền hoặc không bằng tiền;
e) Tiền thưởng, trừ các khoản tiền thưởng kèm theo các danh hiệu được Nhà nước phong tặng, tiền
thưởng kèm theo giải thưởng quốc gia, giải thưởng quốc tế, tiền thưởng về cải tiến kỹ thuật, sáng chế, phát
minh được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận, tiền thưởng về việc phát hiện, khai báo hành vi vi
phạm pháp luật với cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
3. Thu nhập từ đầu tư vốn, bao gồm:
a) Tiền lãi cho vay;
b) Lợi tức cổ phần;
c) Thu nhập từ đầu tư vốn dưới các hình thức khác, trừ thu nhập từ lãi trái phiếu Chính phủ.
2


4. Thu nhập từ chuyển nhượng vốn, bao gồm:
a) Thu nhập từ chuyển nhượng phần vốn trong các tổ chức kinh tế;
b) Thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán;
c) Thu nhập từ chuyển nhượng vốn dưới các hình thức khác.
5. Thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản, bao gồm:
a) Thu nhập từ chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất;
b) Thu nhập từ chuyển nhượng quyền sở hữu hoặc sử dụng nhà ở;
c) Thu nhập từ chuyển nhượng quyền thuê đất, thuê mặt nước;

d) Các khoản thu nhập khác nhận được từ chuyển nhượng bất động sản.
6. Thu nhập từ trúng thưởng, bao gồm:
a) Trúng thưởng xổ số;
b) Trúng thưởng trong các hình thức khuyến mại;
c) Trúng thưởng trong các hình thức cá cược, casino;
d) Trúng thưởng trong các trò chơi, cuộc thi có thưởng và các hình thức trúng thưởng khác.
7. Thu nhập từ bản quyền, bao gồm:
a) Thu nhập từ chuyển giao, chuyển quyền sử dụng các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ;
b) Thu nhập từ chuyển giao công nghệ.
8. Thu nhập từ nhượng quyền thương mại.
9. Thu nhập từ nhận thừa kế là chứng khoán, phần vốn trong các tổ chức kinh tế, cơ sở kinh doanh,
bất động sản và tài sản khác phải đăng ký sở hữu hoặc đăng ký sử dụng.
10. Thu nhập từ nhận quà tặng là chứng khoán, phần vốn trong các tổ chức kinh tế, cơ sở kinh
doanh, bất động sản và tài sản khác phải đăng ký sở hữu hoặc đăng ký sử dụng.
Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Điều này.”
Như vậy, không những thay đổi tiêu chí phân chia các loại TNCT, Luật thuế TNCN còn mở rộng
diện thu nhập để tính thuế, bao gồm cả thu nhập từ chuyển nhượng vốn, lợi tức cổ phần, tài sản thực tế là cổ
phần, trái phếu, quyền sử hữu công ty, nhà đất. Một số thay đổi đáng kể nữa là việc xóa bỏ luật thuế chuyển
quyền sử dụng đất và đưa thu nhập từ hoạt động chuyển quyền sử dụng đất vào điều chỉnh thống nhất trong
luật thuế TNCN.
Liên quan đến TNCT từ chuyển nhượng, thừa kế, quà tặng có một quy định đáng chú ý là luật thuế
TNCN quy định miễn thuế đối với thu nhập từ chuyển nhượng thừa kế, quà tặng giữa vợ với chồng; cha mẹ
đẻ; cha mẹ nuôi; mẹ nuôi với con đẻ, con nuôi; cha chồng mẹ chồng với con dâu; cha vợ mẹ vợ với con rể;
ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại với cháu nội, cháu ngoại; anh chị em ruột với nhau.
2.2 Cách xác định các khoản TNCT theo quy định của pháp luật thuế TNCN
2.2.1 Xác định TNCT từ kinh doanh
3


TNCT từ kinh doanh của cá nhân cư trú được xác định bằng doanh thu trừ các khoản chi phí hợp lý

theo quy định và liên quan trực tiếp đến việc tạo ra TNCT trong kỳ tính thuế. Thu nhập chịu thuế từ kinh
doanh trong các trường hợp cụ thể được xác định theo quy định tại Điều 10 Luật TNCN năm 2007 như sau
* Đối với cá nhân kinh doanh thực hiện đầy đủ chế độ kế toán hóa đơn, chứng từ, thu nhập chịu thuế
được xác định:
TNCT= Doanh thu - Các khoản chi phí hợp lý liên quan đến việc tạo ra thu nhập chịu thuế từ
kinh doanh trong kỳ tính thuế.
Trong đó:
- Doanh thu là toàn bộ tiền bán hàng, tiền gia công, tiền hoa hồng, tiền cung ứng hàng hoá, dịch vụ
phát sinh trong kỳ tính thuế từ các hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ.
Thời điểm xác định doanh thu là thời điểm chuyển giao quyền sở hữu hàng hoá, hoàn thành dịch vụ hoặc
thời điểm lập hoá đơn bán hàng, cung ứng dịch vụ.
- Chi phí hợp lý liên quan đến việc tạo ra thu nhập chịu thuế từ kinh doanh trong kỳ tính thuế.
Việc xác định doanh thu, chi phí dựa trên cơ sở định mức, tiêu chuẩn, chế độ và chứng từ, sổ kế toán
theo quy định của pháp luật.
Theo quy định tại Điều 7, Điều 8, Điều 9 Nghị định số 100/2008/NĐ-CP thì, thu nhập chịu thuế từ
kinh doanh được xác định bằng doanh thu tính TNCT - các khoản chi phí hợp lý. Trong đó:
- Doanh thu tính TNCT từ kinh doanh là toàn bộ tiền bán hàng, tiền gia công, tiền hoa hồng, tiền
cung ứng hàng hóa, dịch vụ phát sinh trong kỳ tính thuế.
- Chi phí hợp lý là các khoản chi thực tế phát sinh và có đủ hóa đơn, chứng từ theo quy định của pháp
luật.
Theo hướng dẫn tại điểm 1.3 khoản 1 mục I phần B Thông tư số 84/2008/TT-BTC thì, TNCT đối
với cá nhân kinh doanh thực hiện đầy đủ chế độ kế toán hóa đơn, chứng từ được xác định theo công thức
như sau:
TNCT trong kỳ tính thuế = Doanh thu để tính TNCT trong kỳ tính thuế - Chi phí hợp lý liên
quan đến việc tạo ra thu nhập trong kỳ tính thuế + TNCT khác trong kỳ tính thuế.
Trong đó:
- Doanh thu và chi phí được xác định theo sổ sách kế toán hóa đơn chứng từ. Trường hợp, cá nhân
kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế giá trị gia tăng thì doanh thu làm căn cứ xác định thu nhập chịu thuế
phù hợp với doanh thu tính thuế giá trị gia tăng.
- Doanh thu để tính thu nhập chịu thuế từ kinh doanh là toàn bộ số tiền bán hàng hóa, tiền gia công,

tiền hoa hồng, tiền cung ứng hàng hóa, dịch vụ sẽ phát sinh trong kỳ tính thuế bao gồm cả khoản trợ giá, phụ
thu, phụ trội mà cá nhân kinh doanh được hưởng không phân biệt đã thu được tiền hay chưa thu được tiền.
- TNCT khác là các khoản thu nhập phát sinh trong quá trình kinh doanh như: tiền phạt vi phạm hợp
đồng; tiền phạt do chậm thanh toán; tiền lãi ngân hàng trong quá trình thanh toán, tiền lãi do bán hàng trả
chậm, trả góp, tiền lãi do bán tài sản cố định; tiền bán phế liệu, phế phẩm...
4


Việc xác định doanh thu, chi phí dựa trên cơ sở định mức, tiêu chuẩn, chế độ và chứng từ, sổ kế toán theo
quy định của pháp luật. Trường hợp nhiền người cùng tham gia trong một đăng ký kinh doanh thì thu nhập
chịu thuế của mỗi người được xác định theo một trong các nguyên tắc sau đây:
- tính theo tỷ lệ vốn góp của từng cá nhân ghi trong đăng ký kinh doanh;
- tính theo thỏa thuận giữa các cá nhân ghi trong đăng ký kinh doanh;
- tính bằng bình quân thu nhập đầu người trong trường hợp đăng ký kinh doanh không xác định tỷ lệ
vốn góp hoặc không có thỏa thuận phân chia thu nhập giữa các cá nhân.
* Đối với cá nhân kinh doanh không thực hiện chế độ kế toán hóa đơn, chứng từ nộp thuế theo phương
pháp khoán, thu nhập chịu thuế thuế thu nhập cá nhân được xác định:
Theo quy định tại khoản 6 Điều 10 Luật thuế TNCN năm 2007, trường hợp cá nhân kinh doanh chưa
tuân thủ đúng chế độ kế toán, hóa đơn, chứng từ mà không xác định được doanh thu, chi phí và thu nhập
chịu thuế thì cơ quan Thuế có thẩm quyền ấn định doanh thu, tỷ lệ TNCT để xác định TNCT phù hợp với
từng ngành, nghề sản xuất, kinh doanh theo quy định của pháp luật về quản lý thuế.
Theo quy định tại Điều 10 Nghị định số 100/2008/NĐ-CP thì, đối với những trường hợp này, căn cứ vào
kết quả ấn định thu nhập chịu thuế, cơ quan Thuế xác định mức thuế khoán theo nguyên tắc, trình tự, thủ tục
quy định tại Điều 38 Luật quản lý thuế.
Theo hướng dẫn tại điểm 1.1 khoản 1 mục I phần B Thông tư số 84/2008/TT-BTC thì, thu nhập chịu
thuế TNCN đối với cá nhân kinh doanh không thực hiện chế độ kế toán hóa đơn, chứng từ nộp thuế theo
phương pháp khoán, được xác định theo công thức
TNCT= Doanh thu ấn định trong kỳ tính thuế x Tỷ lệ thu nhập chịu thuế ấn định.
Doanh thu ấn định được xác định căn cứ vào kê khai của cá nhân kinh doanh, kết quả điều tra của cơ
quan thuế và ý kiến tham gia của hội đồng tư vấn thuế xã, phường.

* Đối với cá nhân kinh doanh chỉ hạch toán được doanh thu bán hàng hóa, dịch vụ, không hạch toán,
xác định được chi phí.
Theo quy định tại khoản 6 Điều 10 Luật thuế TNCN năm 2007 trường hợp cá nhân kinh doanh chưa
tuân thủ đúng chế độ kế toán, hóa đơn, chứng từ mà không xác định được doanh thu, chi phí và thu nhập
chịu thuế thì cơn quan Thuế có thẩm quyền ấn định doanh thu tỷ lệ TNCTđể xác định TNCT phù hợp với
từng ngành, nghề sản xuất, kinh doanh theo quy định của pháp luật về quản lý thuế.
Theo quy định tại Điều 10 Nghị định số 100/2008/NĐ-CP, căn cứ vào kết quả ấn định TNCT nêu
trên cơ quan Thuế xác định mức thuế khoán theo nguyên tắc, trình tự, thủ tục quy định tại Điều 38 Luật quản
lý thuế.
Theo hướng dẫn tại điểm 1.2 khoản I mục I phần B Thông tư số 84/2008/TT-BTC thì, thu nhập chịu
thuế TNCN đối với cá nhân kinh doanh chỉ hạch toán được doanh thu bán hàng, dịch vụ, không hạch toán
được chi phí, được xác định theo công thức như sau:
TNCT = Doanh thu để tính TNCT trong kỳ tính thuế x Tỷ lệ thu nhập chịu thuế ấn định.
Trong đó doanh thu để tính TNCT được xác định theo sổ sách kế toán, hóa đơn, chứng từ phù hợp
với doanh thu để tính thuế giá trị gia tăng.
Tổng cục thuế quy định cụ thể tỷ lệ thu nhập chịu thuế trên doanh thu để áp dụng, đối với trường hợp
cá nhân kinh doanh không hạch toán được chi phía hoặc không hạch toán kế toán.

5


Quy định như vậy nhằm thực hiện điều tiết bình đẳng thu nhập cá nhân và không phân biệt thu nhập từ kinh
doanh hay thu nhập từ tiền lương, tiền công tạo ra sự thống nhất trong các quy định của pháp luật, đúng như
bản chất vốn có của nó, tạo ra sự công bằng trong nghĩa vụ nộp thuế của cá nhân.
Việc chuyển thu nhập từ kinh doanh của cá nhân sang chịu sự điều chỉnh của Luật thuế TNCN là phù hợp
với thông lệ quốc tế, cũng thuận tiện cho việc so sánh, đối chiếu pháp luật các nước về vấn đề phục vụ cho
hoạt động liên quan, nghiên cứu khoa học.
Lưu ý: đối với cá nhân có TNCT từ tiền lương, tiền công và vừa có TNCT từ kinh doanh thì TNCT sẽ là
tổng TNCT từ tiền lương, tiền công cộng với TNCT từ kinh doanh.
Bên cạnh đó, theo quy định tại khoản 2 Điều 10 Luật thuế TNCN năm 2007, khoản 1 Điều 8 Nghị

định số 100/2008/NĐ-CP thì, thời điểm xác định doanh thu là thời điểm chuyển giao quyền sở hữu hàng
hóa, hoàn thành cung ứng dịch vụ hoặc thời điểm lập hóa đơn bán hàng, cung ứng dịch vụ không phân biệt
đã thu được tiền hay chưa thu được tiền.
Theo hướng dẫn tại tiết 1.3.1 (a) điểm 1.3 khoản 1 mục I phần B Thông tư số 84/2008/TT-BTC thì
thời điểm xác định doanh thu để tính thu nhập chịu thuế từ hoạt động kinh doanh như sau: Đối với hàng hóa
là thời điểm chuyển giao quyền sở hữu hàng hóa hoặc thời điểm lập hóa đơn bán hàng. Đối với dịch vụ là
thời điểm dịch vụ hoàn thành hoặc thời điểm lập hóa đơn cung ứng dịch vụ.
Trường hợp , thời điểm lập hóa đơn trước thời điểm chuyển giao quyền sở hữu hàng hóa (hoặc dịch
vụ hoàn thành) thì thời điểm xác định doanh thu được tính theo thời điểm lập hóa đơn hoặc ngược lại.
2.2.2 Đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công
Theo quy định tại khoản 2 Điều 3, khoản 1 Điều 11 Luật Thuế TNCN năm 2007; khoản 2 Điều 3;
khoản 1 Điều 11 Nghị định số 100/2008/NĐ-CP; khoản 2 mục II phần A, điểm 2.1 khoản2 mục I phần B
Thông tư số 84/2008/TT-BTC thì TNCT từ tiền lương, tiền công được xác định bằng tổng số tiền tiền lương,
tiền công, tiền thù lao và các khoản thu nhập khác có tính chất tiền lương, tiền công mà người nộp thuế nhận
được trong kỳ tính thuế, bao gồm:
a. Tiền lương, tiền công và các khoản có tính chất tiền lương tiền công nhận được dưới các hình thức
bằng tiền hoặc không bằng tiền;
b. Các khoản phụ cấp, trợ cấp, kể cả sinh hoạt phí mà người lao động nhận được trừ các khoản phụ
cấp trợ cấp theo quy định của pháp luật được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 3 Nghị định số
100/2008/NĐ-CP và hướng dẫn tại điểm 2.2 khoản 2 mục II phần A Thông tư số 84/2008/TT-BTC, khoản 3
Điều 1 Thông tư số 62/2009/TT-BTC.
c. Tiền thu lao nhận được dưới các hình thức như: tiền hoa hồng, tiền môi giới, tiền tham gia các đề
tài nghiên cứu khoa học, kỹ thuật; tiền tham gia các dự án, đề án; tiền nhuận bút do viết sách, báo, dịch tài
liệu; tiền tham gia các hoạt động giảng dạy; biểu diễn văn hóa, nghệ thuật, thể dục, thể thao; tiền thu được từ
các dịch vụ quảng cáo và từ các dịch vụ khác.
d. Tiền nhận được từ tham gia hiệp hội kinh doanh, hội động quản trị, ban kiểm soát, hội đồng quản
lý, các hiệp hội, hội nghề nghiệp và các tổ chức khác.
e. Các khoản lợi ích khác bằng tiền hoặc không bằng tiền ngoài tiền lương, tiền công do người sử
dụng lao động trả hoặc trả hộ đối tượng nộp thuế dưới mọi hình thức.
f. Các khoản thưởng như tháng, quý, năm, thưởng đột xuất, thưởng tháng lương thứ 13 bằng tiền

hoặc không bằng tiền (kể cả thưởng bằng chứng khoán), trừ một số khoản tiền thưởng mà pháp luật đã quy
6


định tại điểm 2.3 khoản 2 mục II phần A Thông tư số 84/2008/TT-BTC. Trường hợp người lao động được
thưởng bằng cổ phiếu thì gái trị thưởng được xác định theo mức thưởng ghi trên sổ sách kế toán của đơn vị
trả thưởng.
Các khoản thu nhập nêu trêu làm căn cứ xác định TNCT là thu nhập trước khi khấu trừ thuế TNCN
(thu nhập trước thuế). Trường hợp thu nhập thực nhận không bao gồm thuế TNCN (thu nhập sau thuế) thì
phải quy đổi thành thu nhập trước thuế theo Phụ lục số 01/PL-TNCN ban hành kèm theo Thông tư số
84/2008/TT-BTC.
Về thời điểm xác định TNCT từ tiền lương, tiền công theo quy định tại khoản 2 Điều 11 Luật thuế
TNCN năm 2007 quy định: thời điểm xác định TNCT từ đầu tư vốn là thời điểm tổ chức, cá nhân trả thu
nhập cho đối tượng nộp thuế hoặc thời điểm đối tượng nộp thuế nhận được thu nhập.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 11 Nghị định 100/2008/NĐ-Cp thì, thời điểm xác định TNCT từ tiền
lương, tiền công là thời điểm người sử dụng lao động trả tiền lương, tiền công cho người nộp thuế hoặc thời
điểm đối tượng nộp thuế nhận được thu nhập.
2.2.3 Đối với TNCT từ đầu tư vốn:
Theo quy định tại khoản 1 Điều 12 Luật thuế TNCN, thì thu nhập chịu thuế từ đầu tư vốn là tổng số
thu nhập quy định tại khoản 3 Điều 3 Luật thuế TNCN năm 2007 mà đối tượng nộp thuế nhận được trong
kỳ tính thuế. Theo khoản 3 Điều 3 Luật thuế TNCN năm 2007 thì thu nhập từ đầu tư vốn, bao gồm các
khoản tiền cho vay (không bao gồm lãi tiền gửi từ ngân hàng, tổ chức tín dụng, lãi từ trái phiếu chính phủ,
công trái, tín phiếu kho bạc nhà nước); lợi tức cổ phần; thu nhập từ đầu tư vốn (bằng tiền và không bằng tiền)
dưới các hình thức khác, trừ thu nhập từ lãi trái phiếu Chính phủ.
Theo hướng dẫn tại khoản 3 mục II phần A Thông tư số 84/2008/TT-BTC và khoản 1 Điều 1 Thông
tư số 12/2011/TT-BTC thu nhập từ đầu tư vốn là khoản thu nhập nhận được từ hoạt động cho cơ sở sản xuất,
kinh doanh vay, mua cổ phần hoặc góp vốn sản xuất, kinh doanh dưới các hình thức:
- Tiền lãi nhận được từ các hoạt động cho các tổ chức, doanh nghiệp, hộ gia đình, nhóm cá nhân kinh
doanh, cá nhân vay theo hợp đồng vay (trừ lãi tiền gửi nhận được từ ngân hàng, tổ chức tín dụng).
- Lợi tức, cổ tức nhận được từ việc góp vốn cổ phần.

- Lợi tức nhận được do tham gia góp vốn vào công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, hợp
tác xã, liên doanh, hợp đồng hợp tác kinh doanh và các hình thức kinh doanh khác theo quy định của Luật
Doanh nghiệp hiện hành và Luật Hợp tác xã hiện hành.
- Phần tăng thêm của giá trị vốn góp nhận được khi giải thể doanh nghiệp, chuyển đổi mô hình hoạt
động sáp nhập, hợp nhất doanh nghiệp hoặc khi rút vốn (không bao gồm vốn gốc được nhận lại).
- Thu nhập nhận được từ các khoản lãi trái phiếu, tín phiếu và các giấy tờ có giá khác do các tổ chức
trong nước phát hành (kể cả các tổ chức nước ngoài được phép thành lập và hoạt động tại Việt Nam), trừ thu
nhập từ lãi trái phiếu do Chính phủ Việt Nam phát hành và thu nhập từ lãi tiền gửi quy định tại điểm 7, mục
III, phần A Thông tư số 84/2008/TT-BTC.
- Các khoản thu nhập nhận được từ đầu tư vốn dưới các hình thức khác kể cả trường hợp góp vốn
đầu tư bằng hiện vật, bằng danh tiếng, bằng quyền sử dụng đất, bằng phát minh, sáng chế...
- Thu nhập từ cổ phiếu trả thay cổ tức.
7


Bên cạnh đó, theo quy định tại khoản 2 Điều 12 Luật thuế TNCN năm 2007 quy định thời điểm xác
định thu nhập chịu thuế từ đầu tư vốn là thời điểm tổ chức, cá nhân trả thu nhập cho đối tượng nộp thuế hoặc
thời điểm đối tượng nộp thuế nhận được thu nhập.
2.2.4 Đối với TNCT từ chuyển nhượng phần vốn góp
Theo quy định tại khoản 1,2 Điều 13 Luật thuế TNCN năm 2007 thì, TNCT từ chuyển nhượng vốn
được xác định bằng giá bán trừ giá mua và các khoản chi phí hợp lý liên quan đến việc tạo ra thu nhập từ
chuyển nhượng vốn. Trường hợp không xác định được giá mua và chi phí liên quan đến việc chuyển
nhượng chứng khoán thì TNCT được xác định là giá bán chứng khoán.
Thời điểm xác định TNCT từ chuyển nhượng phần vốn góp theo quy định tại khoản 3 Điều 13 Luật
thuế TNCN năm 2007 là thời điểm giao dịch chuyển nhượng vốn hoàn thành theo quy định của pháp luật.
Trong đó, thời ddiemr giao dịch chuyển nhượng vốn hoàn thành quy định tại khoản này là thời điểm các bên
tham gia chuyển nhượng làm thủ tục khai báo, chuyển quyền sở hữu với cơ quan cấp đăng ký kinh doanh
hoặc doanh nghiệp quản lý vốn góp.
2.2.5 Đối với TNCT từ chuyển nhượng bất động sản
Thu nhập chịu thuế từ chuyển nhượng bất động sản được xác định bằng giá chuyển nhượng bất

động sản theo từng lần chuyển nhượng trừ giá mua bất động sản và các chi phí liên quan, cụ thể như sau:
Trong đó:
- Giá chuyển nhượng bất động sản là giá theo hợp đồng tại thời điểm chuyển nhượng.
- Giá mua bất động sản là giá theo hợp đồng tại thời điểm mua.
- Các chi phí liên quan được trừ căn cứ vào chứng từ, hoá đơn theo quy định của pháp luật, bao gồm các loại
phí, lệ phí theo quy định của pháp luật liên quan đến quyền sử dụng đất; chi phí cải tạo đất, cải tạo nhà, chi
phí san lấp mặt bằng; chi phí đầu tư xây dựng nhà ở, kết cấu hạ tầng và công trình kiến trúc trên đất; các chi
phí khác liên quan đến việc chuyển nhượng bất động sản.
Và trường hợp không xác định được giá mua và chi phí liên quan đến việc chuyển nhượng bất động
sản thì thu nhập chịu thuế được xác định là giá chuyển nhượng bất động sản.
Bên cạnh đó, theo quy định tại khoản 4 Điều 14 Luật thuế TNCN năm 2007 thì thời điểm xác định
thu nhập chịu thuế từ chuyển nhượng bất động sản là thời điểm hợp đồng chuyển nhượng có hiệu lực theo
quy định của pháp luật.
Đối với thu nhập chịu thuế thuế thu nhập cá nhân thì việc đưa khoản thu này thành đối tượng chịu
thuế TNCN đã được hoan nghênh của đa số người dân. Những năm gần đây thị trường bất động sản tăng
mạnh, có thời gian tạo thành cơn lốc đất, cơn sốt nhà, những giao dịch bất động sản mang lại cho cá nhân
nguồn thu nhập rất lớn. Tuy nhiên lại có hiện tượng đầu cơ nâng giá đất lên quá cao đã làm ảnh hưởng đến
đa số người dân nghèo lao động không có khả năng mua nhà, mua đất trong khi đó một bộ phận rất nhỏ
những người mua bán đầu cơ đất đai lại chiếm được những khoản lợi nhuận khổng lồ, nhưng khoản lợi
nhuận này chưa có một sắc thuế hoàn chỉnh điều tiết. Vì vậy, khi mà khoản thu nhập này chịu sự điều chỉnh
của pháp luật, bên cạnh mục tiêu điều tiết thu nhập, tăng thu cho ngân sách nhà nước, nó còn có tác dụng
điều tiết thị trường bất động sản vốn đã rất phức tạp ở nước ta thời gian qua.
2.2.6. Đối với TNCT từ trúng thưởng
8


Theo quy định của pháp luật thuế TNCN cụ thể tại Điều 15 Luật thuế TNCN năm 2007 thì thu nhập
chịu thuế từ trúng thưởng là phần giá trị giải thưởng vượt trên 10 triệu đồng mà đối tượng nộp thuế nhận
được theo từng lần trúng thưởng, không phụ thuộc vào số lần nhận tiền thưởng.
Thu nhập từ trúng thưởng bao gồm: trúng thưởng xổ số, trúng thưởng khuyến mại, trúng thưởng từ cá cược,

casino, trúng thưởng từ trò chơi, cuộc thi,...Trường hợp một giải thưởng nhưng có nhiều người trúng giải thì
thu nhập trúng thưởng phân chia cho từng người nhận giải thưởng. Trường hợp cá nhân trúng nhiều giải
thưởng trong một cuộc thi thì thu nhập trúng thưởng được tính trên tổng giá trị của các giải thưởng.
Thời điểm xác định thu nhập chịu thuế từ trúng thưởng là thời điểm tổ chức, cá nhân trả thu nhập cho
đối tượng nộp thuế.
2.2.7 Đối với TNCT từ bản quyền
Quy định đối với TNCT từ bản quyền được quy định cụ thể tại Điều 16 Luật thuế TNCN, theo đó,
thu nhập chịu thuế từ bản quyền là phần thu nhập vượt trên 10 triệu đồng mà đối tượng nộp thuế nhận được
khi chuyển giao, chuyển quyền sử dụng các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ theo
từng hợp đồng, không phụ thuộc vào số lần thanh toán hoặc số lần nhận tiền mà người nộp thuế nhận được.
Trường hợp cùng một đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ nhưng hợp đồng
chuyển giao, chuyển quyền sử dụng thực hiện làm nhiều hợp đồng với cùng một đối tượng sử dụng thì thu
nhập chịu thuế là phần thu nhập vượt trên 10 triệu đồng tính trên tổng các hợp đồng chuyển giao. Trường
hợp đối tượng chuyển giao, chuyển quyền là đồng sở hữu thì thu nhập chịu thuế được chia cho từng cá nhân
sở hữu. Tỷ lệ phân chia được căn cứ theo giấy chứng nhận quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền.
Thời điểm xác định thu nhập chịu thuế từ bản quyền là thời điểm tổ chức, cá nhân trả thu nhập cho
đối tượng nộp thuế.
2.2.8 Thu nhập chịu thuế từ nhượng quyền thương mại
Theo quy định tại Điều 17 Luật thuế TNCN năm 2007 thì thu nhập chịu thuế từ nhượng quyền
thương mại là phần thu nhập vượt trên 10 triệu đồng mà đối tượng nộp thuế nhận được theo từng hợp đồng
nhượng quyền thương mại. Trường hợp cùng là một đối tượng của quyền thương mại nhưng việc chuyển
nhượng thực hiện thành nhiều hợp đồng thì thu nhập chịu thuế là phần vượt trên 10 triệu đồng tình trên tổng
các hợp đồng nhượng quyền thương mại.
Thời điểm xác định TNCT từ nhượng quyền thương mại là thời điểm tổ chức, cá nhân trả thu nhập
cho đối tượng nộp thuế.
2.2.9.Thu nhập chịu thuế từ thừa kế, quà tặng
Theo Điều 18 Luật thuế TNCT, TNCT từ thừa kế, quà tặng là phần giá trị tài sản thừa kế, quà tặng
vượt trên 10 triệu đồng mà đối tượng nộp thuế nhận được theo từng lần phát sinh.
Giá trị tài sản nhận thừa kế, quà tặng được xác định:

- Đối với bất động sản: là giá trị quyền sử dụng đất, thì phần giá trị quyền sử dụng đất được xác định
căn cứ vào bảng giá đất do UBND cấp tỉnh quy định tại thời điểm cá nhân hưởng thừa kế làm thủ tục chuyển
quyền sử dụng bất động sản.
9


- Đối với bất động sản là nhà ở và công trình kiến trúc trên đất được xác định căn cứ vào quy định
của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền về phân loại giá trị nhà; quy định tiêu chuẩn, định mức xây
dựng cơ bản do cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền ban hành; giá trị còn lại của nhà, công trình kiến
trúc. Trường hợp không xác định được the quy định này thì căn cứ vào giá tình lệ phí trước bạ do UBND
tỉnh quy định.
- Đối với thừa kế, quà tặng là ô tô, xe máy, tàu thuyền,...giá trị tài sản được xác định trên cơ sở bảng
giá tính tỷ lệ phí trước bạ do UBND tỉnh quy định tại thời điểm cá nhân nhận được thừa kế, quà tặng.
- Đối với thừa kế, quà tặng là vốn góp trong các tổ chức kinh tế, cơ sở kinh doanh: giá trị của thừa kế,
quà tặng là giá trị của phần vốn góp được xác định căn cứ vào sổ sách kế toán, hóa đơn, chứng từ tại thời
điểm nhận thừa kế, quà tặng. Trường hợp không có sổ sách kế toán, hóa đơn, chứng từ làm căn cứ xác định
thì giá trị phần vốn góp được xác định theo giá trị thị trường tại thời điểm nhận.
- Đối với thừa kế, quà tặng là chứng khoán:


Đối với chứng khoán đã niêm yết thì giá trị của chứng khoán được căn cứ vào giá tham chiếu trên sở
giao dịch chứng khoán hoặc trung tâm giao dịch chứng khoán tại ngày nhận thừa kế, quà tặng hoặc
ngày gần nhất trước đó.

• Đối với chứng khoán của các công ty địa chúng chưa niêm yết nhưng đã thực hiện đăng ký giao dịch
tại trung tâm giao dịch chứng khoán căn cứ vào giá tham chiếu tại trung tâm giao dịch ở thời điểm
nhận thừa kế, quà tặng hoặc ngày gần nhất trước đó.
• Đối với chứng khoán không thuộc các trường hợp trên căn cứ giá trị ghi trên sổ sách kế toán của
công ty phát hành loại chứng khoán đó tại ngày nhận thừa kế, quà tặng là chứng khoán,...
Mặt khác, thời điểm xác định thu nhập chịu thuế được quy định như sau:

- Đối với thu nhập từ thừa kế là thời điểm đối tượng nộp thuế nhận được thừa kế;
- Đối với thu nhập từ quà tặng là thời điểm tổ chức, cá nhân tặng cho đối tượng nộp thuế hoặc thời điểm
đối tượng nộp thuế nhận được thu nhập.
Quy định này nhằm tạo ra sự kiểm soát dòng dịch chuyển tài sản trong xã hội và khuyến khích các cá
nhân tự tạo ra thu nhập cho mình, đồng thời đảm bảo công bằng xã hội.
Việc phân loại thu nhập chịu thuế như trên sẽ là cơ sở để đảm bảo việc tính thuế phù hợp với tình hình
của nước ta cũng phù hợp với thông lệ quốc tế. Hiện nay, Luật Thuế TNCN quy định việc áo dụng thuế suất
theo hai hướng: đối với thu nhập từ kinh doanh, tiền công, tiền lương thì việc áp dụng biểu suất lũy tiến từng
phần; đối với các khoản thu nhập còn lại thì áp dụng biểu thuế lũy tiến toàn phần. Mở rộng diện điều tiết một
cách phù hợp trên cơ sở bổ sung một số khoản thu nhập chịu thuế. Điều này có ý nghĩa hết sức quan trọng cả
về mặt lập pháp và thực tiễn. về lập pháp, những quy định trên góp phần hoàn thiện hệ thông pháp luật về
thuế nói chung và thuế TNCN nói riêng; về thực tiễn, việc các quy định càng rõ ràng, chi tiết toàn diện vừa
bảo đảm khả năng thực hiện của cơ quan thuế, người nộp thuế, đồng thời hạn chế tối đa tình trạng gian lận,
lẩn tránh trách nhiệm về thuế đối với nhà nước.
III. Hạn chế trong việc áp dụng pháp luật điều chỉnh thu nhập chịu thuế trong thuế thu nhập cá nhân
– Đề xuất pháp lý hoàn thiện
10


3.1 Hạn chế
Qua nghiên cứu, phân tích các quy định của pháp luật về thu nhập chịu thuế trong thuế thu nhập cá
nhân, nhóm chúng em xin được đưa ra một số hạn chế về mặt thực tiễn như sau:
Thứ nhất, các quy định của pháp luật về thuế thu nhập cá nhân hiện nay còn tồn tại nhiều bất cập, kẽ
hở dẫn đến tình trạng trốn thuế, gian lận thuế.
Có thể đưa ra một ví dụ điển hình như chế độ thu thuế đối với người hành nghề độc lập- đây là khoản
thu tạo nguồn thu đáng kể cho ngân sách nhà nước. số thuế thu được từ những cá nhân hành nghề độc lập
cũng góp một phần không nhỏ trong tổng số nguồn thu nói trên và bộ phận những cá nhân hành nghề độc
lập đang ngày càng phát triển về số lượng. Tuy vậy pháp luật thuế thu nhập cá nhân và các văn bản hướng
dẫn thi hành chỉ quy định: “thu nhập từ hoạt động hành nghề độc lập của cá nhân có giấy phép hoặc chứng
chỉ hành nghề theo quy định của pháp luật” là đối tượng chịu thuế thu nhập cá nhân. Có thể thấy rằng quy

định này không liệt kê hết những đối tượng hành nghề độc lập thuộc diện chịu thuế. Bên cạnh đó quy định
về cơ sở tính thuế không rõ ràng, gây lúng túng cho cơ quan thuế trong việc xác định số thuế phải nộp đối
với những khoản thu từ hoạt động hành nghề độc lập của cá nhân.
Luật hiện hành quy định, thu nhập chịu thuế từ chuyển nhượng bất động sản được xác định bằng giá
chuyển nhượng bất động sản theo từng lần chuyển nhượng trừ giá mua bất động sản và các chi phí liên quan.
Trường hợp không xác định được giá mua và chi phí liên quan đến việc chuyển nhượng bất động sản thì thu
nhập chịu thuế được xác định là giá chuyển nhượng bất động sản. Theo đó, nếu xác định được giá vốn, chi
phí áp dụng thuế suất 25% trên thu nhập, không xác định được giá mua và chi phí liên quan thì nộp thuế theo
thuế suất 2% trên giá chuyển nhượng. Tuy nhiên, trong luật lại không quy định cụ thể về việc xác định doanh
thu từ chuyển nhượng bất động sản như thế nào và các khoản chí phí nào được xem là “chi phí liên quan”…
nên rất khó thực hiện
Thứ hai, về cách xác định thu nhập chịu thuế của thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh và thu
nhập từ tiền lương tiền công có chỗ chưa thỏa đáng. Thu nhập tính thuế từ hoạt động sản xuất kinh doanh
được xác định bởi hiệu số giữa doanh thu tính thuế và chi phí hợp lý, trong đó chi phí hợp lý bao gồm cả tiền
lương trả cho người lao động tức là người đứng ra kinh doanh và không giới hạn mức tối đa, trong khi chi
phí được khấu trừ cho 1 cá nhân đóng thuế thu nhập từ tiền lương, tiền công chỉ giới hạn tối đa là 4 triệu
đồng/tháng. Để tránh sự tùy tiện trong việc định ra mức lương cho chính mình, luật Thuế thu nhập doanh
nghiệp đã loại trừ “tiền lương, tiền công của chủ doanh nghiệp tư nhân” ra khỏi chi phí được khấu trừ, trong
khi đó thuế TNCN thì không người trực tiếp kinh doanh, giảm thu nhập chịu thuế. Mặt khác thu nhập từ
kinh doanh còn được khấu trừ chi trả lãi tiền vay, chi khấu hao tài sản cố định,… trong khi thu nhập từ tiền
lương tiền công không đề cập đến các yếu tố này.
Thứ ba, khả năng kiểm soát thu nhập của cá nhân còn yếu. Do hệ thống pháp luật còn khập khiễng, ý
thức pháp luật của người dân chưa cao, sự công khai, minh bạch trong xã hội và tư duy xin cho còn mang
nặng trong suy nghĩ của các cơ quan thuế. Các văn bản quy phạm về kiểm soát thu nhập hầu như chưa được
quy định tại một văn bản nào có giá trị pháp lý cao, mà còn nằm rải rác ở nhiều văn bản khác nhau. Hiện
nay, chúng ta đã có Luật phòng chống tham nhũng ngày 9/12/2005 và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/6/2006,
gần đây được cụ thể hóa bằng Nghị định của chính phủ số 37/2007/NĐ-CP ngày 9/3/2007. những văn bản
này đã tạo cơ sở pháp lý để một số chủ thể phải có nghĩa vụ kê khai tài sản, góp phần kiểm soát thu nhập. tuy
nhiên cũng cần nhấn mạnh rằng các văn bản này chỉ mới kiểm soát được những thu nhập hợp pháp để tính
thuế mà thôi. Do vậy. những chủ thể có nghĩa vụ kê khai nộp thuế rất hẹp, chỉ bao gồm những chức danh

11


quan trọng trong bộ máy nhà nước. Như vậy việc thu thuế TNCN hiện mới nắm được người có tóc chứ chưa
nắm được kẻ trọc đầu, nghĩa là thuế mới chỉ thu chủ yếu vào đối tượng là đại bộ phận người làm công ăn
lương và chi trả qua ngân hàng. Nhiều người đóng thuế chân chính, tuân thủ các quy định của pháp luật song
cũng không ít đối tượng có thu nhập bên ngoài khá cao nhưng không quản lý được để tính thuế. Do luật thuế
TNCN ở việt nam còn nhiều lỗ hổng dẫn đến việc nhiều khoản thu nhập cao, thu nhập tiềm ẩn chưa bị đánh
thuế kết hợp với ý thức của người nộp thuế chưa cao và sự yếu kém về mặt quản lý nên gây ra tình trạng thất
thu cho NSNN, Tuy nhiên trong bộ phận những người làm công ăn lương. Nhất là trong khu vực nhà nước,
có bao nhiêu người có thể sống tốt nhờ đồng lương của mình. Mà hầu hết họ đều có những khoản thu nhập
ngoài lương, thậm chí thu nhập không rõ ràng. Bên cạnh đó, xã hội càng phát triển, thu nhập cá nhân lại càng
trở lên phong phú, đa dạng từ nguồn khác nhau, chính vì vậy rất khó để có thể kiểm soát được thu nhập của
họ. Ngoài ra, mặc dù Luật Thuế thu nhập cá nhân hiện hành có quy định về tiền lương, tiền công, hoa hồng
môi giới, tham gia giảng dạy, nghiên cứu khoa học... của người lao động thuộc diện chịu thuế thu nhập cá
nhân, nhưng đối với thu nhập là quà biếu bằng tiền, hiện vật cho cá nhân ngoài doanh nghiệp, tổ chức... tặng,
cho thì lại không thuộc diện phải chịu thuế. Do đó, luật chưa điều tiết được đối với các khoản thu nhập này
nên chưa đảm bảo công bằng, bình đẳng về thu nhập, chưa quản lý nguồn thu nhập có khả năng không minh
bạch. Đồng thời, chính kẽ hở này đã gây khó khăn cho việc phòng, chống tham nhũng hiện nay.
Thứ tư, công tác triển khai thực hiện luật thuế thu nhập cá nhân cũng như công tác quản lý thuế còn
nhiều bất cập. Vấn đề quản lý dữ liệu là vấn đề cốt lõi trong việc thực thi luật thuế thu nhập cá nhân của các
cơ quan thuế, tuy vậy hiện nay hệ thống quản lý dữ liệu người nộp thuế còn phân tán. Thiếu sự đồng bộ dẫn
đến việc không thể bao quát, kiểm soát hết được việc nộp thuế thu nhập cá nhân của đối tượng nộp thuế phát
sinh ở nhiều nơi. Mặt khác nguồn nhân lực cần thiết để thực hiện vận hành công tác quản lý dữ liệu còn chưa
đáp ứng được yêu cầu, có thể có những người giỏi về tin học nhưng chưa giỏi về kế toán. Nghiệp vụ thuế và
ngược lại người giỏi về kế toán thì lại không thành thạo về tin học, hơn nữa là vấn đề chảy máu chất xám của
các cơ quan nhà nước cũng là một vấn đề khó khăn. Sự phối hợp thiếu đồng bộ giữa các cơ quan thuế và các
cơ quan khác có liên quan chưa chặt chẽ cũng làm giảm đi tính khả thi, sự chính xác và hiệu quả trong quản
lý thu nhập cá nhân và quản lý thuế thu nhập cá nhân.
Thứ năm, do ý thức pháp luật của một bộ phận dân cư ở nước ta chưa cao. Nhiều người vẫn chưa có

những hiểu biết đầy đủ về thuế thu nhập cá nhân, sự tự giác chấp hành pháp luật chưa cao, chưa hiểu biết
được tầm vai trò quan trọng của việc nộp thuế thu nhập cá nhân là quyền và nghĩa vụ của cá nhân, nên còn
xảy ra tình trạng cố tình lẫn tránh nghĩa vụ nộp thuế thu nhập cá nhân. Bên cạnh đó lại là một bộ phận dù có
những hiểu biết rõ về thuế thu nhập cá nhân, nhưng do chỉ mới thấy được những khoản lợi trước mắt khi
trốn thuế mà cố tình vi phạm nghĩa vụ này đối với nhà nước hay một số cơ quan khi thực hiện việc chi trả
thu nhập cá nhân nhưng vì lợi ích riêng của cơ quan mà cũng không thực hiện nghĩa vụ khấu trừ tại nguồn
Thứ sáu,Thủ tục hoàn thuế quá phức tạp, thời gian đợi hoàn thuế phải đến cuối năm. Đối với người có thu
nhập thường xuyên đủ mức chịu thuế thì còn chấp nhận được nhưng đối với những người chưa đủ mức thu
nhập nộp thuế hàng năm mà bất kỳ một khoản thu nhập phát sinh nào trên 500.000đ/lần phải khấu trừ thuế
thì quả là điều khó hiểu.
Thứ bảy, các chế tài xử lý những trường hợp vi phạm pháp luật thuế thu nhập cá nhân chưa đủ sức răn đe.
Theo điều 108 luật quản lý thuế cá nhân khi có những hành vi gian lận thuế, trốn thuế sẽ bị xử lý vi phạm
hành chính, người vi phạm sẽ phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thuế và có thể bị xử phạt theo số lần của số
12


tiền trốn thuế, gian lận thuê. Quy định chế tài như vậy là còn khá nhẹ nhàng, chưa đủ sức thuyết phục,
không đảm bảo tính răn đe.
3.2 Phương hướng hoàn thiện
Ban hành các thông tư và các văn bản hướng dẫn chính sách thuế thu nhập cá nhân đối với một số lĩnh vực
riêng, đặc thù về thuế thu nhập cá nhân đối với chuyển nhượng chứng khoán, thuế thu nhập cá nhân đối với
chuyển nhượng bất động sản, thuế thu nhập cá nhân đối với trúng thưởng trong các trò chơi tại điểm vui chơi
có thưởng, thuế thu nhập cá nhân đối với hoa hồng của các đại lý bảo hiểm, đại lý xổ số
Ban hành các văn bản hướng dẫn áp dụng chính sách thuế thu nhập cá nhân đối với một số trường hợp đặc
thù như áp dụng chính sách thuế đối với thu nhập của doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh, thành
viên là cá nhân của công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, cá nhân nhận tiền từ bồi hoàn thu hồi đất, từ
tiền lương nhận được từ cơ quan bảo hiểm xã hội.
Thứ nhất, đối với khoản thu nhập từ hoạt động kinh doanh theo quy định tại khoản 2 điều 4 luật doanh
nghiệp 2005. Trong thực tế hoạt động kinh doanh của các cá nhân trong xã hội rất đa dạng: kinh doanh nông,
lâm, ngư nghiệp, kinh doanh thương mại, dịch vụ… và sẽ có nguồn thu nhập từ những nghành nghề mà họ

kinh doanh. Vì vậy các khoản thu nhập của cá nhân sau khi trừ đi chi phí hợp lý, đều đưa vào diện thu nhập
chịu thuế thu nhập cá nhân. Bên cạnh đó, bổ sung thêm các quy định về các khoản chi hợp lý được giảm trừ
phát sinh trong quá trình cá nhân kinh doanh hoặc gắn với hoạt động nghề nghiệp đặc thù. Cụ thể có thế bổ
sung một số chi phí hợp lý liên quan đến việc tạo ra thu nhập cá nhân như: chi phí điều trị ốm đau, bệnh tật…
đối với những đối tượng có nghành nghề đặc thù cần tính toán đến những chi phí mà họ đã bỏ ra đê học tập,
rèn luyện, bổ trợ cho việc làm, nghề nghiệp của họ. ví dụ giảm trừ một số chi phí như phục trang, phí sản
xuất băng đĩa,… với đối tượng ca sĩ
Nói một cách khác, quy định về mức giảm trừ cho cá nhân kinh doanh có thể được xác định dựa trên thống
kế liên quan đến vốn đầu tư, mức thu nhập, ngành nghề kinh doanh trên cơ sở duy trì và mở rộng hoạt động
kinh doanh của cá nhân, ngoài ra cần bổ sung thêm các quy định về việc chuyển lỗ trong cách tính thu nhập
chịu thuế thu nhập cá nhân. Có thể áp dụng tương tự đối với việc chuyển lỗ dành cho các doanh nghiệp trong
luật thuế thu nhập doanh nghiệp
Thứ hai, thu nhập từ tiền lương, tiền công đó là những khoản thu nhập do người sử dụng lao động chi
trả. Vì các khoản thu nhập chịu thuế là thu nhập rộng nên cần phải xác định chính xác các chi phí phát sinh
của cá nhân lao động để đảm bảo đúng đắn thu nhập chịu thuế từ lao động. Do đó cần phải xây dựng tiêu chí
để trừ các chi phí phát sinh khi tạo ra thu nhập tạo ra sự công bằng về nghĩa vụ thuế giữa những người nộp
thuế có cùng mức thu nhập như nhau.
Đối với thu nhập chịu thuế từ hoạt động sản xuất kinh doanh của cá nhân nên loại trừ phần tiền
lương, tiền công trả cho người lao động trực tiếp đứng ra kinh doanh như trong thuế thu nhập doanh nghiệp.
Bên cạnh đó cần có chính sách điều chỉnh những chế độ hợp lý hiện nay dành cho một bộ phận làm
trong khu vực nhà nước một cách hợp lý, quy định rõ ai được hưởng chế độ gì? Mức hưởng như thế nào. cần
có những tính toán hợp lý trong điều kiện của nền kinh tế. tránh việc tạo ra sự chênh lệnh quá lớn về các
thang, ngạch trong hệ thống lương của nước ta.
Thứ ba, đối với thu nhập của chủ doanh nghiệp tư nhân, cần sửa đổi cả luật thuế thu nhập cá nhân và
luật thuế thu nhập doanh nghiệp theo hướng chuyển loại thu nhập của chủ thể này sang đối tượng chịu thuế
thu nhập cá nhân thay vì phải chịu thuế thu nhập doanh nghiệp như hiện nay.
13


Có rất nhiều ý kiến sửa đổi luật nhưng khái quát có thể thấy rằng các ý kiến đều thống nhất sửa đổi cách

tính thuế và thu nhập chịu thuế. Hiện nay tổng thu nhập thu nhập cá nhân khoảng 10 nghìn tỷ đồng việt nam.
Trong khi đó tổng thu ngân sách nhà nước năm 2010 là khoảng 500 nghìn tỷ đồng và con số kế hoạch của
năm 2011 là khoảng 600 nghìn tỷ đồng. việc sửa đổi luật thuế này về cách tính thuế và thu nhập chịu thuế
được ước tính là không làm biến động nhiều đến nguồn thu ngân sách nhà nước trong khi đó lại có tác động
tâm lý rất tốt và tạo ý thức tự giác nộp của cá nhân có thu nhập chịu thuê.
Một vấn đề nữa cần làm rõ là trách nhiệm nộp thuế thu nhập cá nhân đối với chủ doanh nghiệp tư nhân,
thành viên hợp danh của công ty hợp danh để đảm bảo công bằng giữa các chủ thể nộp thuế. Mặc dù hiện
nay bộ luật tài chính đã có thông tư hướng dẫn áp dụng cho trường hợp thu nhập từ hoạt động của doanh
nghiệp tư nhân sẽ áp dụng thuế thu nhập cá nhân (đối với khoản thu nhập của chủ doanh nghiệp mà không
xuất phát từ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp) nhưng cũng thực sự khó mà có thể tách bạch
ra được những khoản thu nhập nào của chủ doanh nghiệp tư nhân sẽ phải chịu thuế thu nhập doanh nghiệp
và khoản nào chịu thuế thu nhập cá nhân. Thiết nghĩ pháp luật cần có những quy định rõ hơn nữa để phân
biệt các loại thu nhập của chủ doanh nghiệp tư nhân nhằm bảo đảm thu cho ngân sách nhà nước, đồng thời
bảo đảm được quyền lợi cá nhân.
Cần đánh thuế thu nhập cá nhân đối với cả tiền lãi từ hoạt động gửi tiền ở các tổ chức tín dụng. điều này
nhằm mục đích đảm bảo sự công bằng trong quyền huy động vốn các tổ chức tín dụng và các doanh nghiệp.
Tạo điều kiện cho việc huy động vốn cho doanh nghiệp để đầu tư phát triển kinh tế, nguồn vốn là một trong
những vấn đề còn thiếu lớn của các doanh nghiệp việt nam hiện nay, trong khi nguồn tiền trong dân ở dạng
dự trữ, tích lũy và rất lớn
Nên xem xét lại mức điều tiết thu nhập cá nhân đối với cá nhân có thu nhập đầu tư chứng khoán. Theo quy
định hiện nay hầu hết các nhà đầu tư chứng khoán đang chịu mức thuế suất 0,1% trên mọi giao dịch và thuế
suất đối với cổ tức là 5%. Mức thuế suất đối với cổ tức có thể được nghiên cứu sửa đổi. Hơn thế nữa, luật
thuế thu nhập cá nhân cần quy định việc chuyển lỗ đối với hoạt động đầu tư chứng khoán của cá nhân. Theo
luật thuế thu nhập doanh nghiệp thời hạn chuyển lỗ được quy định là 5 năm, doanh nghiệp có thể được khấu
trừ khoản lỗ từ thu nhập của hoạt động kinh doanh khác, trong khi cá nhân không có các điều kiện kinh
doanh như doanh nghiệp. do đặc thù của hoạt động kinh doanh chứng khoán của cá nhân, nên quy định khấu
trừ khoản lỗ phát sinh từ chuyển nhượng chứng khoán. Thời hạn chuyển lỗ cũng cần được xác định dựa trên
chính sách tài chính tổng thể, có thể áp dụng thời hạn chuyển lỗ trong 3 năm để dễ dàng quản lý thuế, hoặc
quy định thời hạn chuyển lỗ dài hơn trong trường hợp khuyến khích cá nhân đầu tư thường xuyên .
Ngoài ra việc quy định thu nhập từ lãi mua trái phiếu chính phủ là một loại thu nhập chịu thuế là không

hợp lý, vì như vậy sẽ tạo ra sự không công bằng với những hình thức đầu tư khác như mua trái phiếu công
ty, kỳ phiếu ngân hàng… bởi lẽ nhà nước trong mối quan hệ với những người nắm giữ trái phiếu cũng giống
như những tổ chức phát hành khác, đây là quan hệ dân sự nên không thể có đặc quyền dành riêng cho nhà
nước, nhà nước cần thu hút vốn đầu tư thông qua uy tín và niềm tin từ nhà đầu tư chứ không phải tạo ra vị
thế cao hơn so với những tổ chức khác trong việc phát hành các công cụ vay nợ.
Thứ tư, đối với thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản, giải pháp đặt ra cho tình trạng khai man do
khó xác định thu nhập từ chuyển nhượng nhà ở, quyền sử dụng đất ở và tài sản gắn liền với đất ở của cá
nhân trong trường hợp cá nhân chỉ có một nhà ở, đất ở duy nhất hay không là nhà nước phải xây dựng và
quản lý hệ thống thông tin cá nhân đầy đủ, toàn diện, hơn nữa giữa nghành thuế và ngành tài nguyên môi
trường cần kết nối mạng thông tin thống nhất trên phạm vi toàn quốc để quản lý được việc sở hữu bất động
14


sản chi tiết của từng cá nhân. Từ đó chống được sự khai man là tài sản duy nhất trong chuyển nhượng bất
động sản được miễn thuế.
Thứ năm, đối các loại thu nhập khác, đối với những khoản thu nhập từ bản quyền, nhượng quyền
thương mại chuyển giao công nghệ, quà tặng, khuyến mại,trúng thưởng sổ số và các trò chơi có thưởng,
không nên quy định mức khởi điểm chịu thuế là 10 triệu đồng nhằm hạn chế tình trạng tránh thuế, do việc
đánh thuế trong trường hợp này là đánh thuế từng lần, ví dụ người nộp thuế có thể chia nhỏ giá trị chuyển
giao công nghệ, nhượng quyền thương mại, quà tặng thành nhiều lần, mỗi phần là một hợp đồng có giá trị
thấp hơn 10 triệu đồng để không bị đánh thuế.
Về thu nhập chịu thuế theo quy định hiện hành thì hoạt động góp vốn đối với đầu tư bất động sản phải chịu
thuế thu nhập cá nhân. Nên chăng sửa theo hướng chỉ thu thuế đối với hoạt động mua bán bất động sản khi
có hợp đồng.thủ tục thu thuế nên giao cho cơ quan thuế làm và giao cho sàn giao dịch bất động sản đại lý
trực tiếp mà không phải qua cơ quan nhà đất của địa phương.
Luật quy định đánh thuế đối với thu nhập từ thừa kế, quà tặng thì phải đánh vào tất cả tài sản chứ không
nên chỉ áp dụng đối với tài sản là chứng khoán, quyền sở hữu doanh nghiệp, bất động sản và tài sản khác
phải đăng ký quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng. nếu không việc chuyển đổi tài sản hoặc dịch chuyển tài sản
ảo sẽ xảy ra nhằm tránh thuế. Ngoài ra nếu đánh thuế vào tất cả các loại quà tặng thì thu nhập từ kiểu hối
cũng nên thuộc diện chịu thuế. Hiện nay pháp luật chưa đưa ra định nghĩa thế nào là kiểu hối. có thể hiểu về

bản chất kiểu hối là ngoại hối do người việt nam ở nước ngoài gửi về cho nhân thân trong nước nên nó có
hình thức giống như một dạng quà tặng và chính sách miện thuế đối với thu nhập từ kiều hối làm nhằm thu
hút nguồn tiền từ nước ngoài về việt nam, khuyến khích người việt nam ở nước ngoài góp phần xây dựng
quê hương nhưng sự bình đẳng trong nghĩa vụ thuế cũng rất cần được tôn trọng.
Các khoản thu nhập khác: để đảm bảo nguyên tắc công bằng trong thuế thu nhập cá nhân thì tất cả những
thu nhập, kể cả những thu nhập khác của cá nhân sau khi trừ đi chi phí bỏ ra để tạo ra nguồn thu nhập đó đều
là thu nhập chịu thuê. Tuy nhiên tùy từng giai đoạn phát triển của đất nước nếu trình độ quản lý và kiểm soát
thu nhập chưa tốt thì những khoản thu nhập cá nhân nhỏ lẻ và không thường xuyên nhà nước có thể tạm thời
chưa đưa vào diện tính thuế. Còn vì chính sách phát triển của đất nước trong từng giai đoạn thì có thể nhà
nước quy định một số khoản được miễn, giảm thuế.
Thứ sáu, cải tiến thủ tục hoàn thuế, nhằmtạo điều kiện thuận lợi cho cá nhân khi làm thủ tục quyết toán
thuế và hoàn thuế cuối năm cũng như tăng cường công tác quản lý thu thuế, qui định chặt chẽ hơn nữa các
chế tài liên quan đến kê khai người phụ thuộc, áp dụng công cụ tin học trong quản lý tránh sự trùng lặp
nhưng đồng thời không gây khó dễ cho người dân.
KÊT LUẬN
Qua vậy, ta thấy rằng, pháp luật về thuế thu nhập cá nhân đã có những quy định rất đầy đủ
về các khoản thu nhập chịu thuế qua các điều khoản được ghi nhận trong Luật thuế thu nhập
cá nhân cũng như các văn bản pháp luật hướng dẫn liên quan. Tuy nhiên, thuế là một vấn đề
phức tạp và thuế thu nhập cá nhân cũng không phải là một ngoại lệ, vì thế, vấn đề thực thi,
áp dụng các quy định của pháp luật về các khoản chịu thuế trên thực tế phát sinh không ít vấn
đề, vướng mắc, khó khăn. Tuy nhiên, với một số phân tích, nhận xét tình hình thực tiễn, cùng
với việc đề ra các giải pháp kiến nghị hoàn thiện, nhóm em mong muốn phần nào sẽ hoàn
thiện hơn nữa các quy định của pháp luật về vấn đề này.
15


DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO BÀI TẬP NHÓM LẦN II
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật thuế Việt Nam, Nxb CAND năm 2010.
2. TS. Nguyễn Minh Hằng (chủ biên), Giáo trình pháp luật tài chính công, Nxb Giáo dục
năm 2012.

3. ThS. Trương Huỳnh Thắng, Những điều người dân cần biết về pháp luật thuế thu nhập
cá nhân, Nxb Chính trị quốc gia năm 2012.
4. Luật thuế thu nhập cá nhân năm 2007.
5. Luật phòng chống tham nhũng năm 2005
6. Nghị định của chính phủ số 37/2007/NĐ-CP ngày 9/3/2007 hướng dẫn chi tiết, thi
hành một số điều của Luật phòng chống tham nhũng năm 2005.
7. Nghị định số 100/2008/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều Luật thuế thu nhập cá
nhân
8. Thông tư số 84/2008/TT-BTC hướng dẫn thi hành Luật thuế thu nhập cá nhan và Nghị
định số 100/2008/NĐ – CP.

MỤC LỤC BÀI TẬP NHÓM LẦN II
LỜI MỞ ĐẦU

1

I. Khái quát về thuế thu nhập cá nhân (TNCN), thu nhập chịu thuế của thuế TNCN.
1.1 Khái niệm thuế thu nhập cá nhân

1

1.2. Khái niệm thu nhập chịu thuế.

1
16


II. Quy định pháp luật về thu nhập chịu thuế của thuế TNCN.
2.1 Phân loại thu nhập chịu thuế (TNCT)


2

2.2 Cách xác định các khoản TNCT theo quy định của pháp luật thuế TNCN

3

III. Hạn chế trong việc áp dụng pháp luật điều chỉnh thu nhập chịu thuế trong thuế thu
nhập cá nhân – Đề xuất pháp lý hoàn thiện
3.1 Hạn chế

10

3.2 Phương hướng hoàn thiện

13

KẾT LUẬN

15

• Từ viết tắt trong bài:
- TNCN: thu nhập cá nhân.
- TNCT: thu nhập chịu thuế.

17



×