Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Khái quát về doanh nghiệp vừa và nhỏ và chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.89 KB, 29 trang )

Khái quát về doanh nghiệp vừa và nhỏ và chất lượng tín
dụng của ngân hàng thương mại đối với doanh nghiệp vừa
và nhỏ
1.1 Khái quát doanh nghiệp vừa và nhỏ và vai trò của nó trong nền kinh tế
1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ
Có rất nhiều các định nghĩa về DNVVN khác nhau của các nhà kinh tế
tuỳ vào quan điểm hay điều kiện của từng quốc gia. Ở nước ta hiện nay có thể
hiểu DNVVN là các doanh nghiệp đạt một trong hai tiêu chí sau:
+ Các DNNN, Công ty cổ phần, Công ty TNHH, Công ty hợp danh,
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, Doanh nghiệp tư nhân, HTX, hộ kinh
doanh cá thể có đăng kí kinh doanh có số lao động trung bình hàng năm không
quá 300 lao động (không giới hạn vốn đăng kí).
+ Các DNNN, Công ty cổ phần, Công ty TNHH, Công ty hợp danh,
doanh ngiệp cố vốn đầu tư nước ngoài, Doanh nghiệp tư nhân, HTX, hộ kinh
doanh cá thể có đăng kí kinh doanh có vốn đăng kí không quá 10 tỷ đồng.
Tiêu chí về lao động chỉ xem xét đối với những doanh nghiệp có vốn
đăng kí trên 10 tỷ đồng.
Cơ sở xác định vốn và lao động:
+ Lao động trung bình hàng năm là số lao động bình quân mà doanh
nghiệp đăng kí với cơ quan quản lí lao động và có tham gia đóng Bảo hiểm xã
hội (không bao gồm số lao động doanh nghiệp kí hợp đồng thời vụ, hợp đồng
công việc).
+ Vốn đăng kí: Đối với DNNN là vốn điều lệ được nhà nước cấp, đối với
các doanh nghiệp còn lại là vốn ghi trên đăng kí kinh doanh, giấy phép đầu tư
1.1.2 Đặc điểm của doanh nghiệp vừa và nhỏ
Sự phát triển của các DNVVN trong thời gian qua cho thấy DNVVN
chiếm lĩnh một vị trí quan trọng trong nền kinh tế với những ưu thế cơ bản như:
- DNVVN linh hoạt trước sự thay đổi của thị trường, có khả năng dễ dàng
chuyển đổi mặt hàng, chuyển hướng kinh doanh
- Tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh gọn nhẹ, tiết kiệm chi phí quản lý,
nâng cao hiệu quả lao động của doanh nghiệp.


- Lĩnh vực hoạt động của các DNVVN rất đa dạng và phong phú
- Khu vực DNVVN thu hút số lượng người lao động lớn trong đó có cả
những lao động có tay nghề cao và cả lao động phổ thông tạo ra nhiều việc làm.
- Vốn đầu tư ban đầu cho DNVVN không nhiều nhưng hiệu quả kinh tế
cao, thu hồi vốn nhanh, hấp dẫn nhiều cá nhân, tổ chức ở mọi thành phần kinh
tế đầu tư vào.
Tuy nhiên DNVVN có nhiều hạn chế:
- Về vốn tín dụng: Các DNVVN luôn trong tình trạng thiếu vốn phục vụ
cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Để đáp ứng nhu cầu vốn kinh doanh, các
DNVVN vay vốn chủ yếu từ các tổ chức phi tài chính với mức lãi suất không
chính thức gấp 3 đến 5 lần lãi suất ngân hàng. Một trong những nguyên nhân
mà DNVVN khó có thể vay vốn từ nhân hàng và các tổ chức tín dụng khác là
do những khó khăn về tài sản thế chấp. Hơn nữa, thủ tục tín dụng của các ngân
hàng và các tổ chức tín dụng chính thức thường khá phức tạp dẫn đến chi phí
giao dịch cao và mất nhiều thời gian của doanh nghiệp.
- Công nghệ: Phần lớn công nghệ mà DNVVN sử dụng là lạc hậu do vốn
đầu tư cho các DNVVN rất thấp so với các doanh nghiệp có quy mô lớn. Ngoài
ra, DNVVN được xác định với tiêu chí về vốn tương đối thấp. Các DNVVN
khó có thể vay được một khoản tín dụng trung và dài hạn để nâng cấp công
nghệ. Bên cạnh đó, việc nhập khẩu máy móc, thiết bị bị đánh thuế cao trong
khai các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài lại được miễn trừ. So với các
doanh nghiệp nhà nước, các DNVVN khó tiếp cận với thị trường công nghệ
máy móc thiết bị quốc tế.
- Do DNVVN là những doanh nghiệp có quy mô nhỏ bé, vốn đầu tư cho
hoạt động sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn làm cho chất lượng sản xuất
không cao, sức cạnh tranh của hàng hoá dịch vụ yếu do đó cũng không mở rộng
được thị trường, hàng hoá khó tiêu thụ, lợi nhuận thấp, kinh doanh gặp nhiều
khó khăn, dễ dân tới gian lận thương mại... Sản phẩm, dịch vụ của các DNVVN
luôn phải cạnh tranh với hàng giả, hàng nhái.
- Môi trường kinh doanh bên ngoài: Những tác động từ bên ngoài cũng

gây ra không ít khó khăn cho DNVVN, trước hết là sự tác động về quản lý của
Nhà nước về hoàn thiện Luật doanh nghiệp, thực thi Luật doanh nghiệp, trong
các cơ chế như cơ chế đất đai, chính sách thuế, tín dụng, chính sách thương
mại, chính sách khoa học công nghệ, lao động và việc làm... còn nhiều bất cập.
- Đất đai phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của DNVVN còn
thiếu. Các DNVVN gặp nhiều khó khăn trong việc cấp quyền sử dụng đất hoặc
khi thuê đất làm trụ sở hoặc nhà máy.
- Khả năng tiếp cận thị trường thế giới của các DNVVN còn rất hạn chế,
sản phẩm của DNVVN phải cạnh tranh với một lượng hàng ngoại nhập có giá rẻ
hơn. Ngoài ra sản phẩm của các DNVVN có chất lượng thấp vì trình độ kỹ
thuật, kỹ năng quản lý kém do không được đào tạo và thiếu kinh nghiệm quản
lý hiện đại.
Trong những khó khăn nêu trên, thiếu vốn là nguyên nhân căn bản vì
DNVVN hạn hẹp về vốn đưa tới năng lực kinh doanh bị hạn chế và khi tực lực
kinh tế yếu thì khả năng vay vốn lại càng khó khăn. Bên cạnh đó môi trường thể
chế, chính sách kinh tế còn chưa tạo điều kiện bảo vệ và bảo đảm cho sự phát
triển của khu vực này. Trong đó cơ chế chính sách về tín dụng nhân hàng còn
gây nhiều khó khăn cho việc vay vốn tín dụng của các DNVVN. Do vậy các
DNVVN phát triển hoàn toàn chưa có định hướng và chưa được hỗ trợ nhiều từ
phí Nhà nước cũng như các doanh nghiệp lớn khác.
1.1.3 Vai trò DNVVN trong nền kinh tế
DNVVN đóng góp một vai trò hết sức quan trọng trong việc thúc đẩy sự
phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Đặc biệt là ở Việt Nam, khi số lượng các
doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ ngày càng đông đảo thì vai trò đối với nền
kinh tế càng bộc lộ rõ nét, thể hiện ở các khía cạnh sau:
1.1.3.1 Các DNVVN góp phần to lớn trong việc giải quyết công ăn việc làm
cho người lao động.
Công ăn việc làm cho người lao động là vấn đề cấp bách hiện nay ở Việt
Nam với tốc độ tăng dân số hàng năm từ 1.8% - 2 %, tạo ra một triệu người đến
tuổi lao động cộng với số thất nghiệp là 6%/năm và bán thất nghiệp do sắp xếp

lại doanh nghiệp nhà nước... Theo dự báo năm 2010 mặc dù dân số có thể tăng
chậm lại nhưng nguồn lao động nước ta vẫn tăng nhanh, đòi hỏi phải giải quyết
việc làm hết sức khẩn trương. Thực tế cho thấy toàn bộ các DNNN trong thời
gian qua, năm cao nhất cũng chỉ thu hút được 1.6 triệu lao động, trong khi đó
hàng năm DNVVN cũng tạo ra 50% - 80% lao động trong các ngành nghề công
nghiệp, dịch vụ. Đặc biệt trong nhiều thời kỳ, khi các DNNN cơ cấu lại nhân sự
thì khu vực DNVVN lại là nơi tái tạo lại công việc cho họ...
1.1.3.2 DNVVN đáp ứng tích cực nhu cầu tiêu dùng xã hội ngày càng phong
phú, đa dạng mà các doanh nghiệp lớn không thể làm được.
Hiện nay, ở nhiều nước, hoạt động sản xuất kinh doanh của các
DNVVN đã phát triển hầu khắp các lĩnh vực, rất đa dạng và phong phú.
Trong cơ cấu các DNVVN thì doanh nghiệp siêu nhỏ, sản xuất kinh doanh
mang tính chất cá thể, gia đình chiếm tỷ lệ khá lớn. ở Pháp, doanh nghiệp
siêu nhỏ chiếm tới 80% tổng số doanh nghiệp và có gần 50% trong số này
chỉ sử dụng lao động trong gia đình, không cần thuê ngoài một nhân viên
nào.
Ngày nay trong thực tế tiêu dùng xã hội, có những mặt hàng mà người
tiêu dùng chỉ có nhu cầu ít và cá biệt song chất lượng, chủng loại mẫu mã, kiểu
cách không ngừng thay đổi. Trong trường hợp này các doanh nghiệp lớn không
thể đáp ứng được, trái lại các DNVVN do qui mô sản xuất nhỏ, có khả năng
điều chỉnh hoạt động nên có thể đáp ứng những nhu cầu nói trên của người tiêu
dùng một cách nhanh chóng, thuận tiện. Đặc biệt có những hàng hoá người tiêu
dùng có nhu cầu không thể sản xuất ở các doanh nghiệp có qui mô lớn, kỹ thuật
hiện đại mà chỉ có thể sản xuất bằng lao động thủ công, phân tán đến từng cơ sở
sản xuất nhỏ và hộ gia đình.
1.1.3.3 DNVVN có vai trò quan trọng trong lĩnh vực phân phối lưu thông
và trong sản xuất, chế biến hàng hoá xuất khẩu.
Trong quá trình tái sản xuất xã hội, hàng hoá từ khâu sản xuất đến khâu
tiêu dùng phải qua khâu trung gian. Đó là khâu lưu thông do mạng lưới các cửa
hàng dịch vụ bán buôn và bán lẻ đảm nhận.

Do lợi thế của mình các DNVVN rất thích hợp với lĩnh vực kinh doanh
dịch vụ bán lẻ. Vì các DNVVN chỉ cần một số vốn ban đầu nhỏ cũng có thể
hoạt động được, còn nơi làm cửa hàng và kho hàng có thể sử dụng ngay nhà
mình, nhân viên bán hàng thường cũng là người của gia đình. Do đó chi phí lưu
thông hàng hoá thấp.
Trong thời đại ngày nay, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đã làm
cho lực lượng sản xuất phát triển nhảy vọt, vượt ra khỏi biên giới quốc gia và
đẩy mạnh quá trình quốc tế hoá kinh tế thế giới.
Vì vậy bất kỳ nước nào, dù ở trình độ phát triển kinh tế cao hay thấp cũng
đều phải thực hiện chiến lược kinh tế mở, với nội dung cơ bản là: Tận dụng lợi
thế so sánh tích cực tham gia vào việc phân công lao động quốc tế, chuyên môn
hoá và hợp tác hoá quốc tế, tranh thủ vốn, công nghệ và kinh nghiệm tốt của
nước ngoài để thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước. Đặc trưng cơ bản của chiến
lược kinh tế mở là mức bảo hộ thấp, khuyến khích xuất khẩu.
Việt Nam đang là một nước nghèo, kinh tế, kỹ thuật và công nghệ đang ở
trình độ thấp so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, nên việc tích cực
tranh thủ các nguồn lực bên ngoài để khai thác có hiệu quả các lợi thế bên trong
là vấn đề đặc biệt quan trọng.
Chính vì vậy, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước Đảng và
Nhà nước chủ trương thực hiện chiến lược hướng mạnh về xuất khẩu, coi xuất
khẩu là trọng tâm, đồng thời ra sức sản xuất những sản phẩm trong nước sản
xuất có hiệu quả để thay thế nhập khẩu.
Hiện nay trong tổng kim ngạch xuất khẩu ở nước ta, các mặt hàng truyền
thống do các DNVVN kể cả kinh tế hộ gia đình sản xuất chế biến chiếm tỷ
trọng đáng kể. Đó là những mặt hàng nông sản, thực phẩm, hải sản, các mặt
hàng thủ công mỹ nghệ như: gốm sứ, mây tre, sơn mài, hàng thêu dệt, hàng may
mặc...
1.1.3.4 DNVVN có vai trò tích cực đối với sự phát triển kinh tế địa phương,
khai thác tiềm năng thế mạnh của từng vùng.
Do quy mô vừa và nhỏ nên các DNVVN có thể đặt văn phòng làm việc,

nhà xưởng, kho tàng ở khắp mọi nơi, ở cả những nơi cơ sở hạ tầng chưa phát
triển như ở vùng núi cao, hải đảo, ở vùng nông thôn rộng lớn nhằm khai thác
tiềm năng và thế mạnh của từng vùng. Nhất là các loại tài nguyên trên mặt đất
thuộc các ngành nông, lâm, hải sản.
Để khai thác có hiệu quả lao động, tài nguyên và ngành nghề đang còn rất
lớn ở từng địa phương, từng vùng lãnh thổ, cần tập trung đẩy nhanh sự phát
triển một số ngành mà nước ta có nhiều tiềm năng như: nông nghiệp, lâm
nghiệp, hải sản và công nghiệp chế biến nông, lâm, hải sản v.v...
Trong những năm trước mắt, chúng ta còn gặp nhiều khó khăn về vốn và
kỹ thuật nên việc đầu tư khai thác các nguồn lực của đất nước, Đảng ta chủ
trương: “Chú trọng quy mô nhỏ và vừa, vốn đầu tư ít, thu hồi nhanh theo
phương châm “lấy ngắn nuôi dài” .
DNVVN do vốn ít, cơ sở vật chất kỹ thuật yếu kém nên tỷ lệ lao động sử
dụng trong các DNVVN thường lớn rất thích hợp với những ngành cần nhiều
lao động thủ công như chế biến thuỷ sản đông lạnh, may mặc, da giầy, công
nghiệp chế biến.
Hiện nay, DNVVN ở Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế.
Theo thống kê, đội ngũ này chiếm tới gần 95% tổng số doanh nghiệp trong cả
nước, đóng góp 25% GDP và thu hút một lực lượng lao động đáng kể, tạo công
ăn việc làm, góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế, góp phần khai thác
những tiềm năng trong dân chúng.
1.2 Tín dụng trung và dài hạn của NHTM.
1.2.1 Khái niệm về NHTM.
Trong xã hội, Ngân hàng có một vị trí quan trọng và tham gia vào hoạt
động của nhiều thành phần kinh tế và dân cư. Lịch sử hình thành Ngân hàng bắt
đầu từ rất lâu. Ban đầu nó được hình thành từ những thương nhân làm dịch vụ
giữ tiền hộ. Dựa trên tính vô danh của đồng tiền cho phép những thương nhân
này chuyển từ việc giữ tiền hộ sang việc giữ hộ tiền và thu lệ phí và huy động
vốn có trả lãi để khuyến khích người có tiền nhàn rỗi trong xã hội, rồi sử dụng
số tiền đó để kinh doanh trực tiếp cho vay lấy lãi. Ngày nay Ngân hàng thương

mại được định nghĩa như sau:
NHTM là một tổ chức kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với hoạt động chủ
yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả
và sử dụng số tiền đó để cho vay đầu tư, thực hiện các nghiệp vụ thanh toán và
các nghiệp vụ trung gian khác nhằm thu lợi nhuận tối đa trên cơ sở đảm bảo khả
năng thanh khoản.
NHTM giống các tổ chức kinh doanh khác là hoạt động nhằm mục đích
thu lợi nhuận nhưng là tổ chức kinh doanh đặc biệt vì đối tượng kinh doanh là
tiền tệ trong đó hoạt động tín dụng là hoạt động chủ yếu được thực hiện bằng
cách thu hút vốn trong xã hội để cho vay nhằm mục tiêu lợi nhuận cao nhất và
rủi ro thấp nhất.
1.2.2 Các hoạt động cơ bản của NHTM.
1.2.2.1 Huy động vốn .
Huy động vốn được coi là hoạt động cơ bản, tính chất sống còn đối với
bất kỳ một NHTM nào, vì hoạt động này tạo ra nguồn vốn chủ yếu của các
NHTM. Theo luật pháp cho phép, các NHTM được phép huy động vốn bằng
nhiều hình thức sau đây:
* Nhận tiền gửi:
- Nhận tiền gửi không kỳ hạn của tổ chức,
- Nhận tiền gửi không kỳ hạn của cá nhân,
- Nhận tiền gửi có kỳ hạn của các cá nhân, tổ chức đoàn thể xã hội,
- Nhận tiền gửi các tổ chức tín dụng khác,
* Phát hành giấy tờ có giá:
NHTM được quyền phát hành giấy tờ có giá ( kỳ phiếu ngân hàng, trái
phiếu ngân hàng...) để huy động vón có kỳ hạn và có mục đích sử dụng.
* Các hình thức huy động vốn khác:
- Vay vốn ở các NHTM khác.
- Vay vốn tại NHNN.
1.2.2.2 Hoạt động tín dụng.
Hoạt động tín dụng là hoạt động cơ vản, có ý nghĩa lớn đối với nền kinh

tế xã hội, vì thông qua hoạt động này mà hệ thống NHTM cung cấp một lượng
vốn tín dụng rất lớn cho nền kinh tế, nhờ khối lượng vốn này mà nền kinh tế sẽ
phát triển nhanh hơn, bền vững hơn.
Hoạt động tín dụng NHTM gồm có :
- Cho vay ( ngắn hạn, trung hạn, dài hạn...)
- Chiết khấu chứng từ có giá
- Cho thuê tài chính
- Bão lãnh ngân hàng
- Các hình thức khác
1.2.2.3 Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ.
Đây là hoạt động quan trọng và có tính chất đặc thù của NHTM, nhờ hoạt
động này mà các giao dịch thanh toán của toàn bộ nền kinh tế được thực hiện
thông suất và thuận lợi, đồng thời qua hoạt động này mà góp phần làm giảm
lượng tiền mặt lưu thông trong nền kinh tế.
Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ NHTM gồm:
- Mở tài khoản giao dịch cho khách hàng là pháp nhân, hoặc thể nhân
trong và ngoài nước.
- Cung ứng các phương tiện thanh toán cho khách hàng
- Thực hiện dịch vụ thanh toán trong nước và quốc tế.
- Thực hiện các dịch vụ thu hộ và chi hộ
- Thực hiện các dịch vụ thanh toán khác
- Thực hiện dịch vụ ngân quỹ
- Tham gia hệ thống thanh toán bù trừ trong nước và hệ thống thanh toán
quốc tế khi được phép
1.2.2.4 Huy động khác.
Ngoài ba hoạt động nói trên, các NHTM còn được thực hiện các hoạt
động khác, phù hợp với chức năng nghiệp vụ của mình đồng thời không bị luật
pháp nghiêm cấm. Các hoạt động khác bao gồm:
* Góp vốn mua cổ phần:
- Góp vốn, mua cổ phần vào các doanh nghiệp

- Góp vốn, mua cổ phàn vào các tổ chức tín dụng khác
* Thực hiện mu bán chứng từ có giá trên thị trường tiền tệ
* Kinh doanh ngoại hối và vàng
* Kinh doanh và dịch vụ bảo hiểm
* Thực hiện các nghiệp vụ uỷ thác và đại lý
* Cung ứng dịch vụ bảo quản, cầm đồ, cho thuê tủ két sắt
* Cung ứng dịch vụ tư vấn tài chính tiền tệ và các dịch vụ khác có liên
quan
1.2.3 Tín dụng trung và dài hạn của NHTM.
1.2.3.1 Khái quát tín dụng trung và dài hạn.
Tín dụng trung và dài hạn là các khoản vay có kỳ hạn trên một năm (từ 1
năm đến 3 năm được coi là tín dụng trung hạn và từ 3 năm trở lên được coi là
tín dụng dài hạn). Tín dụng trung và dài hạn nhằm thoã mãn các nhu cầu về mua
sắm máy móc, thiết bị, xây dựng cơ sở vật chất của một doanh nghiệp và một
phần vốn lưu động tối thiểu của một doanh nghiệp.
Trong một nền kinh tế nhu cầu tín dụng trung và dài hạn thường xuyên
phát sinh do các doanh nghiệp luôn luôn tìn cách phát triển mở rộng sản xuất,
đổi mới công nghệ, đổi mới các phương tiện vận chuyển, kỹ thuật tin học...
Đặc biệt đối với nền kinh tế của Việt Nam hiện nay nhu cầu vốn xây dựng
cơ bản rất lớn, trong lúc các nhà kinh doanh chưa tích luỹ được nhiều, chưa có
thời gian để tích lỹ vốn, tâm lý đầu tư trực tiếp của công chúng vào các doanh
nghiệp còn rất hạn chế. Do vậy đầu tư trực tiếp vào các doanh nghiệp mới chủ
yếu là dựa vào vốn tự có của các nhà kinh doanh và bộ phận chủ yếu càn lại
phải nhờ vào sự tài trợ của hệ thống ngân hàng.
Ở các nước công nghiệp phát triển cho vay trung và dài hạn cũng được
các nhà kinh doanh vay vốn kiểm soát toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp,
đồng thời họ có thể điều chỉnh kỳ hạn nợ, nghĩa là họ có thể trả nợ sớm hơn khi
họ không cần đến việc sử dụng vốn đó nữa. So với việc phát hành trái phiếu dài
hạn, hay cổ phiếu các doanh nghiệp luôn phải chịu sự kiểm soát của cổ đông và
họ phải đối phó với việc trả lãi trái phiếu, lãi cổ phần ưu đãi khi việc sử dụng

vốn có khó khăn, hoặc không cần thiết nữa.
Tín dụng trung và dài hạn ngày càng được các doanh nghiệp yêu thích
hơn vì phù hợp với điều kiện thực tế của các doanh nghiệp trách nhiệm hữu hạn,
doanh nghiệp nhỏ. Các doanh nghiệp cổ phần lớn cũng thích vay trung và dài
hạn để tránh phát hành cổ phiếu, trái phiếu là những hình thức huy động vốn có
thể dẫn đến sự phân chia quyền lợi sự kiểm soát doanh nghiệp.
Tín dụng trung và dài hạn sử dụng cho việc mua sắm nhà xưởng, máy
móc, thiết bị của các doanh nghiệp để cải tiến công nghệ sản xuất, nâng cao chất
lượng sản phẩm, hoặc để mở rộng sản xuất chiếm lĩnh thị trường mới. Có thể
nói rằng tín dụng trung và dàu hạn là người trợ thủ đắc lực của các doanh
nghiệp trong việc thoả mãn các cơ hội kinh doanh. Khi có cơ hội kinh doanh
các doanh nghiệp cần phải mở rộng sản xuất, gia tăng lượng sản phẩm để chiếm
lĩnh thị trường, khi cơ hội sản xuất không còn vốn được hoàn trả ngân hàng cho
vay. Đó là một ưu thế của vốn trung và dài hạn. Nó linh hoạt hơn các hình thức
huy động vốn dài hạn khác như trái phiếu cổ phiếu. Hơn nữa việc vay vốn trung
và dài hạn tránh được các chi phí phát hành, lệ phí bảo hiểm, đăng ký chứng
khoán...
Trong điều kiện của Việt Nam hiện nay nhu cầu vốn trung và dài hạn cho
đầu tư xây dựng các công trình sản xuất kinh doanh mới, hiện đại hoá các công
nghệ sản xuất, mở rộng các nghành sản xuất đang có... đòi hỏi có một nhu cầu
rất lớn. Nhu cầu vốn này được thoả mãn một phần bằng vốn ngân sách cấp phát,
vay nước ngoài và một phần như huy động từ dân cư. Nhưng cho dù là nguồn
vốn xuất phát từ đâu việc cung cấp tín dụng thông qua hệ thống các ngân hàng
thương mại dưới hình thức cho vay trung và dài hạn là rất quan trọng.
Hệ thống NHTM là một hệ thống kinh doanh tiền tệ có kinh nghiệm trong
nắm bắt thị trường, có kinh nghiệm thẩm định dự án, các chương trình đầu tư do
vậy việc các NHTM tài trợ vốn trung và dài hạn cho các doanh nghiệp vừa đảm
bảo tính chất hiệu quả của quản lý vĩ mô về mặt tốc độ và cơ cấu sản xuất, vừa
đảm bảo lợi ích của các doanh nghiệp, vì ngân hàng cho vay có thể soạn thảo
giúp các doanh nghiệp các dự án đầu tư có thể tư vấn cho các nhà doanh nghiệp

về đầu tư và giúp đỡ các doanh nghiệp trong quan hệ thanh toán với khách
hàng, thông tin các thông tin cần thiết cho khách hàng...
1.2.3.2 Các hình thức tín dụng trung và dài hạn.
a) Cho vay theo dự án đầu tư.
Khi khách hàng có kế hoạch mua sắm, xây dựng tài sản cố định... nhằm
thực hiện dự án nhất định, có thể xin vay ngân hàng. Một trong những yêu cầu
của ngân hàng là người vay phải xây dựng dự án, thể hiện mục đích, kế hoạch
đầu tư cũng như quá trình thực hiện dự án. Thẩm định dự án là điều kiện để
ngân hàng quyết định phần vốn cho vay và xác định khả năng hoàn trả của
doanh nghiệp.
Dự án được xây dựng gồm nhiều mục như phân tích thị trường nguồn
nhân lực, địa điểm, công nghệ, quy trình sản xuất, phân tích tài chính...trong đó
phân tích tài chính là mục tiêu quan tâm hàng đầu của ngân hàng.

×